You are on page 1of 32

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1

I.Khái quát chung về đại hội VI................................................................................2

1.1.Thời gian tổ chức đại biểu...................................................................................2

1.2.Bộ máy lãnh đạo mới..........................................................................................2

1.3.Các văn kiện........................................................................................................2

1.4. Chủ đề, mục tiêu, quan điểm được đặt ra trong đại hội......................................3

II. Các quan điểm của đại hội vi trên các lĩnh vực....................................................6

2.1. Kinh tế và sản xuất.............................................................................................6

2.2. Hệ thống chính trị.............................................................................................12

2.3. Xã hội - Văn hóa..............................................................................................15

2.4. Đối ngoại.......................................................................................................... 17

III. KẾT QUẢ CỦA ĐẠI HỘI VI...........................................................................19

3.1. Các hội nghị sau đại hội...................................................................................19

3.2. Kết quả chủ yếu................................................................................................22

3.3. Kinh nghiệm lịch sử.........................................................................................25

KẾT LUẬN............................................................................................................ 27

TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................28


LỜI MỞ ĐẦU

Trên chặng hành trình đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
1975- 1985 , Đảng lãnh đạo đã gặp không ít những khó khăn và thách thức trong
quá trình xây dựng và tổ chức xã hội. Để đưa ra những biện pháp để khắc phục tình
hình , Đảng nhận ra đổi mới chính là yêu cầu cấp bách cho sự nghiệp cách mạng ,
mang ý nghĩa sống còn cho dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội VI năm 1986, Đảng chủ
trương thực hiện những đường lối đổi mới toàn diện và triệt để trong đời sống xã
hội cụ thể như các lĩnh vực kinh tế , chính trị , đối ngoại , đối nội, văn hoá – xã hội,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng đã tạo ra bước ngoặt quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng đất nước, mặc dù diễn trong bối cảnh tường đối phức tạp
những vẫn giữ được sự ổn định về chính trị , kinh tế.. Đại hội VI là Đại hội mở đầu
công cuộc đổi mới tại Việt Nam, trở thành dấu mốc mở ra cục diện mới cho đất
nước trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. . Với quyết tâm, quan điểm là
“Đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”,
Đảng lãnh đạo đã thực hiện công tác nghiên cứu và tổng kết từ thực tiễn những
cuộc cách mạng lịch sử ở nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin đồng thời học hỏi, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các cuộc cách mạng
quốc tế, tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc
trong cùng khu vực Đông Nam Á, Châu Á. Đường lối đổi mới được đề ra tại Đại
hội VI đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và thực tiễn đã cho thấy quyết định đổi
mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là một bước ngoặt lịch sử của
cách mạng Việt Nam. Việc nghiên cứu Đại hội VI và những đổi mới của đất nước
là vấn đề có ý nghĩa lý luận về chủ nghĩa xã hội và con dường tiến lên chủ nghĩa xã
hội, ngoài ra còn có ý nghĩa thực tế là đưa ra cái nhìn tổng quan về tình hình đất
nước trước và sau đổi mới , từ đó đối chiếu để nhìn nhận ra được đường lối đúng
đắn của Đảng trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát triển đất nước và
hội nhập quốc tế.

1
I. Khái quát chung về đại hội VI
I.1. Thời gian tổ chức đại biểu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 -
18/12/1986 tại thủ đô Hà Nội.Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9
triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh: Uỷ viên Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc Đại
hội. 
Đồng chí Trường Chinh: Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. 
Đồng chí Võ Văn Kiệt: Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo về phương hướng,
mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1986-1990).
I.2. Bộ máy lãnh đạo mới

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI gồm 124 uỷ viên
chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết.Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội
nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được
bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách
nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

I.3. Các văn kiện


Đại hội đã ghi lại những vấn đề quan trọng cần bàn bạc trong đại hội cũng
như báo cáo về tiến độ, kết quả và thành tựu đạt được trong các lĩnh vực như chính
trị, công tác xây dựng Đảng qua các văn kiện. Đồng thời, cũng ghi lại phương
hướng phát triển kinh tế - xã hội từ năm 1986 - 1990 và danh sách ban bí thư và bộ
chính trị của khóa VI.
- Báo cáo Về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa
IV trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng.
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.

2
- Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển KT - XH trong 5 năm 1986 -
1990.
- Danh Sách Bộ Chính Trị Khóa VI (1986 - 1991).
- Danh Sách Ban Bí Thư Khóa VI (1986 - 1991)
1.4. Chủ đề, mục tiêu, quan điểm được đặt ra trong đại hội
1.4.1. Chủ đề được đặt ra trong đại hội

Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh
thần cách mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường
đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối
cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó
khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra, nhân
dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã
hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu
tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền
kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố;
đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn. Nhìn chung, chúng ta chưa thực
hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

1.4.2 Mục tiêu được đặt ra trong đại hội

Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát
của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh
tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo ). Đại hội VI cũng đã nêu
lên quan điểm cần xúc tiến và hoàn thành việc xác định “chiến lược phát triển
khoa học và kỹ thuật, làm luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội... phải lựa chọn và tổ chức áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và kỹ
thuật thích hợp”. Trong giai đoạn này, các quan điểm phát triển khoa học và kỹ

3
thuật được đề cập trong văn kiện mới chỉ xác định mô hình khoa học - công nghệ,
chưa có những chỉ đạo quyết liệt về việc áp dụng các mô hình này vào thực tiễn.

Trên cơ sở nhiệm vụ bao trùm mục tiêu tổng quát Đại hội VI nêu lên năm
mục tiêu kinh tế xã hội cơ bản sau

- Sản xuất đủ tiêu dùng, có tích luỹ. Trước mắt là đáp ứng nhu cầu cấp bách
và thiết yếu của xã hội, dần ổn định , tiến lên cải thiện một bước đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân ,đảm bảo ăn no , mặc ấm , đáp ứng tốt hơn
các nhu cầu về nhà ở , bảo vệ sức khoẻ, học tập,làm việc, đi lại.
- Yêu cầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế để đủ sức tiếp nhận và đưa vào tái sản
xuất mở rộng vay vốn và viện trợ của nước ngoài.
- Bước đầu tạo cơ cấu kinh tế hợp lý phát triển sản xuất. Tính hợp lý của cơ
cấu kinh tế trước hết là cơ cấu ngành kinh tế phải phù hợp với quy luật về sự
phát triển của các ngành sản xuất vật chất , phù hợp với khả năng của đất
nước , sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế phải đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối nhịp độ tăng trưởng ổn định.
- Cơ cấu kinh tế ấy phải hướng vào việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn :
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong suốt thời kỳ quá độ cần phải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, củng cố các thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm kinh tế quốc doanh à kinh tế tập thể, làm
cho các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối trong nền
kinh tế quốc dân, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm , thu nhập của người lao động và tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp
hoá , hình thành đồng bộ hệ thống mới về quản lý kinh tế.
- Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội, có nhiều vấn đề cần giải quyết trước
hết như là giải quyết một phần quá trình việc làm cho người lao động và
đảm bảo về cơ bản phân phối theo lao động. Thực hiện công bằng xã hội

4
phù hợp điều kiện cụ thể của nước ta. Thực hiện nguyên tắc mọi người sống
và làm việc theo pháp luật.
- Đảm bảo nhu cầu củng cố quốc phòng , an ninh. Xây dựng và củng cố vững
mạnh quốc phòng an ninh để đảm bảo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng kinh tế. Củng cố thế trận bảo vệ tổ cả về quốc phòng và an ninh.

Đại hội VI của Đảng không ấn định thời gian cụ thể khi nào kết thúc chặng
đường đầu tiên, Đại hội cho rằng: “ Cái mốc đánh dấu chặng đường đầu tiên, kết
thúc là đạt được năm mục tiêu nói trên , Độ dài của chặng đường đầu tiên tuỳ thuộc
một phần quan trọng vào việc vận dụng những bài học đã rút ra từ thực tiễn 10 năm
qua , để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới”

1.4.3 Quan điểm được đặt ra trong đại hội


Từ thực tiễn tình hình xã hội qua các kỳ đại hội trước , Đại hội VI rút ra được
những bài học kinh nghiệm quan trọng.
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là
điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
điều kiện mới.
Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh , đáp ứng kịp thời
các yêu cầu phát triển của thời đại lịch sử mới
Những bài học kinh nghiệm trên là sự tổng kết cô đọng lại các kinh nghiệm
trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dẫn ta qua mấy chục năm qua
và là những định hướng cơ bản mang tính quy luật cho đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong giai đoạn tiếp theo.

5
II. Các quan điểm của đại hội vi trên các lĩnh vực
2.1. Kinh tế và sản xuất
2.1.1. Tình hình kinh tế và sản xuất Việt Nam những năm 1981-1985 
Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V (1981-1985) là những năm
đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối
cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó
khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra, nhân
dân ta đã phấn đấu đạt được một vài thành tựu về kinh tế và sản xuất.

Về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong thời kỳ 1981- 1985. Nông nghiệp tăng bình quân hằng
năm 4,9% so với 1,9% hằng năm của thời kỳ 1976-1980. Sản xuất lương thực có
bước phát triển quan trọng, mức bình quân hằng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ
1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981-1985. Sản xuất công nghiệp
tăng bình quân hằng năm 9,5% so với 0,6% hằng năm trong thời kỳ 1976-1980.
Thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước .

Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trong 5 năm 1981-1985, đã hoàn thành
mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó
có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, ximăng, cơ khí, dệt, đường, thuỷ lợi,
giao thông... Về năng lực sản xuất, tăng thêm 456 nghìn kilôoát điện; 2,5 triệu tấn
than; 2,4 triệu tấn ximăng; 33 nghìn tấn sợi; 58 nghìn tấn giấy; thêm 309 nghìn
hécta được tưới nước, 186 nghìn hécta được tiêu úng, 241 nghìn hécta được khai
hoang đưa vào sản xuất; dầu mỏ bắt đầu được khai thác. Các công trình thủy điện
Hoà Bình, Trị An đang được xây dựng, chuẩn bị đưa vào hoạt động trong những
năm tới.

Trong cả nước, đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh khá, nhiều đơn
vị chiến đấu giỏi, nhiều huyện làm ăn tốt; một số địa phương và ngành có cách làm
năng động, sáng tạo đã đạt những thành tích đáng phấn khởi. Thực tiễn sinh động
của các cơ sở, các địa phương, các ngành cung cấp kinh nghiệm quý báu cho sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước

6
Tuy nhiên, bên cạnh đó, đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội
đang có những khó khăn gay gắt. Báo cáo chính trị đã nghiêm khắc chỉ ra tính chất
nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Đó là: sản xuất tăng trưởng
chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được, tài nguyên
lãng phí, phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng
tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh còn thiếu thốn. Thiếu sót lớn nhất là
chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế, xã hội. Sai lầm về tổng
điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế của đất nước ta đến
những khó khăn mới. Nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần
thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế -xã hội, ổn định đời sống nhân
dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã vạch rõ những hạn chế và sai lầm trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cả về chế độ sở hữu, chế độ phân phối và cơ chế
quản lý. Về chế độ sở hữu, chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội, muốn xoá bỏ
ngay khu vực kinh tế ''phi xã hội chủ nghĩa”, muốn nhanh chóng thiết lập, khu vực
kinh tế ''xã hội chủ nghĩa” (gồm quốc doanh và tập thể). Về phân phối, chúng ta đã
thực hiện một chế độ phân phối về thực chất là bình quân. Về quản lý, chúng ta đã
thực hiện một cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp.Về nguyên
nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những năm qua việc nhìn
nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều
thiếu sót. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm về chủ trương,
chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà
nước. Sai lầm thể hiện trên các mặt: Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực
tế nước ta; không coi trọng khôi phục kinh tế là cấp bách, nông nghiệp vẫn chưa
thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa trong vòng 5 năm; chưa biết kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa
tiền tệ; mắc sai lầm nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Đại hội
thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện”, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí,

7
lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng buông lỏng trong
quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc
của Đảng. Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh, vừa
“hữu” khuynh. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt
nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ
của Đảng nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội nhấn mạnh, trong
những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt của đất nước
có nhiều thiếu sót, dẫn đến nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi.
Quá trình chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng là dịp để toàn Đảng,
toàn dân nhìn lại và suy nghĩ về đoạn đường vừa qua, rút ra những bài học bổ ích,
thấy sáng hơn đoạn đường đi tới. Đó là sự trưởng thành của chúng ta, đó cũng là
nhân tố mới để chúng ta tin tưởng: chúng ta đã lớn lên một bước sau những năm
1981 - 1985. 

2.1.2. Đổi mới về kinh tế và sản xuất trong đại hội VI


Khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn đối với nước
ta, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế. Những
chủ trương đổi mới kinh tế được nêu ra bao gồm:

(1) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tập trung thực hiện ba chương trình kinh
tế lớn về lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

(2) Giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông. Thực hiện
bốn giảm: giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm
phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải thể
các trạm kiểm soát hàng hóa trên các trục đường giao thông.

(3) Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế vừa
nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vừa phát huy khả năng tích cực
của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần kinh tế bình đẳng về quyền lợi,
nghĩa vụ trước pháp luật.

Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn
lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế. Xây dựng những
8
tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo. Mục tiêu
cụ thể về kinh tế trong chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích
lũy. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, làm
cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng
của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo
nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho
người lao động. Để biến mục tiêu đó thành hiện thực, điều quan trọng hàng đầu là
đổi mới chính sách kinh tế, chính sách xã hội, nhằm khai thác nhanh và có hiệu quả
mọi khả năng hiện có và tiềm tàng của nền kinh tế. Cụ thể là, bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Việc bố trí lại cơ
cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Phát huy mạnh mẽ và
đồng bộ khoa học - kỹ thuật. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,...Đại
hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc:
Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải
xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền
kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3
mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân
phối xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Đại hội cũng đề ra phương hướng nhiệm vụ
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh
tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động.

2.1.3. Phương hướng thực hiện những chủ trương Đảng đề ra

9
Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có
dự trữ, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân về những hàng tiêu dùng thiết yếu. Tạo
được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực

Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên, với
những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Tăng cường kinh tế xã hội chủ nghĩa trên cả ba mặt chế độ sở hữu, chế độ
quản lý, chế độ phân phối, làm cho kinh tế quốc doanh phát huy được vai trò chủ
đạo và cùng với kinh tế tập thể giữ vị trí quyết định trong nền kinh tế quốc dân, chi
phối được các thành phần kinh tế khác. Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình.

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh
tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế. Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế mới lấy
kế hoạch hoá làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quản lý
bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu kết hợp với biện pháp hành chính, giáo dục,
thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ
cương trong mọi hoạt động kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một yêu cầu
bức thiết, một bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động trên lĩnh
vực kinh tế của Đảng. Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương, tháng
8-1987, đã quyết nghị: "Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế". Hội nghị nhấn
mạnh mục đích của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là phải tạo ra động lực mạnh mẽ
giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển
kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu
quả ngày càng cao, trước mắt nhằm phục vụ ba chương trình kinh tế lớn, từng bước

10
thực hiện "bốn giảm", thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế - xã
hội, tạo tiền đề để tiến lên.

Vấn đề nóng bỏng và cấp bách nhất là lưu thông phân phối. Vì vậy, Hội nghị
lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương, họp trong tháng 4-1987, đã quyết định
phương hướng giải quyết vấn đề đó là phải nắm vững mục tiêu giảm tỷ lệ bội chi
ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống
của nhân dân trên cơ sở xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển các hoạt
động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò chủ đạo
của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng tích cực của các thành phần kinh tế
khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản xuất.

Tiếp đến, tháng 12-1987 Ban Chấp hành Trung ương lại họp Hội nghị lần thứ
tư để quyết định về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong ba
năm (1988-1990). Mục tiêu phấn đấu của kế hoạch ba năm còn lại là phải thực hiện
cho bằng được việc ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội. Điều
kiện quyết định là phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả, trước hết tập trung sức thực hiện ba chương trình kinh tế lớn,
đặc biệt là chương trình lương thực - thực phẩm. Đại hội VI đã quyết định chuyển
nền kinh tế từ mô hình dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội khẳng định trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ấy, nền kinh tế phải được quản lý bằng
các phương pháp kinh tế là chủ yếu với động lực thúc đẩy là sự kết hợp hài hoà lợi
ích của toàn xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích riêng của từng người lao động,
phù hợp với đường lối đổi mới ấy. Để khắc phục tính chất bình quân, Đại hội VI
cho rằng cần khắc phục tình trạng ''tách rời việc trả công lao động với số lượng và
chất lượng lao động'' trong phân phối thời kỳ trước đổi mới; phải quay trở lại thực
hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động. Văn kiện Đại hội viết: ''Việc thực
hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản
chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục
tính chất bình quân, xóa bỏ từng bước phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền

11
lương, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế'', “Bảo đảm cho người lao động có thu nhập thoả đáng phụ thuộc trực tiếp
vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động''.Mặt khác, Đại
hội đã không tuyệt đối hoá nguyên tắc phân phối theo lao động,Văn kiện Đại hội
VI ghi rõ: ''Giải quyết một phần quan trọng việc làm cho người lao động và bản
đảm về cơ bản phân phối theo lao động. Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với
điều kiện cụ thể của nước ta''. “Về cơ bản thực hiện phân phối theo lao động, điều
đó có nghĩa rằng không hoàn toàn phân phối theo lao động. Liên quan đến phần
phân phối không theo lao động này, Văn kiện Đại hội khẳng định: ''Xóa bỏ những
thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá và đối xử với người lao động thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước có chính sách ưu đãi về kinh tế (như chính
sách đầu tư, thuế, tín dụng...) đối với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; song về
pháp luật phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải và
những việc có ích cho xã hội,thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật và chính sách đều được tôn trọng, được quyền hưởng thu nhập tương
xứng với kết quả lao động, kinh doanh hợp pháp của họ. Đối với những kẻ lười
biếng, ăn bám, phải phê phán và cưỡng bức lao động. Những kẻ phạm pháp đều bị
trừng trị theo pháp luật. Ai vi phạm hợp đồng kinh tế, đều bị xử phạt và phải bồi
thường. Đó là chính sách nhất quán với mọi công dân, không phân biệt họ thuộc
thành phần kinh tế nào'', ''Tôn trọng lợi ích chính đáng của những hoạt động kinh
doanh hợp pháp, có ích cho xã hội. Ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc các nguồn thu
nhập bất chính'', ''Nghiêm trị những kẻ phạm pháp bất kỳ ở cương vị nào'', ''Bảo
đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc
quyền, đặc lợi'

2.2. Hệ thống chính trị 


2.2.1. Bối cảnh trong và ngoài nước

Đại hội diễn ra trong bối cảnh chung: Hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông
Âu lâm vào khủng hoảng, khó khăn nghiêm trọng. Phong trào độc lập dân tộc phát
triển mạnh; phong trào không liên kết trở thành lực lượng chính trị rộng lớn, có vai

12
trò ngày càng quan trọng. Hố ngăn cách giữa các nước tư bản phát triển và các
nước đang phát triển ngày càng sâu rộng. Sự bóc lột ngày càng nặng nề của các
nước đế quốc chủ nghĩa khiến nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh ngày càng bần cùng
và nợ nần chồng chất. Phong trào công nhân của các nước tư bản có bước phát
triển mới. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước
phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các
lực lượng sản xuất. Trong nước tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng chế độ làm chủ
tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới XHCN gắn với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, 10 năm đầu tiên của thời kỳ quá độ, nền sản
xuất cũ, hậu quả của các cuộc chiến tranh, tàn dư của chế độ cũ đã cản trở sự phát
triển của đất nước. Chúng ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp.
Những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm khó khăn.

Quyết tâm đổi mới: Ðại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới quan trọng của
Ðảng trong lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức. Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", đại hội khẳng định những thành tựu đã
đạt được trong nhiệm kỳ trước, đồng thời chỉ rõ: Tình hình KT-XH có những khó
khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; tài nguyên của
đất nước chưa được khai thác tốt; lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren;
những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn;
quan hệ sản xuất XHCN chậm được củng cố; đời sống Nhân dân, nhất là công
nhân, viên chức còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển.

2.2.2. Phương hướng và nhiệm vụ

Một là, xác định sáu nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới Chủ nghĩa Mác-
Lenin là nền tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta:

- Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ
thể. 
- Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành
những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

13
- Quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động
kinh tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ
cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. 
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân
đối và đề ra những biện pháp để khắc phục. 
- Thực hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao. 
- Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm
chất chính trị, có năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã
hội. 

Hai là, xác định yêu cầu công tác tư tưởng trong tình hình mới Công tác tư
tưởng phải nâng cao chất lượng và tính hiệu quả, bảo đảm tính chủ động kịp thời,
tính chiến đấu sắc bén, phục vụ tích cực việc thực hiện chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước, củng cố sự thống nhất về tư tưởng vàhành động trong toàn Đảng,
toàn dân, thúc đẩy công cuộc đổi mới.

Ba là, đánh giá tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ
nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng Trung ương xác định phải đổi mới,
nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu,phải xác định rõ hơn mô hình và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;giữ vững các nguyên tắc trong quá trình
đổi mới; không chấp nhận đa nguyênchính trị, đa đảng; cảnh giác và kiên quyết
chống âm mưu “diễn biến hoà bình...

Bốn là, chủ trương giải quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng Đảng
phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách
lãnh đạo, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng, kiến thức và năng lực lãnh đạo,
mở rộng dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân lao động. Đổi mới công tác quần chúng của
Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, thực hiện và bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân.

2.2.3 Nhận xét

14
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng. Một là, trong toàn bộ
hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị
của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa.

Tình hình chính trị ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các lực
lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân
và an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo được
phát huy. Tổ chức quân đội và công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết
hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có tiến bộ
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng
cố. Nhiều nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê
bình và phê bình. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính
được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới
nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
được phát huy; một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân
dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.

2.3. Xã hội - Văn hóa


2.3.1. Bối cảnh

Trước đó với tình hình nền kinh tế tập trung, nước ta gặp nhiều khó khăn về
đời sống xã hội, như việc sinh đẻ chưa có kế hoạch, an ninh, trật tự phức tạp. việc

15
làm khan hiếm. các nhu cầu cơ bản về văn hóa và thể chất khó được đáp ứng với
phần đa dân số, ...

2.3.2. Phương hướng

Tại đại hội đảng lần VI, Đảng đã đưa ra các chính sách xã hội lâu dài với các
nhiệm vụ phù hợp với tình hình chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và đổi
mới. Chú trọng phát huy yếu tố con người và lẩy việc phục vụ con người là mục
đích cao cả nhất. Đảng cũng tập trung vào giải quyết những vấn đề xã hội cấp bách,
thực hiện công bằng xã hội phù hợp điều kiện kinh tế, đảm bảo an toàn xã hội đồng
thời thực hiện sống và làm việc theo pháp luật. Đại hội đã đề ra bốn nhóm chính
sách xã hội: 
- Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động. 

- Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ
cương trong mọi lĩnh vực xã hội

- Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức
khỏe của nhân dân. 

- Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội. Kể từ năm 1986, với nhiều sự thay đổi
đáng kể về đường lối chính sách liên quan đến văn hóa - xã hội, đời sống của
nhân dân nhờ vậy được nâng cao, cải thiện đáng kể. 
2.3.3. Nhận xét

Mục tiêu đem lại những điều kiện văn hóa - xã hội tốt đẹp cho người dân,
nhà nước ta không ngừng cải thiện các chính sách. Tính từ đại hội đảng VI đến
nay, nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho người thất nghiệp, đề ra
những phương hướng giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động phù hợp, song
song với đẩy mạnh tích cực công tác xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, bảo
hiểm xã hội, cải thiện chính sách cho người có công, hộ nghèo,... Các chính sách
bảo trợ xã hội cũng được triển khai minh bạch, rõ ràng. Như vậy, chúng ta không
thể phủ nhận được những điều đại hội VI vạch ra và thực hiện song hành cùng với

16
các chính sách sau này đã và đang giúp chúng ta tiến tới xã hội dân chủ - công
bằng - văn minh. 

2.4. Đối ngoại


2.4.1. Bối cảnh
Bối cảnh thế giới lúc bấy giờ có những diễn biến nhanh và mạnh, tuy có
những thuận lợi căn bản nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều khó khăn thách
thức, trở ngại phức tạp. Nhân dân Việt Nam ta tiếp tục nhận được sự giúp đỡ to lớn
và hợp tác nhiều mặt từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, cũng như sự
cổ vũ và ủng hộ từ nhiều nước và nhân dân yêu chuộng tự do trên thế giới. Đối với
quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam, Lào và Campuchia đã tạo ra nhiều thuận
lợi, tuy nhiên ba nước Đông Dương vẫn phải thường xuyên đối mặt với những
hành động xâm lược, phá hoại và bao vây kinh tế của các thế lực thù địch. Mỹ và
phương Tây cũng đã cấu kết hình thành trận tuyến chống lại chúng ta, gây cho nhà
nước và nhân dân ta lúc bấy giờ vô vàn khó khăn. 

2.4.2. Phương hướng

Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành
công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà một trong những nhiệm vụ
đó là tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại. Chính sách đối ngoại xác định
mục tiêu của Đại hội là kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, phát
huy và phấn đấu giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, góp phần vào giữ hòa bình ở
Đông nam Á và trên thế giới. Ngoài ra cần tăng cường hợp tác hữu nghị với Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi mới về tư duy đối ngoại. Đầu tiên, đại hội
rút ra những bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp
lực lượng là “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới”. Ngoài ra, nhận thức được xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các
nước, bao gồm cả các nước có chế độ kinh tế, xã hội khác nhau cũng là những điều

17
kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lấy đó làm cơ sở
và nền tảng, Đảng ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ
thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới,
ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính
sách đối ngoại trong tình hình mới”. Điều này đã làm rõ nét hơn tư duy đối ngoại
theo định hướng đa phương của Việt Nam - lần đầu tiên đưa cụm từ “đa dạng hoá
quan hệ” trên cơ sở “thêm bạn bớt thù” vào Nghị quyết 13. Đây là văn kiện đầu
tiên của Đảng mang ý nghĩa nền tảng cho chủ trương “đa dạng hoá, đa phương
hóa”; đồng thời tư duy và mục tiêu đối ngoại của Việt Nam cũng đã chuyển mình
mạnh mẽ.Mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của
Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây
dựng và phát triển kinh tế”. Theo cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch,
“Nghị Quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị là một cuộc đổi mới mạnh mẽ tư duy
trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và chuyển hướng
toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta”. Một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là mở
rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”;đồng thời, Nghị
quyết cũng đã xác định rằng để đóng góp được vào cách mạng thế giới một cách
thiết thực nhất, trước tiên ta cần đi từ trong chính đất nước mình. Đó là thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, đất nước Việt Nam Trở thành một đất nước
ngày càng được ổn định về mặt chính trị, kinh tế, xã hội phát triển và nền quốc
phòng, an ninh ngày càng mạnh mẽ và vững vàng.

2.4.3. Nhận xét


Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990,Việt
Nam đã đẩy mạnh nhiều hoạt động đối ngoại kinh tế cũng như đối ngoại chính trị.
Nhiều hoạt động ngoại giao đa phương tại một số diễn đàn đa phương trên thế giới
được triển khai, trong đó có Liên hợp quốc với việc tham gia sâu hơn vào các cơ
quan của tổ chức này. Bên cạnh đó, nước ta cũng đã từng bước cải thiện mối quan
hệ, tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ của các nước bằng việc tham gia phong trào
Không liên kết. Kết quả hoạt động đối ngoại đạt được trong những năm cuối thập
18
kỷ 80 của thế kỷ XX tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa quan trọng, mở cửa
giao lưu hợp tác với bên ngoài, tạo được vị thế mới cho đất nước trong quan hệ
quốc tế. Nhìn chung, tại Đại hội VI (12/1986),chúng ta đã có nhận thức mới về xu
thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế, xã
hội khác nhau. Tư duy của Đảng ta có bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số
13 của Bộ Chính trị (tháng 5/1988)

III. KẾT QUẢ CỦA ĐẠI HỘI VI


3.1. Các hội nghị sau đại hội
Tháng 4/1987, Hội nghị lần thứ hai BCHTW Đảng họp quyết định phương
hướng giải quyết vấn đề lưu thông phân phối (vấn đề nóng bỏng và cấp bách nhất)
là phải nắm vững mục tiêu giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá,
giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân trên cơ sở xoá bỏ
chế độ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán
kinh doanh XHCN, nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy
khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải
phóng sức sản xuất.

Tháng 8/1987, Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng đã quyết nghị: "Chuyển


hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi
mới quản lý nhà nước về kinh tế". Hội nghị nhấn mạnh mục đích của đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế là phải tạo ra động lực mạnh mẽ giải phóng mọi năng lực sản
xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao, trước
mắt nhằm phục vụ ba chương trình kinh tế lớn, từng bước thực hiện "bốn giảm",
thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để tiến
lên.  

Tháng 12/1987, Hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng họp để quyết định về


phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong 3 năm (1988-1990). Mục
tiêu phấn đấu của kế hoạch ba năm còn lại là phải thực hiện cho bằng được việc ổn

19
định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội. Điều kiện quyết định là phát
triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả,
trước hết tập trung sức thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, đặc biệt là chương
trình lương thực - thực phẩm.

Tháng 6/1988, Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng đã đưa ra quyết định về


công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức, cuộc vận động làm trong sạch và
nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Công tác xây dựng Đảng theo phương hướng
Đại hội VI của Đảng là phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán
bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng, kiến
thức và năng lực lãnh đạo; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong
Đảng.

Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng đã phân tích những


nguyên nhân làm cho tình hình kinh tế - xã hội chậm được khắc phục, và quyết
định phương hướng lớn chỉ đạo công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu và nêu lên sáu
nguyên tắc cơ bản phải được quán triệt trong quá trình đổi mới. 

Tháng 8/1989, tại TP Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng đã


kịp thời quyết nghị Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình
trong nước và quốc tế hiện nay là: 
- Khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và những thành tựu vĩ
đại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. 

- Khẳng định tính khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá
trình cải tổ, cải cách và đổi mới. 

- Nhận rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế. 

20
- Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân lòng kiên trì với mục tiêu lý tưởng
xã hội chủ nghĩa trên cơ sở quán triệt những nguyên tắc và chính sách đổi
mới của Đảng. 

- Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự thống nhất ý chí và hành động trong xã
hội, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực.

Tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ tám BCHTW Đảng đã tập trung bàn chuyên
đề về Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân nhằm giải quyết một vấn đề có tính chất cơ bản và cấp bách, vừa phục
vụ trực tiếp sự nghiệp đổi mới ở nước ta, vừa góp phần bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị cũng đã thảo luận và Nghị quyết về Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa,
sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta. Hội nghị
cũng đã quyết định cách chức một ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc
tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu.

Tháng 8/1990, Hội nghị lần thứ chín BCHTW Đảng thảo luận về bản Dự thảo


Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ và bản Dự thảo Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000 và phương
hướng chủ yếu kế hoạch năm năm (1991 - 1995). Hội nghị quyết định công bố Dự
thảo các văn kiện đó để lấy ý kiến toàn Đảng và toàn dân trước khi trình Đại hội
lần thứ VII của Đảng. Hội nghị bàn Một số vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, với tư
tưởng chỉ đạo là kiên định thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; nêu
cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế;
xây dựng ý chí làm cho dân giàu, nước mạnh, chủ động có những phương án khác
nhau để thích ứng với tình hình mới; nêu cao ý thức tiết kiệm xây dựng đất nước;
thống nhất ý chí và hành động, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, giữ vững kỷ cương,
tôn trọng luật pháp trong các hoạt động kinh tế - xã hội. 

21
Tháng 11/1990, Hội nghị lần thứ mười BCHTW Đảng đã họp, thảo luận và
thông qua nghị quyết về Phương hướng chỉ đạo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 1991, và nghị quyết về Dự thảo báo cáo xây dựng đảng và sửa đổi Điều lệ
Đảng và Dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) để trình Đại hội lần thứ VII của Đảng.
Hội nghị nêu rõ: "Việc thực hiện kế hoạch năm 1991 diễn ra trong bối cảnh quốc tế
rất phức tạp, mọi hoạt động kinh tế của ta với nước ngoài phải thanh toán bằng
ngoại tệ mạnh và theo giá cả thị trường quốc tế. 

Tháng 1/1991, Hội nghị lần thứ mười một BCHTW Đảng họp để góp ý kiến


về Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.
Hội nghị thảo luận và nhất trí với nhiều nhận định và chủ trương lớn được nêu
trong Dự thảo và góp nhiều ý kiến quan trọng để nâng cao chất lượng bản Dự thảo.
Hội nghị quyết định giao cho Bộ Chính trị và Tiểu ban dự thảo hoàn chỉnh bản Dự
thảo Báo cáo chính trị để đưa ra lấy ý kiến trong toàn Đảng, toàn dân. 

Tháng 5/1991, Hội nghị lần thứ mười hai BCHTW Đảng họp bàn những công
việc chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ thứ VII của Đảng. Hội nghị
lần thứ mười hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tháng 6/1991. 

Ngày 16/6/1991, Hội nghị lần thứ mười ba BCHTW Đảng họp để hoàn tất


công việc chuẩn bị nhân sự và các vấn đề đưa ra trình Đại hội VII.

3.2. Kết quả chủ yếu


Sau gần 5 năm đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống, công cuộc đổi mới
đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu
chủ yếu của kế hoạch 5 năm. Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân
GDP đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%),  về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản
xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển
đổi: tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1%

22
năm 1995; dịch vụ từ 39,6% lên 41,9%. Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP; năm 1995 là 27,4%
(trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP. Hoạt động khoa học và
công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ
chế thị trường. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được xây dựng.
Nước ta lúc bấy giờ đã tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung
bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động
có việc làm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở
cả nông thôn và thành thị. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân
được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia
đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những  mặt phát triển và tiến bộ. Người lao
động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy
được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm,
tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội. Chủ trương đền
ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng, phong trào
xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng, đang trở thành
một nét đẹp mới trong xã hội ta. Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của
đát nước, vào Đảng và Nhà nước được nâng lên.

Tình hình chính trị cũng được giữ vững ổn định, quốc phòng an ninh được
củng cố. Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường
hòa bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Đảng
đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược
quốc phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống

23
lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân
đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng
cường.

Ngoài ra, Đảng đã thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ
thống chính trị. Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh
vực, củng cố Đảng và chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng trong xã hội; đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban
hành mới nhiều văn bản pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền
hành chính Nhà những, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã
hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực
hơn. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư
tưởng, văn hóa được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn
kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng hướng về quê hương vì đại nghĩa ấy.

Việt Nam phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận,
tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã triển khai tích cực
và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa.
Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc; tăng
cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với
Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên
đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều
nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang Nga, các nước trong Cộng đồng
các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng quan hệ với các nước công
nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập và mở rộng quan hệ
với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ
latinh; mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu

24
vực. Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản
và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ
trên thế giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng
hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ
với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại
giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của
hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và
tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững
hòa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên
thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó
cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3.3. Kinh nghiệm lịch sử

Đại hội VI là bước ngoặt lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Đây là Đại hội đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước.

Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước, Đại hội VII đã rút ra năm bài học kinh
nghiệm bước đầu về đổi mới:

Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới,
kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong
sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo
trong việc đề ra đường lối đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta, đáp
ứng đúng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân ta. Điều kiện cốt yếu để công cuộc
đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá
trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và
chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.

25
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình
thức và cách làm phù hợp. Đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng
khâu then chốt để tập trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh
vực khác. Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Chính trị đụng chạm đến các mối
quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ
thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc,
không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy
mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán
bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện dân chủ.

Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội.

Bốn là, tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
nhưng để phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được
lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị - xã hội nói
chung. Có như vậy mới thực sự bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, động
viên toàn dân hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát
hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định
thực hiện đường lối đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn
chỉnh lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công cuộc đổi
mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có tăng
cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành

26
hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được sai lầm và bước đi quanh co,
phức tạp.

27
KẾT LUẬN

Đại hội VI là bước ngoặt lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Đây là Đại hội đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước. Tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), với tinh thần "nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", Đảng ta đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới đó là kết quả của sự khảo
nghiệm thực tiễn và đổi mới tư duy lý luận; là bước phát triển có ý nghĩa cách
mạng trong nhận thức và hành động của Đảng với những chủ trương, đường lối
mang tính đột phá. Bài viết nghiên cứu tinh thần chủ động, sáng tạo của Đảng
trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (giai đoạn 1986-1996) với
những nội dung cốt lõi: đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng; giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ thời chiến chuyển sang thời bình, đòi hỏi Đảng phải
đổi mới tư duy, thay đổi nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình
hình mới. Tuy còn nhiều khó khăn và thử thách, nhưng Việt Nam đã có những phát
triển đáng kể. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và
quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã mở ra
một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước
sang một giai đoạn phát triển mới.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
2. Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển KT - XH trong 5 năm 1986 – 1990,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lan-thu-vi/phuong-huong-muc-tieu-chu-yeu-phat-trien-kt-xh-trong-5-nam-
1986-1990-1492
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lan-thu-vi/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-dang-19

4. https://daihoi13.dangcongsan.vn/cac-ky-dai-hoi/tu-dai-hoi-den-dai-hoi/cac-ky-
hoi-nghi-trung-uong-dang-khoa-vi-doi-moi-toan-dien-dat-nuoc-vung-buoc-di-
len-chu-nghia-xa-hoi-2228
5. https://camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm
%3Apath%3A/camaulibrary/camauofsite/trangchu/thamluannghiencuu/
lichsuvhtlnc/xfhgjhjfghdf
6. PGS, TS Nguyễn Viết Thông, Đánh giá tổng quát và bài học kinh nghiệm
https://nhandan.vn/danh-gia-tong-quat-va-bai-hoc-kinh-nghiem-
post251753.html

29
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
BẢNG ĐÁNH GIÁ CHÉO THÀNH VIÊN

Nguyễn Oun Vũ Lê Phạm Nguyễn


Phùng Thục Pech Tuấn Ngọc Thu Gia Bảo
Khuê  Linh Đông Thủy
Nguyễn 10 10 10 10 10
Phùng Thục
Khuê
Oun Pech 1 4 10 2 0,5

Vũ Tuấn 9 10 10 10 10
Linh

Lê Ngọc 8.5 10 10 10 9
Đông

Phạm Thu 8.5 10 10 10 9


Thủy

Nguyễn Gia 9 10 10 10 10
Bảo

Chú thích:
- Hàng ngang: người đánh giá
- Hàng dọc: người được đánh giá

30

You might also like