You are on page 1of 15

MỤC LỤC

MỜ ĐẦU.........................................................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................................1
1.1. Con người.....................................................................................................................1
1.2. Thời kỳ đổi mới, hội nhập...........................................................................................2
CHƯƠNG II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI,
XÂY DỰNG CON NGƯỜI, VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO PHÁT HUY NHÂN
TỐ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ
HIỆN NAY.................................................................................................................................3
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò con người................................................3
2.2. Xây dựng con người....................................................................................................4
2.1.1. Về xây dựng con người mới..................................................................................4
2.1.2 Về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện...........................................6
2.3. Sự vận dụng của Đảng ta về vấn đề xây dựng con người phát triển toàn diện
trong giai đoạn hiện nay........................................................................................................8
2.3.1 Thực trạng và một số vấn đề xây dựng con người Việt Nam..................................8
2.3.2 Quan điểm của Đảng về xây dựng con người phát triển toàn diện được thể hiện
thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII..........................................................9
CHƯƠNG 3. TRÁCH NHIỆM THANH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI, HỘI
NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY................................................................................................12
3.1. Trách nhiệm của sinh viên...........................................................................................12
KẾT LUẬN...................................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................14
Đề bài : Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người; về xây dựng
con người và sự vận dụng của Đảng vào phát huy nhân tố con người Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.

MỜ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vấn đề con người. Tư tưởng về phát huy nhân tố con
người được thể hiện một cách đa dạng, phong phú, trở thành tư tưởng xuyên suốt trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn cách mạng ở nước ta nói chung, quá
trình đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc nói riêng đã và đang phát
huy nhân tố con người, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn và sức mạnh con người Việt
Nam.Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai
trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Đảng Cộng
sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Con người
Trong vấn đề con người, điều mà Hồ Chí Minh quan tâm nhất đó là con người Việt Nam,
những quan hệ xã hội trong xã hội Việt Nam, Người đã nêu rõ ý kiến riêng, quan điểm
của mình khi tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những ý kiến, quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con người. Quan điểm của Người về con người và bản
chất của con người đều xuất phát từ thực tiễn, Người đưa ra những quan điểm chủ yếu về
con người rất độc đáo mà rất thiết thực. Người định nghĩa về con người: "Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng
nữa là cả loài người". Như vậy, con người không phải là những cá thể biệt lập. Chỉ có
trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội con người mới có lao động, ngôn
ngữ, tư duy, chế tạo công cụ lao động, mới thật sự trở thành con người đúng nghĩa.
Mặc dù Hồ Chí Minh không đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về con người, nhưng trên
cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, Người đã đưa ra một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về con người. Quan niệm về con người của Hồ Chí Minh
1
có thể khái quát lại như sau: Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và
mặt xã hội; con người chủ thể của các mối quan hệ xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo và
hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.1
1.2. Thời kỳ đổi mới, hội nhập
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nói đến đổi mới, hội nhập và phát triển.
Toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến
tận cuối đời phản ánh tầm nhìn xa, trông rộng, luôn luôn đổi mới, hội nhập và phát triển.
Xoay quanh trục đổi mới, hội nhập và phát triển, tư duy, tầm nhìn và cách nhìn của Hồ
Chí Minh cho thấy sự hòa quyện giữa dân tộc và nhân loại; lý luận và thực tiễn, nhận
thức và hành động, kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển. Hồ Chí Minh thấm nhuần
sâu sắc phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giải quyết mối quan hệ
giữa đổi mới, hội nhập và phát triển.

Hiện nay, bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó
lường. Đất nước đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức với rất nhiều
vấn đề mới đặt ra. Kiên định đổi mới, hội nhập và phát triển trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với đất nước và chế
độ ta. Mối quan hệ giữa đổi mới, hội nhập và phát triển phản ánh quy luật mang tính biện
chứng, là một trong những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới ở nước ta, phản
ánh mục tiêu, điều kiện, phương thức để tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền
vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; mở rộng thị trường, đẩy
mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh
nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân
trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân2
Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế từ Trung ương đến địa phương
được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước được củng cố và
nâng cao hiệu quả hoạt động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có bước trưởng thành đáng
kể. Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ
của nước ta với các đối tác, song phương, đa phương đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi
1
Lê Sỹ Thắng (1996): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về chính sách xã hội”
2
Thời kì đổi mới (2021) : https://ttmn.mobi/thoi-ky-hoi-nhap-la-gi/

2
ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao uy
tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
CHƯƠNG II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON
NGƯỜI, XÂY DỰNG CON NGƯỜI, VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO PHÁT
HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI, HỘI
NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY.
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò nhân tố con người trong cách mạng Việt Nam
với ba cấp độ: nhân dân nói chung; công nhân, nông dân, trí thức, bộ đội, cán bộ; và mỗi
con người cụ thể (trừ bọn Việt gian, phản động). Người sử dụng “sức dân”, “sức người”,
“trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”, “quyền hành đều ở nơi dân” nhằm
khẳng định nhân dân luôn ở vị trí cao nhất, địa vị làm chủ trong những vấn đề quan trọng
nhất của cách mạng và xã hội. Dân vừa là chủ, vừa là người thực hiện công việc làm chủ,
vừa là chủ thể, vừa là khách thể, là động lực, là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của
sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và
từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”.

Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Con người là mục tiêu của
cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi
ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân
tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.

Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác
ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên
nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam… Chính
trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động
lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản3

Người khẳng định, con người là động lực to lớn quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng
3
Ban Tuyên giáo Huyện ủy (2021): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa con người”

3
đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu từ con người, từ việc phát huy
nhân tố con người: “Có lực lượng dân chúng việc to tát đến mấy cũng làm được. Không
có, việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn
giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không
ra”; “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng vĩ đại
nhưng đầy khó khăn phải biết phát huy nhân tố con người, phải biết dùng người, phát huy
phẩm chất (đức) và năng lực (tài) của mỗi người. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa, đó là người có lòng nồng nàn yêu nước, trong
sáng về đạo đức, xuất sắc về tài năng, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Cần phải phát huy tiềm
năng của nhân tố con người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp cho khối đại đoàn kết dân tộc
để giải quyết những nhiệm vụ cách mạng; phải có biện pháp phát huy nhân tố con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng, Chính phủ hoạch định chính sách phục vụ lợi ích
của dân tộc, tự do, ấm no hạnh phúc của nhân dân, bao quát các vấn đề của đời sống xã
hội, nhất là an sinh xã hội, đồng thời thi hành hệ thống chính sách xã hội hướng tới con
người, giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích chung
và lợi ích riêng. Vận động, tuyên truyền, giáo dục để hình thành những động cơ, mục
đích đúng đắn cho con người thông qua những phong trào cách mạng, đặc biệt là giáo
dục và đào tạo thế hệ trẻ, người chủ tương lai của đất nước. Đồng thời, Người nhấn mạnh
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, bởi “cán bộ là gốc của công việc”.
2.2. Xây dựng con người
2.1.1. Về xây dựng con người mới
Con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là con người xã hội chủ nghĩa, con
người phát triển toàn diện để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
dùng khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa là để phân biệt con người sống trong xã
hội cũ, con người chưa được giác ngộ cách mạng, chưa được trang bị lý luận cách mạng
đúng đắn theo lập trường của giai cấp công nhân. Con người mới xã hội chủ nghĩa không
phải tự nhiên mà có, nó được gắn với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, gắn với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Khi nói về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh tới việc chăm lo con người, sao cho người lao động có công ăn việc làm, sao cho ai
cũng được ấm no hạnh phúc. Người nói: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã

4
hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có
công ăn việc làm, được ấm no và sống một cuộc đời hạnh phúc”. 4Trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng, Người luôn khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”.5
Sau khi đến được với chân lý cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “ Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc
và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình hạnh phúc”6.
Quan điểm về con người mới xã hội chủ nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn
với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Người vận dụng quan điểm mác xít về con
người để xây dựng con người mới, những con người mang thế giới quan và nhân sinh
quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, con người thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa và
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Theo Người, để trở thành con người mới xã hội chủ
nghĩa phải chú ý cả hai phương diện. Một mặt, là sự phấn đấu vươn lên không ngừng của
mỗi người theo hướng tự giác đấu tranh với những mặt lạc hậu, mặt xấu vốn tồn tại như
mặt bản năng tự nhiên của con người, đồng thời học tập, tu dưỡng đạo đức cách mạng
được xem như tinh hoa văn hóa của nhân loại. Mặt khác, đó là sự tham gia tích cực của
con người vào việc cải tạo xã hội theo hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đối với nước ta
là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, kết hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó
là hai mặt luôn gắn kết với nhau và “muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định một điều kiện có
tính quyết định đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta mà còn chỉ rõ vị trí, vai trò quan
trọng của con người mới xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.2 Về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Bước vào thế kỉ mới, với những biến đổi lớn lao, đặt ra nhiều thách thức mà con
người phải đối mặt như: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển; vấn đề
môi trường; dân số; vấn đề dân chủ, nhân quyền, nhân sinh, an sinh xã hội; vấn đề dân
tộc, tôn giáo, khủng bố và các tệ nạn xã hội mới phát sinh. Điều đó khiến con người đứng
trước những mâu thuẫn to lớn và hết sức gay gắt, buộc con người phải tự hoàn thiện bản
4
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 10, tr.17.
5
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 4, tr.161.
6
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 1, tr.461.

5
thân để theo kịp xu thế mới của thời đại. Để làm được như vậy con người phải phát triển
một cách toàn diện.
Nói tới con người Việt Nam phát triển toàn diện là nhằm tới mục tiêu xây dựng xã hội
mới, thực hiện công bằng xã hội, dân chủ trong quản lý đất nước, đó là bản chất của chế
độ xã hội mới mà chúng ta đang hướng tới.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải
thực hiện từng bước, từng nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Thứ nhất, chiến lược con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ chỗ ý thức được vị trí, vai trò quyết định của con người đến sự nghiệp cách
mạng ở nước ta, Người đã có tư duy rất sớm về chiến lược con người. Tại lớp học chính
trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc năm 1958, Người nói: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trồng người theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm sâu
sắc tới thế hệ cùng thời với mình, mà người còn quan tâm tới thế hệ tiếp sau. Người chú ý
tới công tác thanh, thiếu niên và nhi đồng với một thái độ yêu thương, độ lượng, nghiêm
túc và thận trọng. Người căn dặn phải uốn cây từ lúc cây non, đừng để tâm hồn các cháu
bị vẩn đục vì chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm thấy những biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân phát sinh từ lớp người còn trẻ, đó là nguyên nhân xuất hiện những
thanh, thiếu niên hư hỏng. Cho đến lúc sắp từ giã cõi đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
không quên việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (Người viết bài báo “Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đăng trên báo Nhân Dân ngày 03/02/1969,
trước lúc Người qua đời vừa tròn bảy tháng). Điều đó cho thấy Người coi vấn đề đạo đức
cách mạng và việc chống chủ nghĩa cá nhân có tầm rất quan trọng trong việc “trồng
người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nâng niu, trân trọng những tài năng, tạo điều kiện để
phát triển, vì đây là những hạt giống đỏ của đất nước.
- Thứ hai, vai trò của giáo dục, đào tạo trong việc xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức trong chiến lược con người thì công tác giáo dục,
đào tạo con người mới là quan trọng hơn bao giờ hết. Ngay từ lúc mới từ nước ngoài trở
về, Người đã nghĩ đến đào tạo người cách mạng bằng nhiều hình thức khác nhau như gửi
đi đào tạo ở trường Phương Đông (Liên Xô), tổ chức huấn luyện trực tiếp, viết sách làm

6
tài liệu cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Nhờ chăm lo tới việc giáo dục, bồi
dưỡng và đào tạo những con người có ý thức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây
dựng được nhiều thế hệ cán bộ cách mạng thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước trên một tầm
cao mới. Đó là những chiến sĩ cách mạng có thế giới quan và nhân sinh quan mới, sau
này Người gọi đó là những con người mới xã hội chủ nghĩa, họ là những đảng viên đảng
cộng sản, những đoàn viên thanh niên lao động, những chiến sĩ trong quân đội và công an
nhân dân, những công nhân, nông dân trong sản xuất và chiến đấu. Người đặc biệt chú
trọng tới công tác đào tạo cán bộ, đảng viên, gắn việc giáo dục lí luận với thực tiễn, lấy
kết quả trong hoạt động thực tiễn làm thước đo tác dụng của giáo dục, đào tạo. Những bài
học quý giá về công tác giáo dục, đào tạo con người mới đã được Người cô đọng trong
hai tác phẩm nổi tiếng là Đường Kách mệnh và Sửa đổi lối làm việc với việc trình bày
cặn kẽ từ kinh nghiệm công tác đến tư cách người cán bộ, đảng viên; từ các vấn đề lý
luận đến các bài học trong thực tiễn công tác và chiến đấu.
- Thứ ba, phương pháp xây dựng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú ý tới phương pháp nêu gương, thống
nhất giữa lời nói với việc làm, giữa lý luận với thực tiễn. Gương mẫu trong việc làm,
trong cuộc sống, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trước quần chúng, nêu gương tốt
để quần chúng noi theo. Người chủ trương viết sách về người tốt, việc tốt nhằm nêu
gương những chiến công nổi bật, vang dội, những công việc ích nước lợi dân, từ đó lôi
cuốn đông đảo nhân dân kể cả các cụ già, cháu nhỏ thi đua làm việc tốt. Đó cũng là cách
khơi dậy các tiềm năng tốt đẹp như tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng, thuần phong
mỹ tục sẵn có ở người Việt Nam. Đây là những chất liệu để xây dựng con người mới phát
triển toàn diện.
Cùng với phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có cách
nhìn người vừa bao dung, vừa sâu sắc để luôn khai thác những mặt tốt, tìm cách khơi dậy
các mặt tốt. Người nói: “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải
biết làm cho mặt tốt của con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi,
đó là thái độ của con người cách mạng7”.
Những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa, con người phát triển toàn diện còn nguyên giá trị cho đến ngày nay, có
ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Vấn đề xây

7
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 12, tr.558.

7
dựng con người phát triển toàn diện đang được đặt ra một cách cấp thiết, khi nước ta
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
2.3. Sự vận dụng của Đảng ta về vấn đề xây dựng con người phát triển toàn diện
trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là mục tiêu, là động lực của cuộc cách
mạng. Quan điểm này đươc thể hiện thông qua các kỳ đại hội, đặc biệt tại Đại hội XII,
Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người.
Những quan điểm này được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể
trong hoạt động thực tiễn và phát triển kinh tế - xã hội.
2.3.1 Thực trạng và một số vấn đề xây dựng con người Việt Nam
Sau 30 năm đổi mới, sự nghiệp “trồng người” ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích
cực, đạt nhiều kết quả. Nhà nước đã quan tâm thực hiện các chính sách xã hội để nâng
cao đời sống cho người dân, thể hiện sâu sắc tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ
thống an sinh xã hội nói chung, hệ thống bảo hiểm nói riêng ở Việt Nam thay đổi theo
hướng mở rộng đối tượng, loại hình như bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm
y tế, bảo hiểm tự nguyện). Nhà nước thực hiện chính sách cấp bảo hiểm y tế hỗ trợ chăm
sóc sức khỏe miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, hỗ trợ một số đối tượng chính sách, người
nghèo. Các chính sách trợ giúp xã hội được mở rộng về quy mô và đối tượng, với mức
trợ giúp ngày càng tăng…
Việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo những năm qua của Việt Nam được thế giới
ghi nhận và đánh giá cao. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng nghèo,
nâng cấp, làm mới, cải tạo các tuyến giao thông, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh
tế; đồng thời tiếp tục quan tâm tạo nguồn lực để dân cư đẩy mạnh sản xuất, phát triển
ngành nghề tăng thu nhập. Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định một trong những mục tiêu
quan trọng là: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục
tiêu của của chiến lược phát triển”8.
2.3.2 Quan điểm của Đảng về xây dựng con người phát triển toàn diện được thể hiện
thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII

Kế thừa và phát triển những nội dung cốt lõi về vấn đề con người trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng đã khái

8
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.126, tr78, tr.123, tr.217, tr.218, tr.219,
tr.219.

8
quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, phát triển con người Việt
Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước. Nghiên
cứu, quán triệt và vận dụng quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng, phát triển con
người trong hoạt động giảng dạy ở các nhà trường quân đội có ý nghĩa quan trọng, nhằm
thống nhất nhận thức và hành động của cán bộ, giảng viên và học viên trong triển khai
thực hiện, nhất là việc xây dựng và phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự;
thiết thực góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

Con người và nhân tố con người luôn là vấn đề trung tâm của mọi chiến lược phát
triển và là yếu tố cốt lõi trong sức mạnh của mỗi quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói
riêng. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn quan tâm chăm lo xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Trong sự nghiệp
đổi mới đất nước hiện nay, kế thừa các thành tựu lý luận và thực tiễn đạt được trong xây
dựng và phát triển con người, Đại hội XIII của Đảng đã nêu tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ,
phương hướng chủ yếu về xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện mới, nhất là
phát triển nguồn lực con người trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, cũng như bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Điều này được biểu hiện trên các nội dung:

Thứ nhất, coi con người là trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con
người Việt Nam toàn diện. Đảng ta chủ trương: “coi con người là trung tâm, chủ thể,
nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người
Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”.
Đồng thời khẳng định: “mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”; thực hiện: “phát huy nhân tố
con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển; khẳng định vị trí, vai trò nguồn lực
phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự
cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc của mỗi người dân. Do vậy, phải: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam;… phát huy tối đa nội lực, tranh
thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng
nhất”.

9
Để thực hiện chủ trương trên, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, cần: “Xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách
nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”; thực hiện phương châm: “Đào
tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã
hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư
duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”.

Thứ hai, thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách và coi trọng giáo dục, khoa học để
con người có điều kiện phát triển toàn diện. Văn kiện của Đảng nêu rõ: “Có kế hoạch, cơ
chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa,
lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”. Thực
hiện: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa
giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”. Đồng thời, cần: “Thực hiện tốt chính sách xã hội,
bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng
cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm
nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa
dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe của nhân dân”.

Đảng ta chủ trương coi trọng giáo dục, đào tạo để phát triển con người đáp ứng
yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng đất nước. Theo đó, công tác giáo dục phải: “Chú
trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là
giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý
thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao
tầm vóc con người Việt Nam”.

Bên cạnh các chính sách kinh tế - xã hội, công tác giáo dục và đào tạo, Đại hội
XIII của Đảng còn khẳng định vai trò của khoa học trong phát triển nguồn lực con người.
Đảng chỉ rõ: “Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực

10
cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư
tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và
bảo vệ Tổ quốc”; thực hiện “Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát
triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người”.

Thứ ba, quan tâm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra phương
hướng: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải
có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ
chức, cá nhân”. Theo đó, phải tiến hành đồng bộ các biện pháp “Tăng cường khả năng
tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý
và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án. Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời
gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh
doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng”.

Cùng với bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Đại hội XIII của Đảng còn
coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới với chủ trương:
“Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ
chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số,
nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã
hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”. Đồng thời định hướng: “ưu tiên nguồn
nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo
bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với
cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng
dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Có thể thấy rằng, quan điểm đại hội XIII của Đảng về con người và phát triển nguồn lực
con người là hệ thống toàn diện và có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân

11
lực trong bối cảnh mới của xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, nhất là trước tác động
ngày càng sâu, rộng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đảng ta khẳng định con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời phải là
những con người có tri thức và đạo đức. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chiến
lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể
lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị
phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam
để thực hiện quá trình đổi mới của nước ta, nhất là trong bối cảnh sự tác động ngày càng
sâu, rộng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế hội nhập quốc tế, phát
triển kinh tế tri thức hiện nay.
CHƯƠNG 3. TRÁCH NHIỆM THANH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI,
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
3.1. Trách nhiệm của sinh viên
- Đối với thanh niên thì điều này càng trở nên quan trọng hơn bởi tuổi trẻ luôn năng động,
sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh nhạy nên có nhiều hơn các cơ hội để giao lưu, học tập và
phát triển. Nhiều cơ hội mới được mở ra, song hội nhập quốc tế cũng đã và đang đặt ra
cho thanh niên nhiều thách thức lớn: đó là sự tương thích giữa trình độ học vấn với các
cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao; đó là sự tác động của mặt trái kinh tế thị
trường; đó là việc làm thế nào để dung hòa được giữa truyền thống và hiện đại trong lối
sống, nếp sống,…Chính những yếu tố đó đòi hỏi lớp thanh niên hiện nay phải nhanh
chóng trang bị cho mình năng lực hội nhập, như bản lĩnh, kiến thức, trình độ ngoại ngữ,
tin học, kỹ năng, tác phong công nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình, đồng
thời phải hiểu biết thế giới, văn hóa thế giới. Và điều đó chỉ có được khi mỗi thanh niên
phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện, có đủ tri thức, nhận thức để tham gia vào nền kinh
tế mới và quá trình hội nhập; trong đó, việc trau dồi Ngoại ngữ nhất là Tiếng Anh và tin
học học là một yếu tố tiên quyết; vì hiện nay, Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ thông nhất trên
thế giới, thông thạo tiếng Anh sẽ là một lợi thế rất lớn cho việc xin việc làm cũng như
nắm bắt được nhiều cơ hội khởi nghiệp từ sự hội nhập toàn cầu.

- Bên cạnh đó, để hội nhập thành công thì Thanh niên cần phải có tri thức, trình độ văn
hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề, cụ thể là phải có chuyên môn sâu về
một lĩnh vực cụ thể, tuỳ vào năng lực của từng người. Điều đó thể hiện ở những sáng
kiến cải tiến kỹ thuật góp phần giảm những chi phí không cần thiết cho các doanh nghiệp,
cho xã hội; điều đó thể hiện ở khả năng nắm bắt kỹ thuật thâm canh, tăng năng suất, sản
12
lượng đối với cây trồng vật nuôi và thể hiện ở những công trình nghiên cứu khoa học
được áp dụng vào thực tiễn. Có một chuyên môn nhất định, một tay nghề vững vàng
được coi là điều kiện cơ bản để thanh niên có thể tự tin trước sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, của hội nhập kinh tế thế giới với tính kỷ luật và cường độ lao động cao.

- Mặt khác, xu thế toàn cầu hoá sẽ tạo ra thị trường lao động toàn cầu, công dân toàn cầu,
thanh niên toàn cầu,… đòi hỏi thanh niên phải trang bị cho mình một bản lĩnh vững vàng,
phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, xã hội và cần phải tỉnh táo để có nhận thức
đúng đắn, tiến bộ về quá trình hội nhập; chủ động lựa chọn, tiếp thu và phát huy những
mặt tích cực, nhận biết và ngăn chặn, đẩy lùi những mặt tiêu cực của nền văn hóa bên
ngoài, góp phần giữ gìn bản sắc của dân tộc. Bên cạnh đó, cần phải trang bị thêm các kỹ
năng về giao tiếp, nói chuyện trước đám đông, kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm,…
bởi thực tế cho thấy, hội nhập quốc tế đang ngày càng thấm sâu và tác động toàn diện tới
mọi mặt đời sống của thanh niên, từ cách ứng xử trong giao tiếp; nhu cầu tâm sinh lý và
mục tiêu, định hướng nghề, tìm kiếm việc làm,… của mỗi người.

KẾT LUẬN

Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục
tiêu đó đã đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối với mỗi người dân Đất Việt,
nhất thế hệ trẻ hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và
dân tộc ta, mỗi thanh niên hãy ra sức học tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động và rèn luyện để hình thành một thế hệ thanh niên
tiên tiến, có tâm, có tầm đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất nước và thời đại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Lê Sỹ Thắng (1996): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về chính sách xã hội”

[2]. Thời kì đổi mới (2021)

13
https://ttmn.mobi/thoi-ky-hoi-nhap-la-gi/

Ban Tuyên giáo Huyện ủy (2021): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa con
người”

[3]. Hồ Chí Minh: Sđd, tập 10, tr.17.

[4].Hồ Chí Minh: Sđd, tập 4, tr.161.

[5] Hồ Chí Minh: Sđd, tập 1, tr.461.

[6] Hồ Chí Minh: Sđd, tập 12, tr.558.

[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG.

14

You might also like