You are on page 1of 38

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN

MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

VĂN HÓA GIÁO DỤC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LỚP L05 ----- NHÓM 07 ----- HK231

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

Tên Sinh Viên Mã Số Sinh Viên Điểm Số


Tạ Hoàng Gia Huy 2113537
Phạm Gia Huy 2113534
Phạm Nguyễn Nhật Huy 2013327
Nguyễn Hoài Khang 2111453
Nguyễn Phúc Khang 2011367
Nguyễn Vĩ Khang 2011372
Mục Lục
Mục Lục..................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................2
1. Lý Do Chọn Đề Tài.........................................................................................2
2. Nhiệm Vụ Đề Tài.............................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................4
1. Quan Điểm Chỉ Đạo Của Đảng Về Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con
Người Việt Nam Hiện Nay..................................................................................4
1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng...........................................4
1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng..........................................4
1.3. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII..................5
1.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng...........................................7
1.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.............................................7
1.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng...........................................8
1.7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng........................................13
1.8. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.......................................15
2. Vận Dụng.......................................................................................................17
2.1. Chủ trương của Tp. Hồ Chí Minh..................................................................17
2.2. Thực trạng và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục ở 18
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân............................................................18
2.2.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân.....................................................22
2.3. Giải pháp........................................................................................................28
KẾT LUẬN...........................................................................................................32
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................34

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý Do Chọn Đề Tài

Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã nhấn mạnh định
hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 về mặt giáo dục rằng phải tạo đột phá
trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm
động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực
so với khu vực và thế giới.

Bên cạnh đó cũng đề ra các đột phá chiến lược như là phát triển nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh
đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh
mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử
dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh
khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn
kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vì vậy, nhóm chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển Văn hóa Giáo dục
ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” nhằm làm rõ hơn về vai trò cũng như đường lối
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc phát triển, đổi mới nền văn hóa
Giáo dục ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước ta nói chung trong những năm
gần đây.

2
2. Nhiệm Vụ Đề Tài

Một là, tìm hiểu và nêu rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Hai là, tìm hiểu và đưa ra nguyên nhân về những điểm mạnh song với những điểm
còn chưa thực hiện tốt để từ đó đưa ra giải pháp phát triển tốt hơn.

Ba là, đưa ra kết luận chung về đề tài, phát triển những điểm sáng và tiếp thu
những điểm chưa hoàn thiện để rút kinh nghiệm, sửa chữa.

3
PHẦN NỘI DUNG
1. Quan Điểm Chỉ Đạo Của Đảng Về Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con
Người Việt Nam Hiện Nay

Văn hóa, con người là những yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững của
một đất nước, một dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, luôn coi trọng việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những nhiệm vụ chiến lược của Đảng, Nhà
nước và toàn dân ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững. Văn hóa,
con người không chỉ là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển, mà còn là động lực,
nguồn lực và tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển. Vì vậy nên trong suốt quá trình thực
hiện đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng,
phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở đầu cho
công cuộc đổi mới với mục tiêu tổng quát: “Ổn định tình hình kinh tế - xã hội bao
gồm ổn định và phát triển sản xuất, ổn định phân phối, lưu thông, ổn định và cải thiện
từng bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tăng cường hiệu lực tổ chức
quản lý, thiết lập trật tự, kỷ cương và thực hiện công bằng xã hội.” 1. Những mục tiêu
này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bối cảnh đất nước đang trên bước
ngoặt lịch sử, đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong việc ổn định tình
hình kinh tế -xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VI đã định hướng cho công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước sau này, mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho Việt Nam.

1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng

Bước sang đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), tiếp tục khẳng
định quan điểm đổi mới toàn diện đất nước mà Đại hội VI đề ra. Trong bối cảnh khó
khăn về kinh tế, chính trị, Đại hội VII tập trung vào mục tiêu ổn định và phát triển
kinh tế-xã hội. Đại hội đề ra nhiệm vụ then chốt là ổn định và từng bước cải thiện đời

1
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986).

4
sống nhân dân sau những năm khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện đất
nước còn nhiều khó khăn, lĩnh vực văn hóa chưa được Đảng và Nhà nước quan tâm
đúng mức. Hai kỳ đại hội trên ưu tiên tập trung xác định đường lối phát triển kinh tế,
ổn định xã hội; văn hóa mặc dù được quan tâm phát triển, nhưng chưa được xem là
vấn đề trọng tâm.

1.3. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII

Cho tới ngày 16/7/1998, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã ban hành Nghị
quyết số 03-NQ/TW về việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Với năm quan điểm được đề ra như sau:

Thứ nhất, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội

Chăm sóc và phát triển văn hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi văn hóa chính
là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội. Nếu thiếu đi những giá trị văn hóa tiến bộ
và lành mạnh thì khó có thể phát triển bền vững. Các nhà lãnh đạo cần quan tâm cân
bằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Mục tiêu
phát triển kinh tế phải hướng tới những giá trị văn hóa cao đẹp, vì một xã hội công
bằng, văn minh và con người được phát triển toàn diện. Đồng thời, văn hóa cũng
chính là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Các yếu tố văn hóa cần được
kết nối mật thiết với mọi mặt của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế đến pháp luật...
qua đó biến văn hóa thành nguồn lực nội sinh vô cùng quý giá cho sự phát triển của
đất nước.

Thứ hai, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc

Tiến bộ là phải gắn liền với yêu nước. Cốt lõi của tiến bộ là lý tưởng độc lập dân
tộc kết hợp với xã hội công bằng, bình đẳng. Mục đích cuối cùng là vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển toàn diện, tự do của mỗi cá nhân trong mối quan hệ hài hòa
với tập thể. Tiến bộ không chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà còn ở hình thức biểu
đạt. Bản sắc dân tộc bao gồm những tinh hoa văn hóa được tạo dựng và kế thừa qua
hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh giữ nước. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực, tinh

5
thần đoàn kết, tình cảm cộng đồng, lòng nhân ái, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần
cù sáng tạo, tính giản dị trong sinh hoạt. Những nét văn hóa độc đáo ấy cần được bảo
tồn. Song, cũng cần mở rộng tiếp biến văn hóa, học hỏi tinh hoa các nền văn minh
nhân loại. Đồng thời, cũng cần loại bỏ những điều lạc hậu, lỗi thời trong văn hóa
truyền thống. Như vậy, bảo tồn bản sắc dân tộc cần đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, hướng tới cái mới mẻ, tiến bộ.

Thứ ba, nền văn hoá Việt Nam là nên văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với hơn 50 dân tộc cùng sinh sống. Mỗi dân tộc
đều có nét văn hóa riêng biệt, đậm đà bản sắc. Sự đa dạng về văn hóa các dân tộc làm
phong phú thêm nền văn hóa chung của đất nước. Đồng thời, tính đa dạng cũng chính
là cơ sở để củng cố khối đại đoàn kết, thắt chặt tình đoàn kết anh em giữa các dân tộc.
Trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, văn hóa các dân tộc Việt Nam sẽ có
cơ hội phát triển.

Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng

Toàn thể người dân Việt Nam đều phấn đấu vì mục tiêu xây dựng một đất nước
giàu mạnh, công bằng và văn minh. Trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng cao cả đó, mọi
tầng lớp nhân dân đều góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc. Công
nhân, nông dân và trí thức chính là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đồng thời, họ cũng là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, nhân dân ta đoàn
kết xây dựng nên một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Như vậy, toàn
dân đoàn kết xây dựng văn hóa là điều kiện tiên quyết để phát triển văn hóa Việt
Nam. Đây chính là con đường để đất nước ngày càng giàu mạnh và văn minh.

Thứ năm văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng

Xây dựng nền văn hóa mới là một quá trình cách mạng lâu dài, gian nan. Quá trình
đó đòi hỏi phải kế thừa những tinh hoa văn hóa truyền thống, đồng thời sáng tạo ra

6
những giá trị mới phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng văn hóa cần đi
đôi với việc chống lại những hủ tục, tật xấu. Chúng ta cần nâng cao tinh thần đấu
tranh, ngăn chặn mọi âm mưu lợi dụng văn hóa để chống phá chế độ. Bên cạnh đó,
chúng ta cũng cần tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, sáng tạo ra những giá trị
mới. Qua đó, làm cho các giá trị văn hóa ấy thấm sâu vào đời sống xã hội và mỗi con
người. Những giá trị văn hóa tiên tiến sẽ trở thành phẩm chất, tập quán tốt đẹp của
người Việt Nam. Như vậy, xây dựng nền văn hóa mới là sự kết hợp hài hòa giữa kế
thừa truyền thống và tiếp biến tinh hoa, đi đôi với đấu tranh loại bỏ những điều lạc
hậu, lỗi thời. Đây là con đường văn hóa đúng đắn sẽ đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.

1.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng

Tại Đại hội lần thứ IX (tháng 4-2001), nghị quyết của đại hội một lần nữa khẳng
định quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, phát huy bản sắc dân tộc. Văn hóa
vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Các hoạt
động văn hóa nhằm mục đích phát triển toàn diện con người Việt Nam về mọi mặt.
Con người Việt Nam phải có lòng nhân ái, sống có văn hóa, gắn bó cộng đồng. Điểm
mới trong Nghị quyết Đại hội lần này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách và
xây dựng con người. Để thực hiện mục tiêu trên, cần đẩy mạnh các phong trào như
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng gia đình văn
hóa”... Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống nhân dân, từng gia đình và mỗi cá
nhân.

1.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng

Tại Đại hội lần thứ X (tháng 4-2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội. Cần tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, phát
huy bản sắc dân tộc. Đồng thời, phát triển văn hóa cần gắn kết chặt chẽ với phát triển
kinh tế-xã hội. Nghị quyết Đại hội đòi hỏi phải đa dạng hóa các hình thức hoạt động
văn hóa nhằm thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Cần đầu tư xây dựng hệ thống
cơ sở vật chất văn hóa đồng bộ. Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn
hóa như nhà văn hóa, bảo tàng... nhằm làm cho văn hóa ngày càng thấm sâu vào đời
sống xã hội. Như vậy, Đại hội Đảng lần thứ X đã có những quan điểm đúng đắn về

7
phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

1.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được khẳng định. Theo đó, văn hóa Việt Nam
cần phát triển toàn diện, đa dạng nhưng vẫn thống nhất. Văn hóa phải thấm nhuần tinh
thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ. Đại hội nhấn mạnh vai trò của con người là trung
tâm, vừa là chủ thể vừa là động lực của phát triển. Do đó, cần tôn trọng và bảo vệ
quyền con người. Mục tiêu cụ thể được đề ra là xây dựng con người phát triển toàn
diện, gia đình ấm no hạnh phúc. Đồng thời, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi mặt
đời sống xã hội. Như vậy, Đại hội XI tiếp tục phát triển sâu sắc quan điểm của Đảng
về văn hóa. Đây là những tư tưởng quan trọng, làm cơ sở cho việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã có những chuyển
biến tích cực và đạt được các kết quả quang trọng trong công cuộc xây dựng và phát
triển văn hóa, con người, tuy nhiên vẫn còn gặp phải một số hạn chế. Để khắc phục,
tại hội Nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (9/6/2014), Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW bổ sung thêm các
quan điểm mới.

Đảng đã đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay như sau :

Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

Vẫn tương tự như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, nhưng lần nãy đã
đổi mới một chút ở việc đề cập mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị, xã hội.
Khẳng định văn hóa phải được đặt ngang hàng với ba lĩnh vực trên. Sự phát triển của

8
đất nước phải đồng bộ về cả 4 mặt này. Chỉ khi lấy văn hóa làm nền tảng và động lực,
Việt Nam mới có thể phát triển một cách ổn định, bền vững.

Tuy nhiên sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW những thành tựu đạt
được trên lĩnh vực văn hóa vẫn chưa tương xứng với các lĩnh vực khác vì thế quan
điểm này được khẳng định lại nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so
với kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội, hạn chế tình trạng quan liêu, tham nhũng
của một bộ phận cán bộ đảng viên.

Thứ hai, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học.

Quan điểm này là sự khẳng định lại của hai quan điểm thứ hai và thứ ba của Nghị
quyết số 03-NQ/TWQuan điểm thứ hai của Nghị quyết đưa ra mục tiêu xây dựng nền
văn hóa Việt Nam đáp ứng được cả yêu cầu tiên tiến lẫn bảo tồn bản sắc.

Cụ thể, văn hóa Việt Nam cần vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp
ứng kịp xu thế phát triển chung của thời đại. Đồng thời, văn hóa Việt Nam cũng phải
bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, những nét văn hóa đặc sắc của
dân tộc. Sự kết hợp hài hòa giữa "tiên tiến" và "bản sắc" chính là đặc điểm của văn
hóa Việt Nam. Bên cạnh đó, văn hóa Việt Nam cũng cần thể hiện tính đa dạng của các
nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, sự đa dạng
đó vẫn đảm bảo tính thống nhất trong cộng đồng dân tộc. Đây chính là nét đặc trưng
của văn hóa Việt Nam - thống nhất trong đa dạng. Như vậy, mô hình văn hóa Việt
Nam được đề ra trong quan điểm thứ hai thực sự là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc và tiếp thu tinh hoa, thống nhất và đa dạng.
Đây là định hướng quan trọng cho việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước.

Thứ ba, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa.

9
Đây là một quan điểm mới được bổ sung. Quan điểm chỉ đạo này cho thấy mối
liên hệ nội tại mật thiết, chặt chẽ, không thể tách rời giữa văn hóa và con người, giữa
con người với văn hóa, về bản chất, phát triển văn hóa là sự phát triển của con người,
lấy phát triển con người làm mục tiêu. Phát triển con người không chỉ tạo ra nguồn
nhân lực có chất lượng cho phát triển văn hóa mà còn tạo ra những con người có khả
năng sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm năng trí tuệ, phẩm giá đạo đức và lối sống. Sự
phát triển và hoàn thiện nhân cách con người là phương hướng, là mục tiêu, là đích
đến. của sự phát triển văn hóa. Chỉ có con người mới là chủ nhân thực sự của sự sáng
tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) và văn hóa tinh thần (phi vật chất), chỉ có
con người cũng vậy, ở cấp độ cá nhân, chỉ ở cấp độ xã hội - cộng đồng, quốc gia và
rộng hơn là nhân loại, để tạo ra là môi trường văn hóa - xã hội cho sự phát triển văn
hóa và phát triển xã hội nói chung, để những hiệu quả xã hội của văn hóa (đặc biệt là
văn hóa tinh thần) lan tỏa, mở rộng và thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống,
nhân lên gấp bội sức sống và sự phát triển của con người, văn hóa chứ không chỉ các
thế hệ con người trong quá khứ, một dân tộc - nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là
sự phát triển của các dân tộc, các nền văn hóa trong thế giới loài người.

Thứ tư, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu
tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

Đây cũng là một quan điểm mới được bổ sung thêm. Về mặt khái niệm, môi
trường văn hóa là tổng hòa các loại điều kiện văn hóa tinh thần tồn tại xung quanh con
người và tác động tới hoạt động của con người. Yếu tố chủ yếu tạo thành môi trường
văn hóa là giáo dục, khoa học, kinh tế, văn nghệ, đạo đức, tôn giáo, triết học, tâm lý
dân tộc và tập tục truyền thống.

Môi trường văn hóa và biến đổi xã hội: Xã hội ổn định không có nghĩa là xã hội
không có biến đổi. Trong hệ thống xã hội to lớn và phức tạp, giữa các tầng bậc, các
thành phần, các yếu tố có thể xảy ra tình trạng không thích ứng, không hài hòa. Đây là
cội nguồn khách quan của biến đổi xã hội. Với tư cách là một bộ phận hợp thành môi
trường xã hội, môi trường văn hóa tất có liên quan đến sự biến đổi xã hội, đặc biệt là

10
liên quan đến văn minh chính trị của nhà cầm quyền và sự lựa chọn hình thức phát
triển đất nước của người dân.

“Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù điều tiết
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với xã
hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia đình đặc trưng cho các cộng đồng các tộc
người, các dân tộc và các khu vực khác nhau được hình thành và phát triển lâu dài của
đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên
và xã hội”2

Đảng ta ghi nhận vai trò của gia đình trong việc duy trì ổn định xã hội, phát triển
kinh tế, đẩy mạnh giáo dục, phát triển trí tuệ, kinh tế, tri thức và cung cấp nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế, hỗ trợ văn
hóa gia đình. Luôn quan tâm đến việc xây dựng. Xây dựng môi trường văn hóa, văn
hóa gia đình được đề xuất tại kỳ họp thứ 8 “Xây dựng môi trường văn hóa” Nghị
quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước. Thứ nhất bao gồm các đơn vị cơ bản là văn hóa gia
đình “được tạo dựng” (gia đình, làng xã, khu định cư, trường học, đơn vị quân đội),
nơi cư trú (thành thị, nông thôn, miền núi), đa dạng và ngày càng tăng. Tiếp tục xây
dựng đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu của người dân. nhu cầu. mọi tầng
lớp dân cư.

Sự phát triển bền vững của đất nước thực chất là sự phát triển bền vững của con
người, và để đạt được điều này cần đặc biệt chú ý thực hiện chiến lược phát triển văn
hóa, môi trường văn hóa, văn hóa gia đình. Chỉ có tạo dựng được môi trường xã hội
lành mạnh, môi trường văn hóa lành mạnh, trong đó có văn hóa gia đình lành mạnh,
chúng ta mới tạo ra được những con người có nhân cách văn hóa, có khả năng sáng
tạo, sản sinh ra văn hóa cho con người, cho sự phát triển. Như Karl Marx đã nói, nếu
con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì chúng ta phải làm cho hoàn cảnh ngày càng
nhân văn hơn, và sự giàu có của mỗi cá nhân (nhân cách) phụ thuộc vào sự phong phú
của các mối quan hệ xã hội của người đó, trong đó có văn hóa gia đình.

2
Theo Lê Ngọc Văn (2011).

11
Thứ năm, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan
trọng.

Đây là quan diểm được khẳng định lại một lần nữa từ Nghị quyết số 03-NQ/TW.
Lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn và được thể hiện dưới dạng
một khối kiến thức tổng quát mang lại một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về các
mối quan hệ và quy luật cơ bản của khoa học. Thực tế khách quan. Nói cách khác, lý
luận là một khối kiến thức được khái quát hóa từ kinh nghiệm thực tiễn và có tác dụng
định hướng hoạt động thực tiễn. Lý thuyết văn hóa là một khối kiến thức cụ thể trong
lĩnh vực văn hóa. Để văn hóa dân tộc phát triển toàn diện, phát triển theo chiều rộng
và chiều sâu, đáp ứng nhu cầu của thời đại và đất nước, cần xây dựng hệ thống lý luận
văn hóa tiên tiến. Nhiệm vụ của đội ngũ trí thức là xây dựng một hệ thống lý thuyết
về văn hóa và phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi ” 3,
nghĩa là văn hóa “phải soi đường", hoàn thiện phẩm giá con người và xã hội loài
người, đề cao hướng dẫn những giá trị tốt đẹp. ngoài vai trò xác nhận còn có vai trò
lãnh đạo của hệ thống. Một hệ thống lý luận về nhân văn và văn hóa vì con người. Kể
từ khi thành lập và lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Đảng đã rất chú trọng phát huy vai
trò của trí thức trong việc xây dựng hệ thống lý luận văn hóa và chính sách văn hóa.
Đội ngũ trí thức có nhiệm vụ nghiên cứu, phát hiện, xây dựng hệ thống khái niệm,
khái niệm, quy luật, phạm trù, đặc điểm của văn hóa dân tộc, tổng hợp thực tiễn phát
triển văn hóa dân tộc thành hệ thống lý luận về văn hóa và phát triển. Nhưng ngoài ra,
đội ngũ trí thức còn có nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong cuộc chiến chống phản văn
hóa, phản giá trị.

Bằng cách này, ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Đảng ta đã xác định rõ
nhiệm vụ của trí thức là xây dựng hệ thống lý luận về văn hóa, hệ thống lý luận đó
bao gồm việc không ngừng nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề còn tồn tại.
Trong khi giải quyết các vấn đề lý luận như xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc,
chúng ta kiên quyết đấu tranh chống sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa,

3
Hồ Chí Minh – Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11 năm 1946.

12
chống những quan điểm sai trái, phản tiến bộ, lệch lạc về văn hóa dân tộc. Các cuộc
đấu tranh tư tưởng, văn hóa thời kỳ này đã phản ánh vai trò, trách nhiệm của người trí
thức về mặt tư tưởng, lý luận.

Từ thực tiễn phát triển văn hóa dân tộc, kinh nghiệm thế giới, cả những kinh
nghiệm thành công và chưa thành công, đội ngũ trí thức Việt Nam tổng kết thực tiễn,
rút ra bài học, phát triển lý luận. Phát triển lý luận về quy luật khách quan và xây
dựng văn hóa dân tộc phù hợp với điều kiện cụ thể của bối cảnh quốc gia, khu vực và
quốc tế. Nhiều nội dung mới liên quan đến việc xây dựng và phát triển văn hóa dân
tộc đã được đội ngũ trí thức đề xuất, đồng thời đề xuất những phương hướng, thách
thức phát triển văn hóa như sau: Văn hóa là nền tảng và mục tiêu tinh thần. Nó là
động lực, sức mạnh nội sinh của sự phát triển đất nước, sức mạnh mềm văn hóa, các
ngành công nghiệp văn hóa, thị trường cho các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, v.v...

Điều này cho thấy sự sáng tạo không ngừng của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực lý
luận đã góp phần quan trọng vào việc phát triển nền văn hóa mới ở Việt Nam, đặc biệt
trong thời kỳ đổi mới, làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước nói chung. Vì
vậy, Đảng ta tin rằng “đội ngũ trí thức sẽ tích cực đóng góp vào việc phát triển các
thảo luận khoa học về chính sách, đường lối, chính sách quy hoạch của Đảng và quốc
gia, làm rõ đường lối phát triển của đất nước và liên quan đến thành tựu đổi mới”.
những vấn đề mới nảy sinh." Trực tiếp đào tạo nhân tài, nâng cao dân trí, phát triển
nhân tài. Tạo ra số lượng lớn các công trình có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, sản phẩm
chất lượng cao, có tính cạnh tranh. “Từng bước nâng cao trình độ khoa học công nghệ
của đất nước, đạt trình độ khu vực và thế giới” .

1.7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, đường lối xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được khẳng định. Mục tiêu là phát triển
toàn diện con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ đất
nước. Đại hội một lần nữa nhấn mạnh: “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc4”. Trong nhiệm kỳ vừa qua, việc xây dựng con
4
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 34, 115 – 116.

13
người Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực. Đại hội đề ra mục tiêu xây dựng con
người toàn diện, sống có ích và có văn hóa. Trong đó, “xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện” là một mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển. Đặc biệt,
tại Đại hội lần này, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều quan điểm mới về xây dựng,
phát triển con người. Những quan điểm này không chỉ là sự bổ sung về mặt lý luận,
mà còn được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong chỉ
đạo hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Một là, xây dựng con người toàn diện là một trong những nhiệm vụ tổng quát 5
năm 2016-2020.

Qua các kỳ đại hội, có thể thấy rõ xu hướng nhất quán của Đảng ta trong việc xây
dựng con người toàn diện. Điều này thể hiện sự tiến bộ về nhận thức của Đảng về vị
trí, vai trò của con người. Từ Đại hội VIII, Đảng đã đề ra mục tiêu tạo điều kiện phát
huy năng lực cho mọi người. Đến Đại hội X và Đại hội XI, mục tiêu cụ thể hơn là xây
dựng con người phát triển toàn diện. Đặc biệt, Đại hội XII đã nâng tầm phát triển con
người toàn diện thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng và nhân
dân. Đây thực sự là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng
đối với việc xây dựng con người Việt Nam toàn diện.

Hai là, xây dựng con người được đề cập tại 4 trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của
nhiệm kỳ Đại hội XII

Qua 2 Đại hội Đảng XI và XII có thể thấy, vấn đề xây dựng và phát triển con
người đã được Đảng quan tâm nhiều hơn. Cụ thể, ở Đại hội XI chỉ có 1 trong 7 nhiệm
vụ là về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhưng đến Đại hội XII, trong 6 nhiệm
vụ then chốt thì có tới 4 nhiệm vụ liên quan đến con người. Điều này cho thấy sự chú
trọng đúng đắn của Đảng đối với vấn đề phát triển con người, đáp ứng yêu cầu mới
trong tình hình quốc tế và trong nước.

Ba là, gắn mục tiêu nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng con
người

Tại Đại hội VI và VII, vấn đề văn hóa vẫn chưa được xem trọng mà chỉ được xếp
chung với các lĩnh vực giáo dục, khoa học. Đến Đại hội VIII và IX, văn hóa mới được

14
tách thành mục riêng biệt với mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Tiếp đến, Đại hội X xác định phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội. Đại hội XI đặt ra mục tiêu cụ thể hơn là chăm lo phát triển văn hóa. Đến năm
2014, Nghị quyết 33 của Trung ương khóa XI đã nhấn mạnh gắn mục tiêu xây dựng
văn hóa với xây dựng con người. Cuối cùng, Đại hội XII tiếp tục khẳng định phương
hướng xây dựng và phát triển văn hóa, con người.

Bốn là, vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện được đặt lên
hàng đầu trong các nhiệm vụ về văn hóa
Con người là nhân tố quyết định không chỉ trong lĩnh vực văn hóa mà còn trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính con người làm nên văn hóa, giữ gìn, phát huy
giá trị của văn hóa, nhưng chính con người cũng có thể làm mất đi những giá trị và
nét đẹp của văn hóa.
1.8. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Trong Văn kiện Đại hội XIII, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị
văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được trình bày trong mối quan hệ thống nhất,
biện chứng khi khẳng định: “giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế 5”.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, để
tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc, cần tập
trung thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần
đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát
huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người
Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục
tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của
Đảng đã đề ra.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với
những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam,
hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị
5
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, Hà Nội, 2021, tr. 202

15
truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực,
trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia
đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được
bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ
giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và
cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Ba là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá,
đời sống văn hoá: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn
hoá mới. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh
không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hoá, phản văn hoá; bảo vệ những giá
trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; xây dựng đời sống văn
hoá vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và
hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền của đất nước.
Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hoá là nhân dân;
tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hoá, của người dân, các dân tộc, các
vùng, miền; phát triển các phong trào văn hoá sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện,
nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao, phát
huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác
văn hoá.
Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hoá, về đạo đức;
kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống
chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm
giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hoá trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò,
năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá.
Sáu là, xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và
công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước

16
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành
công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh.

2. Vận Dụng

2.1. Chủ trương của Tp. Hồ Chí Minh


Ngày 23 tháng 8 năm 2023, tại Trường Đại học Sài Gòn, nằm ở quận 5, Thành
phố Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố đã tổ chức một cuộc Hội nghị
quan trọng để tổng kết năm học 2022-2023 và đề ra kế hoạch triển khai nhiệm vụ
quan trọng trong năm học 2023-2024. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ông Phạm
Ngọc Thưởng, đã nhấn mạnh rằng Thành phố Hồ Chí Minh đã liên tục đặt sự phát
triển của hệ thống giáo dục và đào tạo vào hàng đầu trong danh sách ưu tiên, và tập
trung vào việc cung cấp một sự giáo dục toàn diện và khuyến khích sự sáng tạo của
học sinh, tuân theo tinh thần của Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về việc đổi mới căn bản trong giáo dục và đào tạo.

Ông Phạm Ngọc Thưởng cũng nhấn mạnh 5 nhiệm vụ trọng tâm mà Thành phố
Hồ Chí Minh cần tiếp tục tập trung đẩy mạnh. Thứ nhất, đổi mới quản lý giáo dục và
đào tạo của nhà nước, quy trình quản lý sẽ được đổi mới để tạo điều kiện cho sự phân
cấp, phân quyền, và quản trị hiệu quả hơn tại các trường học. Mục tiêu là tạo ra hệ
thống quản lý linh hoạt, hiện đại, và minh bạch, đồng thời tăng cường sự tham gia dân
chủ ở cơ sở. Thứ hai là triển khai hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018,
hành động này bao gồm việc xem xét kế hoạch mạng lưới trường lớp, thúc đẩy việc
đổi mới phương pháp giảng dạy, và nâng cao công tác đánh giá và kiểm tra chất lượng
giáo dục. Thứ ba bố trí giáo viên một cách linh hoạt và cân đối nhằm đảm bảo rằng có
đủ giáo viên, và chú ý đến cơ cấu giáo viên để đảm bảo hiệu suất của hệ thống giáo
dục. Thứ tư là thúc đẩy phong trào "Cả nước thi đua xây dựng xã hội học tập", Đề ra
các giải pháp thực hiện phong trào này một cách hiệu quả trong giai đoạn 2023-2030,
như được đề xuất bởi Thủ tướng Chính phủ. Thứ năm là tăng cường chuyển đổi số và
ứng dụng công nghệ thông tin giúp cung cấp hạ tầng kỹ thuật và kỹ năng sử dụng

17
công nghệ thông tin trong quá trình giảng dạy và kiểm tra, để đảm bảo chất lượng
giáo dục cao cấp.

Bên cạnh đó, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh, ông Dương Anh Đức,
đề xuất ba mục tiêu quan trọng trong lĩnh vực giáo dục. Đầu tiên là xây dựng môi
trường giáo dục tử tế nhằm tạo điều kiện cho mô hình trường học mang tính hạnh
phúc và thúc đẩy tinh thần tử tế trong giáo dục. Tiếp đến làđảm bảo công bằng và chất
lượng giáo dục giúp đồng thời xây dựng trường học cao cấp và hội nhập quốc tế,
nhưng vẫn giữ được sự công bằng và giảm thiểu khoảng cách chất lượng giữa các
trường. Cuối cùng là phát triển chất lượng giáo dục thông qua kiểm định và kết quả
học tập của học sinh nhằm tập trung vào việc cải thiện chất lượng giáo dục thông qua
quá trình kiểm định và đánh giá kết quả học tập của học sinh.

2.2. Thực trạng và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục ở
Việt Nam hiện nay

2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân

2.2.1.1. Những thành tựu

Sau nhiều nỗ lực của Bộ Giáo Dục, nền giáo dục ở Thành Phố Hồ Chí Minh cơ
bản đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng.

Đầu tiên là sự đầu tư vượt vô cùng vượt trội vào ngành giáo dục của Thành phố
Hồ Chí Minh. Tính đến năm học 2021 – 2022, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.355
trường học, với 1.347 trường công lập và 1.008 trường ngoài công lập. Số lượng học
sinh của thành phố là hơn 1,6 triệu học sinh, bao gồm 1,39 triệu học sinh hệ công lập
và 226.309 học sinh ngoài công lập. Từ năm 2016 đến nay, đối với hệ công lập, ngành
giáo dục và đào tạo thành phố đã xây dựng thêm 54 trường mới, hoàn thành và đưa
vào sử dụng 3.248 phòng học, đã đáp ứng phần lớn nhu cầu về học tập cho học sinh
trên địa bàn thành phố. Đội ngũ giáo viên tăng thêm 2.527 người, với chất lượng đào
tạo đạt chuẩn. Hàng năm giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để không
ngừng nâng cao trình độ và cập nhật các chuẩn mới. Số lượng học sinh các cấp học
mỗi năm tăng trung bình 22.056 học sinh. Theo quy hoạch mạng lưới trường lớp đến

18
năm 2020, mỗi năm thành phố đầu tư xây dựng, đưa vào sử dụng 1.000 phòng học
mới, tương đương với số tiền đầu tư khoảng 5.000 tỷ đồng/năm. Trong các nguồn
kinh phí đầu tư cho sửa chữa, xây dựng trường lớp, ngân sách nhà nước chiếm khoảng
60% vốn vay từ quỹ đầu tư, và từ các nguồn khác khoảng 15% và vốn xã hội hóa
chiếm 25%. Nguồn kinh phí cho giáo dục thành phố có hướng tăng từ sự đầu tư của
Nhà nước. Nguồn chi từ ngân sách Nhà nước năm 2019 là 11.802.125 triệu đồng, năm
2020 là 12.352.370 triệu đồng (tăng 4,66%).

Thứ hai là hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non, duy trì và nâng cao chất lượng
của nền giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và phổ thôn. Theo báo cáo của Sở GD-ĐT
TPHCM: Năm học 2020-2021, TPHCM có 1.374 trường mầm non công lập và ngoài
công lập. Tổng số nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm non độc lập là 1.756 trường.
Tổng số nhóm, lớp học là 14.965. 100% các quận, huyện đều đạt tiêu chuẩn phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Về giáo dục tiểu học thì tất cả các quận huyện trên
địa bàn đều được phổ cập với chất lượng mức độ 3. Bên cạnh đó thì phổ cập giáo dục
trung học cơ sở, trung học phổ thông đã được phổ biến vô cùng rộng rãi với chất
lượng mức độ 2 và 3.

Thứ ba là chương trình giáo dục phổ thông mới đã được ban hành và đẩy mạnh
triển khai. Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa
lớp 1, với tổng số 46 quyển trong 9 môn và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng
trong năm 2020-2021. Đây cũng là lần đầu trong lịch sử của ngành giáo dục Việt Nam
nước ta được chủ trương cải cách. Vì thế nên việc lựa chọn, kiểm duyệt sách giáo
khoa được thực hiện một cách nghiêm túc, minh bạch và công khai đến với toàn nhân
dân.

Thứ tư là chất lượng giáo dục phổ thông ở Thành phố đã được nâng cao cả về quy
mô rộng và các khía cạnh cụ thể, và đã nhận được sự công nhận và đánh giá cao từ
cộng đồng quốc tế. Thành tựu của học sinh Việt Nam trong các kỳ thi Olympic cũng
đã có sự tiến bộ đáng kể. Tại các kì thi quốc tế được tổ chức năm 2022, TPHCM có 1
Huy chương Vàng Olympic Hóa học quốc tế và 1 Huy chương Bạc Olympic Toán
học quốc tế. Tại kỳ thi nghiên cứu khoa học quốc tế GENIUS OLYMPIAD, đoàn
TPHCM đã xuất sắc đạt thành tích 3 Huy chương Vàng, 4 huy chương Bạc, 6 Huy

19
chương Đồng và 2 Giải Khuyến khích. Tại kỳ thi học sinh giỏi cấp Quốc gia, TPHCM
đã đạt 115 giải gồm 10 giải Nhất, 23 giải Nhì, 39 giải Ba và 43 giải Khuyến khích
cùng với 1 đề tài đạt giải Khuyến khích tại Cuộc thi Khoa học kỹ thuật. Các kỳ thi
học sinh giỏi, khoa học kỹ thuật, giải toán trên máy tính cầm tay ở các cấp học THCS,
THPT, Giáo dục thường xuyên của Thành phố cũng giúp phát hiện nhiều hạt giống
xuất sắc với 352 giải Nhất và nhiều giải thưởng khác

Thứ năm là về chất lượng đào tạo chương trình đại học có nhiều biến chuyển tích
cực cùng với đó là các trường đại học đẩy mạnh chính sách tự chủ. Năm 2018, Đại
học Quốc gia TPHCM, lần đầu tiên xuất hiện trong danh sách 1.000 trường đại học
hàng đầu trên toàn cầu do Tổ chức Quacquarelli Symonds (Anh) công bố. Đồng thời,
các trường đại học tự chủ đã ghi nhận đột phá với nhiều ngành và lĩnh vực đào tạo
nằm trong danh sách tốp 500 thế giới. Thành phố cũng đã góp phần giúp Việt Nam
đạt vị trí thứ 49 trên thế giới về số lượng bài báo khoa học được công bố trên các tạp
chí quốc tế uy tín. Đại học Quốc gia TP.HCM ghi tên mình đậm nét trên bản đồ giáo
dục của khu vực Đông Nam Á và thế giới. Hiện đại học này đang là cơ quan chủ quản
của nhiều dự án quốc tế lớn với tổng kinh phí hơn 132 triệu USD. Đây là nguồn lực
quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển cơ sở
vật chất hiện đại, đồng bộ cho khu đô thị Đại học Quốc gia TP.HCM. PGS Nguyễn
Minh Tâm - phó giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM - cho biết thêm, theo thống kê
từ cơ sở dữ liệu Scopus, tính đến tháng 12-2022, Đại học Quốc gia TP.HCM có 1.913
bài báo được đăng trên các tạp chí và hội nghị khoa học quốc tế, là đơn vị có số bài
báo công bố dẫn đầu cả nước trong danh mục này. Ngoài ra, đại học này năm qua
cũng được cấp hai bằng sáng chế tại Mỹ. Năm 2022, Đại học Quốc gia TP.HCM đạt
kết quả vượt bậc với 33 chương trình đạt chuẩn kiểm định quốc tế: AUN-QA (12),
CTI (8), ASIIN (9), AQAS (3), FIBAA (1). Cũng trong năm qua, đại học này đã mở
thêm sáu ngành đào tạo đại học và một ngành sau đại học trong các lĩnh vực khoa học
xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, nông nghiệp và khoa học sức khỏe.

Thứ sáu là việc ứng dụng công nghệ thông tin và đẩy mạnh chuyển đổi số trong hệ
thống giáo dục, đặc biệt là giai đoạn dịch bệnh. Chương trình học đã thay đổi đáng kể
tại mọi cấp bậc giáo dục (trừ mầm non) với chủ trương "tạm dừng đến trường, không

20
ngừng việc học." Lần đầu tiên, Việt Nam cũng như là thành phố Hồ Chí Minh đã triển
khai hình thức dạy học trực tuyến thông qua Internet và truyền hình trên quy mô toàn
quốc. Điều này đã thu hút sự chú ý và đánh giá tích cực từ tổ chức OECD qua Báo
cáo PISA, công bố vào ngày 29/9/2020. Trong báo cáo của OECD, nêu rõ rằng "Việc
học trực tuyến để phòng chống Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm mạnh so với
các quốc gia và vùng lãnh thổ khác." Điều này thể hiện trong việc gần như 100% học
sinh và sinh viên tại thành phố tham gia học trực tuyến, mức này cao hơn so với mức
trung bình 67,15% của các quốc gia thành viên OECD.

2.2.1.2. Nguyên nhân

Đầu tiên, Thành phố Hồ Chí Minh đang chấp nhận một sự đầu tư rất lớn vào lĩnh
vực giáo dục với những lý do quan trọng. Đây bao gồm nhận thức về tầm quan trọng
của giáo dục cho sự phát triển và cạnh tranh kinh tế của thành phố, lợi ích dài hạn cho
xã hội và cuộc sống cá nhân của người dân, đóng góp vào sự phát triển xã hội và văn
hóa, cùng với sự thích nghi với yêu cầu của thời đại bằng việc cập nhật cơ sở hạ tầng
công nghệ giáo dục. Tất cả những điều này đang làm cho ngành giáo dục của Thành
phố Hồ Chí Minh trở nên mạnh mẽ và có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của dân cư.

Thứ hai là công cuộc phổ biến giáo dục trên toàn địa bàn thành phố đã đạt được sự
thành công nhờ vào sự hòa nhập của nhiều yếu tố quan trọng. Thành phố đã rất quyết
tâm và đầu tư lớn vào ngành giáo dục, xây dựng hạ tầng giáo dục, và cải thiện chương
trình giảng dạy. Việc phát triển đội ngũ giáo viên, cùng với sự hỗ trợ từ cộng đồng và
xã hội, đã chơi một vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường học tập tích
cực. Sự hợp tác quốc tế cũng đã mang lại sự đổi mới và phát triển trong lĩnh vực giáo
dục. Tất cả những yếu tố này đã cùng nhau tạo nên sự thành công trong việc phổ biến
giáo dục trên toàn quốc tại Hồ Chí Minh.

Thứ ba là thành công trong việc ứng dụng công nghệ vào giáo dục có nguyên nhân
chính là sự tận dụng thông minh của công nghệ trong quá trình học tập và giảng dạy.
Sự đa dạng của các công nghệ giáo dục, từ phần mềm học tập, ứng dụng di động, máy
tính bảng đến các công cụ trực tuyến, mang đến lựa chọn đa dạng cho giáo viên và
học sinh. Điều này cung cấp cơ hội cho học sinh và sinh viên học tập theo lịch trình

21
linh hoạt, tùy chỉnh hóa quá trình học tập, và nhận phản hồi thời gian thực để nâng
cao hiệu suất học tập. Sự hỗ trợ từ công nghệ không chỉ giúp giáo viên tiết kiệm thời
gian quản lý lớp học mà còn tạo ra môi trường học tập thú vị và tương tác hơn,
khuyến khích sự tò mò và sáng tạo trong quá trình học tập. Tổng cộng, công nghệ đã
thay đổi cách chúng ta tiếp cận giáo dục và cung cấp nhiều cơ hội mới để nâng cao
chất lượng và hiệu suất trong học tập.

Thứ tư là nguồn nhân lực đã được nâng cao nhờ Nhà nước khuyến khích sự học
hỏi liên tục và nghiên cứu đã chơi một vai trò quan trọng trong việc phát triển và cập
nhật kiến thức và kỹ năng của nguồn nhân lực. Đặc biệt, sự thúc đẩy cho việc nghiên
cứu và học tập liên tục đã tạo cơ hội cho sự phát triển và cải thiện chất lượng nguồn
nhân lực. Ngoài ra, việc phát triển kỹ năng mềm, như kỹ năng giao tiếp, làm việc
nhóm và khả năng giải quyết vấn đề, đã được đặc biệt quan tâm và thúc đẩy. Những
kỹ năng này không chỉ giúp tạo sự đa dạng và linh hoạt trong nguồn nhân lực mà còn
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá nhân và sự nghiệp của họ. Cuối cùng, sự
hỗ trợ và khuyến khích từ cộng đồng và xã hội cũng đóng góp quan trọng vào sự
thành công trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là sự ủng hộ từ môi
trường xung quanh, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi, phát triển, và áp
dụng kiến thức trong thực tế, góp phần vào sự phát triển và thịnh vượng của cá nhân
và cộng đồng.

2.2.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân

2.2.2.1. Những hạn chế

Sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo dục ở
Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế và bất cập.

Đầu tiên là sự yếu kém về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Chung quan điểm về
tình hình giáo dục cho thấy nhiều vấn đề cần cải thiện. Nguyên nhân của tình trạng
này xuất phát từ việc quá lâu chúng ta tập trung vào việc tăng cường hệ thống giáo
dục mà bỏ qua việc nâng cao chất lượng. Hệ thống giáo dục hiện tại thiếu tính liên kết
và không đồng nhất, và có sự thiếu cân đối giữa các cấp học, ngành học, cơ cấu, trình
độ, ngành nghề, và địa phương khác nhau. Ngoài ra, việc giáo dục về giá trị đạo đức,

22
lối sống, văn hoá, lịch sử quốc gia, đảng phái, và vai trò công dân vẫn chưa được tập
trung đúng mức về cả nội dung và phương pháp. Giáo dục phổ thông thường chỉ tập
trung vào việc truyền đạt kiến thức, chứ không đưa ra sự quan tâm đúng mức đối với
phát triển cá nhân, kỹ năng sống, và đào tạo nghề nghiệp cho học sinh và sinh viên.
Do đó, chất lượng của nguồn nhân lực hiện tại không đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động. Nhà trường cũng cần tăng cường việc giáo dục về trách nhiệm công
dân và người lao động chân chính đối với học sinh và sinh viên. Ngoài ra, hệ thống
đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, và chưa thực sự điều chỉnh để
phản ánh nhu cầu thực tế của xã hội. Việc cân nhắc giữa việc tăng cường quy mô và
chất lượng, cũng như việc cân nhắc giữa việc truyền đạt kiến thức và phát triển cá
nhân vẫn chưa được thực hiện tốt. Hơn nữa, cần có sự thay đổi trong chương trình
học, nội dung giảng dạy, và phương pháp giảng dạy để đáp ứng các yêu cầu mới của
thời đại. Cấu trúc giáo dục cần được điều chỉnh một cách hợp lý để phù hợp với các
lĩnh vực và ngành nghề đào tạo. Chất lượng giáo dục cần được cải thiện để đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển công nghiệp và hiện đại hóa. Cuối cùng, quản lý giáo
dục của nhà nước cũng cần được cải thiện để khắc phục các vấn đề này.

Thứ hai là sự bất hợp lý cơ cấu đầu tư cho giáo dục cũng như cho các bậc học là
chưa tương xứng. Dữ liệu về ngân sách cho giáo dục cho thấy sự chênh lệch đáng kể
giữa các cấp học. Trong tổng số nguồn kinh phí dành cho giáo dục ở Thành phố Hồ
Chí Minh, chỉ có khoảng 30% được phân bổ cho việc đào tạo và giảng dạy, trong đó,
chi phí cho đào tạo ở cấp cao đẳng và đại học chiếm hơn 12% . Tuy nhiên, học sinh
và sinh viên sau khi tốt nghiệp thường gặp hạn chế về khả năng tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành, và khả năng áp dụng kiến thức vào việc giải quyết các vấn đề thực tế.
Họ còn thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết để hội nhập vào xã hội, thích ứng với môi
trường làm việc, và hiểu rõ về ý thức tổ chức và kỷ luật. Tình hình này đánh dấu một
sự bất cân đối trong việc phân bổ nguồn lực cho giáo dục ở các cấp độ khác nhau, và
cũng đề cập đến sự cần thiết của việc cải thiện chất lượng giáo dục để đảm bảo rằng
học sinh và sinh viên được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết cho tương
lai.

23
Thứ ba là những thiếu thốn, khó khăn về cơ sở vật chất cũng như các nội dung về
giáo dục còn thiếu tính thiết thực. Tổng quan về cơ sở vật chất trong ngành giáo dục
cho thấy nhiều hạn chế và sự kém phát triển. Trang thiết bị và phòng thí nghiệm phục
vụ cho quá trình giảng dạy và học tập vẫn thiếu thốn, và tình trạng dạy chay vẫn phổ
biến. Số lượng máy tính cũng còn hạn chế, đặc biệt ở các vùng khó khăn, mà điều này
dẫn đến việc nhiều học sinh không có đủ sách giáo khoa để sử dụng. Điều kiện học
tập và giảng dạy của các trường học vẫn còn kém, chỉ có ít trường học đáp ứng được
chuẩn mực cần thiết cho một môi trường giáo dục. Cơ sở vật chất cần đáp ứng các yêu
cầu về chất lượng giảng dạy vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần được xem xét và đầu tư.
Chương trình giáo dục hiện tại vẫn còn nặng nề và chưa thực sự linh hoạt để phản ánh
yêu cầu của cuộc sống đang thay đổi. Nhiều phần trong chương trình đào tạo đại học
và chuyên nghiệp đã lạc hậu. Phương tiện giảng dạy, thí nghiệm, thực tập và nghiên
cứu còn hạn chế và thường đang trong tình trạng cũ kỹ. Chương trình học, giáo trình,
và phương pháp giảng dạy đang chậm trong việc thực hiện sự đổi mới và hiện đại
hoá. Hơn nữa, việc liên kết của nhà trường với cuộc sống xã hội và nhu cầu của công
việc chưa được đặc biệt quan tâm, và không đảm bảo việc khai thác sáng tạo và phát
triển năng lực thực hành của học sinh và sinh viên. Cuộc thi cử vẫn còn áp lực lớn,
tốn kém và dẫn đến nhiều sai phạm, ví dụ như vụ gian lận trong quá trình chấm thi tại
các kỳ thi tốt nghiệp THPT. Khả năng tổ chức giáo dục trung học cơ sở phổ cập vẫn
chưa ổn định tại nhiều nơi.

Thứ tư là vấn nạn biến chất theo hướng xấu đi đến mức báo động về đạo đức, nhân
cách của thế hệ trẻ. Tình hình tệ nạn xã hội và tội phạm trong đối tượng học sinh và
sinh viên đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng vụ vi phạm và mức độ nghiêm
trọng. Theo thống kê từ công an Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết trong giai đoạn từ
năm 2018 đến quý I/2021 trên địa bàn xảy ra 516 vụ phạm pháp do người dưới 18
tuổi thực hiện, truy bắt được 884 đối tượng. Đáng chú ý, độ tuổi tội phạm dưới 14 tuổi
chiếm 3,62%, đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm 27,26% và dưới 18 tuổi chiếm
69,12%. Trong số 884 người phạm tội thì có tới 553 thiếu niên bỏ học chiếm tỉ lệ
71,44%.Trong danh sách hơn 200 dạng tội phạm hiện nay, học sinh và sinh viên
không tránh khỏi việc phạm vào các loại tội phạm, bao gồm cả tội cướp có thể dẫn
đến bạo lực và thậm chí tội giết người, buôn bán ma túy, và nhiều loại tội phạm

24
nghiêm trọng khác. Đáng chú ý là độ tuổi của những người tham gia vào các hành vi
vi phạm đang trẻ hóa, và một số hành vi trở nên phức tạp và độc ác hơn. Các biểu
hiện thiếu văn hoá không chỉ xuất hiện trong xã hội mà còn diễn ra trong môi trường
học tập và trường học. Tình trạng này không còn là hiện tượng cá biệt mà đã trở nên
phổ biến ở nhiều nơi. Có một số trường học nơi quan hệ thầy trò không lành mạnh,
thậm chí có những hành vi thô bạo và thiếu văn hoá mà trước đây chưa từng thấy.
Văn hoá học đường đang gặp nguy cơ bị tổn thương nghiêm trọng. Tóm lại, hệ thống
giáo dục của chúng ta đã đạt được mục tiêu cơ bản về việc truyền đạt kiến thức,
nhưng chưa đạt yêu cầu về việc giáo dục con người và phát triển kỹ năng nghề nghiệp
một cách đầy đủ. Tình hình tệ nạn xã hội và tội phạm trong cộng đồng học sinh và
sinh viên đang gây ra nhiều lo ngại và đòi hỏi sự quan tâm và giải quyết mạnh mẽ từ
phía hệ thống giáo dục và xã hội.

Thứ năm là sự yếu kém, bất cập trong công việc quản lý giáo dục. Quản lý giáo
dục vẫn đang gặp nhiều khó khăn và đây thường là nguyên nhân chính dẫn đến các
vấn đề khác trong hệ thống giáo dục. Cơ chế quản lý giáo dục thường tiến hành đổi
mới chậm chạp và không thể đáp ứng đủ tốc độ đổi mới trên các lĩnh vực khác trong
đất nước. Đạo đức và năng lực của một số cán bộ quản lý giáo dục vẫn còn thấp, ảnh
hưởng đến khả năng hiệu quả của họ trong việc thực thi nhiệm vụ quản lý. Việc xây
dựng đội ngũ giáo viên cũng vẫn chưa đạt được yêu cầu cần thiết. Đôi khi, họ thiếu sự
nhạy bén trong việc tham mưu với Đảng và các cơ quan quản lý nhà nước về các vấn
đề phức tạp mới nảy sinh. Cơ chế quản lý giáo dục còn thiếu quyết sách đồng bộ và
hợp lý ở tầm vĩ mô để thúc đẩy phát triển giáo dục. Một số chính sách giáo dục còn
chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, và không đạt được sự đồng thuận của xã hội. Tư duy
trong lĩnh vực giáo dục cũng đang chậm trong việc đổi mới, không theo kịp yêu cầu
của sự phát triển và hội nhập quốc tế trong bối cảnh hiện nay. Các tác động tiêu cực
của cơ chế thị trường và những khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt đã tác động
đến sự phát triển của hệ thống giáo dục. Quản lý giáo dục còn yếu kém trong việc xây
dựng thể chế, chỉ đạo điều hành, kiểm tra giám sát, và xử lí vi phạm. Cơ chế quản lý
giáo dục cần được cải thiện để đáp ứng nhu cầu đổi mới và phát triển của đất nước.
Đồng thời, cần tăng cường đạo đức và năng lực của cán bộ quản lý giáo dục. Các cơ
quan quản lý giáo dục cần tương tác một cách hiệu quả hơn và đảm bảo tính đồng

25
thuận trong việc quản lý và đào tạo. Cuối cùng, việc tổ chức khảo thí và kiểm định
chất lượng giáo dục cũng cần được cải thiện để ngăn chặn sự xuất hiện của các sai
phạm.

Cuối cùng là sự thiếu đồng bộ trong đội ngũ giáo viên cũng như phương pháp
giảng dạy chậm đổi mới. Hiện tượng thiếu giáo viên trong một số lĩnh vực và đồng
thời thừa giáo viên trong các lĩnh vực khác đang diễn ra do sự thiếu đồng bộ trong
việc xác định nhu cầu giáo viên. Theo thống kê của Sở GD-ĐT, năm học 2023 - 2024,
TP.HCM có nhu cầu tuyển khoảng 4.000 GV, nhân viên cho các trường công lập từ
mầm non đến THPT. Mỗi quận, huyện tính trung bình cần tuyển từ 200 đến hơn 500
GV, nhân viên trong các trường học. Trong đó, H.Hóc Môn là một trong những địa
phương cần tuyển viên chức ngành giáo dục nhiều nhất. Cụ thể huyện này cần tuyển
543 viên chức bao gồm 484 GV và 59 nhân viên. Bậc THCS có nhu cầu tuyển dụng
cao nhất với 252 nhân sự (221 GV, 31 nhân viên). Q.Tân Phú cũng có nhu cầu tuyển
gần 200 GV, trong đó bậc THCS cần 95 GV, tiểu học cần 71 GV, còn bậc mầm non
cần 10 GV... Còn tại trung tâm TP.HCM, năm học mới, kế hoạch của Phòng GD-ĐT
Q.1 cũng cần tuyển gần 300 GV, trong đó, bậc mầm non cần 86 người (77 GV, 9
nhân viên), tiểu học cần 125 người, THCS cần 57 người. Rất nhiều địa phương hiện
có đủ hoặc thừa tổng biên chế giáo viên, nhưng lại đang gặp thiếu hụt về một số loại
hình giáo viên như giáo viên ngoại ngữ, giáo viên âm nhạc, hoặc giáo viên kỹ thuật.
Sự khan hiếm giáo viên có trình độ cao cấp tại các trường đại học đang ngày càng gia
tăng, và độ tuổi trung bình của giáo viên trong ngành cũng đang tăng lên. Phương
pháp giáo dục và đào tạo vẫn tiếp tục theo kiểu hàn lâm, tập trung nhiều vào lý thuyết
hơn là thực hành. Đào tạo thường theo kiểu "đổ kiến thức vào đầu" mà thiếu sự tập
trung vào việc phát triển năng lực của học sinh và sinh viên. Hiện nay, hệ thống giáo
dục vẫn chưa đặc biệt chú trọng vào việc giúp học sinh và sinh viên phát triển khả
năng tự học, tư duy, và khả năng thích ứng với cuộc sống. Trong bối cảnh công
nghiệp hoá và hiện đại hoá, giáo dục không nên chỉ tập trung vào việc chất lượng
lượng kiến thức mà còn cần tạo điều kiện để học sinh và sinh viên phát triển khả năng
tư duy, sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh chóng trong mọi tình huống. Họ cần
được rèn luyện để tự khẳng định bản thân, hình thành thói quen tự học, và sẵn sàng
đối mặt với những thách thức và khó khăn trong cuộc sống. Giáo dục cũng cần thúc

26
đẩy sự phát triển của tinh thần trách nhiệm và ý thức về vai trò của mình đối với gia
đình và xã hội, nhằm đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng và lành mạnh của xã
hội.

2.2.2.2 Nguyên nhân

Đầu tiên là sự thiếu sót về chất lượng và hiệu quả giáo dục ở thành phố Hồ Chí
Minh có nguyên nhân từ một loạt yếu tố. Hệ thống giáo dục còn kém hiện đại và
chương trình học thường ươn hơn trong việc khuyến khích tư duy sáng tạo và phát
triển kỹ năng mềm. Sự đầu tư và phát triển hạ tầng giáo dục cũng còn hạn chế. Giáo
viên và giảng viên thiếu sự đào tạo và hỗ trợ đầy đủ. Sự bất đồng về chất lượng giáo
dục giữa các vùng dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận kiến thức. Áp lực thi
cử cao đã thúc đẩy học thuộc lòng thay vì hiểu biết sâu. Cùng với đó, thiếu kết nối với
thị trường lao động và thiếu sự phản hồi và đánh giá chất lượng cũng đóng góp vào
tình trạng yếu kém này.

Thứ hai là sự bất hợp lý trong cơ cấu đầu tư cho giáo dục có nhiều nguyên nhân
chính. Một trong những yếu tố chính là sự phân bố không đồng đều của nguồn lực
giữa các cấp học, khu vực và ngành học. Hơn nữa, một phần của nguồn đầu tư vào
giáo dục vẫn bị tiêu pha không hiệu quả do thiếu quản lý và kiểm soát chặt chẽ. Sự
lãng phí và thất thoát nguồn lực trong quá trình quản lý và thực hiện các dự án giáo
dục cũng đóng góp vào sự không bất hợp lý trong cơ cấu đầu tư. Ngoài ra, sự thiếu
kết nối giữa giáo dục và thị trường lao động cũng là một nguyên nhân khác. Điều này
dẫn đến việc đào tạo không phù hợp với nhu cầu thực tế của công việc, gây ra tình
trạng thất nghiệp sau khi tốt nghiệp.

Thứ ba là thiếu thốn về cơ sở vật chất của trường học tại những quận huyện rìa
thành phố có nguyên nhân chính từ việc đầu tư thiếu ưu tiên vào lĩnh vực giáo dục.
Không đủ ngân sách được cấp cho giáo dục dẫn đến việc xây dựng, bảo trì và nâng
cấp cơ sở vật chất trường học gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự chênh lệch phát
triển giữa các quận, huyện cũng đóng góp vào tình trạng này. Các trường ở các quận
trung tâm thường được đầu tư và trang bị tốt hơn so với các trường ở rìa thành phố.
Thất thoát và lãng phí nguồn lực trong quá trình xây dựng và quản lý cơ sở vật chất
của trường học cũng góp phần vào tình trạng này. Điều này thể hiện qua việc quản lý

27
kém hiệu quả và thiếu kỹ năng nguồn nhân lực trong việc bảo trì và bảo dưỡng trường
học.

Thứ tư là sự biến chất đạo đức và nhân cách của thế hệ trẻ tại Việt Nam nói chung,
nhất là thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có rất nhiều nguyên nhân phức tạp. Một
phần là do áp lực xã hội và gia đình khiến cho họ tập trung quá nhiều vào thành tích
học tập và sự nghiệp, bỏ qua giáo dục về đạo đức và nhân cách. Mất đi giá trị truyền
thống và đạo đức trong bối cảnh toàn cầu hoá cũng góp phần vào tình trạng này. Sự
ảnh hưởng của phương tiện truyền thông và công nghệ có thể dẫn đến tiêu thụ thông
tin tiêu cực và lạm dụng công nghệ, khiến họ thiếu khả năng tư duy độc lập. Áp lực từ
hệ thống giáo dục và sự thiếu quan tâm đúng mức đối với việc giáo dục đạo đức cũng
góp phần vào tình trạng này. Để giải quyết vấn đề này, cần có sự hợp tác từ nhiều
phía và tạo ra môi trường thúc đẩy giá trị đạo đức và nhân cách trong xã hội và giáo
dục.

Thứ năm là sự yếu kém và bất cập trong công việc quản lý giáo dục có nguyên
nhân chính từ thiếu đầu tư và nguồn lực hạn chế, sự quản lý và điều hành không hiệu
quả, đánh giá và giám sát không đủ chặt chẽ, chênh lệch giữa các khu vực và cấp học,
cùng với thách thức thay đổi mô hình giáo dục. Để cải thiện tình trạng này, cần tập
trung vào việc đầu tư đúng mức và hiệu quả, đào tạo nguồn nhân lực quản lý giáo dục,
tăng cường giám sát chất lượng, và thúc đẩy sự cộng tác giữa các cấp học và khu vực
để đảm bảo tính bình đẳng và chất lượng trong hệ thống giáo dục.

Thứ sáu là sự thiếu đồng bộ trong đội ngũ giáo viên cũng như tốc độ chậm đổi mới
trong phương pháp giảng dạy tại Việt Nam cũng như là chính thành phố Hồ Chí Minh có
nguyên nhân từ một số yếu tố chính. Trước hết, hệ thống đào tạo giáo viên có thể không
cung cấp đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết để thúc đẩy sự đổi mới trong giảng dạy.
Sự thiếu hụt trong việc cập nhật kiến thức và công nghệ mới có thể làm cho giáo viên
cảm thấy không tự tin trong việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến. Thứ hai,
sự thiếu đồng bộ có thể bắt nguồn từ sự thiếu kết nối và chia sẻ thông tin giữa các giáo
viên và trường học. Điều này có thể do thiếu hệ thống hóa trong việc đào tạo giáo viên và
cung cấp cơ hội cho họ để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Ngoài ra, áp lực từ
các kỳ thi quốc gia và chương trình học cố định có thể làm cho giáo viên dựa vào phương

28
pháp giảng dạy truyền thống để đảm bảo rằng học sinh đạt được điểm cao. Điều này gây
ra sự chậm trễ trong việc thay đổi phương pháp giảng dạy và thích nghi với những thay
đổi trong giáo dục.

2.3. Giải pháp

Giải pháp của nhóm: Phát triển chất lượng giáo viên và thay đổi phương pháp
giảng dạy , truyền đạt kiến thức

Lý do nhóm chọn giải pháp này là vì tình hình hiện nay, các giáo viên quá tập
trung vào thành tích và rập khuôn, không tạo điều kiện cho học sinh phát triển khả
năng tư duy, sáng tạo cũng như kích thích sự ham học của các em. Phương pháp dạy
học rập khuôn dẫn đến học sinh mau chán, không thích thú, không có sự thu hút với
khả năng chú ý hoặc không kích thích được tính tò mò của học sinh với nội dung bài
học. Bên cạnh đó, một vài giáo viên chưa đạt được kinh nghiệm cũng như hiểu biết
chuyên sâu đủ để đảm bảo chất lượng dạy học.

Thuận lợi của phát triển chất lượng giáo viên và thay đổi phương pháp giảng dạy:

Nâng cao chất lượng giảng dạy: Khi giáo viên được đào tạo và hỗ trợ đầy đủ, họ
có khả năng cung cấp một trải nghiệm học tập chất lượng cao cho học sinh. Điều này
bao gồm việc áp dụng các phương pháp giảng dạy hiệu quả, tạo ra môi trường học tập
tích cực và khuyến khích sự tương tác và tham gia của học sinh.
Khuyến khích tư duy sáng tạo: Phát triển chất lượng giáo viên và phương pháp
giảng dạy cũng tạo điều kiện để khuyến khích tư duy sáng tạo của giáo viên và học
sinh. Giáo viên được trang bị các phương pháp và công cụ để khám phá và khuyến
khích sự sáng tạo trong việc thiết kế bài giảng và hoạt động học tập. Điều này có thể
tạo ra một môi trường học tập kích thích và động lực cho học sinh.
Nâng cao hiệu suất học tập: Giáo viên có vai trò quan trọng trong việc tạo điều
kiện thuận lợi để học sinh tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất. Khi giáo viên được
đào tạo và hỗ trợ tốt, họ có khả năng áp dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp và
tạo ra môi trường học tập tích cực.
Khó khăn của vấn đề:

29
Đầu tư tài chính: Để phát triển chất lượng giáo viên và phương pháp giảng dạy,
cần có đầu tư tài chính đáng kể. Điều này bao gồm việc cung cấp đào tạo chuyên sâu
cho giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất giáo dục và cung cấp tài liệu và công cụ học
tập phù hợp. Việc tài trợ và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động này có thể là một
thách thức với ngân sách giáo dục hạn chế.
Thay đổi quan niệm và thái độ: Để thực hiện thành công phát triển chất lượng giáo
viên và phương pháp giảng dạy, cần có sự thay đổi quan niệm và thái độ của các bên
liên quan, bao gồm giáo viên, nhà trường, quản lý giáo dục và cả phụ huynh. Đôi khi,
việc thay đổi quan niệm và thái độ này có thể gặp khó khăn do sự kháng cự hoặc thiếu
thông tin đầy đủ về lợi ích của phát triển chất lượng giáo viên và phương pháp giảng
dạy mới.
Động lực và sự cam kết: Để đạt được sự phát triển chất lượng giáo viên và phương
pháp giảng dạy, cần có sự động lực và cam kết từ tất cả các bên liên quan. Điều này
có thể đòi hỏi thay đổi trong quy trình tuyển dụng, đánh giá và thăng tiến giáo viên,
cũng như hỗ trợ và đào tạo liên tục. Sự cam kết và động lực này có thể không dễ dàng
đạt được và đòi hỏi sự thay đổi và nỗ lực liên tục từ tất cả các bên.
Đánh giá hiệu quả: Để đảm bảo rằng phát triển chất lượng giáo viên và phương
pháp giảng dạy đạt được kết quả, cần có hệ thống đánh giá hiệu quả. Điều này đòi hỏi
một quy trình đánh giá toàn diện và khách quan để đo lường sự tiến bộ và hiệu quả
của các biện pháp phát triển. Tuy nhiên, đánh giá có thể gặp khó khăn khi đo lường
các yếu tố không hợp lý hoặc khi không có các tiêu chuẩn chung và rõ ràng để đánh
giá.
Lên kế hoạch thực hiện giải pháp thông qua các bước:
Đánh giá nhu cầu và mục tiêu: Xác định những nhu cầu và mục tiêu cụ thể mà bạn
muốn đạt được trong việc phát triển chất lượng giáo viên và thay đổi phương pháp
truyền đạt. Điều này có thể bao gồm cải thiện khả năng truyền đạt kiến thức, thúc đẩy
sự tư duy sáng tạo của giáo viên, tăng cường kỹ năng quản lý lớp học, và tạo môi
trường học tập tích cực.
Đào tạo và phát triển chuyên môn: Tạo ra các chương trình đào tạo và phát triển
chuyên môn để giáo viên có thể nắm bắt các phương pháp giảng dạy hiện đại và áp
dụng chúng trong lớp học. Điều này có thể bao gồm các khóa học, hội thảo, buổi tập

30
huấn, và việc tham gia vào cộng đồng giáo dục để chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi từ
những người đồng nghiệp.
Hỗ trợ cá nhân và phản hồi: Cung cấp hỗ trợ cá nhân cho giáo viên bằng cách
cung cấp phản hồi xây dựng và định hướng cá nhân. Điều này có thể bao gồm việc
quan sát lớp học, họp cá nhân, hoặc hỗ trợ từ các người đồng nghiệp hoặc nhà quản
lý. Hỗ trợ cá nhân giúp giáo viên nhận biết điểm mạnh và điểm cần cải thiện của mình
và phát triển kỹ năng giảng dạy một cách tự tin và hiệu quả hơn.
Khuyến khích sự nghiên cứu và sáng tạo: Tạo ra môi trường khuyến khích giáo
viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu và sáng tạo. Điều này có thể bao gồm việc
khuyến khích giáo viên tham gia vào các dự án nghiên cứu, thực hiện các hoạt động
nghiên cứu hành động trong lớp học, và chia sẻ kết quả nghiên cứu và ý tưởng sáng
tạo với cộng đồng giáo viên.
Tạo môi trường học tập tích cực: Xây dựng một môi trường học tập tích cực trong
trường học bằng cách khuyến khích sự tương tác và tham gia của học sinh. Sử dụng
các phương pháp giảng dạy tương tác, hoạt động nhóm, thảo luận, và dự án thực tế để
khuyến khích học sinh tham gia và phát triển kỹ năng học tập.
Đánh giá và đổi mới: Thực hiện quá trình đánh giá thường xuyên về chất lượng
giảng dạy và hiệu quả của phương pháp truyền đạt. Dựa trên kết quả đánh giá, điều
chỉnh và cải tiến các chương trình đào tạo và phát triển chuyên môn, cũng như thay
đổi các phương pháp truyền đạt để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh một cách tốt
nhất.
Liên kết và chia sẻ: Xây dựng mạng lưới liên kết giữa các giáo viên và các tổ chức
giáo dục khác để chia sẻ kinh nghiệm, ý tưởng và tài liệu giảng dạy. Các giáo viên có
thể học hỏi từ những người đồng nghiệp và áp dụng những phương pháp mới vào
công việc của mình.
Tạo động lực: Tạo ra những động lực và phần thưởng để khích lệ giáo viên tiếp
tục phát triển chất lượng và áp dụng những thay đổi trong phương pháp truyền đạt.
Điều này có thể bao gồm việc tạo ra các chương trình khuyến khích và thưởng cho
những giáo viên xuất sắc và những thành tựu đáng chú ý trong việc cải thiện chất
lượng giảng dạy.

31
Theo dõi và đánh giá: Thực hiện việc theo dõi và đánh giá định kỳ để đo lường
hiệu quả của giải pháp phát triển chất lượng giáo viên và thay đổi phương pháp truyền
đạt. Dựa trên kết quả đánh giá, điều chỉnh và cải thiện các hoạt động phát triển chất
lượng giáo viên trong tương lai.

KẾT LUẬN
Văn hóa giáo dục là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của
mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của một quốc gia, là nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước, nó liên quan đến nhiều
lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội của nước ta đang diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp,
nhiều cơ hội những cũng không ít thách thức, tính cạnh tranh ngày càng căng thẳng
giữa các quốc gia, có thể nói “ giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,
tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”, quốc gia nào càng mạnh về đội ngũ
nhân lực, càng tiên tiến về khoa học công nghệ thì càng dễ dàng phát triển. Ngược lại
sẽ dễ dẫn đến nguy cơ tụt hậu. Trong bối cảnh đó, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng trên cơ sở đánh giá toàn diện, sâu sắc tình hình trong và ngoài nước, những
thành tựu, hạn chế trong phát triển giáo dục, đào tạo thời gian qua, Đảng ta đã xác
định để phát triển đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, yếu tố có vai trò hết sức quan
trọng là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, coi phát triển giáo dục – đào tạo là

32
ưu tiên hàng đầu. Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối phát triển giáo dục, đào tạo với
những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cụ thể. Từ năm 2016 đến nay, đối với hệ
công lập, ngành giáo dục và đào tạo thành phố đã xây dựng thêm 54 trường mới, hoàn
thành và đưa vào sử dụng 3.248 phòng học, đã đáp ứng phần lớn nhu cầu về học tập
cho học sinh trên địa bàn thành phố. Và trong giai đoạn 2021 đến năm 2022, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.355 trường học, với 1.347 trường
công lập và 1.008 trường ngoài công lập. Về giáo dục tiểu học thì tất cả các quận
huyện trên địa bàn đều được phổ cập với chất lượng mức độ 3. Bên cạnh đó thì phổ
cập giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông đã được phổ biến vô cùng rộng rãi
với chất lượng mức độ 2 và 3. Chương trình giáo dục phổ thông mới đã được ban
hành và đẩy mạnh triển khai. Đây cũng là lần đầu trong lịch sử của ngành giáo dục
Việt Nam nước ta được chủ trương cải cách. Chất lượng giáo dục phổ thông ở Thành
phố đã được nâng cao cả về quy mô rộng và các khía cạnh cụ thể, và đã nhận được sự
công nhận và đánh giá cao từ cộng đồng quốc tế. Thành tựu của học sinh Việt Nam
trong các kỳ thi Olympic cũng đã có sự tiến bộ đáng kể. Về chất lượng đào tạo
chương trình đại học có nhiều biến chuyển tích cực cùng với đó là các trường đại học
đẩy mạnh chính sách tự chủ. Đại học Quốc gia TP.HCM ghi tên mình đậm nét trên
bản đồ giáo dục của khu vực Đông Nam Á và thế giới. Và cuối cùng, việc ứng dụng
công nghệ thông tin và đẩy mạnh chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục, đặc biệt là
giai đoạn dịch bệnh. Lần đầu tiên, Việt Nam cũng như là thành phố Hồ Chí Minh đã
triển khai hình thức dạy học trực tuyến thông qua Internet và truyền hình trên quy mô
toàn quốc. Sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo
dục ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế và bất cập. Đầu tiên là sự yếu
kém về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Chung quan điểm về tình hình giáo dục cho
thấy nhiều vấn đề cần cải thiện. Sự bất hợp lý cơ cấu đầu tư cho giáo dục cũng như
cho các bậc học là chưa tương xứng. Dữ liệu về ngân sách cho giáo dục cho thấy sự
chênh lệch đáng kể giữa các cấp học. những thiếu thốn, khó khăn về cơ sở vật chất
cũng như các nội dung về giáo dục còn thiếu tính thiết thực. Tổng quan về cơ sở vật
chất trong ngành giáo dục cho thấy nhiều hạn chế và sự kém phát triển. Vấn nạn biến
chất theo hướng xấu đi đến mức báo động về đạo đức, nhân cách của thế hệ trẻ. Tình
hình tệ nạn xã hội và tội phạm trong đối tượng học sinh và sinh viên đang có xu

33
hướng gia tăng cả về số lượng vụ vi phạm và mức độ nghiêm trọng. Quản lý giáo dục
vẫn đang gặp nhiều khó khăn và đây thường là nguyên nhân chính dẫn đến các vấn đề
khác trong hệ thống giáo dục. Cuối cùng là sự thiếu đồng bộ trong đội ngũ giáo viên
cũng như phương pháp giảng dạy chậm đổi mới. Nhìn chung, bài nghiên cứu này đã
đào sâu và phân tích các nguyên nhân để tạo nên những thành tựu cũng như những
nguyên nhân tạo ra những hạn chế, để từ đó đề ra một số giải pháp phù hợp nhất. Bài
nghiên cứu này còn có thể được xem là một dấu phẩy để nối tiếp thêm nhiều nghiên
cứu hơn nữa về các vấn đề đang còn bỏ lỡ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Trần Hồng Quân - “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 - 1995)”
- Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr.310.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam - “Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. 2014.

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương, khóa VIII” - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V”, tập 1,
Nxb. Sự thật, H.1982, tr. 93-94.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Văn kiện Đảng toàn tập”, tập 67, Sđd, tr 793-794.

[6]. Phạm Mỹ Phượng (2021) – “Quan điểm của ĐCSVN về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người hiện nay” - https://tuyengiaotiengiang.vn/van-hoa-van-nghe/Quan-diem-
cua-DCSVN-ve-xay-dung-va-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-hien-nay-3293.html.

34
[8]. Ngân Anh (2021) – “Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nêu 9 thành tựu và 5 hạn chế của
ngành giáo dục” - https://vietnamnet.vn/bo-truong-phung-xuan-nha-neu-9-thanh-tuu-va-
5-han-che-cua-nganh-giao-duc-708724.html.

[9]. Mai Nguyễn (2015) – “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách của con người
và xây dựng con người để phát triển văn hóa” -
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/31643/
phat-trien-van-hoa-vi-su-hoan-thien-nhan-cach-cua-con-nguoi-va-xay-dung-con-nguoi-
de-phat-trien-van-hoa.aspx#.

[10]. Thu Tâm (2023) – “TPHCM: Phát triển mô hình giáo dục chất lượng cao nhưng
vẫn đảm bảo công bằng và quyền lợi học sinh” - TPHCM: Phát triển mô hình giáo dục
chất lượng cao nhưng vẫn đảm bảo công bằng và quyền lợi học sinh (ttbc-hcm.gov.vn).

[11]. Trần Huỳnh (2022) - “Năm 2023 Đại học Quốc gia TP.HCM chuyển đổi số toàn hệ
thống” - https://tuoitre.vn/nam-2023-dai-hoc-quoc-gia-tp-hcm-chuyen-doi-so-toan-he-
thong-20221222145915098.htm

[12]. Minh Hiệp (2021) -“TPHCM đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5
tuổi” - https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/tphcm-dat-tieu-chuan-pho-cap-giao-duc-mam-non-
cho-tre-5-tuoi-1491882757

[13]. Việt Dũng (2022) - “5 năm qua, TP.HCM thành lập mới 30 trường NCL với số tiền
khoảng 440 tỷ đồng” - https://giaoduc.net.vn/5-nam-qua-tphcm-thanh-lap-moi-30-
truong-ncl-voi-so-tien-khoang-440-ty-dong-post229114.gd

[14]. Bích Thanh (2023) – “Thiếu giáo viên kéo dài: TP.HCM tìm giải pháp” -
https://thanhnien.vn/thieu-giao-vien-keo-dai-tphcm-tim-giai-phap-
185230618123726651.htm.

35
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM 07


Buổi làm việc thứ: 01
Địa điểm làm việc: Google meet
Từ 20 giờ 30 phút đến 21 giờ 00 phút , ngày 03 tháng 09 năm 2023.........................
Nội dung công việc: Tiến hành quay vòng quay random để chọn nhóm trưởng. Sau
đó, nhóm trưởng phân công công việc và deadline cho từng thành viên. Giải đáp
thắc mắc cho mỗi thành viên. Kết thúc meet.
Buổi làm việc thứ: 02
Địa điểm làm việc: Nhóm zalo
Từ 7 giờ đến 14 giờ, ngày 18 tháng 09 năm 2023......................................................
Nội dung công việc: Các thành viên nhóm nộp các file theo deadline đã được giao
làm lên nhóm zalo để xem xét và chỉnh sửa. Sau khi chỉnh sửa chỉnh chu, nhóm
nộp bài tập lớn bản nháp lên bkel.

36
Buổi làm việc thứ: 03
Từ 7 giờ, ngày 14 tháng 10 năm 2023........................................................................
Địa điểm làm việc: Google meet
Nội dung công việc: Phân công công việc để thực hiện phần bài thuyết trình. Kết
thúc meet.
Buổi làm việc thứ: 04..................................................................................................
Địa điểm làm việc: Nhóm zalo...................................................................................
Từ 18 giờ, ngày 21 tháng 10 năm 2023......................................................................
Nội dung công việc: Các thành viên nhóm trao đổi, chỉnh sửa lần cuối các phần
công việc được giao và nộp lại cho bạn tổng hợp. Cuối cùng là đưa cho nhóm
trưởng xem lại, chỉnh sửa và tiến hành nộp bài tập lớn chính thức lên bkel.

37

You might also like