You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Bằng sự hiểu biết của mình, anh, chị hãy minh chứng cho luận
điểm sau đây: “Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc; nhà văn hóa
kiệt xuất của dân tộc Việt Nam”.

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Tuyết Anh


MSV: 11220474
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh_Quản trị Marketing CLC
64D_AEP(123)_15
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện

HÀ NỘI – 2023
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................3
NỘI DUNG .....................................................................................................................4
1. KHÁI LƯỢC VỀ HỒ CHÍ MINH........................................................................4
2. HỒ CHÍ MINH LÀ ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC ............................5
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ....................................................5
2.1.1. Về độc lập dân tộc.......................................................................................5
2.1.2. Về cách mạng giải phóng dân tộc..............................................................6
2.2. Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam ..............................6
3. HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM ..........................................................................................................................10
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ..............................................................10
3.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác .....................................................................................................................10
3.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa ............................. 11
3.1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới .......................12
3.2. Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam ...................12
4. LIÊN HỆ THỰC TIỄN ........................................................................................16
KẾT LUẬN ..................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................20

2
LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam ngay từ những buổi bình minh lịch sử đã gắn liền với truyền
thống dựng nước và giữ nước hào hùng anh dũng của cha anh. Dù là thời đại nào, thời
gian nào, truyền thống vẻ vang ấy vẫn luôn hiện hữu, dựng nước luôn luôn đi đôi với
giữ nước, trong đó dựng nước là yếu tố cơ bản, phải xây dựng được đất nước hùng
cường về mọi mặt mới có đủ khả năng chiến thắng các thế lực thù địch và phải giữ
được nước mới có đủ điều kiện để kiến thiết nước nhà giàu mạnh. Trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc, truyền thống ấy đã đi sâu vào tâm khảm, có ảnh hưởng sâu sắc đến
hệ tư tưởng, các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta và sinh ra biết bao vĩ
nhân, những anh hùng giải phóng dân tộc đã viết lên những trang sử hào hùng của toàn
dân tộc. Trong số những con người vĩ đại đã lưu danh vào sử sách, không thể không
nhắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài đã tạo ra bước ngoặt vĩ đại cho
vận mệnh và số phận của cả dân tộc.
Nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến sĩ Modagat Ahmed (Giám đốc UNESCO
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương) đã từng nhận định: “...Chỉ có ít nhân vật trong
lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí
Minh là một người trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải
phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã
mang lại một hy vọng và viễn cảnh mới cho những người đang đấu tranh không khoan
nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này...”. Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh cuộc đời và sự nghiệp của Người là một bản anh hùng ca chói lọi về tinh
thần cách mạng triệt để, một tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa yêu nước, về phẩm
chất cộng sản, về trí tuệ uyên bác, đạo đức cách mạng trong sáng. Trên mặt trận văn
hóa tư tưởng, Người lại là một danh nhân kiệt xuất, một nhà văn hóa tầm cỡ đã có
những đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn hóa dân tộc nói riêng và sự tiến
bộ của nhân loại nói chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và văn hóa là hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, về tiến trình
xây dựng và phát triển đời sống đất nước; là kết quả của sự kế thừa, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong những điều kiện cụ thể của thực tiễn lịch sử
Việt Nam. Hệ thống lý luận tư tưởng của Người không chỉ có giá trị với dân tộc Việt
Nam mà còn có ý nghĩa thời đại, góp phần giải quyết nhiều vấn đề đang đặt ra với
nhân loại hiện nay.
Dựa trên hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và về văn hóa,
cùng với thực tiễn lịch sử đã để lại, em xin chọn nghiên cứu và phân tích đề tài: Minh
chứng cho luận điểm: “Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc; nhà văn hóa
kiệt xuất của dân tộc Việt Nam”.

3
NỘI DUNG
1. KHÁI LƯỢC VỀ HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên
là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày
19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự,
tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh
từ thuở niên thiếu đã tiếp thu truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất
của cha anh, tiếp thu nền văn hóa lâu đời của dân tộc và tinh hoa văn hóa phương
Đông. Lại sống trong giai đoạn lịch sử đầy biến động, thời buổi dân tộc Việt Nam
đang sống trong lầm than tủi nhục dưới ách thống trị của đế quốc Pháp, Người đã sớm
chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân.
Lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã đứng lên chiến đấu, nhiều cuộc khởi nghĩa,
đấu tranh anh dũng bất khuất giành độc lập và tự do dân tộc nổ ra, song đều lần lượt
thất bại do khủng hoảng sâu sắc về đường lối, phương sách cứu nước. Tất cả những
điều ấy đã hun đúc trong con người Hồ Chủ tịch một ý chí và khát vọng cháy bỏng
giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Tháng 6 năm 1911, với tên gọi mới là Văn Ba,
Người đã rời bến cảng Nhà Rồng với hành trang mang theo là lòng yêu nước nhiệt
thành và quyết tâm “làm bất cứ việc gì để sống và để đi” nhằm thực hiện hoài bão tìm
ra con đường cứu nước, cứu dân.

Khoảng thời gian bôn ba khắp năm châu bốn biển, Người hòa mình vào đời
sống của nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động học tập, vừa nghiên cứu hăng
say, tiếp thu lý luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới. Đến năm
1917, sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản
đã đưa Người đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng
đắn – con đường cách mạng vô sản. Từ đây, ánh sáng chân lý của thời đại đã soi sáng
cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chủ tịch.

Bằng tư chất thông minh, sự nhạy bén về chính trị và một khát vọng cháy bỏng
giành độc lập, tự do cho dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách
mạng Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam bước qua muôn trùng gian khó, giành lấy
thắng lợi vẻ vang, giải phóng nhân dân khỏi cảnh áp bức tù đày. Đồng thời, Người
dành trọn tâm sức xây dựng sự đoàn kết nhất trí, không ngừng vun đắp quan hệ gắn bó,
hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng giềng, cống hiến xuất sắc cả về
lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến sĩ lỗi lạc, kiên cường, dành trọn một đời
chiến đấu cho hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc và tiến bộ xã hội.

4
2. HỒ CHÍ MINH LÀ ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
2.1.1. Về độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc bao giờ cũng là khát vọng cháy bỏng, thiết tha nhất của toàn
nhân loại, nhất là đối với nhân dân các dân tộc thuộc địa. Đó là động lực, là lẽ sống, là
nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Xuyên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng coi độc lập dân tộc là mục tiêu, kim
chỉ nam vẽ đường rẽ hướng cho công cuộc giải phóng dân tộc. Về độc lập dân tộc, tư
tưởng của Người xác định rõ [1]:
Thứ nhất, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu
những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ,
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 như quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát lên chân
lý bất diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó
là những lẽ phải không ai chối cãi được” [2].
Thứ hai, độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người
đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Người luôn coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc cho nhân dân, như Người
từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. [3]
Thứ ba, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự
quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng…, thì độc
lập đó chẳng có ý nghĩa gì.
Thứ tư, độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm
mưu chai cắt đất nước của dân tộc. Đối diện với âm mưu của kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhiều lần khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong
Di chúc, Người cũng khẳng định niềm tin tuyệt đối vào sự thống nhất của nước nhà:
5
“Dù khó khan gian khổ đến mất, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc
Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào
Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2.1.2. Về cách mạng giải phóng dân tộc
Thất bại của cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp đã đặt ra nhiều vấn đề về con
đường giải phóng dân tộc, lực lượng lãnh đạo cách mạng... Lịch sử đặt ra nhu cầu bức
thiết cho cách mạng Việt Nam là phải có một hệ tư tưởng mới, một đường lối, phương
sách mới đủ sức soi sáng, dẫn dắt con đường đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc đi
tới thành công. Sau những tháng ngày bôn ba qua các quốc gia châu lục, tiếp thu
những tinh hoa, tư tưởng lý luận cách mạng sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những phương hướng cho cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết dân
tộc, lấy liên minh công – nông làm nền tảng.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp
bạo lực cách mạng.
2.2. Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam
Với cuộc đời hoạt động lịch sử vẻ vang, Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là vị
anh hùng giải phóng dân tộc mà nhân dân Việt Nam đời đời biết ơn ghi nhớ. Người đã
chèo lái con thuyền cách mạng dân tộc vượt qua muôn trung gian khó để giành được
độc lập tự do, giải phóng con người.
Tìm ra con đường cứu nước là công lao to lớn đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam. Xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Người xác định rõ độc lập dân tộc là mục tiêu, kim chỉ nam mở ra những hướng
đi đúng đắn cho công cuộc cứu nước. Trong hành trình đi qua các quốc gia và châu lục
trên thế giới, Người chứng kiến và hòa mình vào cuộc sống của các dân tộc bị áp bức,
hăng hái tham gia phong trào của giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Ở đó, Người
đã khám phá ra một sự thật rất mới, đó là: Khắp nơi trên thế giới, dù ở các nước giàu
mạnh hay các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, đâu đâu cũng có những người cùng khổ
bị áp bức, bóc lột và đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính, những tập đoàn thống trị

6
tàn bạo sống bằng áp bức và bóc lột. Thực tiễn ấy đã thức tỉnh Hồ Chí Minh, giúp
Người nhận thức sâu sắc bản chất của chủ nghĩa tư bản và thực dân.
Sự kiện đánh dấu bước ngoặt trọng đại trên con đường cứu nước của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là vào tháng 7/1920, khi Người được đọc bản “Sơ thảo luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên tờ báo Nhân đạo của Đảng Xã
hội Pháp. Luận cương của V.I. Lê-nin đã truyền cho Người sự ủng hộ và nguồn sức
mạnh để vươn tới cái đích của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ đây, Người đã
tìm ra lời giải đáp cho mọi trăn trở, cho câu hỏi khát khao đã cháy trong lòng mình bấy
lâu. Đó là tìm thấy con người cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam nói riêng và
các dân tộc thuộc địa khác trên toàn thế giới nói chung. Người khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng các dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản” [4]. Đồng thời, Người tin theo Lênin và đi theo Quốc tế III do Lênin sáng lập.
Tại đại hội Tua (Tours) của Đảng Xã hội Pháp tháng 12/1920, Hồ Chí Minh là đại biểu
Đông Dương, đồng thời trở thành một trong những sáng lập viên sáng lập ra Đảng
Cộng sản Pháp. Bằng hành động lịch sử, bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III, hoàn
toàn tin theo Lênin và con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng
Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng về đường lối, bước qua lối mòn bảo thủ trong
quan niệm cứu nước đương thời, xác định một con đường đúng đắn cho cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới có thể
giải phóng được các dân tộc bị áp bức, bóc lột và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ.
Không chỉ tiếp thu những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lê-nin về
cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh còn tích cực vận dụng sáng tạo, đổi mới,
không ngừng bổ sung và củng cố các nhân tố, luận điểm mới phù hợp với thực tiễn
lịch sử Việt Nam, đảm bảo đưa sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta tới thắng lợi. Lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đã soi rọi cho Người một chân lý: Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng Cách Mệnh” để “trong thì vận động tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [5].
Xuất phát từ nhận thức này, Hồ Chủ tịch từng bước truyền bá một cách có hệ thống
chủ nghĩa Mác-Lênin về nước; ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính
đảng vững mạnh ở Việt Nam đủ khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của dân
tộc. Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Cùng với những
vấn đề được thể hiện trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt của Đảng (1930) – Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách
mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, đánh dấu sự chuyển biến trong phong trào
công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam phát triển từ trình độ tự phát lên tự giác.
Người đã đề ra đường lối cứu nước chiến lược cụ thể cho cách mạng Việt Nam, đó là
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [6].
Cụ thể là, cách mạng Việt Nam phải trải qua 2 giai đoạn: Trước hết là làm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa; trong đó độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu của cách mạng.
7
Từ ngày Đảng ra đời, Người luôn quan tâm tới công tác xây dựng Đảng bởi lẽ
“Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy” [7]. Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng quan tâm, rèn luyện, chỉnh đốn,
xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh, trở thành đội tiên phong vững vàng lãnh đạo
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Đồng thời, Người còn đề cao việc xây dựng khôi đại đoàn kết dân tộc vì sự
đoàn kết trong nhân dân là chìa khóa tạo nên sức mạnh vô song chiến thắng mọi kẻ thù.
Đây là tư tưởng chiến lược được xác định xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam.
Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành
lập, có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và Tổ quốc
Việt Nam cũng như góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Song song với việc tập trung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn trọng tâm xây dựng lực lượng vũ trang “trung với nước, hiếu
với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng” [8]. Tháng 12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền
thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập. Từ những đơn vị tự vệ ban đầu,
Quân đội nhân dân Việt Nam không ngừng hoàn thiện, trưởng thành và lớn mạnh, sẵn
sàng chiến đấu, thực thi mọi nhiệm vụ mà Đảng và dân tộc đề ra qua từng thời kỳ cách
mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, kết hợp với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lực lượng Quân đội
tinh nhuệ, quả cảm, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại, vang
dội khắp năm châu. Trong đó trước hết phải kể đến thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đã đập tan ách đô hộ của chế độ thực dân phong kiến giành chính
quyền về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân
Việt Nam và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [9].
Với bản “Tuyên ngôn độc lập” bất hủ ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đó là lời tuyên bố với toàn thế
giới về quyền độc lập dân tộc và quyền dân chủ tự quyết của dân tộc Việt Nam, sự
khẳng định cho dáng hình Việt Nam trên bản đồ thế giới. Từ đây, dân tộc Việt Nam
bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập tự do.
Ngay sau khi giành độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ của ta lại phải đổi
mặt với tình thế vô cùng khó khăn, thù trong, giặc ngoài âm mưu lật đổ chính quyền
cách mạng, hòng áp đặt ách cai trị dân tộc ta một lần nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
toàn Đảng đã sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn, chèo lái con thuyền cách mạng vượt
qua tình thế hiểm nguy “ngàn cân treo sợi tóc”, tranh thủ thời cơ bảo vệ Đảng và củng
8
cố, giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ. Theo lời hiệu triệu của Người, Đảng và
toàn dân đoàn kết một lòng vừa xây dựng kiến quốc, vừa kháng chiến bảo vệ độc lập
dân tộc, cùng một lúc chiến đấu với ba kẻ thù “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.
Trên cơ sở đường lỗi kháng chiến mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra, kết hợp với
truyền thống đoàn kết, yêu nước, anh dũng của toàn dân tộc, cách mạng Việt Nam lần
lượt đánh bại mọi âm mưu chống phá, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, liên tiếp giành
được tháng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc Pháp.
Trong đó phải kể đến Chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, mà đỉnh cao là Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến thắng lịch
sử ấy buộc thực dân Pháp phải chấp nhận ký hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) về chấp dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi vẻ vang, miền Bắc Việt Nam hoàn
toàn được giải phóng, nhân dân ta bước vào thời kỳ cách mạng mới, cùng lúc thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiếp tục đấu
tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Ở miền Nam, sau
hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ thay chân Pháp thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước
ta, them vọng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Cách
mạng Việt Nam một lần nữa phải đối đầu với thế lực đế quốc hùng mạnh để giữ vững
nền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, với bản lĩnh phi thường, tài lãnh đạo thiên tài, cùng ý
chí độc lập tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chèo lái con thuyền cách mạng và tin
tưởng sắt son vào cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc. Năm 1966, giữa thời điểm
Mỹ leo thang chiến tranh, mở rộng tấn công bằng cả không quân và hải quân, tăng
cường ném bom phá hoại miền Bắc, một lần nữa Người khẳng định quyết tâm của dân
tộc Việt Nam. Từ thủ đô Hà Nội phát đi lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh
đuổi đế quốc Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Trước lúc đi xa, dẫu chiến tranh còn ác liệt, đất nước vẫn còn bị chia cắt, Người đã
viết và gửi lại cho nhân dân những dòng cô đọng, tâm huyết nhất về chặng đường cách
mạng của dân tộc. Người đã nhìn thấy vận mệnh Tổ quốc, thắng lợi tất yếu của sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam: “Dù có khó khăn gian khổ đến
mấy, nhân dân ta sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải rút khỏi nước ta.
Tổ quốc ta sẽ nhất định thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”
[10]. Niềm tin vững chắc và ý chí sắt đá ấy đã đã khơi dậy và nêu cao tinh thần yêu
nước của hàng triệu người con đất Việt, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, với tinh thần: “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả vì sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Sự đoàn kết đồng lòng của cả dân tộc đã làm
nên chiến thắng lịch sử vang dội – Đại thắng mùa xuân năm 1975. Đất nước Việt Nam
được hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối, nhân dân Nam – Bắc sum họp
một nhà, dân tộc giành được độc lập tự do hoàn toàn [11].
Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận mệnh và con
người Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn. Từ thân phận là một dân tộc nô lệ mất nước, ta
vươn lên trở thành một dân tộc tự do độc lập. Đất nước Việt Nam từ chỗ bị chia cắt đã
9
thống nhất non song, quy về một mối. Xã hội Việt Nam từ chỗ là một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, lạc hậu, chìm trong tăm tối lầm than đã vươn lên một xã hội tươi sáng,
đặt những bước đi đầu tiên trên con đường xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
hiện đại, văn minh cho con người. Việt Nam từ xứ mất tên trên bản đồ thế giới đã
khẳng định vị trí, dáng hình dân tộc, trở thành một biểu tượng tiêu biểu trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới và có những đóng góp xứng đáng vì sự
phát triển tiến bộ của loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi,
là người anh hùng kiệt xuất trong lịch sử dân tộc. Sự nghiệp cách mạng và công lao vĩ
đại của Người gắn liền lịch sử quang vinh của toàn Đảng, toàn dân, với những trang
hùng ca của cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
mãi mãi là anh hùng giải phóng dân tộc, là một biểu tượng vĩ đại chiến đấu không
ngừng vì độc lập tự do, đã đi vào lịch sử dân tộc và toàn thế giới, sống mãi với muôn
đời.
3. HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
3.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác
Quan hệ giữa văn hóa và chính trị. Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời sống có
bốn vấn đề phải được coi trọng ngang nhau và có tác động qua lại lẫn nhau, đó là
chính tị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Ở nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, xáo ách nô lệ, thiết lập nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Đó chính là sự giải phóng chính trị để mở đường cho văn hóa
phát triển. tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức là
văn háo phải thực hiện nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà
chính trị phải có hàm lượng văn hóa cao.
Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế. Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh
giải thích rằng, văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, những cơ sở hạ tầng của
xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được.
Tuy nhiên, văn hóa cũng không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa là
văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại
kinh tế. Sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển;
ngược lại, mỗi bước phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của
văn hóa.
Quan hệ giữa văn hóa với xã hội. Giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải
phóng xã hội, từ đó văn hóa mới có điều kiện phát triển. Xã hội thế nào văn hóa thế ấy.
Văn học, nghệ thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú, nhưng trong chế độ nô lệ
của kẻ áp bức, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, không thể phát triển được. Vì vậy phải làm
cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng chính trị,

10
giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên địa vị cầm quyền thì mới giải
phóng được văn hóa.
Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Trách nhiệm
của con người Việt nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy, phát triển
những giá trị của văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai
đoạn lịch sử. Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho
văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Tiêu chí
tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn
hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là
điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
3.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
Thứ nhất, văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Trước hết, theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu – nhìn một cách
tổng quát – là quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc;
là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân thiện mỹ. Đó là một xã hội dân chủ – dân
là chủ và dân làm chủ – công bằng, văn minh, ai cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành; một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn được quan
tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Văn hóa còn là động lực. Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Di sản
Hồ Chí Minh cho chúng ta một nhìn nhận về động lực phát triển đất nước, bao gồm
động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực.
Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Tiếp cận
các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở
các phương diện cụ thể như: văn hóa chính trị, văn hóa văn nghệ, văn hóa giáo dục,
văn hóa đạo đức lối sống và văn hóa pháp luật.
Thứ hai, văn hóa là một mặt trận. Nói mặt trận văn hóa là nói đến một lĩnh vực
hoạt động có tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời
phản ánh tính chất gam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận văn hóa là cuộc
đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng.
Nội dung của mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng,
đạo đức, lối sống… của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặc biệt là
định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa văn nghệ.
Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vì vậy anh chị em văn
nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có
nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

11
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, thời đại ta là một thời
đại vẻ vang. Vì vậy chiến sĩ văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc
anh hung và vẻ vang.
Thứ ba, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng
văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động
văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và
khát vọng của quần chúng.
Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là những
người sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu
quý. Và chính họ là những người thẩm định khách quan, trung thực, chính xác các sản
phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là những người được hưởng thụ các giá trị văn hóa.
3.1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Tháng 8/1943, cùng với việc đưa khái
niệm về ý nghĩa của văn hóa, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa
dân tộc với năm nội dung. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. Xây dựng
luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp
liên quan đến phúc lợi của nhân dân. Xây dựng chính trị: dân quyền. Xây dựng kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng
chiến trường kỳ, gian khổ, Hồ Chí Minh khẳng định lại quan điểm của đảng từ năm
1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam về phương châm xây dựng nền văn hóa mới.
Đó là một nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ nhân dân miền Bắc quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền văn hóa có nội dung
xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc.
Tóm lại quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam,
đó là một nền văn hóa toàn diện giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc bảo đảm tính
khoa học tiến bộ và nhân văn.
3.2. Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam
Xuyên suốt chặng đường lịch sử vẻ vang, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là
“biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [12], mà
Người còn là một nhà văn hóa kiệt xuất, nhà giáo dục lớn của nhân dân Việt Nam với
những cống hiến lớn lao trên mặt trận văn hóa dân tộc.
Trong con người Hồ Chí Minh có sự hòa quyện hài hòa phẩm chất chính trị của
một vị anh hùng giải phóng dân tộc và tâm hồn thanh khiết thanh cao của một nhà văn
12
hóa kiệt xuất vĩ đại. Bởi lẽ, với Người, sự nghiệp giải phóng dân tộc phải luôn song
hành với sự nghiệp xây dựng, kiến thiết nền văn hóa mới của Việt Nam. Công cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc thuộc địa,
giành lại độc lập tự do không phải chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà còn là
một sự nghiệp văn hóa cao cả. Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng
khẳng định: “Sự nghiệp văn hóa cao nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi
giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân nhữn quyền sống của con
người, một cuộc sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với loài người loại
trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ
trong lịch sử là chế độ thuộc địa”.
Những tháng năm bôn ba, quan sát cuộc sống của nhân dân thế giới, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã hướng tới xây dựng một xã hội mới dân chủ, công bằng, nhân đạo,
không còn những áp bức, bất công, một xã hội văn minh cho Tổ quốc mình và các dân
tộc khác. Bằng sức lao động và tấm lòng yêu nước, Người đã đi qua nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới để tìm ra con đường giải phóng dân tộc và trở về nước lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ thắng lợi. Đi theo đường lối của Người, toàn
Đảng toàn dân đoàn kết một lòng lần lượt đánh bại “hai đế quốc to Pháp và Mỹ”, tạo
nên bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc hóa, hiện thực hóa khát vọng độc lập hoàn
toàn, non sông thu về một mối. Tư tưởng của Người về độc lập, tự do, thống nhất đã đi
vào lịch sử, trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam bất khuất, kiên cường. Cuộc
kháng chiến chống giặc xâm lược nhiều gian khổ, hy sinh nhưng đầy vẻ vang, anh
hùng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
được sự đồng tình, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân thế giới. Dân tộc Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trở thành hiện tượng chưa từng có trong lịch sử nhân loại, càng
chứng tỏ khả năng kết nối, quy tụ của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Người thực
sự là biểu tượng của hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân toàn thế giới.
Suốt cuộc đời làm cách mạng, Người quan niệm văn hóa phải liên lạc mật thiết
với chính trị, văn hóa phải làm thế nào để cho nhân dân hiểu và có lý tưởng tự chủ,
độc lập, tự do. Cũng theo lẽ đó, đi theo ngọn cờ cách mạng vĩ đại – văn hóa cao cả của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã thoát ra khỏi bóng tối lầm than của xiềng
xích nô lệ, đói nghèo, lạc hậu, khổ đau mà đứng lên đấu tranh đến cùng để giành được
chiến thắng huy hoàng là độc lập, tự do, hạnh phúc, từ đó đi lên xây dựng xã hội mới
văn minh, hạnh phúc.
Tầm vóc của nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự tôn trọng, gìn giữ,
phát huy truyền thống văn hoá lâu đời của các dân tộc trên cơ sở kế thừa, học hỏi tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là sự dung hoà giữa việc khẳng định bản sắc riêng đồng thời
khuyến khích, thúc đẩy sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau về những khác biệt, đa dạng
của mỗi dân tộc. Ở con người Chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta thấy “toát ra một nền
văn hoá của tương lai, toát ra sự kết tinh những giá trị văn hoá cao đẹp của cả phương
Đông và phương Tây” [13]. Bởi lẽ, Người được sinh thành trong một gia đình, một

13
vùng quê giàu tinh thần yêu nước và truyền thống văn hóa, lại sớm được tiếp thu nền
văn hóa lâu đời của dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và truyền thống đấu tranh
kiên cường bất khuất của cha anh. Xuất phát từ nền tảng văn hóa phương Đông sâu sắc
ấy, trên hành trình vạn dặm đi tìm chân lý, Người từng bước học tập và làm giàu trí tuệ
của mình, tích cực học hỏi văn hóa nhân đạo và dân chủ của phương Tây. Đặc biệt là
tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái của truyền thống văn hóa Pháp. Đi đến nhiều nước,
tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, Người đều trân trọng và tôn trọng mọi giá
trị văn hóa khác biệt của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra chủ trường kế
thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thốt đẹp của dân tộc phải song hành với
việc học tập và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại: “Tây phương
hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa
là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam
thật có tinh thần thuần tuý Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ ” [14].
Trong sự nghiệp giải phóng và canh tân đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm nhìn thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa đối với đời sống con người: văn hóa có
vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc chiến chống đói nghèo, dốt nát. Theo lẽ đó, ngay
từ những buổi đầu đất nước giành độc lập, Người đã chủ trương một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc là vấn đề giáo dục, phát triển văn hóa, xoá mù chữ, nâng
cao dân trí. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [15]. Ngày
8/9/1945, Người ký ba sắc lệnh quan trọng về giáo dục đó là sắc lệnh về việc thành lập
Nha Bình dân học vụ; sắc lệnh quy định mọi làng phải có lớp học bình dân và sắc lệnh
cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền. Hưởng ứng theo lời kêu gọi của Người,
phong trào chống “giặc dốt” diễn ra rộng khắp, các lớp bình dân học vụ nhanh chóng
được triển khai với sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp quần chúng nhân dân. Nền
giáo dục Việt Nam từ chỗ hơn 90% dân số không biết đọc, biết viết, bị tước đoạt nô
dịch về văn hóa đã vươn lên trở thành một dân tộc đi đầu thế giới về xóa nạn mù chữ,
có nền giáo dục phát triển rộng khắp.
Không chỉ quan tâm đến vấn đề giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tích cực
phát động phong trào xây dựng đời sống mới, đạo đức mới, đạo đức cách mạng; xóa
bỏ thói quen xấu và hủ tục lạc hậu; thực hiện tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết.
Để làm được điều ấy, Người đề nghị mở cuộc vận động Đời sống mới giáo dục nhân
dân đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính; ban bố Sắc lệnh tự do tín ngưỡng; mời
nhiều nhân sĩ danh tiếng, tin tưởng những thượng thư, đại thần của triều đình Huế
tham gia Chính phủ và giữ những chức vụ quan trọng của chính quyền. Nền văn hoá
mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là một nền văn hoá đề cao con
người, quan tâm và trao cơ hội cho mọi thành phần, tầng lớp được phát triển toàn diện;
một nền văn hóa luôn hướng con người tới chân, thiện, mỹ, tới hoà bình và hữu nghị
giữa các dân tộc, tới tình hữu ái giữa người với người. Đồng thời, Người sớm thể hiện
mối quan tâm với môi trường và mối quan hệ hòa hợp giữa con người với thiên nhiên
trong sự nghiệp kiến thiết đất nước. Người phát động phong trào “Tết trồng cây”, kêu
gọi nhân dân trồng cây cho xanh tươi đất nước. Trồng cây không đơn thuần là công
14
việc làm nông mà cao cả hơn là giáo dục tình yêu lao động, yêu thiên nhiên, bảo vệ
môi trường, từ trồng cây nghĩ đến trồng người. Những chủ trường văn hóa được Người
đề ra từ những năm 40 và 50 của thế kỉ XX như: xóa nạn mù chữ, trồng cây, trồng
người, cải tạo môi trường sinh thái... đến nay đã trở thành những vấn đề cấp bách của
toàn thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là một nhãn quan tinh tường đã vạch ra
nhiều đường lối, chủ trương có ý nghĩa, giá trị sâu sắc, bền vững với muôn đời sau
[16].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một chiến sĩ tích cực trên mặt trận văn hóa tư
tưởng, dùng báo chí để đấu tranh vì công lý. Trải qua nhiều năm học tập nghiên cứu,
Người làm chủ nhiều ngôn ngữ khác nhau và sử dụng một cách thành thạo trong viết
văn, viết báo, làm thơ… phục vụ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền
móng đầu tiên cho nền báo chí cách mạng Việt Nam, là người sáng lập và là linh hồn
của nhiều tờ báo cách mạng đầu tiên ở nước ta. Giai đoạn đầu hoạt động cách mạng,
Người tham gia trực tiếp nhiều khâu như viết bài, in ấn, phát hành nhiều tờ báo như:
Người cùng khổ, Thanh niên, Công Nông… Ở giai đoạn sau, Người là cây bút tích cực,
tiên phong, bám sát các vấn đề thời sự trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của dân
tộc. Bằng ngòi bút giản dị, ngắn gọn nhưng vô cùng sắc sảo, tràn đầy khí phách dân
tộc, các tác phẩm báo chí của Người đã lên án đanh thép tội ác của chủ nghĩa thực dân,
thức tỉnh lương tri, soi sáng đường đi và dẫn dắt các dân tộc bị áp bức, truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin và lãnh đạo phong trao cách mạng ở thuộc đia. Cùng với báo chí,
Người còn sáng tác và phát hành nhiều tác phẩm như: Đường Kách Mệnh, Đời sống
mới, Đạo đức cách mạng… thể hiện khát vọng của nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa
bình, tuyên truyền những vấn đề nóng bỏng bức thiết của cách mạng và giáo dục, bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cho con người mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nhà thơ, nhà văn lớn đã để lại cho dân tộc những
di sản văn vô giá. Sự nghiệp văn chương của Người in đậm dấu ấn ở nhiều thể loại:
văn chính luận, truyện kí và thơ ca. Ở lĩnh vực nào cũng có những thành công nổi trội.
Văn chính luận của Người giàu tri thức văn hoá, giàu tính luận chiến, lập luận chặt chẽ,
lý luận sắc sảo. Tiêu biểu có thể kể đến như “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1921-
1925), “Tuyên ngôn độc lập” (1945) – văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao của
dân tộc, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (1946), “Bản di chúc” (1965 – 1969)…
Ở thể loại truyện và kí, Người có nhiều tác phẩm vạch trần bộ mặt xảo trá, bịp bợm
của chính quyền thực dân và thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào dân tộc
như: “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, “Vi hành”, “Những trò lố hay là Varen và
Phan Bội Châu”…
Ngoài chính luận và truyện kí, Người còn để lại cho hậu thế một kho tang thi ca
phong phú. Thơ ca của Người có sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Nét cổ
điển thể hiện ở ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, sự trong sáng của tiếng Việt giàu đẹp.
Nét hiện đại thể hiện ở đề tài dân chủ gắn liền chính trị, thời sự và cách mạng, không
chỉ là thơ ca tuyên truyền cách mạng mà còn thể hiện khát vọng tự do, công lý, cơm áo,

15
hoà bình, cổ vũ cho cái đẹp và mối quan hệ nhân văn giữa người với người, đậm chất
chữ tình, với nghệ thuật uyên bác. Tiêu biểu phải kể đến tập “Nhật ký trong tù” với
133 bài thơ chữ Hán được Người sáng tác trong thời gian bị giam trong nhà tù Tưởng
Giới Thạch, với những vần thơ châm biếm hài hước mà vẫn lạc quan, yêu đời, vượt
qua mọi đày đọa về thể xác tinh thần, tỏa ra ánh sáng chói ngời của một trái tim vĩ đại
trong hoàn cảnh tăm tối. Hay vô số vần thơ khác thể hiện chất trữ tình đằm thắm và
cảm hứng anh hung ca thời đại như: Tức cảnh Pác Bó, Cảnh khuya, Rằm tháng
giêng… Tất cả toát lên một hồn thơ Hồ Chí Minh đầy giá trị nhân văn cao quý, thể
hiện tư tưởng, tâm hồn cao đẹp của một bậc vĩ nhân [17].
Có thể nói, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa và nhà cách mạng thống
nhất hữu cơ làm một, tri thức văn hóa chỉ nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động cách
mạng, phục vụ nhân dân, con người. Sự nghiệp và di sản văn hóa của Người mang
khát vọng của nhân loại tiến bộ, mong muốn được giải phóng, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa, thúc đẩy tự do hòa bình, độc lập dân chủ và tiến bộ xã
hội. Đó là chủ nghĩa nhân văn sâu rộng và nhất quán đã làm nên đặc trưng văn hóa Hồ
Chí Minh, cũng là đặc trưng của văn hóa cao cả: vì hòa bình và hạnh phúc con người.
Nhân cách Hồ Chí Minh, con người Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn, đan cài
giữa tài năng chính trị với đạo đức, phong cách, tư tưởng và năng lực sáng tạo văn hóa.
Với tất cả những ý nghĩa ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là một nhà văn hóa vĩ đại,
kiệt xuất không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn trong lòng bạn bè quốc tế.
4. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Những thành tựu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trên cả mặt trận chính trị
cách mạng và văn hóa tư tưởng là những di sản vô giá có ý nghĩa muôn đời với toàn
dân tộc. Đặt trong bối cảnh hiện đại, khi đất nước bước vào kỉ nguyên hội nhập và
phát triển sâu rộng, tư tưởng của Người vẫn còn vẹn nguyên những giá trị thiêng liêng,
để lại nhiều bài học quý báu và là tấm gương soi chiếu để nhân dân Việt Nam, đặc biệt
là thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước – học tập và noi theo:
Thứ nhất, về lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập dân tộc, phát triển
đất nước. Suốt chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc, lòng yêu nước, thương dân,
khát vọng độc lập tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là ngọn đuốc soi đường cho
các thế hệ thanh niên Việt Nam. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, với tình
yêu nước cao cả “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, các thế hệ thanh niên Việt Nam
luôn trong tâm thế đi theo tiếng gọi Tổ quốc, sẵn sàng chiến đấu, cống hiến và hy sinh
vì một mai độc tập tự do trở về trên đất nước.
Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại, tình yêu quê hương đất nước, khát vọng,
hoài bão của mỗi thanh niên hôm nay cần được thể hiện từ những công việc rất cụ thể
hằng ngày trong học tập, lao động, công tác, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu; đồng thời cần phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, nâng cao ý
thức chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng. Qua đó phát huy vai trò của thế hệ trẻ

16
trong đấu tranh phản bác, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch; cùng với đó phát huy tinh thần đoàn kết, nhận thức rõ được vai trò của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế trong lịch sử dân tộc cũng như trong
công cuộc đổi mới đất nước
Thứ hai, về tinh thần học hỏi, sáng tạo, tìm hướng đi mới, đột phá khác biệt.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, ngay từ những buổi đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nung nấu ý chí quyết tâm tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc, thoát
khỏi những lạc hậu, lối mòn của các tiền bối đi trước. Trong hành trình bôn ba khắp
các nước tư bản và các nước thuộc địa, trên cơ sở những giá trị chung của nhân loại,
Người đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo để tìm ra con đường giải phóng dân tộc phù
hợp hoàn cảnh cụ thể của nước nhà và tương thích với sự vận động, xu thế phát triển
mới trong quá trình tiến hóa của loài người.
Ngày nay, học tập tinh thần đó, thế hệ thanh niên phải không ngừng chủ động
và sáng tạo; phải luôn có tinh thần đổi mới sáng tạo, luôn trăn trở tìm ra những hướng
đi mới, cách tiếp cận mới đối với mỗi vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra; sẵn sàng
chấp nhận, dấn thân vào những nhiệm vụ, khó khăn, thử thách. Đồng thời, mỗi thanh
niên cần chủ động đề xuất các ý tưởng, sáng kiến, giải pháp, ứng dụng khoa học –
công nghệ trong thực hiện nhiệm vụ, tham gia phát triển kinh tế – xã hội, lập nghiệp,
khởi nghiệp, bảo đảm quốc phòng an ninh nhằm theo kịp sự vận động nhanh chóng
của nền kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ ba, về tiến trình phát triển văn hóa, phải biết kết hợp tiến bộ của nhân loại
với những giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu văn hóa nhân loại là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về văn hóa. Tư tưởng ấy của Người tiếp tục truyền cảm hứng cho thanh niên
ngày nay phải luôn nỗ lực học tập, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo những cái tiến bộ, cái
tinh hoa của nhân loại vào thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
Đặc biệt, bối cảnh hội nhập, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày nay
giúp thanh niên có điều kiện dễ dàng để học hỏi, tiếp cận với những tinh hoa và các xu
hướng trên thế giới nhưng không được phụ thuộc, không được dựa dẫm vào người
khác. Với tâm thế “hòa nhập chứ không hòa tan”, thanh niên phải tiếp thu có chọn lọc
trên nền tảng các giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc, tiếp thu những giá trị mới để
làm giàu bản sắc dân tộc.
Thứ tư, về tinh thần tự học, học tập suốt đời. Cuộc đời của Người là tấm gương
sáng ngời cho ý chí, tinh thần tự học, học tập suốt đời, học tập để phục vụ cách mạng,
học tập để hoàn thiện tri thức và đạo đức của bản thân. Tấm gương tự học, học tập suốt
đời của Người đã để lại nhiều bài học, chỉ dẫn quý báu cho thế hệ sau học tập và noi
theo. Mỗi thanh niên ngày nay phải không ngừng tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao

17
trình độ hiểu biết về mọi mặt và coi tự học là nhu cầu, thói quen, hành vi hằng ngày, là
một tiêu chuẩn, một giá trị tự thân cần đạt.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đặt ra nhiều yêu cầu, thách thức, đòi hỏi mỗi thanh niên phải tự nâng
cao năng lực sử dụng ngoại ngữ, năng lực số để chủ động tham gia, nắm bắt và tận
dụng tối đa cơ hội của chuyển đổi số, hình thành những công dân toàn cầu, tạo nền
tảng vững chắc cho những bước phát triển nhảy vọt của đất nước [18].

18
KẾT LUẬN
Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những di sản
vô giá mà Người để lại cho dân tộc vẫn còn vẹn nguyên những giá trị thiêng liêng
không chỉ với dân tộc Việt Nam mà còn với nhân dân thế giới. Suốt cuộc đời, Người
đã cống hiến trọn vẹn tâm sức và trí lực cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
giải phóng con người Việt Nam nói riêng và cho công cuộc đấu tranh vì văn hóa,
lương tri, đạo đức, phẩm giá con người, vì hòa bình và tình hữu nghị giữa các quốc gia
nói chung. Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là một bản anh
hùng ca trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng giải phóng
dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến
dâng trọn đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, vì lý tưởng cộng sản cao đẹp và vì độc
lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới. Đồng thời,
cuộc đời của Người còn in đậm dấu ấn sắc son của một nhà văn hóa, tư tưởng kiệt xuất
của dân tộc và nhân loại; trên mọi lĩnh vực, khía cạnh của văn hóa đều có những đóng
góp vĩ đại cho sự phát triển, tiến bộ, văn minh của cả nền văn hóa Việt Nam và nhân
loại tiến bộ.
Dân tộc Việt Nam đã sinh ra một người con ưu tú như Chủ tịch Hồ Chí Minh,
và chính Người cũng là vĩ nhân đã làm rạng danh dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới,
tương lai mới đầy tươi sáng của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là anh hùng
giải phóng dân tộc; nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam đã đi vào lịch sử dân
tộc và thế giới như một biểu tượng văn hóa chính trị vĩ đại. Trong chuyến thăm chính
thức Việt Nam năm 2013, chính Tổng thống Liên Bang Nga V. Putin đã viết trong sổ
lưu niệm: “Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ hòa bình tiến bộ và phồn vinh.
Nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đuốc, là biểu tượng cho
một nền văn hóa tương lai… Và vì thế lịch sử mãi mãi nhắc tới Người như một bậc
thánh nhân” [19].
Sống trong thời đại hòa bình, được kế thừa những thành tựu và di sản vô giá mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã để lại, nhân dân Việt Nam có trách nhiệm phải giữ gìn,
học hỏi và phát huy những giá trị thiêng liêng ấy; tiếp tục đi theo con đường mà dân
tộc, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn; và thực hiện nhất quán những đường lối,
chủ trương của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh để xứng đáng trở thành những chủ nhân
của đất nước. Người sẽ sống mãi trong trái tim nhân dân và đồng hành cùng dân tộc
trên con đường xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, tự cường, văn minh,
phát triển, sánh vai cùng bao cường quốc năm châu.

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] B. G. d. v. Đ. tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội: NXB Chính trị
Quốc gia, 2016.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc Gia , 2011, p. 1.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia , 2011, p. 187.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia , 2011, p. 30.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia , 1995, p. 268.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Hà Nội: Nxb Chính trị
quốc gia , 1998, p. 2.

[7] H. C. Minh, Đường Kách Mệnh.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 14, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc Gia , 2011, p. 619.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia , 2011, p. 3.

[10] "Bản di chúc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1969.

[11] Nhandan.com.vn, "Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người con ưu tú của dân tộc Việt
Nam," [Online]. Available: https://lacson.hoabinh.gov.vn/index.php/van-hoa-xa-
h-i/5696-cha-ta-ch-ha-cha-minh-ng-a-i-con-u-ta-ca-a-da-n-ta-c-via-t-nam-3.

[12] Đ. h. đ. UNESCO, “Nghi quyết số 24C/18.65 về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh,” 1987.

[13] “Bài phát biểu của Cựu Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh,” trong Lễ kỷ niệm 30
UNESCO ra nghị quyết tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 2017.

[14] Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia ,
1971, p. 71.

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia , 1995, p. 8.

[16] T. C. Đ. Tính, "Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại," 18 11
2020. [Online]. Available:
https://sotuphap.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm
%3Apath%3A/sotuphaplibrary/sotuphapsite/hoctapvalamtheotamguongdaoduch
cm/chutichhochiminhsongmaitrongtraitimnhanloai.

[17] D. T. Hồng, "Sự nghiệp sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Di sản văn học vô
giá," 12 10 2018. [Online]. Available: https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-
tong-hop/7815-su-nghiep-sang-tac-cua-chu-tich-ho-chi-minh-di-san-van-hoc-vo-
gia.html.

20
[18] N. A. Tuấn, "'Người đi tìm hình của Nước' và bài học cho thế hệ trẻ," 4 6 2021.
[Online]. Available: https://tuoitre.vn/nguoi-di-tim-hinh-cua-nuoc-va-bai-hoc-
cho-the-he-tre-20210603150209375.htm.

[19] Q. t. /. TTX, "Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trong trái tim người Việt và nhân loại,"
18 5 2023. [Online]. Available: https://vufo.org.vn/Chu-tich-Ho-Chi-Minh-luon-
trong-trai-tim-cua-nguoi-Viet-va-nhan-loai-14-98241.html?lang=vn.

21

You might also like