You are on page 1of 16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH: “NƯỚC


ĐỘC LẬP MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG TỰ DO,
HẠNH PHÚC, THÌ ĐỘC LẬP CŨNG CHẲNG CÓ Ý NGHĨA GÌ”.
LÀM RÕ Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN
NAY.

Họ và tên: Phạm Thị Phương Thảo


Mã sinh viên: 11225962
Lớp học phần: LLTT1101(223)-10
Giảng viên: TS. Nguyễn Hồng Sơn
Hà Nội, ngày 11, tháng 3, năm 2024

PHỤ LỤC

A. Đặt vấn đề.........................................................................................................3


B. Giải quyết vấn đề..............................................................................................4
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc..................................................4
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc.............................................................................................................4
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
nhân dân..........................................................................................................5
a. Chăm lo hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu sự nghiệp cách mạng.......5
b. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân........................5
c. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã
hội dễ bị tổn thương nhất.............................................................................6
d. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự và hoàn toàn triệt để............6
e. Độc lập gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ..............................6
II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội........................................................................................................7
1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội...................7
2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc..................7
3. Điều kiện đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.............8
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay..................................9
IV. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội với Việt Nam hiện nay................................................................11
1. Kiên định mục tiêu con đường cách mạng Hồ Chí Minh đã lựa chọn......11
2. Phát huy sức mạnh nền dân chủ xã hội.....................................................12

2
3. Củng cố kiện toàn, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị.................12
4. Chống biểu hiện suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “Tự
chuyển hóa” trong nội bộ..............................................................................13
V. Kết luận...................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................14

A. Đặt vấn đề
Ngày 17 tháng 10 năm 1945
Trích:
“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân
các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, ký tên Hồ Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số 69,
ngày 17 tháng 10 năm 1945. Bác nói rõ: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đã xuất hiện một bộ phận nhỏ cán bộ có tư tưởng công
thần, hách dịch, vun vén lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát, quan tâm đến đời sống của
quần chúng nhân dân, gây bức xúc dư luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát hiện,
Người viết bài đấu tranh, lên án gay gắt và nghiêm khắc chấn chỉnh.
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi con người,
quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ em được
nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Các
quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng và hoàn
thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả nhận thức và

3
hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà Người mong
muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không thể thực hiện
được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản, thiết thực
của con người.
Nền độc lập của một dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho dân tộc ấy có hòa
bình ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa, thống nhất về lãnh thổ và
chủ quyền quốc gia. Nó phải được “đo bằng những khả năng và điều kiện đảm bảo
cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch; đảm
bảo cho dân tộc khác trong thế giới ngày nay, ngày càng vươn lên đỉnh của sự giàu
có, văn minh, hiện đại, công bằng và bình đẳng.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi làm rõ luận điểm
trên và xem rằng ý nghĩa của nó có còn giá trị với Việt Nam hiện nay không?

B. Giải quyết vấn đề

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc.

Đối với người dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là độc lập
cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân
tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Cách tiếp cận từ quyền con người:
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu những
nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ,

4
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 như quyền
bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái
quát lên chân lý bất diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”
- Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi chưa có
độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
+ Năm 1919, nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới
thứ nhất họp ở Hội nghị Vécxây (Pháp) mà ở đó Tổng thống Mỹ V. Wilson đã kêu
gọi trao quyền tự quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người
yêu nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của
nhân dân An Nam, với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và
đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
- Khi đã giành độc lập, tự do, phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập, tự do ấy
+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân
dân.

a. Chăm lo hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu sự nghiệp cách mạng
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước giành được độc lập, nhưng
hậu quả của chiến tranh vô cùng nặng nề, nhân dân phải sống trong cảnh khốn cùng,
nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ cấp bách nhất của Chính phủ mới là
chăm lo, bảo vệ tính mạng của người dân.
Vì vậy, tại kỳ họp đầu tiên Chính phủ lâm thời mới của Việt Nam, Người đề ra 6
nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết để đáp ứng nhu cầu trước mắt của người dân:
chống đói, chống ngu dốt và các tệ nạn khác, xóa bỏ thuế thân, thuế chơ, thuế đò,…
Để thực hiện các nhiệm vụ trên,Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc ra sức cứu
đói và những lời khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay!
Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự
do, độc lập” hay lời kêu gọi “một miếng khi đói bằng một gói khi no” mà Người đã
gương mẫu thực hiện. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được phát động,

5
phong trào thanh toán nạn mù chữ được dâng cao trên cả nước. Công tác văn hóa,
giáo dục cũng được chính quyền mới quan tâm đẩy mạnh. Để thiết lập cơ sở pháp lý
cho nhà nước kiểu mới của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh về Tổng
tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp, khẳng định quyền làm chủ
đất nước và các quyền tự do, dân chủ khác của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là một
trong những mục tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Điều đó được thể hiện ngay trong quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội.
Người nói “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng
sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ,
những phong tục tập quán không tốt thì dần được xóa bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”
b. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trong những ngày đầu tiên sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định rõ trách nhiệm của Đảng và nhà nước trong việc chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Người chỉ rõ: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải
hết sức tránh” Đảng và nhà nước ta sinh ra từ nhân dân, là những người lãnh đạo
của nhân dân và là đầy tớ của nhân dân, đồng thời nhắc lại không có lợi ích nào
khác ngoài lợi ích của nhân dân.
Vì vậy, đảng viên, cán bộ chính quyền phải quan tâm từ trên xuống dưới đến đời
sống nhân dân, tăng cường đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội, phát huy tiềm năng của
toàn dân.
c. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã hội
dễ bị tổn thương nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến hạnh phúc của nhân dân mọi tầng
lớp mà còn quan tâm đến “những người đã anh dũng hy sinh một phần xương máu”
- những người đã anh dũng hy sinh vì Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến lực lượng thanh niên đi đầu trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, coi họ là “lực lượng chủ yếu
xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Người cũng đánh giá cao những đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và luôn
quan tâm đến sự bình đẳng thực sự cho phụ nữ.
d. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự và hoàn toàn triệt để.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả
các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết
định về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng, thì độc
lập đó chẳng có ý nghĩa gì. trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau
Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài
bao vây tứ phía, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã thay mặt

6
chính phủ ký với đại diện chính phủ Pháp Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6/3/1946, theo đó:
“Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự
do có Chính Phủ của mình, quân đội của mình, tài chính của mình.
e. Độc lập gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Sau cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm
đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược, một lần thực dân Pháp lại bày ra cái
gọi là “Nam kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta một lần nữa. Trong hoàn cảnh đó, trong
bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam
Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không
bao giờ thay đổi!”
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị
chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm mưu
chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá, không gì
lay chuyển: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai
được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”. Đến cuối đời, trong Di
chúc, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, sự thống
nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ
thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Thực hiện tư tưởng
trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tiến hành giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước năm 1975 và độc lập dân tộc từ đó gắn liền với toàn vẹn lãnh
thổ.

II. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.

1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc
dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực hiện tiến trình từng bước và phục tùng
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc
lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với dân tộc
Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương,
sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao
hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập

7
hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình
thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với
tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục
tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc
lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là
mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân
tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo
ra đầy đủ. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định
con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân
tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao giờ cũng
gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã
trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc
độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo
chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định "Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ
có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân
chính"
2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận
động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết
xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang
tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững
mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ
trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng
Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ
cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh
giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Người xác định công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân
yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Người đòi hỏi công - nông - trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt
nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một
khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm

8
đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt chẽ với
cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người có nhiều
chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các
lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.
Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm,
trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
3. Điều kiện đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và
phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
được thể hiện trên thực tiễn cách mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:

Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam là con
đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân
lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành
thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã
mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu
tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện "kháng chiến và kiến quốc". Thời kỳ này Hồ
Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách
mạng Việt Nam. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường
cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán đường
lối :"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc". Đường lối đó là nguyên nhân quyết định
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thời kỳ 1954-1975: Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập
trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược: Trong mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, Người xác định rất rõ vị
trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách
mạng hai miền; đây là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn
bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ
Chí Minh đã đề xuất và kiên trì bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn
chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước

9
ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội
dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sau năm 1975, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt
Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả
nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ
khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam" [3]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn
dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”
Trong bối cảnh thế giới và khu vực còn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là các
thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, hòng xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi ngay trong nội bộ Đảng
và cán bộ, đảng viên phải luôn vững vàng lập trường, bản lĩnh, kiên định con đường
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mỗi cấp, ngành và địa phương; mọi
lực lượng và toàn dân cần tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; nêu cao cảnh giác, chủ động ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

Luận điểm "Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc
lập cũng chả có nghĩa lý gì" đề cập đến sự quan trọng của việc kết hợp giữa độc lập
quốc gia và quyền lợi, hạnh phúc của người dân. Trong bối cảnh của Việt Nam hiện
nay, luận điểm này có ý nghĩa quan trọng với một số vấn đề sau:
1. Tự do dân chủ: Việt Nam đã đạt được độc lập quốc gia từ nhiều năm trước,
nhưng việc thúc đẩy tự do dân chủ và quyền lợi công dân vẫn đang gặp nhiều thách
thức. Việc bảo vệ và thúc đẩy tự do ngôn luận, tự do biểu đạt ý kiến, và quyền lợi
của công dân là cần thiết để đảm bảo một xã hội công bằng và phát triển.

2. Phát triển bền vững: Hạnh phúc của người dân không chỉ đến từ việc có được
mức sống tốt mà còn từ việc được tham gia vào quyết định về tương lai của đất
nước. Việt Nam cần tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá trình xây dựng
đất nước để đảm bảo phát triển bền vững và hài hòa. Thực tế cho thấy, các chủ
trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong gần 35
năm đổi mới đã luôn hướng tới mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất

10
và tinh thần của nhân dân” như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Theo
đó, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực; công tác bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe nhân dân được chú trọng... Chính phủ đề ra Chương trình Mục tiêu quốc gia
giảm nghèo bền vững(giai đoạn 2016 - 2020) với số vốn từ ngân sách trung ương là
41.449 tỷ đồng.Ngoài ra, Nhà nước còn bố trí 44.214 tỷ đồng để thực hiện chính
sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, tín
dụng…; 70% người dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó, 13%
thuộc tầng lớp khá giả theo chuẩn thế giới,... chính là những con số “biết nói”, góp
phần từng bước đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương
lai.
3. Đối ngoại và quốc tế: Việt Nam cũng cần thúc đẩy quan hệ với cộng đồng quốc tế
thông qua việc tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người dân. Việc thực hiện luận
điểm này sẽ giúp nâng cao uy tín quốc tế và tạo điều kiện cho sự hợp tác và phát
triển.
4. Xây dựng và tuyên truyền: chú trọng việc lựa chọn, xây dựng và tuyên truyền sâu
rộng những cá nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo
Bác về sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự
lan tỏa trong cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ
luật nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành nhiệm
vụ chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
5. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa: xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên mọi mặt của
đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con
người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản
lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc về học vấn nền
tảng, đào tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ
thuật trong sản xuất, hình thành phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng
tạo.
Để ổn định xã hội, phát huy nguồn lực, khả năng sáng tạo của nhân dân, để nhân
dân không còn đói nghèo, được bảo đảm về an sinh xã hội, các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và Chính phủ về kinh tế phải luôn hướng tới
sự ổn định và phát triển xã hội, thực thi hiệu quả, trở thành một động lực to lớn để
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Khi
nào cuộc sống của nhân dân còn đói nghèo, chưa được no ấm, hạnh phúc, thì chừng
đó, các cấp ủy đảng, chính quyền nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng
chưa hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ của mình trước nhân dân.
Tóm lại, việc đảm bảo sự kết hợp giữa độc lập quốc gia và hạnh phúc tự do của
người dân là yếu tố quan trọng để Việt Nam phát triển và tiến xa hơn.

11
Chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và tiêu chí
đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân. Vì
vậy, để tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
nhất là về “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống
nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

IV. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội với Việt Nam hiện nay.

1. Kiên định mục tiêu con đường cách mạng Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được Đảng Cộng sản Việt
Nam thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng các thời kỳ và thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Qua mỗi bước ngoặt, mỗi chặng đường cách mạng, Đảng ta luôn khẳng
định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử”[1]. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong cương lĩnh,
đường lối, chủ trương của Đảng chính là cách mà những người cộng sản Việt Nam
chứng tỏ bản lĩnh trước những công kích, xuyên tạc của các thế lực thù địch chống
phá mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam chính là nguồn động lực vô cùng to lớn tập hợp, động viên, huy
động sức mạnh của toàn dân tộc vượt qua những thử thách cam go của lịch sử. Công
cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế do Đảng khởi xướng và lãnh đạo chính
là sự tiếp tục con đường cách mạng mà dân tộc, nhân dân ta đã lựa chọn. Đường lối
đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) hoạch định, được bổ
sung, phát triển qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI
và XII chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận, nhận thức đúng đắn hơn,
khoa học hơn các quan điểm, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
2. Phát huy sức mạnh nền dân chủ xã hội
Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền về tay nhân dân sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung
ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh chủ
trương phát huy dân chủ để tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước “trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây

12
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Phát huy tinh thần của
Đại hội VI, các kỳ đại hội tiếp theo cũng nhấn mạnh “sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng là “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân”. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được
thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
3. Củng cố kiện toàn, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị
Những năm đầu xây dựng chế độ mới, trong sự chuyển mình của một dân tộc từ địa
vị nô lệ, thuộc địa trở thành một nước độc lập, tự do, dân chủ, hệ thống chính trị ở
cơ sở dù còn non trẻ song sớm được củng cố bởi tinh thần đoàn kết, đồng lòng trong
cộng đồng ở những thời khắc quan trọng, quyết định vận mệnh của đất nước..., qua
đó, dần định hình giá trị của con người mới xã hội chủ nghĩa (những quyền căn bản
của cá nhân cũng như quyền độc lập và tự quyết của dân tộc được khẳng định, bảo
vệ). Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hệ
thống chính trị ở cơ sở tiếp tục được củng cố và kiện toàn, huy động tối đa sức
người, sức của cho tiền tuyến, cho chiến thắng, góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ
lịch sử là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước; đồng thời, chứng minh sự đóng góp to lớn và ý chí quật cường, kiên
định của nông dân, là “lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung
thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc
lập thống nhất thực sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”. Những năm đầu
thời kỳ hòa bình, ổn định, toàn dân xây dựng đất nước, với xuất phát điểm là nền
nông nghiệp truyền thống, mới bước vào giai đoạn đổi mới, hệ thống chính trị ở cơ
sở là nơi trực tiếp tiếp nhận sự thay đổi, chuyển giao những yêu cầu, đòi hỏi cấp
bách đặt ra từ thực tiễn cuộc sống; nhiều thành tựu trong quá trình đổi mới (trước
hết là tư duy mới về phát triển kinh tế, cơ chế khoán sản phẩm đến hộ gia đình trong
hợp tác xã nông nghiệp…) chủ yếu xuất phát từ quá trình nông dân tìm tòi, sáng tạo
cách làm ăn mới. Có thể thấy, hệ thống chính trị đã được xây dựng phù hợp, đáp
ứng với yêu cầu của thực tiễn đất nước ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
4. Chống biểu hiện suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “Tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đánh giá: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện,
vô nguyên tắc...”. Tình trạng này “làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng;
nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự
tồn vong của chế độ”.

13
Văn kiện Đại hội XII của Đảng một lần nữa chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đánh giá: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt
lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Có thể thấy, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống là nguy cơ liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế
độ.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức
công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao
tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng
đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định
hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao
trong xã hội”. Đồng thời, đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng
chính trị, học tập nghị quyết, kết hợp chặt chẽ việc phổ biến, quán triệt làm rõ cơ sở
lý luận, thực tiễn với gợi mở vấn đề thực tế đang đặt ra và thảo luận, trao đổi, phát
huy tìm tòi, sáng tạo của cá nhân; chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối
tượng; thường xuyên cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp.

V. Kết luận

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân
chủ; độc lập phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; hơn nữa,
độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân.
Vậy nên khi nêu mục tiêu giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh cũng đã định hướng đến
mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Khi đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không coi đó là mục tiêu cuối
cùng của cách mạng, mà là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo – cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu sắc, triệt để
thì càng tạo ra những tiền đề thuận lợi, sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Hơn nữa, cách mạng giải phóng dân tộc đã được Hồ Chí Minh khẳng định là
con đường cách mạng vô sản, vì vậy bản thân cuộc cách mạng này ngay từ đầu đã
mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng trên của Hồ Chí Minh đúng đắn
và sáng tạo vì không chỉ đáp ứng được yêu cầu khách quan, cụ thể của cách mạng
Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/5465-van-dung-tu-tuong-
ho-chi-minh-ve-doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi-o-cong-hoa-dan-
chu-nhan-dan-lao.html
2. https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc/
hanh-trinh-lich-su/doc-lap-dan-toc-va-chu-nghia-xa-hoi-tu-tuong-lon-cua-chu-tich-
ho-chi-minh-661516
3. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr. 36 – 39, tr.156 – 170
5. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2002, t.4,
tr.613
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3
7. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 1970, tr.11

15
16

You might also like