You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC

BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ:07

TIỂU LUẬN MÔN

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tên đề tài: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta ( bổ sung và phát triển năm 2011 ) và mục tiêu: phát huy tối
đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và
là mục tiêu của sự phát triển. Liên hệ trách nhiệm bản than.

Họ và tên: Nguyễn Văn Hạnh

Mã sinh viên: 19810310421

Lớp: D14CNPM6

1
Hà Nội, 01/2021

2
MỤC LỤC

A.MỞ ĐẦU............................................................................................................... 3
B.NỘI DUNG............................................................................................................5
I.Bối cảnh nước ta trong thời kỳ quá độ..........................................................................5
II. Nội dung cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011 )............................................6
2.1. Quá trình cách mạng và những đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội
2.2 Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra mục tiêu tổng quát và những phương hướng chủ yếu
trong thời kì quá độ.
2.3. Một số điểm mới của cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011)

III. Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển...............7
3.1. Vai trò của nhân tố con người trong thời kỳ hội nhập...........................................7
3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy tối đa nguồn lực con người...............................8
3.3 Liên hệ trách nhiệm bản thân................................................................................9
C. KẾT LUẬN............................................................................................... 11
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO... ..........................................................................12

3
MỞ ĐẦU

Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) và
Cương lĩnh bổ sung phát triển năm 2011 ( gọi là Cương lĩnh 2011). Hai bản cương lĩnh đã
phân tích nội dung, tính chất của thời đại, tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, bổ sung
kế thừa và phát triển những quan điểm cơ bản trước đó của Đảng để nêu ra quan niệm mới
về chủ nghĩa xã hội, chỉ ra mục tiêu và những định hướng lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Đây là hai văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến lược, là nền tảng tư tưởng
lý luận và ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta, dân tộc ta trong giai đoạn mới. Sau gần 20 năm
thực hiện Cương lĩnh, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi hẳn bộ mặt và vị thế của
đất nước. Những thành tựu đó khẳng định giá trị to lớn và sức sống mãnh liệt của Cương
lĩnh năm 1991, đồng thời cho chúng ta thêm nhiều bài học quý để tiếp tục đưa sự nghiệp
cách mạng tiến lên. Tuy nhiên, ngay từ thời điểm ban hành Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta
đã chỉ rõ: “Lúc này chúng ta chưa có đủ cơ sở để vẽ ra toàn bộ bức tranh của xã hội tương
lai một cách hoàn chỉnh. chúng ta có thể vạch ra những nguyên tắc, phương hướng lớn cho
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Sau này khi thực tiễn bộc lộ những vấn đề
mới, qua tổng kết, Cương lĩnh sẽ không ngừng được bổ sung và hoàn chỉnh từng bước” Vì
vậy Cương lĩnh 2011 đã bổ sung thêm về chế độ CNXH Thực tế, từ mục tiêu, nhiệm vụ đến
phương hướng, giải pháp để từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; từ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị,… ở
những mức độ khác nhau đều có sự bổ sung, phát triển về nhận thức. Trong khuôn khổ của
bài viết này, chỉ xin nêu tóm tắt một số luận điểm và nội dung cốt lõi nhất

4
NỘI DUNG

I.Bối Cảnh nước ta trong thời kì quá độ


Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn khẳng
định, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội
là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh năm
1991, sau khi phân tích bối cảnh của tình hình thế giới và trong nước, đã nhận định: “Chủ
nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những
bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy
luật tiến hóa của lịch sử”. Vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, mặc dù trên thế
giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, phe xã hội chủ nghĩa không còn,
phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó
khăn, nhưng Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà
Đảng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật
chung vừa phù hợp với điều kiện, đặc điểm cụ thể của nước ta. Trong những năm tiến hành
công cuộc đổi mới,
II.Nội dung cương lĩnh ( bổ sung và phát triển năm 2011 )
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu đổi mới từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là
Cương lĩnh năm 1991). Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến lược.
2.1. Quá trình cách mạng và những đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh đã tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, phân tích hoàn cảnh quốc tế có
những biến đổi to lớn: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội
đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc; bên cạnh đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân
không còn nắm vai trò lãnh đạo. Bối cảnh quốc tế đó, vừa tạo cơ hội; vừa có nhiều thách
thức đã ảnh hưởng đến Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây
dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thuận
lợi, cơ hội phát triển và nhiều khó khăn, thách thức, cản trở.

5
Kế thừa và phát triển những quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh năm 1991 đã nêu ra một số dấu hiệu đặc trưng, cơ bản
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội:
        - Do nhân dân lao động làm chủ.
        - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
       - Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
       - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân.
      - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
      - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân với tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan
trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng
những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.2. Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra mục tiêu tổng quát và những phương hướng chủ
yếu trong thời kỳ quá độ
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng,
văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng
thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
Một số phương hướng phát triển:
Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã
hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, với sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế
giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội.

6
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính
sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn
luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm
nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt
Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 bước đầu đã vẽ ra toàn
bộ bức tranh của xã hội tương lai, mặc dù chưa hoàn chỉnh, nhưng Đảng ta đã vạch ra những
nguyên tắc, phương hướng lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá độ là
một thời kỳ lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ và thách thức to lớn, những quan điểm, định
hướng phát triển cần được tiếp tục hoàn thiện từ thực tiễn. Cương lĩnh sẽ không ngừng được
bổ sung và hoàn chỉnh từng bước phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
2.3 Một số điểm mới của cương lĩnh ( bổ sung và phát triển năm 2011)
- Về quá trình cách mạng Việt Nam
Cương lĩnh năm 2011 nêu khái quát những thắng lợi vĩ đại đã đạt được trong hơn
80 năm qua (1930 – 2010), khẳng định những thắng lợi vĩ đại và những thành quả từ
thắng lợi vĩ đại đó mang lại.
- Về những bài học kinh nghiệm lớn
Cương lĩnh năm 2011 cơ bản giữ nguyên 5 bài học như Cương lĩnh năm 1991,
có một số bổ sung, phát triển:
Bổ sung vấn đề “tham nhũng” vào nội dung bài học thứ hai “Quan liêu, tham nhũng, xa
rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế
độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. (Nghị quyết Trung ương 3 khoá XI đã xác định đây là
một nội dung trong ba vấn đề cấp bách hiện nay).
Bổ sung từ “quyết định” cho đúng với thực tế ở bài học thứ năm: “sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” chứ không chỉ
là “nhân tố hàng đầu bảo đảm” như trong Cương lĩnh năm 1991.

- Về bối cảnh quốc tế: Đây là nội dung có nhiều điểm bổ sung, phát triển mới, do bối
cảnh thế giới đã thay đổi so với thời điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Kế thừa
những dự báo về tình hình thế giới từ Đại hội Đảng khóa X đã được thực tế khẳng định tính

7
đúng đắn của các dự báo đó, Cương lĩnh năm 2011 viết gọn hơn theo hướng không đi sâu
vào những vấn đề thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta, nhất là những vấn đề còn
có ý kiến khác nhau. Với tinh thần đó, Cương lĩnh năm 2011đã đưa ra 6 nhận định tình hình
thế giới và dự báo trong vài thập kỷ tới:
Một, về đặc điểm, xu thế chung: Cương lĩnh năm 2011 nhận định: Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động
sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới
những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp,
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh
quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp.
Hai, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa xã hội: Cương lĩnh năm 2011 đưa ra ba nhận
định rất cơ bản: Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình
và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất lớn đối với
phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong
đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được
những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có
những bước hồi phục.
Các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp
nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Ba, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa tư bản: Cương lĩnh năm 1991 nhận định “Trước
mắt, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển kinh tế”. Thực tế 2 thập kỷ qua và dự báo tới
đây chủ nghĩa tư bản không chỉ còn tiềm năng phát triển kinh tế, mà đang phát triển và phát
triển không chỉ về kinh tế, mà còn phát triển các lĩnh vực khác, như giáo dục, đào tạo, khoa
học, công nghệ, quốc phòng, an ninh và có những điều chỉnh cả về xã hội, nhưng bản chất
của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Do đó, Cương lĩnh năm 2011 đã nhận định, đánh giá
đúng mức hơn về chủ nghĩa tư bản: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”. Cương lĩnh năm 2011 bổ
sung nhận định “khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận
động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định
vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”.
Bốn, nhận định về các nước đang phát triển, kém phát triển: Cương lĩnh năm 2011 viết
theo hướng chặt chẽ hơn, chính xác hơn với tình hình thực tế: “Các nước đang phát triển,
kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc

8
hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân
tộc”.
Năm, nhận định về những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài người:
Kế thừa Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung hai vấn đề toàn cầu cấp
bách có liên quan đến vận mệnh loài người là “chống khủng bố” và “ứng phó với biến đổi
khí hậu toàn cầu”, thay đổi từ “bệnh tật” thành từ “dịch bệnh”.
Sáu, nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại: Cương
lĩnh năm 2011 xác định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là
các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác
vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội
dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật
tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. (Cương lĩnh
năm 1991 xác định: Loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó
là quy luật tiến hoá của lịch sử).
- Về mục tiêu tổng quát. Cương lĩnh năm 2011 đã nêu khái khát hơn các đặc trưng của
xã hội XHCN. Cụ thể: Bổ sung thêm 2 đặc trưng “dân chủ, công bằng” vào mục tiêu tổng
quát là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điểm mới của Cương lĩnh
năm 2011 so với văn kiện Đại hội Đảng khóa X là chuyển từ “dân chủ" lên trước từ “công
bằng” trong mục tiêu tổng quát. Bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều
kiện, tiền đề của công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã
hội dân chủ theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Điều chỉnh một số cụm từ trong đặc trưng của xã hội XHCN cho đúng thực tế như “do
nhân dân làm chủ” thay thế cho “do nhân dân lao động làm chủ”; bổ sung cụm từ “quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp” thay thế cho “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”; bổ
sung từ “pháp quyền” vào sau từ “nhà nước”, thêm nội dung “do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
vào sau cụm từ “nhà nước pháp quyền”.
Như vậy, Cương lĩnh năm 2011 đã nêu: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới."
Tóm lại, hiện nay, khi đánh giá thành tựu 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm1991,

9
đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển  năm 2011), Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tháng 01 năm 2021 đã tiếp tục khẳng định:“đường lối đổi mới
của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo.”
Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cơ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trên đây là một số nội dung nghiên cứu lý luận nhằm nắm rõ, hiểu đúng những thắng
lợi vĩ đại và những thành quả cách mạng to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta, nhân dân
ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được. Thành quả cách mạng đổi mới đó
đã góp phần củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, nâng cao nhận thức lý luận, quyết tâm cách mạng, phấn đấu đến năm 2045 Việt Nam
trở thành nước phát triển, thu nhập cao, tạo tiền đề vật đưa đất nước ta vững bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội./.

III.Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển
3.1 Vai trò của nhân tố con người trong thời kỳ hội nhập
Dưới góc độ quản lý nhà nước thì giữa thuật ngữ “nguồn lực con người” và “nguồn
nhân lực” có ý nghĩa tương đồng. Định nghĩa về nguồn nhân lực, theo Liên Hợp quốc:
“Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo
của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”; quan điểm của
Nicholas Henry cho rằng: “Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với
quy mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình
phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực, thế giới”;
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cũng cho rằng: “Nguồn nhân lực là lực lượng lao động, là
tổng thể các tiềm năng lao động của con người, của một quốc gia đã được chuẩn bị ở một
mức độ nhất định, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước” v.v..

Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ
xuất hiện một liên hợp, trong đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người” (1). Sau này, C.Mác tiếp tục khẳng định: “sự phát triển của
xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo
nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người” và “...trong tính hiện thực của nó bản chất
con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (2). Điều này có nghĩa là, nguồn lực con
người là điều kiện tiên quyết cho sự thành, bại của một quốc gia. Vấn đề là, xây dựng và
phát huy nguồn lực con người như thế nào. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “vô
luận việc gì cũng đều do con người làm ra...” Con người và công việc đối với con người

10
được coi là quốc sách hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh và được Người căn dặn trong
Di chúc viết tay tháng 5-1968 rằng: “Đầu tiên là công việc đối với con người”(3). Từ “con
người” được Bác gạch chân bằng bút màu đỏ và đây cũng là vấn đề được Người viết dài
nhất, gần 2 trang trong 4 trang của bản di chúc viết tay năm 1968.

Theo các chuyên gia kinh tế thế giới, có 3 nguồn lực chính để tạo nên sự phát triển của
một quốc gia, đó là: nguồn lực thiên nhiên chiếm 15%, nguồn lực sản xuất chiếm 15% và
nguồn lực con người chiếm tới 70%. Điều này đã được chứng minh ở nhiều quốc gia phát
triển trên thế giới. Thí dụ, Nhật Bản là một nước không có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi
dào, chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, tuy nhiên dưới triều đại Hoàng đế Mutsuhito - thời
kỳ Minh Trị, ông đã có câu nói rất nổi tiếng: “Nhật Bản muốn đi lên và phát triển không có
con đường nào khác ngoài con đường đầu tư cho phát triển giáo dục con người”. Dưới sự
dẫn dắt của Thiên hoàng Minh Trị, người Nhật Bản đã tiến hành những cải cách bảo đảm
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, ông xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng một
xã hội Nhật Bản tập trung và có tổ chức đầu tiên sau nhiều thế kỷ. Trong giáo dục, Nhật Bản
giảm sự tập trung vào khía cạnh văn hóa và thiên nhiên mà chú trọng về toán học và khoa
học. Điều này đã sản sinh ra nhiều nhà khoa học, nhà kinh doanh giỏi, có óc chiến lược, đưa
Nhật Bản trở thành một siêu cường về kinh tế. Mỹ - cường quốc kinh tế số một thế giới, với
phương châm coi nguồn lực con người là trung tâm của mọi sự phát triển, đã đưa ra chiến
lược xây dựng nguồn nhân lực với hai hướng chính là tập trung cho đầu tư giáo dục - đào tạo
và thu hút nhân tài. Còn đối với Singapore, một trong những chính sách quan trọng nhất của
Chính phủ nước này là chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực lao
động chất lượng cao để từ đó đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững.

3.2 Một số giải pháp nhằm phát huy tối đa nguồn lực con người
Để xây dựng và phát huy nguồn lực con người thực sự chất lượng, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của đất nước, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là triển khai thật tốt nhiệm vụ
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực,
phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ...; phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và
năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”(8), cần thực hiện một số giải
pháp sau:

Một là, đối với vấn đề giáo dục.

Việc chuyển đổi nền giáo dục truyền thống sang nền giáo dục hiện đại không phải dễ
dàng, nhưng không thể không làm, mà phải làm thực sự quyết liệt ngay từ bây giờ; đổi mới
từ cấp tiểu học trở lên để hình thành nhân cách con người Việt Nam có lòng yêu nước, tự
hào dân tộc. Giáo dục phải giúp cho sự định hướng xã hội, sử dụng truyền thống như là tiền

11
đề, sức mạnh có khả năng thích ứng với sự thay đổi của tiến bộ thế giới, đặc biệt là cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần khuyến khích và tạo điều kiện cho việc hình thành hệ
thống giáo dục theo mô hình doanh nghiệp, liên kết đào tạo những lĩnh vực mà xã hội, doanh
nghiệp cần, nhất là lực lượng lao động có tay nghề cao, chuyên môn giỏi, đồng thời khích lệ
hoạt động sáng tạo của người lao động để thích ứng với mọi điều kiện; rèn luyện tính tự lực,
tự cường, tìm tòi sáng tạo cùng với việc chú trọng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao,
đội ngũ các nhà khoa học, nhà sáng chế, các chuyên gia nước ngoài để giảng dạy, truyền đạt
và tương tác trong lao động, trong giáo dục ở nước ta.

Hai là, cần có chủ trương khuyến khích các nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước
cùng tham gia đóng góp vào xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển quốc gia. Để làm
tốt vấn đề này, cần có những chính sách đãi ngộ nhân tài thống nhất từ Trung ương xuống
các địa phương.

Ba là, phải thực sự lựa chọn được những cán bộ có đức, có tài để phục vụ nhân dân,
phát triển đất nước. Vì vậy, ngay từ khâu tuyển chọn, bổ nhiệm phải thực hiện nghiêm túc,
khách quan, minh bạch, công bằng, công tâm, trong đó coi trọng công tác thẩm định, thực
hiện quy trình từ dưới lên và lấy ý kiến tham khảo rộng rãi trong nhân dân nơi cư trú; tổ
chức mở rộng các hình thức thi tuyển, đặc biệt là các chức danh lãnh đạo, quản lý với quy
trình chặt chẽ và theo đúng tiêu chuẩn, yêu cầu đề ra, từ đó lựa chọn được những cán bộ
thực sự có năng lực, nhiệt huyết với công việc. Làm tốt công tác thi tuyển sẽ tránh được tình
trạng “gửi gắm” hoặc “thân quen” khi tuyển dụng, bổ nhiệm. Mặt khác, trong quy trình bổ
nhiệm, xét duyệt các hồ sơ dự tuyển chúng ta không nên quá coi trọng vấn đề bằng cấp, loại
hình đào tạo, điều quan trọng là phải chú trọng đến yếu tố cần thiết như: năng lực thực sự, tố
chất quản lý, đạo đức cách mạng, lòng nhiệt huyết, say mê với công việc, vị trí khi đảm
đương v.v.. Bên cạnh đó, trong chủ trương luân chuyển cán bộ kết hợp với bố trí một số
chức danh lãnh đạo không là người địa phương phải được triển khai quyết liệt và rộng khắp
trong cả nước.

Để xây dựng và phát huy nguồn lực con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, đồng thời là chiến lược dài hạn và những quan điểm lớn về đổi
mới công tác cán bộ, chúng ta cần làm tốt hơn nữa vai trò giáo dục và đào tạo con người một
cách toàn diện, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa môi trường gia đình, nhà trường và xã hội
để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Xây dựng con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, nhân ái, nhân văn, phát triển toàn diện,... có những cán bộ “vừa hồng,
vừa chuyên” đủ đức, đủ tài ở cấp chiến lược để lãnh đạo đất nước góp phần củng cố lòng tin
của nhân dân đối với con đường cách mạng và định hướng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

12
Minh đã lựa chọn. Trong đó, cán bộ là nhân tố quyết định, công tác cán bộ là khâu then chốt,
xây dựng cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ hàng đầu; phòng, chống suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
nhằm đưa nước ta vững bước trên con đường phát triển ngày một giàu đẹp và hùng cường.

3.3 liên hệ trách nhiệm bản thân


Trước sự phát triển của đất nước mỗi cá nhân cần có sự nỗ lực và cố gắng để góp phần
đưa Việt Nam đạt được những thành công và hoàn thành mục têu theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Bản thân là một công dân của đất nước và là sinh viên chính vì thế mà luôn phải cố
gắng và nỗ lực góp phần vào sự phát triển của Việt Nam, để làm được điều đó mỗi sinh viên
phải xác định rõ mục đích và nhiệm vụ của bản thân, cụ thể :
Thứ nhất, việc làm trước tiên của sinh viên là phải học tập, trang bị thật tốt cho mình
vốn kiến thức, hiểu biết về thế giới, khoa học và con người. Học tập tốt không chỉ giúp sinh
viên góp phần xây dựng một đất nước vững mạnh, phát triển và phồn vinh mà còn là con
đường tốt nhất giúp ta đi đến một tương lai tương sáng và tốt đẹp. Đồng thời cần nâng cao
trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Tích cực học tập các môn
có ý nghĩa lý luận sâu sắc và trau dồi kiến thức lý luận cho bản thân.
Thứ hai, không chỉ chú trọng học kiến thức chuyên ngành mà bên cạnh đó sinh viên cần
phải tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội để nâng cao kỹ năng mềm và tăng thêm khả
năng sáng tạo và tích cực cho bản thân cho bản thân, đồng thời cần trau dồi thêm khả năng
về tiếng anh để sẵn sàng cho việc hội nhập và phát triển của đất nước. Bên cạnh đó cần tiếp
thu nhữn thông tin hữu ích, tránh tiếp thu những tư tưởng lệch lạc, bịa đặt nhằm chống phá
Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, không chỉ dừng lại ở việc học, sinh viên còn phải hoàn thiện bản thân, tu dưỡng
và rèn luyện về đạo đức. Có lòng thương người và đối xử với người theo lẽ phải, đó là nhân
nghĩa, là truyền thống cao đẹp của người Việt Nam mà chúng ta cần duy trì và phát triển và
thiết thực nhất đó là sự kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, quan tâm, chia sẻ,
nhường nhịn với những người xung quanh.
Thứ tư, mỗi người chúng ta đều có những mặt mạnh, yếu khác nhau, không ai là hoàn
mĩ cả. Mặt khác, xã hội luôn không ngừng phát triển, vì vậy, sinh viên phải luôn tự hoàn
thiện bản thân mình, biết vượt lên mọi khó khăn, trở ngại, biết phát huy ưu điểm, khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm, học hỏi những điều hay, điều tốt của người khác. Có như thế thì bản
thân, gia đình, cộng đồng sẽ ngày một phát triển tốt hơn, tiến bộ hơn.

KẾT LUẬN

13
Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đã đang và sẽ là sự lựa chọn duy nhất của đất nước
ta. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đánh dấu bằng chặng đường đổi mới
trong hơn 30 năm qua, vượt qua rất nhiều khó khăn thách thức, dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn về cả kinh tế, xã hội và chính trị. Thành quả
này có được do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quyết định chính là ở việc
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
thực tiễn Việt Nam cũng chính là điều kiện để Việt Nam nhanh chóng đi tới mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Và nhờ vào sự đổi mới quan điểm cùa
Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Bên cạnh những kết quả đạt được thì Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế, thách thức
truong quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước ta cần có những
giải pháp cụ thể, tích cực để đưa Việt Nam gặt hái được nhiều thành công.

Qua việc nghiên cứu đề tài “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH
ở nước ta (bổ sung và phát triển năm 2011) và mục tiêu: phát huy tối đa nhân tố con người;
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.” đã cho bản
thân em thấy được những vấn đề cơ bản về nội dung rong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội tại Việt Nam. Đồng thời thấy được những thành tựu của đất nước đạt được qua 35 năm
đổi mới và những thành quả trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của đất nước và những
hạn chế còn tồn tại. Chính vì thế, mà em luôn cần nhắc nhở bản thân mình nỗ lực và phấn
dấu trong tươgng lai để góp phần vào sự phát triển của đất nước.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 .Giáo trình môn lịch sử đảng.


2 . Bài viết “Nước Ta Trong Thờ Kỳ Hội Nhập”.
3 . Bài viết “ Vai Trò Và Các Giải Pháp Cho Nguồn Nhân Lực Nước Ta Trong Thời Kỳ Hội
Nhập”
4 . Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát triển đất nước –
xaydungdang.org.vn
5 . Báo nhân dân trong thời kì hội nhập

15
16
17

You might also like