You are on page 1of 16

MỤC LỤC

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa đề tài
Những vấn đề chính
1. Tình hình đất nước trước đổi mới ( 1975 – 1986 )
2. Khái quát về Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng Sản Việt
Nam
3. Bối cảnh lịch sử Đại hội Đảng lần VI
a. Bối cảnh trong nước
b. Bối cảnh quốc tế
4. Diễn biến Đại hội
5. Nội dung Đại hội Đảng lần VI
6. Báo cáo chính trị
7. Mục tiêu và phương hướng phát triển KT – XH
8. Ý nghĩa và hạn chế của Đại hội
9. Quan điểm “ lấy dân làm gốc ” và bài học kinh nghiệm trong
mọi giai đoạn phát triển của đất nước
Kết luận
Nguồn tài liệu
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Đã hơn 20 năm kể từ Đại hội VI(15 – 18/6/1986) của Đảng, công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua tình
trạng khó khăn, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nhiệp hóa - hiện đại
hóa, thế và lực được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao. Nước ta
không còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Nước ta từ
quan liêu bao cấp đã trở thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu VI đã thay đổi cơ bản phương thức phát
triển của đất nước, mở đầu cho hàng loạt những đổi mới toàn diện sau
này trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, xã
hội...Sau Đại hội VI Đảng ta đã chọn và tập chung chỉ đạo giải quyết
thành công nhiều vấn đề nóng bỏng và cấp bách của đất nước: chống
lạm phát, đổi mới công tác tư tưởng và công tác quần chúng trước sự
khủng hoảng và sụp đổ của CNXH ở các nước Đông Âu và Liên Xô, đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhờ đó đổi
mới ở Việt Nam mặc dù diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp nhưng
chúng ta vẫn giữ được sự ổn định về chính trị, kinh tế đạt được những
thành tựu quan trọng. Đại hội VI- Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới
của Việt Nam. là cột mốc mở ra cục diện mới của nước ta trên con
đường quá độ lên CNXH. Đất nước dần ổn định phát triển và hội nhập
quốc tế. Đạt được những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước như hiện nay là do đường lối lãnh đạo và quản lí của
Đảng và nhà nước ta là một người dân đất Việt em rất tự hào về những
gì đất nước đã đạt được. Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử to
lớn của Đại hội VI với sự đổi mới và phát triển của đất nước, em đã
chọn đề tài “Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) và bài học kinh nghiệm
trong quan điểm “lấy dân làm gốc” trong mọi giai đoạn phát triển của
đất nước.” cho tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu Đại hội VI và những đổi mới của đất nước là vấn đề
không chỉ có ý nghĩa lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH mà
nó còn co ý nghĩa thực tế rất lớn.Vì vậy vấn đề được đề cập và nghiên
cứu trong nhiều sách: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng
toàn tập; Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng thời kì đổi mới:
Đảng cộng sản Việt Nam, các Đại hội và hội nghị Trung ương: Đại
cương lịch sử Việt Nam; Đảng cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi
mới đất nước và hội nhập quốc tế... Ngoài ra vấn đề còn được đề cập
trong nhiều sách báo và các bài viết trên mạng
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Phục vụ cho hiểu biết của bản thân trong việc học tập bộ môn thuộc
chuyên ngành lịch sử Việt nam : Đường lối đổi mới, giai đoạn đầu của
thời kì đổi mới và những thành quả đạt được qua hơn 30 năm đất nước
đổi mới để có cái nhìn khái quát và rõ hơn về tình hình đất nước trước
và sau đổi mới, từ đó so sánh đổi chiều thấy được những thành quả đã
đạt được và thấy được đường lối đúng dán của Đảng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, phát triển đất nước và hội nhập cùng quốc tế,
làm mọi người tin tưởng vào đường lối của Đảng và cùng góp sức xây
dựng và bảo vệ tổ quốc ngày càng vũng mạnh và sánh vai cùng các
cường quốc trên thế giới
4. Cơ sở lí luận
Đề tài được thực hiện dựa trên những quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và ĐCS Việt nam . Em kế thừa
những thành tựu nghiên cứu của những nhà nghiên cứu đi trước về vấn
đề này.
5. Ý nghĩa đề tài
Góp phần vào việc đi sâu nghiên cứu những nội dung căn bản của Đại
hội VI. Có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học
tập, nghiên cứu vấn đề, mở rộng hiểu biết về công cuộc đổi mới đất
nước, con đường đi lên CNXH
Những vấn đề chính
1. Tình hình đất nước trước đổi mới ( 1975 – 1986 )
Sau khi đất nước thống nhất Đảng đã thực hiện đưa ra chủ trương và
biện pháp nhằm khắc phục tình trạng đất nước sau chiến tranh. Sau hai
kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế nền kinh tế Việt nam rơi
vào tình trạng khủng hoảng :
- Quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
- Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ 1976 -1985, tổng sản phẩm
xã hội tăng 50.5%, bình quan mới năm tăng 46%, thu nhập quốc dân
tăng 3,7%/năm
- Sản xuất trong nước không đáp ứng dù nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân. Toàn bộ quỹ tích luỹ (tuy rất nhỏ bé ) và một phân tiêu dùng phải
dựa vào nguồn nước ngoài
- Hàng năm nhà nước không những phải nhập các mặt hàng quan trọng
cho sản xút mà còn phải nhập hàng tiêu dùng, kẻ cả những loại hàng hoá
lẻ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như gạo và vải mặc
- Từ 1976-1985, nhà nước đã nhập 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5
triệu tấn lương thực quy thóc. Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng. Trong
kế hoạch 1976-1980, lạm phát đã gây tác động xấu đến đời sống kinh tế
- xã hội
Chính phủ đã có nhiều biện pháp kiềm chế tốc độ lạm phát nhưng không
có hiệu quả. Năm 1985, các cách giá, lương tiền không thành công đã
làm cho tốc độ lạm phát tăng vọt. Lạm phát trở thành siêu lạm phát mà
đỉnh cao của nó là năm 1986 với tốc độ tăng giá trong năm lên tới
774,4%
Đời sống của nhân dân, nhất là của công nhân, viên chức và lực lượng
vũ trang gặp nhiều khó khăn. Hiện tượng tiêu cực trong xã hội ngày
càng nhiều. Công bằng xã hội bị vi phạm - pháp luật kỉ cương không
nghiệm. Quản chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự
điều hành của Nhà nước. Nhìn chung trong kế hoạch 5 năm 1981-1985,
mục tiêu cơ bản là ổn định tình hình kinh tế - xã hội ổn định đời sống
của nhân dân chưa thực hiện được
2. Khái quát về Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng Sản Việt
Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào ngày
3/2/1930, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động là đại biểu trung thành vi lợi ích dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Mình làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tổ chức cơ bản
Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam, do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ 5 năm
một lần. Đại biểu dự đại hội gồm các Uỷ viên Ban Chấp hành Trung
trong triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu. Đại hội đại
biểu toàn quốc bắt thường có thể được triệu tập khi Ban Chấp hành
Trung ương thủy căn hoặc khi có hơn một năm số cấp ủy trực thuộc yêu
cầu. Đại biểu dự Đại hội bất thường là các Uỷ viên Trung trong đường
nhiệm, đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc đầu nhiệm kỳ, đu tư
sách. Ở các cấp, cơ quan Lãnh đạo cao nhất là đại hội đại biểu hoặc đại
hội đảng viên, với đại biểu tham dự gồm các ủy viên ban chấp hành cáp
triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cáp cuối báu
Đại hội Đảng được tổ chức với 4 nhiệm vụ chính:
- Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ văn qua
- Quyết định đường lối, chính sách của dùng nhiệm kỳ tới
- Bầu Ban Chấp hành Trung ương
- Bổ sung sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần
3. Bối cảnh lịch sử Đại hội Đảng lần VI
a. Bối cảnh trong nước
Nước ta vừa thoát khỏi chiến tranh xâm lược nền kinh tế còn lạc hậu,bị
tàn phá nặng nề. Sau 10 năm 1975-1985 nước ta đi lên theo mô hình kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đất nước làm vào khủng hoảng
kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng dù đảng nhà nước nhân dân ta đã hết
sức cố gắng
b. Bối cảnh quốc tế
Các nước Đế quốc, dùng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách chống phủ
hệ thống xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt
khác, hệ thống xã hội chủ nghĩa (ngay ca Liên Xô và Trung Quốc) đang
lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và đang bước vào cải cách,
cải tổ với các hình thire và mức độ khác nhau. Có nước thành công, có
nước thất bại. Từ thực tiễn các nước, đã giúp Đảng ta định hướng được
con đường đổi mới đúng đắn cho nước nhà
4. Diễn biến Đại hội
Mở đầu Đại hội, đồng chí Nguyễn văn Linh uỷ viên Bộ chính trị ban
chấp hành trung ương Đảng khoa V đọc diễn văn khai mạc Đại hội đại
biểu toàn quốc lần + thư VL, khẳng định Đại học Vĩ phải có sự đổi mới
của Đảng ta về tư duy, phong cách, tổ chức cán bộ, đó là đổi mới bước
thiết của đất nước. Chỉ có đôi mới thì mới thấy đúng, thấy hết được sự
thật, thấy những nhân tố mới để phát huy. nhimp sai làm để su chiu. đĩa
CD Tiếp đó Đại hội thông qua báo cáo của ban chấp hành trung ương
ĐCS Việt nam do đồng chí Trường Chỉnh tổng bí thư ban chấp hành
trọng ương Đảng, chủ tịch hội đồng nhà nước trình bày, nêu rõ tình hình
nhiệm vụ, những phương hướng. mục tiêu chủ yếu để phát triển kinh tế-
xã hội trong giai đoạn mới. Đại hội thông qua báo cáo Ban chấp hành
trung ương Đảng do đồng chí Võ Văn Kit uỷ viên Bộ chính trị Ban chấp
hành trung ương Đảng, phó chủ tịch hội đồng Bộ trưởng trình bày, nêu
lên phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong 5 năm 1986-
1990. Đại hội thông qua một số nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc về
phương hướng, mục tiêu trong giai đoạn mới. Đại hội còn tuyên dương
công trạng to lớn vì Đảng vì dân của các đồng chí Trường Chinh. Phạm
văn Đồng, Lê Đức Thọ
5. Nội dung Đại hội Đảng lần VI
Đại hội đã thông qua bản Điều lệ Đảng đã sửa đổi và bầu Ban Chấp
hành trung trong khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự
khuyết. Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy
viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết. Ông Nguyễn Văn Linh được bầu
làm Tổng Bí thư của Đảng
Đại hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết về các văn kiện như:
báo cáo chính trị; mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội
5năm 1986-1990; báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng
6. Báo cáo chính trị
Với tình thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nổi rõ sự
thật. Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tại đạt được sau 10 năm
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm
khắc tự phê bình những sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo
của Đảng trong 10 năm (1976-1986) Đại hội khẳng định quyết tâm đổi
mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tình thần cách mạng và khoa học
và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và
nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đại hội đã
đánh giá những thành trụ, những khó khăn của đất nuôi do cuộc khủng
hoàng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai làm kéo dài của Đảng về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lan và tổ chức thực hiện khuynh
hưởng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai làm về
kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chỉ, lời suy nghĩ về hành động đơn giản,
nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng
trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm đường lối và
nguyên tắc của Đảng
7. Mục tiêu và phương hướng phát triển KT – XH
Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh
tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo
Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích hy
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng
ba chương trình kinh tế lớn là :
1. Lương thực - thực phẩm
2. Hàng tiêu dùng và
3. Hàng xuất khẩu
Làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử
dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết
chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiên
hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng
cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động :
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
- Tạo sự chuyển biến tốt về mặt xã hội (tạo việc làm, thực hiện công
bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép
nước...) - Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh
- Đổi mới về Kinh tế
Về đối nội, Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách
kinh tế - xã hội và để ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu:
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải
tạo đúng dẫn các thành phần kinh tế, coi nền kinh tế có nhiều thành phần
là một đặc trưng của thời kỳ quá độ
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương
thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa
- Phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Trong hệ thống các giải pháp. Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức lực
vào việc thực hiện được ba chương trình, mục tiêu: Lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đây là sự cụ thể hoá nội dung
chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ
Về chính sách đối ngoại, Đại hội đề ra mục tiêu tăng cường tình hữu
nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa;
bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai
nước nhằm góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, góp phần giữ vững
hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới. Về huy động sức
mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, thực hiện khẩu hiệu "dân biệt, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra", tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều
kiện tất yêu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của quân chúng
- Đổi mới về chính trị Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức
thực hiện của Đảng, Đại hội đã nêu rõ Đảng phải đối mới về nhiều mặt:
- Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và điều hành của
nhà nước cho phù hợp với cô câu và cơ chế kinh tế mới
- Đổi mới quan hệ hợp tác quốc tế
8. Ý nghĩa và hạn chế của Đại hội
Trong khi các nước XHCN thực hiện cải tổ, cải cách hoặc sửa chữa sai
lầm thì Đảng ta chủ đổi mới. Đại hội VI chính thức đưa khái niệm đổi
mới vào đường lối truong của Đảng. Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa
lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặc trong sự nghiệp quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt
Nam ... Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, là Đại
hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới
của Đại hội VI đã mở đường cho đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử
Cách mạng Việt Nam . Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh
chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật,
vào những sai lầm khuyết điểm và đổi mới theo xu thế mới của thời đại
mới. Là Đại hội: "trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới" Tuy nhiên, Đại
hội VI còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối
ren trong phân phối và lưu thông
Đại hội VI là đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới tạo ra bước ngoặt
quan trọng trên con đường quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. -Đường lối
đổi mới của đại hội 6 đã thực sự đi vào cuộc sống trở thành động lực
thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển làm thay đổi bộ mặt của xã hội
mở đầu cho một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam.
-Sau đại hội VI Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách
nhằm vụ thể hoá đường lối đổi mới đưa đường lối đổi mới đi vào cuộc
sống
- Đường lối đổi mới của Đảng đã đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng
của toàn Đảng toàn dân ta đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại mới
-Đường mới đổi mới của Đảng thể hiện tinh thần độc lập tự chủ,năng
động sáng tạo và bản lĩnh chính trị của Đảng
9. Quan điểm “ lấy dân làm gốc ” và bài học kinh nghiệm trong mọi
giai đoạn phát triển của đất nước
“Dân là gốc” trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt
nguồn từ việc kế thừa và phát huy những bài học từ truyền thống dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nhìn lại lịch sử từ thời phong
kiến, triều đại nào biết thực thi chính sách an dân, lấy “Dân làm gốc” thì
quy tụ được lòng dân, đất nước hưng thịnh, dân được hưởng thái bình,
ngược lại, đất nước rơi vào loạn lạc, bị các thế lực ngoại bang xâm lăng,
giày xéo. Thực tiễn lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước đã chứng tỏ sự nghiệp vẻ vang của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... cũng chính là
thành quả của quần chúng Nhân dân. Tuy nhiên, dưới chế độ phong
kiến, vai trò của quần chúng chưa được phát huy hết sức mạnh. Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn khẳng định: “Khoan thư sức dân làm kế
sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”, Nguyễn Trãi đã khái quát triết
lý: “Việc nhân nghĩa, cốt yên dân”, “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền
cũng là dân”. Vì vậy, quan điểm “Lấy dân làm gốc” đã trở thành bài học
kinh nghiệm, một giá trị văn hóa chính trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”. Có Đảng mở
đường, lãnh đạo thì cách mạng mới thành công. Nhưng chính Nhân dân
và chỉ có Nhân dân mới là người hiện thực hóa được mục tiêu, lý tưởng
mà Đảng đề ra. Không có Nhân dân sẽ không có lực lượng cách mạng
và phong trào cách mạng. Nhận thức sâu sắc chân lý ấy, Đảng ta đã dày
công tuyên truyền, giác ngộ, vận động quần chúng Nhân dân ủng hộ
cách mạng, tham gia cách mạng; qua đó, phát huy tinh thần đại đoàn kết
toàn dân tộc làm nên những chiến công vĩ đại, làm rạng danh non sông,
đất nước ta. Đó là chiến thắng của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
năm 1945; là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội, kết thúc 9
năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Và sau đó,
cũng tinh thần ấy, khí phách ấy, Nhân dân ta lại “đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy nhào”, thu giang sơn về một mối. Bao chiến thắng vang dội đó
là chiến thắng của nhân nghĩa, của khát vọng hòa bình và cũng chính là
chiến thắng của lòng dân, sức dân
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định “lấy dân làm gốc”
là cơ sở cho việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Quan điểm này tiếp tục được phát huy và nâng lên tầm cao mới
trong các văn kiện qua các kỳ đại hội. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)
đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo chính trị, tư
tưởng, tổ chức. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật”. Đại hội chỉ ra những khó khăn về tình hình kinh tế -
xã hội của đất nước: Sản xuất tăng chậm, mất cân đối lớn trong nền kinh
tế; đời sống Nhân dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực
xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng... Nguyên nhân chủ quan của
tình hình trên đây là những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản
lý của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, trong Đại hội VI của Đảng đã tổng
kết bài học quan trọng hàng đầu: “Một là, trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lao động”. Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ VI cũng nhấn mạnh, Đảng cần đổi mới phong cách làm
việc, tác phong đi sâu, đi sát thực tế, nắm bắt thông tin nhanh chóng và
chính xác; mở rộng sinh hoạt dân chủ; nghiên cứu những kinh nghiệm
sáng tạo của cơ sở; lắng nghe ý kiến của quần chúng... để có những
chính sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, trong Báo cáo chính trị Đại
hội VII Đảng ta đã chỉ ra một số thành tựu đạt được đó là: Tình hình
chính trị của đất nước ổn định; nền kinh tế có những bước phát triển đã
đạt được những tiến bộ rõ rệt; nền dân chủ của Nhân dân ngày càng
được phát huy… Đại hội cũng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; trong đó,
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân". Vì vậy, “không ngừng củng cố, tăng cường
đoàn kết, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế”

Tại Đại hội lần thứ VIII, lần đầu tiên Đảng đề ra cơ chế cụ thể thực hiện
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra” đối với các
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Thể hiện quyền làm chủ
của Nhân dân trong thực tế đối với các đại biểu và cơ quan nhà nước mà
dân lập nên. Đại hội chỉ rõ: “Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, tăng cường pháp chế. Hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng
cử, về tiêu chuẩn, cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân
trên cơ sở phát huy dân chủ. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ, mở rộng
dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp phát của mọi người. Giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của
công dân”

Đến Đại hội X của Đảng, đã rút ra một số bài học kinh nghiệm; trong
đó, Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào
Nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Nhân dân, xuất phát
từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của Nhân
dân, vì Nhân dân và do Nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng
kiến của Nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Dựa vào Nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường
xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy
luật phát triển, đó là chìa khoá của thành công”

Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định phát huy sức mạnh toàn dân tộc
là thành tố thứ hai, sau thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng. Đây chính là hai thành tố quan trọng có ý
nghĩa quyết định để thực hiện thành công những nhiệm vụ chủ yếu của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đại hội XI nhấn mạnh mở
rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý
thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả
cộng đồng. Nhằm phát huy dân chủ, vai trò của quần chúng Nhân dân,
Đại hội XI đã đề ra phương hướng: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có cơ chế cụ thể để Nhân dân thực hiện trên
thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ
sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học
kinh nghiệm: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm lấy “dân làm
gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm
chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân” [12]. Như vậy có thể thấy rằng,
trong suốt quá trình lãnh đạo đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta luôn nhất quán quan điểm “sự nghiệp đổi mới phải vì lợi ích của Nhân
dân”, xa rời, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân nảy sinh từ thực
tiễn là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là
người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi mới phải dựa vào
Nhân dân, do lòng dân quyết định. Nguồn lực của Nhân dân có nhiều,
bao gồm tài dân, sức dân, của dân, quyền dân; song nguồn lực lớn nhất,
quan trọng nhất, quyết định nhất là lòng dân, có lòng dân thì có sức dân

Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện”. Điều đặc biệt là lần đầu tiên trong Hiến pháp, tại
Điều 4, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, điểm 2 viết: “Đảng Cộng
sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự
giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình”. Như vậy, không chỉ Nhà nước mà ngay cả Đảng
còn phải gắn bó với Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân và chịu
trách nhiệm trước Nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước ta cũng đang
đứng trước nhiều vấn đề và những hiện tượng đang tác động đến tư
tưởng, tình cảm, đời sống của Nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tới sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày
càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền, lợi
ích chính đáng, hợp pháp của người dân... đang gây bức xúc trong dư
luận cùng với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ cũng đang tác động lớn đến lòng tin của Nhân dân vào
Đảng, Nhà nước và chế độ. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch vẫn tiếp
tục chĩa mũi nhọn tấn công, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đây chính là những thách thức đang đặt ra đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ, đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền và toàn
thể cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ và nêu cao tinh thần trách nhiệm
trong quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, trong đó có quan điểm “lấy dân làm gốc”.
Theo đó, các cấp ủy, chính quyền, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức phải nhận thức rõ được sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với Nhân dân, được lòng dân. Muốn được lòng dân, có lòng dân thì
toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của Nhân dân, nhằm vào mục đích vì lợi ích của Nhân dân. Tạo cơ chế
để dân phát huy đầy đủ, có hiệu quả quyền làm chủ của mình. Tập trung
giải quyết bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân liên quan đến
lợi ích, đời sống, việc làm; chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm
những tiêu cực… Như lời căn dặn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì
mà quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết
tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì Nhân dân không đồng
tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn
ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”. Đặc biệt, mỗi cán bộ,
đảng viên phải thực sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, tôn trọng Nhân
dân, phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của
Nhân dân. Có như vậy, chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến
mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
từng bước hiện thực hoá mục tiêu như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII đã đề ra: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp
theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm
2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Kết luận
Với quyết tâm khắc phục khó khăn, với tinh thần kiên trì và tích cực
trong tim tôi thử nghiệm, nhân dân ta vẫn không nao núng trước những
biến động về kinh tế - xã hội. Đảng ta vẫn quyết tâm làm chuyển biến tư
duy, nhận thức và tư tưởng, xác định nhiều quan điểm, chủ trương, chính
sách mới, nhằm khắc phục khủng hoảng và tìm mọi cách đưa đất nước
phát triển theo con đường XHCN. Ðại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi
mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Mục tiêu đó đã đang đặt ra những yêu cầu,
trọng trách lớn lao đối với thế hệ trẻ hôm nay, nhất là đối với sinh viên –
thế hệ chủ nhân của tương lai, của đất nước. Để kế tục xứng đáng sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta trong quá trình đổi
mới, mỗi sinh viên Việt Nam hãy ra sức học tập, trau dồi lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động và rèn luyện để
hình thành một thế hệ thanh niên sinh viên tân tiến, xứng tầm đòi hỏi
của đất nước và thời đại.

Nguồn tài liệu


Giáo trình đường lối Cách mạng Việt nam ( Đại học Sư Phạm )
Tailieu.vn
Baolamdong.vn
Laichau.dcs.vn
Fanpage Từ điển Lịch sử

You might also like