You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ


------

BÀI THẢO LUẬN

Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và phát huy


nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội của Đảng ta

Nhóm thực hiện : Nhóm 2

Giảng viên hướng dẫn : Đặng Minh Tiến

Lớp học phần : 231-MLNP0221-12

Khóa : 2023-2027

1
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI..........................4
1.1. Khái niệm con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh............................................4
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người, coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng, về phát triển con người toàn diện............................4
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc....................4
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng:.....................................................................................................................5
1.2.3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển toàn diện con người:................................8
CHƯƠNG 2. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TA
.............................................................................................................................................13
2.1. Đấu tranh chống lại sự thoái hóa biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức...........................................................................................................................13
2.2. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước..............18
KẾT LUẬN........................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................21

2
LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, phong phú và sâu sắc và là
một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo
vào thực tiến giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà thức chất là giải phóng con người.
Vấn đề con người, phát huy nhân tố con người luôn là vấn đề trung tâm,được đề cập đến
như một mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi
và luôn được tỏa sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhấn mạnh
đến nguồn lực con người, coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất trong sự nghiệp
xây dựng CNXH.. Khẳng định vai trò của con người, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do, trong bảo vệ Tổ quốc và trong công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách để khơi dậy và
phát huy sức mạnh to lớn đó và nhờ đó mà trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, ý chí và nghị lực của con người Việt Nam chúng ta đã giành được
độc lập, thống nhất đất nước
Và trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã chú trọng: “Phát huy
sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã
hội mới” và chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, trên cơ sở bảo đảm công
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; phát huy mọi tiềm năng thế mạnh của
con người để vừa tập trung cao cho phát triển kinh tế, vừa tăng cường quốc phòng, an
ninh, tạo cơ sở nền tảng vững chắc bảo vệ thành quả của cách mạng trong điều kiện
mới.Kế thừa các Đại hội trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục
khẳng định: chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi chủ trương,
chính sách nhằm phát huy nhân tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân
dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hành
động kinh tế, văn hoá xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ
nhân dân. Hay Đại hội XI đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người ở nhiều chiều trên
cơ sở “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Quan điểm này thực chất là sự tiếp
nối tư tưởng của Đảng coi con người là chủ thể, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định
sự phát triển xã hội và là sự nghiệp của cách mạng Việt Nam
Và nhân tố con người sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài “Quan
điểm của Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Để nghiên cứu kỹ hơn về đề tài chúng em sẽ chia đề
tài làm 2 chương:
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
CHƯƠNG 2. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TA

3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng
lý luận cho việc phát huy vai trò của con người trong cách mạng và trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh, do yêu cầu khách quan của sự phát triển
lịch sử - xã hội Việt Nam, tiếp thu văn hóa và các giá trị truyền thống của dân tộc, gia
đình, tinh hoa văn hóa của nhân loại, trong đó có lý luận về con người của chủ nghĩa Mác
– Lênin, đã vận dụng, sáng tạo và phát triển lý luận về con người phù hợp với điều kiện
lịch sử xã hội Việt Nam.

Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh
em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Đối
với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và
của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Quan điểm
đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu
tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh,
Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng.
Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp
chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng
thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm
khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là
"giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống
riêng của bản thân và của gia đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ

4
xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức,
không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và
nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân,
không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và
với các loài người trên toàn thế giới.

Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể
luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là
nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách
thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực
dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc
phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng".
Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai
cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức
một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức.
Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người)
bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng,
về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người
v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí
Minh.

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người, coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng, về phát triển con người toàn diện

1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách
mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người là sự nghiệp cách
mạng của đoàn kết dân tộc do Ðảng lãnh đạo. Ðảng vững mạnh cách mạng mới thành
công. Trên cơ sở nền tảng tư tưởng của Ðảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Ðảng phải có
đường lối chính trị đúng đắn, gắn bó mật thiết với nhân dân. Ðảng phải làm tròn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc tự do, đồng bào được ấm no, hạnh phúc.
- Giải phóng dân tộc là tiền đề cho giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Ðộc
lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Do đó, giải phóng dân tộc rồi thì thực hiện quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bằng bước đi, biện pháp phù hợp thực tiễn đất nước, làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
phải phát huy cao độ nội lực, đem sức ta mà giải phóng cho ta, đồng thời kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế trong sáng.

5
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng:
Một trong những tư tưởng nổi bật của Hồ Chí Minh là tư tưởng coi con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Theo Người, sự nghiệp đấu tranh
cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh…, xét đến cùng, là vì hạnh phúc, vì sự phát triển
toàn diện của con người. Đến lượt mình, con người lại là động lực thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Vai trò to lớn đó của quần chúng nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, thể
hiện ở chỗ: Họ là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản
xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã
hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trường Học sinh miền Nam số 12, Thành phố Hải
Phòng (18/1/1960). (Ảnh: TTXVN)
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Con người là mục tiêu
của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi
ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc
và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập cho dân tộc là điều vô cùng quý giá,
song đó mới chỉ là tiền đề tiên quyết để giải phóng con người. Thực vậy, giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp mới chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, con
người thoát khỏi ách nô lệ, bóc lột, thống trị. Người cho rằng, giành được độc lập dân tộc

6
rồi thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ là xu hướng phát
triển tất yếu của thời đại, mà còn tạo cơ sở để hiện thực hoá các quyền con người một cách
toàn diện hơn. Xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa chính là để cho nhân
dân lao động có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hưởng công bằng, văn minh; con
người thực sự được giải phóng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có điều kiện
để thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, có cơ hội để phát triển toàn diện về thể lực,
trí lực, đức dục; đồng thời, có thể phát huy mọi khả năng để cống hiến được nhiều nhất
cho xã hội.
Bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới, con người ít nhiều còn mang những tàn
dư tư tưởng của chế độ xã hội cũ. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng, cần phải giáo dục con
người, tẩy rửa những thói hư tật xấu mà xã hội cũ đã tiêm nhiễm nhằm làm cho phần tốt
của họ “nảy nở như hoa mùa xuân”, phần xấu mất dần đi. Có thể khẳng định rằng, giải
phóng con người là một biểu hiện sinh động trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là
mục tiêu của sự phát triển xã hội. Nó chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, bởi không
những mang lại quyền con người, mà còn hướng con người tới cái đẹp, cái cao cả. Ngay
từ những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sớm có những ý tưởng sâu
sắc về các quyền cơ bản của con người. Chẳng hạn, Người đòi hỏi phải bảo vệ và phát
triển lành mạnh cho trẻ em, sự nghỉ ngơi cho người già, thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng và
tất cả mọi người đều có quyền được hưởng thụ hạnh phúc…
Coi con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội, Hồ Chí Minh không dừng lại ở
việc giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, mọi trói buộc bởi những quan
niệm cũ kỹ, lạc hậu của xã hội cũ, mà còn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân. Trong
mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp, Người luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.
Cần phải nói thêm là, cho đến trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều
nhà tư tưởng yêu nước, nhiều lãnh tụ của các phong trào đấu tranh trong lịch sử dân tộc đã
từng nói tới và quan tâm ít nhiều đến lợi ích của quần chúng nhân dân lao động. Nhưng,
sự quan tâm ấy dù sao cũng gắn với lợi ích của giai cấp hay một tầng lớp nào đó đang
thống trị trong xã hội. Vượt lên trên tất cả, Hồ Chí Minh đã và luôn hướng tới lợi ích của
đông đảo quần chúng cần lao. Nói cách khác, lợi ích của con người mà Hồ Chí Minh nói
tới và đấu tranh suốt đời vì nó là lợi ích phổ biến, mang tính toàn xã hội. Bởi, hơn ai hết,
Người nhận thấy mối vững bền của đất nước chính là nhân dân và sự cường thịnh, trường
tồn của quốc gia, của dân tộc phải dựa vào chính cái gốc rễ sâu chặt ấy.

7
Ảnh minh họa
Với lòng yêu nước và lòng nhân ái cao cả, với việc tiếp thu tinh thần nhân văn của
nhân loại qua nhiều thế kỷ, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc chăm lo
đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Trong tư tưởng của Người, việc
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét đến cùng, cũng chính là xuất phát từ con người,
vì lợi ích của con người, của nhân dân lao động. Người từng nói: “Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ
biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(3). Những lợi ích của
con người, như được tự do, được độc lập, được “ăn no, mặc đủ”…, chỉ được hiện thực hoá
và đảm bảo vững chắc thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kiên định nguyên tắc lấy
dân làm gốc, trong điều kiện đất nước vừa giành được độc lập lại phải đương đầu với thù
trong, giặc ngoài và muôn vàn khó khăn khác, Hồ Chí Minh vẫn dành sự quan tâm đặc
biệt đến các vấn đề dân sinh. Ngay trong việc giải quyết một vấn đề cơ bản thuộc thượng
tầng kiến trúc - vấn đề nhà nước, Hồ Chí Minh cũng chủ trương xây dựng một nhà nước
kiểu mới, hướng đến lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân lao động - đó là nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ấy phải là nhà nước dân chủ, “Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”(4). Nghĩa là, nó phải phụng sự cho lợi ích của
nhân dân lao động chứ không phải là công cụ quyền lực của một nhóm người nào đó trong
xã hội. Nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong chế độ xã hội mới là phục vụ nhân dân;
cán bộ là công bộc, là đầy tớ của dân. Người khẳng định rằng, các cơ quan của Chính phủ
từ toàn quốc cho đến các làng đều là của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ
không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Hồ Chí
Minh thường xuyên nhắc nhở các cán bộ phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, nghĩa là luôn vì nhân dân. Công việc
trọng tâm, trước tiên mà Đảng và Nhà nước phải làm, như Hồ Chí Minh đã xác định rõ, là
chăm lo đời sống của nhân dân, làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ thì khá giàu và
người khá giàu thì giàu thêm. Người yêu cầu mọi chính sách, mọi hoạt động của Đảng,

8
của Nhà nước phải hướng vào nhân dân, cải thiện đời sống của nhân dân lao động; phải
coi mọi lợi ích, mọi quyền hạn của nhân dân là trên hết với nguyên tắc xuyên suốt là việc
gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
Với lòng nhân ái bao la, Người cho rằng, trong khi giải quyết vấn đề đời sống của
nhân dân cần đặc biệt chú ý đến các vùng chiến tranh bị tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ
già yếu, các gia đình thương binh liệt sĩ, đồng bào dân tộc ít người,… kể cả những người
mắc sai lầm nhưng đã biết hối cải. Những lời dạy đó của Người thể hiện tinh thần trách
nhiệm to lớn của vị lãnh tụ trước nhân dân.
Có thể khẳng định rằng, trong lịch sử dân tộc ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên
đưa ra những tư tưởng sâu sắc, khoa học và cách mạng về con người. Mọi luận giải của
Người về vấn đề này, tựu trung lại, toát lên một tư tưởng bao trùm, đầy tính nhân văn -
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Tư tưởng đó của Hồ
Chí Minh chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, được Đảng và Nhà nước kế
thừa, vận dụng và phát triển hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
1.2.3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển toàn diện con người:
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, đã để lại
cho Đảng và nhân dân những di sản tư tưởng to lớn. Một trong những di sản quý báu đó là
tư tưởng về con người và giải phóng con người. Bảy mươi năm qua, tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn luôn soi sáng sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược trước đây, cũng như xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc ngày nay. Đặc biệt, để hưởng ứng và thực hiện Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” thì việc
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng của Người ngày càng trở nên quan trọng và bức thiết.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới phát triển
toàn diện Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung hết sức phong phú và sâu sắc,
nhưng liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới phát triển toàn
diện thì bao gồm hai vấn đề lớn: Một là, nội dung con người mới phát triển toàn diện; và
hai là, phương thức xây dựng con người mới phát triển toàn diện.
Các yếu tố đức, trí, thể, mỹ có vị trí vai trò riêng trong việc hình thành con người
Việt Nam phát triển toàn diện nhưng cũng có mối quan hệ biện chứng, sự phát triển của
bất kỳ thành tố nào cũng bị chi phối và có tác động của các thành tố khác ở nhiều mức độ
khác nhau.
Thể lực với sức khỏe tốt là cơ sở, điều kiện để nảy nở và phát triển các phẩm chất,
năng lực khác của con người.
Phẩm chất đạo đức là “gốc”, nền tảng định hướng mọi hoạt động tri thức của con
người.Sự phong phú về mặt trí tuệ và sự hiểu biết sâu sắc về cái đẹp, cái tốt, cái cao cả...
là các yếu tố rất quan trọng, quyết định trình độ, năng lực của con người phát triển toàn
diện. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng: Có tài mà không có đức là người
vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Vì vậy, phải quan tâm đến tất

9
cả các mặt đức, trí, thể, mỹ để con người Việt Nam phát triển một cách hài hòa, cân đối,
toàn diện.

Bác Hồ thǎm đại biểu giáo viên toàn miền Bắc năm 1958 ( Ảnh tư liệu)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung con người mới phát triển toàn diện Mục đích
cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh – mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu là
mong cho dân tộc Việt Nam, cho nhân dân Việt Nam “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”. Vì thế, suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ mong muốn xây
dựng một xã hội mới về chất – xã hội xã hội chủ nghĩa, ở đó mọi người đều được phát
triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ…, đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn coi các vấn đề về con người, về giải phóng con người và về sự nghiệp
trồng người là mục tiêu, là trách nhiệm vẻ vang, cao cả nhất trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình. Vì lẽ đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, theo Người,
trước hết phải tích cực, chủ động xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là con người phát
triển toàn diện, con người được giải phóng khỏi mọi sự áp bức bóc lột, con người có một
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, vì vậy “muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải
xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa” Người coi việc xây dựng con người xã hội
chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài, gian khổ, đầy chông gai nhưng cũng hết sức
vẻ vang và tự hào. Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước
nhà. Con người mới phát triển toàn diện, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là con
người có lí tưởng sống cao đẹp, sống vì mọi người và có tinh thần đấu tranh vì sự nghiệp
giải phóng con người và xã hội loài người, đó là con người “hồng thắm”; thứ hai, là con
người có đạo đức trung thực, thẳng thắn, liêm khiết, khiêm tốn, dũng cảm, đó là con người
“có đức”. Để những con người “hồng thắm” và “có đức” này mang lại lợi ích cho mình và
cho xã hội thì cần phải có sự hiểu biết, năng lực chuyên môn và thể hiện ở hành động,
10
hiệu quả trong lao động cần cù sáng tạo, đó là con người “chuyên sâu” và “có tài”. Theo
Người, “hồng thắm” và “chuyên sâu”, “có đức” và “có tài” phải được kết hợp chặt chẽ với
nhau, quan hệ mật thiết với nhau. Người chỉ rõ: “Có tài phải có đức, có tài không có đức,
tham ô hủ hóa có hại cho nhà nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi trong chùa,
không giúp ích gì được ai” . Ngược lại, “có tài” mà không “có đức”, có “chuyên sâu” mà
không “hồng thắm” thì như anh làm kinh tế giỏi, nhưng lại hay tham ô, thụt két, chỉ có lợi
riêng cho anh ta, chẳng những không có ích gì cho xã hội, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến
đời sống xã hội. Như vậy, giữa “đức” với “tài”, “hồng” với “chuyên” trong tư tưởng Hồ
Chí Minh phải gắn bó, kết hợp chặt chẽ nhau, bổ trợ nhau, hòa quyện với nhau, là cơ sở,
điều kiện, tiền đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau, làm nên sự hoàn thiện trong nhân cách con
người. Người nêu luận điểm nổi tiếng: “Có tài mà không có đức là người vô dụng; có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Những con người hồng thắm, chuyên sâu, có
đức, có tài, đó là những con người biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Những con người như vậy không phải tự nhiên có, mà là sản phẩm của một quá trình giáo
dục, đào tạo và rèn luyện lâu dài, công phu. Đối với người cán bộ, đảng viên mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng càng phải là con người phát triển toàn diện, là người “có
đức” và “có tài”, “hồng thắm” và “chuyên sâu”. “Đức” của người cán bộ, đảng viên là đạo
đức cách mạng. Người coi đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán
bộ, đảng viên, giúp họ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh để hoàn thành tốt nhiệm
vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Đạo đức cách mạng tạo nên uy tín của cán bộ, đảng
viên. Đó là cơ sở để giáo dục, thuyết phục và lãnh đạo quần chúng nhân dân, là tấm gương
sáng cho mọi người noi theo. Người nói: “Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân” [5, tr.252-253]. “Tài” của người cán bộ, đảng viên là năng lực, trình
độ để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là
tài” [8, tr.492]. “Tài” của người cán bộ, đảng viên còn là khả năng hoạt động thực tiễn, kĩ
năng và hiệu quả thực hành các công việc được giao. Dù hoạt động trên bất kì lĩnh vực
nào thì người có “tài” phải là người có sự hiểu biết thấu đáo và thực hành thành thạo các
công việc mà mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ: “Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng
viên chẳng những thành thạo về chính trị mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh
đạo chung chung”“Tài” của người cán bộ, đảng viên phải được nhìn nhận, đánh giá theo
từng loại công việc và vì thế phải tìm chọn cán bộ có tài và bố trí phù hợp với yêu cầu sử
dụng của từng nhiệm vụ. Người căn dặn: “Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì
vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu
điểm của họ. Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người” Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn coi đạo đức cách mạng là tiêu chí hàng đầu, là “gốc” của người cán bộ cách mạng.
Nâng cao đạo đức cũng có nghĩa là củng cố vững chắc hơn cơ sở định hướng cho sự phát
triển tài năng của người cán bộ, vì lợi ích chung của Đảng, của giai cấp và của dân tộc.
Đạo đức của người cán bộ, đảng viên được nâng cao thì càng tăng thêm động lực tinh thần
thôi thúc họ vượt lên mọi khó khăn thử thách để phát huy tài năng, trí tuệ và các phẩm
chất khác nhằm hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là biểu trưng cho một trình độ cao về đạo đức và trí tuệ Việt Nam. Trong tư tưởng về con

11
người mới phát triển toàn diện, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển các giá trị tư tưởng
truyền thống dân tộc, tiếp biến những giá trị tinh hoa tư tưởng nhân loại, xác lập những
chuẩn mực mới trong quan niệm về con người phát triển toàn diện. Chính điều đó đã tạo
nên sắc thái mới cho các giá trị văn hóa của thời đại mang tên Người – thời đại Hồ Chí
Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức xây dựng con người mới phát triển toàn
diện Để xây dựng con người mới phát triển toàn diện thì cần phải sử dụng đồng bộ nhiều
biện pháp, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Tựu trung lại, trong sự nghiệp
cao cả ấy có thể khái quát thành những biện pháp cụ thể chủ yếu sau đây: (i) Xây dựng
con người mới phát triển toàn diện phải mang tính chủ động, tích cực Hồ Chí Minh cho
rằng, cán bộ, đảng viên có vai trò rất lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Muốn cải tạo mình, không tự nâng cao mình thì không thể được. Đảng phải quan tâm bồi
dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa trong công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động, vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao
động sáng tạo của hàng chục triệu người. Muốn có những con người như vậy xuất hiện
trong công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp xã hội khác, theo Hồ Chí Minh, cần
phải chủ động xây dựng nó. Người viết: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ
ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi,
cát, tre, gỗ… mà xây nên” Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong hàng ngàn năm dưới ách áp
bức bóc lột của chế độ phong kiến và hơn 80 năm bị chế độ thực dân cai trị, trình độ dân
trí kém phát triển, tính tích cực xã hội của nhân dân còn thấp kém. Do vậy, nhiệm vụ quan
trọng được đặt ra cho cả dân tộc là cần tích cực chủ động cải tạo lại những con người hầu
như sống trong các tập tục cổ xưa, nâng họ lên thành những chủ nhân chân chính của xã
hội mới. Bằng hệ thống biện pháp bồi dưỡng những con người mới, đáp ứng sự nghiệp lớn
lao của cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp
giáo dục, nâng cao dân trí, để góp phần thúc đẩy sự phát triển của nước nhà. (ii) Phát triển
giáo dục để xây dựng con người mới phát triển toàn diện Tri thức là sức mạnh của mỗi
con người và của cả dân tộc, vì vậy muốn tạo nên sức mạnh ấy thì phải thông qua giáo
dục. Xuất phát từ tinh thần hiếu học của dân tộc và từ yêu cầu mới của cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định vấn đề phát triển giáo dục, nâng cao dân trí vừa là vấn đề
thời sự, vừa là vấn đề lâu dài của tiến trình xây dựng và phát triển con người Việt Nam
mới. Vì lẽ ấy, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí là một bộ phận quan trọng hợp thành
chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi giáo dục
có vai trò to lớn trong việc hình thành lí tưởng, củng cố lòng yêu nước, phát triển nhân
cách, đồng thời, coi con người là sức sống của dân tộc, trí tuệ là sức mạnh nội sinh của
con người, ngày 03-9-1945, ngay sau Lễ tuyên bố độc lập một ngày, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định nhiệm vụ giáo dục và giáo dục lại nhân dân là một công việc cấp
bách nhất sau khi giành được chính quyền từ tay bọn thực dân và phát xít xâm lược.
Người viết: “Chúng ta có một nhiệm vụ cấp bách là giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng
ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” Nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục
trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục
là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây

12
dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học
trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ đó. Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của
Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính quyền phải thật sự quan tâm
hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục
của ta lên những bước phát triển mới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc đào tạo, bồi dưỡng
những con người thuộc thế hệ trẻ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược to lớn và lâu dài. Người viết: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định
phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lí luận Mác –
Lê-nin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Cần phải học kinh nghiệm tốt của các
đoàn thanh niên bạn. Học đi đôi với hành. Lê-nin nói: ‘Không học thì không thể trở thành
người cộng sản’. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai
của đất nước, vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân. Công tác đó phải thực hiện kiên trì, bền bỉ. Người luôn nhắc nhở mọi người là phải
học, học nữa, học mãi. Nhưng học để làm gì? Người khẳng định: “Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại.
(iii) Phát triển các phong trào thi đua yêu nước để xây dựng con người mới phát triển toàn
diện Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn làm cho cả dân tộc Việt Nam là một rừng hoa,
phải xây dựng mỗi tập thể là một vườn hoa đẹp, mỗi con người là một bông hoa đẹp để
cho rừng hoa dân tộc ngày càng đẹp. Muốn làm được điều đó, theo Người, phải thông qua
phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất, chiến đấu công tác để tạo nên ngày càng
nhiều chiến sĩ thi đua, những anh hùng, dũng sĩ. Họ là những con người mới, những người
luôn luôn cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính: là những người tôi của nhân dân, con
hiếu của Tổ quốc . Trong vấn đề xây dựng con người mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
chỉ thấy mặt tốt, mà còn thấy cả mặt hạn chế của con người. Cho nên theo Người, vừa cần
phải nêu cái tốt để phát huy, vừa phải chỉ ra cái hạn chế để ngăn ngừa và sửa chữa. Trong
việc dùng người, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ lãnh đạo là cần phải hiểu biết con
người, biết được sở trường và sở đoản của mỗi người để bố trí họ vào những công việc
phù hợp, phát huy được sở trường của họ làm lợi cho công việc, mà bản thân họ cũng
phấn khởi, tự tin và tích cực hơn. (iv) Chống chủ nghĩa cá nhân; chống tham ô, lãng phí,
quan liêu Suốt cuộc đời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thương yêu, quý trọng con
người, thương yêu, quý trọng nhân dân, đem hết sức mình phục vụ lợi ích của nhân dân.
Việc gì có lợi cho nhân dân dù nhỏ cũng làm, trái lại, những gì có hại cho nhân dân dù
nhỏ cũng tránh, không làm. Người luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
và động viên, cổ vũ mọi người thực hiện những đức tính tốt đẹp đó, nhất là cán bộ, đảng
viên cần phải gương mẫu để quần chúng noi theo. Người đề cao chủ nghĩa tập thể, chống
chủ nghĩa cá nhân, coi chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc đẻ ra trăm thứ bệnh, là trở ngại cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Người, tham ô, lãng phí, quan liêu là những
căn bệnh có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân. Nó là kẻ thù của nhân dân, là thứ giặc ở
trong lòng, là kẻ thù nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm ngay
trong các tổ chức của ta. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chống tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là
mặt trận tư tưởng và chính trị. Cũng như ở các mặt trận khác, muốn thắng ở mặt trận này,

13
ắt phải chuẩn bị kế hoạch tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên” . Người chỉ rõ
“chống tham ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng. Cách mạng là tiêu diệt những cái gì xấu,
xây dựng những cái gì tốt”. Đồng thời, Người cũng khẳng định: “Chống tham ô, lãng phí,
quan liêu là dân chủ. Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần
chúng. Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng
quần chúng thì mới thành công”.

CHƯƠNG 2. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY


DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TA
2.1. Đấu tranh chống lại sự thoái hóa biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức
 Các biểu hiện:
- Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên trong lĩnh vực dân
chủ, nhân quyền (tham nhũng, tiêu cực, sa đọa về đạo đức, lối sống, bất mãn, ảo tưởng
bản thân, bị các thế lực chống đối mua chuộc, lung lạc,...)
- Nói xấu Đảng, Nhà nước và xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử của Đảng, của đất
nước, của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)
- Phụ họa cùng với các thế lực phản động, thù địch; và ở mức độ khác nhau trực tiếp
xuyên tạc, công kích, chống đối công tác tư tưởng chính trị của Đảng trong lĩnh vực dân
chủ, nhân quyền.

 Giải pháp:
- Một là, tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống xã hội chủ nghĩa
cho cán bộ, đảng viên.

14
+ Việc này phải tiến hành thường xuyên, quản lý chặt chẽ, nội dung giáo dục phải
toàn diện.
+ Tập trung nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng
và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hằng năm, từng cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch giáo dục, học tập, bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông
tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa
phương.
+ Cấp ủy các cấp cần coi trọng nâng cao chất lượng công tác giáo dục; vận dụng
sáng tạo lý luận phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
+ Tích cực đổi mới phương pháp giáo dục, bảo đảm đa dạng, phong phú; gợi mở để
cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, tự tu dưỡng, tự kiểm điểm là quan trọng nhất.
+ Mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh học tập, làm theo tác
phong và phong cách Hồ Chí Minh, thể hiện cụ thể trong công việc hằng ngày, trong quan
hệ với nhân dân; tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa trong ý thức tu dưỡng, rèn
luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.
+ Thực hiện nghiêm các tiêu chí về đạo đức, lối sống; kết hợp chặt chẽ giữa “xây”
và “chống”, giữa sự gương mẫu, đi đầu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì với
duy trì nghiêm nguyên tắc, chế độ quy định, thi hành kỷ luật Đảng.
- Hai là, thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình, phê bình; phát huy vai trò nêu
gương, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì, chủ chốt.

15
=> Là biện pháp tốt nhất để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, củng cố đoàn
kết, thống nhất trong Đảng
=> Phương thuốc hữu hiệu nhất để chữa trị các căn bệnh do suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống gây ra.
+ Trong sinh hoạt, cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp cần phát huy dân chủ, nâng cao
tính chiến đấu, tinh thần thẳng thắn, dũng cảm trong tự phê bình và phê bình.
+ Cần khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người trung
thực, dám đấu tranh
+ Cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức
tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
+ Hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ một cách khoa học, phù hợp; quy định lấy
phiếu tín nhiệm ở các cấp, các ngành định kỳ hoặc đột xuất.
+ Đảng ta đã nhấn mạnh: “Thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và bí thư cấp ủy các cấp”3.
=> Mọi cán bộ, đảng viên phải nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu, nói đi đôi
với làm, nói và làm đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà
nước.
+ Trước hết, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến cơ sở phải
nêu gương trong rèn luyện đạo đức cách mạng, lối sống giản dị, trong sáng, hết lòng vì
Đảng, vì dân
+ Tổ chức đảng các cấp phải đặc biệt coi trọng lãnh đạo thực hiện nghiêm việc
kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu
quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm
thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và
người đứng đầu.

16
- Ba là, kiên quyết, ráo riết trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện các giải pháp
phòng, chống tham nhũng ở từng cơ quan, đơn vị.

+ Đảng ta chỉ rõ: “Tham nhũng và suy thoái về chính trị cũng như đạo đức đang trở
thành vật cản lớn cho thành công của sự nghiệp đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe
dọa sự tồn vong của chế độ”4.
=> Muốn triệt để chống tham ô, lãng phí thì phải kiên quyết chống nguồn gốc của
nó là bệnh quan liêu.
+ Cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải chủ động có các giải pháp
đồng bộ để đẩy lùi tệ quan liêu, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân và kiên quyết phòng,
chống tham nhũng (Dựa vào quần chúng nhân dân và phát huy vai trò của truyền thông thì
mới đạt hiệu quả cao)
+ Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải kiên quyết phòng, chống sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
+ Cấp ủy các cấp phải thường xuyên rà soát, nắm chắc chất lượng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý thuộc quyền và xử lý nghiêm những trường hợp không bảo đảm về tiêu
chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác thấp (nhất là những
trường hợp người nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp)
=> Đây là biện pháp rất cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và là
vấn đề sống còn của Đảng.
+ Cần phải xây dựng quyết tâm chính trị cao ở từng tổ chức đảng đến toàn xã hội
để kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên.
+ Lựa chọn để bố trí đúng cán bộ, nhất là người đứng đầu, có đức, có tài, có bản
lĩnh, có tâm huyết chống chạy chức, chạy quyền.

17
+ Trong công tác cán bộ cần có chương trình hành động cụ thể, có trọng tâm, trọng
điểm trong từng thời gian, phù hợp với từng ngành, từng địa phương, đơn vị, nêu cao trách
nhiệm của người đứng đầu ở mỗi cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện bảo đảm tính kế
thừa và phát triển, chống cục bộ, bè phái.
- Bốn là, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng.

+ Đảng ta chỉ rõ: “Các cấp ủy, tổ chức đảng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
và công khai kết quả để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”5.
=> Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường kiểm tra, giám sát đảng
viên chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp Nhà nước; thực
hiện Điều lệ Đảng, thực hiện 19 điều đảng viên không được làm; tự soi, tự sửa theo 27
biểu hiện mà Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra.
+ Trong tổ chức thực hiện, cần có biện pháp phù hợp để kiểm tra, giám sát về phẩm
chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng viên, nhất là những đảng viên có
chức, có quyền ở những lĩnh vực, ngành dễ xảy ra tiêu cực
+ Kiểm tra, xử lý phải kiên quyết đảng viên vi phạm kỷ luật.
+ Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân
về việc kiểm tra, giám sát đảng viên và tổ chức đảng trong thực thi nhiệm vụ.
+ Có quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt nhằm ngăn ngừa sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí
trước sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường hiện nay đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên.

18
2.2. XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHU CẦU PHÁT TRIỂN
ĐẤT NƯỚC
- Để khắc phục những hạn chế và xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước, cần quán triệt và thực hiện tốt một số giải pháp sau
đây:
Một là, đẩy mạnh xây dựng con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí
tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước,
lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị
trong ứng xử, giản dị trong cuộc sống; giàu trí tuệ, phong phú về đời sống tinh thần, trong
sáng về đạo đức, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, nếp sống văn
minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tuân thủ pháp luật, chăm lo xây dựng cộng đồng;
biết suy nghĩ độc lập, tự chịu trách nhiệm, có tinh thần hợp tác, làm việc có hiệu quả; có tư
duy đổi mới, năng động, sáng tạo, không ngại với khó khăn và gian khổ, có ý chí vươn
lên, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Xây dựng gia đình và xã hội
đoàn kết, hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc, kỷ cương, nền nếp, đời sống vật chất và tinh
thần phong phú, lành mạnh; có tinh thần tương thân, tương ái, tự nguyện, tự quản, dân
chủ, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hai là, văn hóa Việt Nam phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt là với phát triển kinh tế. Nếu chỉ quan tâm đến phát triển
kinh tế đơn thuần sẽ hình thành lối sống thực dụng của xã hội hưởng thụ; ngược lại, nếu
chỉ chú ý đến giá trị văn hóa đơn thuần thì xã hội sẽ nghèo nàn, đời sống vật chất sẽ khó
khăn, đời sống tinh thần thiếu phong phú. Do đó, phải thường xuyên quan tâm xây dựng
văn hóa trong kinh tế, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân với các
chuẩn mực trung thực, tôn trọng chữ tín, trách nhiệm...
Ba là, tập trung xây dựng nếp sống mới, những chuẩn mực văn hóa mới, xây dựng,
phát triển và sáng tạo những giá trị văn hóa mới trên nền tảng bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống, kế thừa và phát huy tính đa dạng, bản sắc văn hóa của các dân tộc,
của các vùng, miền. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, tôn tạo và
phát huy các giá trị di sản văn hóa, các di tích lịch sử - văn hóa với phát triển kinh tế - xã
hội, phục vụ giáo dục văn hóa truyền thống và phát triển du lịch. Hướng các hoạt động
văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ tới giá trị chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn
luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Nâng cao trí
lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức
và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

19
Đại biểu Diễn đàn Trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Bốn là, mở rộng giao lưu văn hóa, tiếp biến có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại, lối sống hay, sống đẹp của các dân tộc trên thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa
dân tộc; ngăn ngừa và đấu tranh chống sự xâm nhập văn hóa độc hại và lối sống phản văn
hóa trong quá trình hội nhập quốc tế. Chủ động hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện
đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ đối ngoại về văn hóa đi vào
chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực.
Năm là, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về định hướng phát
triển văn hóa trong giai đoạn mới, đó là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực
sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu
tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã
hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người
Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(5).

20
KẾT LUẬN
Như vậy, vấn đề con người và phát huy nhân tố con người luôn được Đảng quan
tâm, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, với quan điểm đổi mới xuất phát từ
con người, vì mục tiêu con người và “lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” , Và với những quan điểm của Hồ Chí Minh về
con người và phát huy nhân tố con người thì Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội đã phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực đặc biệt là nguồn lực
con người và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Không những vậy, nó còn thực sự là
tài sản tinh thần quý báu, là kim chỉ nam, là sợi chỉ đỏ cho Đảng ta đề ra chủ trương,
đường lối, chiến lược xây dựng và phát huy nhân tố con người Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Trong những năm tiếp theo, Việt Nam
cần tiếp tục phát huy nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người bằng một hệ thống giải
pháp đồng bộ, trong đó, tập trung vào một số giải pháp như: : Phát triển mạnh mẽ giáo dục
và đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước; tạo lập môi trường để
hoàn thiện và phát triển con người; đồng thời tạo động lực để phát huy nhân tố con người,
vì một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Xin chân thành cảm ơn!

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]https://123docz.net/document/9724377-phat-huy-nhan-to-con-nguoi-trong-su-nghiep-
xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay-duoi-anh-sang-tu-tuong-ho-chi-
minh.htm
[2]http://tapchikhoahoc.dnpu.edu.vn/UserFiles/Docs/TapChi/2017/05/8.%20Nguyen
%20Manh%20Chung_83-91.pdf
[3]https://www.xaydungdang.org.vn/dien-dan/quan-diem-cua-dang-ve-phat-huy-nhan-to-
con-nguoi-trong-phat-trien-dat-nuoc-12380
[4]https://trungtamytedakglong.vn/hoat-dong-dang-bo/van-dung-tu-tuong-cua-chu-tich-
ho-chi-minh-ve-phat-huy-nhan-to-con-nguoi-trong-cong-cuoc-doi-moi-dat-nuoc-155.html
[5]https://www.bqllang.gov.vn/chu-tich-ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong-ho-chi-
minh/5506-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-con-nguoi-vua-la-muc-tieu-vua-la-dong-luc-cua-su-
phat-trien-xa-hoi.html
[6]https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/phong-chong-suy-thoai-tu-
tuong-chinh-tri-dao-duc-loi-song-nhung-bieu-hien-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa-cua-can-
bo-dang-115003
[7]https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/823729/xay-
dung-van-hoa%2C-con-nguoi-viet-nam-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-ben-vung-dat-
nuoc.aspx
[8]Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. trang 644.
[9]Giáo trình Triết Học Mác - Lênin(2019), Trường Đại học Thương mại - Tác giả: GS.TS
Phạm Văn Đức, trang 21.
[10]Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, https://www.bqllang.gov.vn/

22

You might also like