You are on page 1of 35

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ: 221/ NĂM HỌC: 2022 - 2023

LỚP: L13 - NHÓM: 14


GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. PHAN DUY ANH

Tp. Hồ Chí Minh - 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

PHÂN TÍCH CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG


HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY.

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Phúc Nguyên 1911725


Trần Khải Nguyên 1914401
Trương Thị Thảo Nguyên 1914404
Đặng Hữu Nhân 1910400
Nguyễn Hữu Nhân 1911755

Tp. Hồ Chí Minh - 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................................ 4
Câu 1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc ........................................................................................................................4

1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản .................................................................................................4

2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo ..........................................................................6

3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn dân tộc,
lấy liên minh công – nông làm nền tảng .............................................................. 7

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ...................................................8

5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường bạo lực
cách mạng ...........................................................................................................10

Câu 2: Theo anh, chị, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
còn có giá trị trong giai đoạn hiện nay không? Tại sao? Anh, chị hãy đề xuất các
giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam hiện nay. .......................12

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc còn có giá trị trong
giai đoạn hiện nay không? Tại sao? ...................................................................12

1.1. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt
Nam ....................................................................................................................12

1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trong
suốt tiến trình cách mạng....................................................................................14

1
1.3. Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh công - nông - trí
làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong giai đoạn đổi mới ...16

1.4. Tư duy chủ động, sáng tạo trong giai đoạn đổi mới....................................19

1.5. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới ......................................................................................................20

2. Các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam hiện nay. ................22

2.1. Nhận thức và tư duy bảo vệ chủ quyền trong thời đại mới ......................... 22

2.2. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo.........................................................................25

2.3. Bảo vệ chủ quyền không gian mạng ........................................................... 28

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 30


TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 31

2
MỞ ĐẦU
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị vào Việt Nam
ta, nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc được đề ra như vấn đề sống còn của cả dân
tộc. Trên cả nước, sự thất bại liên tiếp của nhiều phong trào yêu nước theo hai khuynh
hướng phong kiến và tư sản thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc về giai cấp lãnh đạo và
đường lối cách mạng. Nhận thấy điều đó, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước với hành trang là
lòng yêu nước nhiệt thành và quyết tâm “làm bất cứ việc gì để sống và để đi” nhằm
thực hiện hoài bão tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Trong quá trình lao động,
học tập và nghiên cứu về đấu tranh cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã tiếp
cận được Chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường
cách mạng vô sản. Người khẳng định đây là con đường cách mạng triệt để nhất và
phù hợp nhất với yêu cầu cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Thực
tiễn đã chứng minh, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thành công, mở ra một kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam. Tiếp nối
là thắng lợi trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ đã khẳng định khát vọng độc lập,
tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.

Từ trước đến nay, bởi vị trí chiến lược quan trọng và tài nguyên thiên nhiên
phong phú, Việt Nam không thể tránh khỏi sự đe dọa về chủ quyền lãnh thổ. Do đó,
thế hệ thanh niên Việt Nam phải có trách nhiệm tiếp bước cha ông bảo vệ và xây
dựng tổ quốc. Muốn vậy, trước hết phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc nhằm ứng dụng linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với tình hình
bảo vệ chủ quyền đất nước trong từng thời kì. Với tinh thần học tập và làm theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhóm chúng em đã thực hiện bài phân tích các nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, phân tích giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong giai đoạn hiện nay, từ đó
đề xuất giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam hiện nay.

3
NỘI DUNG
Câu 1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc

1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản

Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng những con đường giải phóng dân tộc dưới
ngọn cờ phong kiến và tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành
độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu
nước của ông cha, tuy nhiên, Người không tán thành các con đường cứu nước ấy mà
quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới, như người đã nói: “Tôi muốn đi ra
nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào
tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”1. Qua tìm hiểu thực tế, người quyết định không
chọn con đường cách mạng tư sản bởi vì cách mạng tư bản không đến nơi đến chốn,
có tiếng cộng hòa, dân chủ nhưng thực chất bên trong cũng chỉ toàn áp bức bóc lột.

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới
Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Tháng
7/1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”2. “Đây là con
đường cách mạng triệt để nhất, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại”3. “Từ đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế
thứ ba. Học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin được Người vận
dụng sáng tạo trong điều kiện cách mạng Việt Nam”4.

1
Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2015, tr.11.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.30.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.82.
4
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.82.

4
Con đường cách mạng vô sản theo quan điểm của Hồ Chí Minh bao gồm
những nội dung chủ yếu sau:

Một là, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng
dân tộc là trước hết, trên hết. “Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, con đường cách mạng
vô sản ở châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội
- giải phóng con người. Còn theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam và các nước thuộc địa có
hoàn cảnh lịch sử - chính trị khác với châu Âu nên phải là: giải phóng dân tộc - giải
phóng xã hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người.”5

Hai là, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. “Trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định phương hướng chiến lược
cách mạng Việt Nam: làm từ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản. Phương hướng này vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
vừa hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể mà cách
mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.”6

“Trong Văn kiện Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, khái niệm “Cách mạng tư sản
dân quyền” không bao hàm đầy dù nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa. Còn trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh nêu rõ: Cách
mạng tư sản dân quyền trước hết là phải đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập... Cũng theo Quốc tế Cộng sản, hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến phải được thực hiện đồng thời, khăng khít với
nhau, nương tựa vào nhau. Nhưng xuất phát từ một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh
không coi hai nhiệm vụ đó nhất loạt phải thực hiện ngang nhau, mà đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, còn nhiệm vụ chống phong kiến, mang
lại ruộng đất cho nông dân thì sẽ từng bước thực hiện. Cho nên trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng. Người chỉ nêu “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của

5
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.82.
6
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.82.

5
công, chia cho dân cày nghèo” mà chưa nêu ra chủ trương “người cày có ruộng”. Đây
là nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh.”7

2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo

Giải phóng dân tộc đã đi theo con đường cách mạng vô sản thì đương nhiên
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Bên cạnh đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng
sản là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam. Chính sự kết hợp của phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa
Mác - Lênin đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Chủ nghĩa Mác -
Lênin chỉ rõ: Đảng Cộng Sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó
phải thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng
và đưa quần chúng ra đấu tranh.”8 Đảng phải cho nhân dân thấy được quyền được
hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc chứ không phải bị thực dân Pháp và tay sai ra tay đàn
áp và bóc lột như vậy. Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và
coi việc thành lập Đảng Cộng sản là rất quan trọng, qua đó khẳng định vai trò của
Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Người
khẳng định trong tác phẩm Đường cách mệnh: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?
Trước hết phải có đảng cách mệnh, để vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công.”9

Trong bối cảnh Việt Nam còn là một nước thuộc địa và phong kiến, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định, “Đảng Cộng Sản vừa là đội Tiên Phong của giai cấp
công nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái
nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc. Đó còn là Đảng của cả dân

7
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.83.
8
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.84.
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

6
tộc Việt Nam.”10 Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II, Người viết: “Chính vì Đảng
Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên
nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.”11 Qua đó có thể thấy, ở nước ta, không chỉ
những người cộng sản mà quần chúng nhân dân đều coi Đảng Cộng sản Việt Nam là
“Đảng của chúng ta”.

3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn dân tộc,
lấy liên minh công – nông làm nền tảng

Khi đề cập đến vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng
định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống
còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng
nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân. Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc,
tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải
đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Kế thừa tư tưởng “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử”
của các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người khẳng định: “cách
mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”12. Vậy nên
phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.

Ở đây, Đảng thể hiện là một tổ chức tập hợp sức mạnh dân tộc vào một khối
thống nhất, vì Đảng thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng và trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản; thu phục
được đại bộ phận dân cày và dựa vào họ để làm thổ địa cách mạng đánh đổ bọn đại
địa chủ và phong kiến; đồng thời biết liên lạc với các lực lượng khác để kéo họ đi vào
phe giai cấp vô sản; lôi cuốn được giai cấp vô sản, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức đi theo cách mạng, hình thành nên khối liên minh công - nông - trí, nòng cốt của

10
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.84.
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41.
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.283

7
khối đại đoàn kết toàn dân. Do đó, Đảng vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, trong đó nòng cốt là công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức.

“Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh
thiết tha kêu gọi mọi người không phân biệt giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái…
đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc”13, đây cũng là nội dung cốt lõi
trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (tháng 12/1946). Không phân biệt dân tộc
đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái,
trai, giàu, nghèo, vấn đề đại đoàn kết dân tộc lại là phải tập hợp mọi người dân vào
một khối trong cuộc đấu tranh chung.

“Trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng,
không được quên “công nông là người chủ cách mệnh… là gốc cách mệnh”. Trong
tác phẩm Đường cách mệnh, Người giải thích: “giai cấp công nhân và nông dân là
hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bốc lột nặng nề nhất, vì thế “lòng cách
mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…”.”14 Đặc biệt, Người nhấn mạnh vai trò
động lực cách mạng của công nhân và nông dân nhưng không xem nhẹ khả năng cách
mạng của các giai cấp, tầng lớp khác.

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

Quốc tế Cộng sản đôi lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, cho rằng
cách mạng thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, lí do cho
quan điểm này là chưa đánh giá được hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng
thuộc địa. Theo đại hội VI Quốc tế Cộng sản thì “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công
cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành thắng lợi trong các cuộc

13
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.86.
14
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.86.

8
đấu tranh tại các nước tư bản tiên tiến”15. Quan điểm này đã làm giảm đi tính chủ
động, sáng tạo cũng như cơ hội đấu tranh của các nước thuộc địa chống lại đế quốc,
thực dân.

Quán triệt tư tưởng của V.I Lênin, Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khăng
khít, tác động lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc
chính là một mối quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc hay phụ thuộc vào nhau. Năm
1924, tại đại hội V của Quốc tế Cộng sản, Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô sản
thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”16. Trong tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), Người ví chủ nghĩa tư bản như con đĩa hai vòi,
một vòi hút máu giai cấp vô sản ở chính quốc, vòi kia lại hút máu giai cấp vô sản ở
thuộc địa, muốn giết nó phải cắt đứt cả hai vòi của nó.

Đứng trên lập trường của một người dân thuộc địa và là một người cộng sản
nghiên cứu kỹ về chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng thuộc địa
không phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, mà còn có thể thắng lợi trước. Người
viết một luận điểm như sau: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á …ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”17, dựa trên các cơ sở sau:

- Đối với chủ nghĩa đế quốc, thuộc địa có một vị trí quan trọng, đặc biệt bởi
nó là nơi duy trì sự tổn tại, và phát triển cho chủ nghĩa đế quốc. Tại đại hội V QUốc
tế Cộng sản, trong phiên họp thứ tám vào 23/6/1924. Hồ Chí Minh đã thể hiện quan
điểm, ví rằng, nọc độc, sức mạnh của con rắn độc tư bản chủ nghĩa chính là tập trung
chủ yếu ở thuộc địa chứ không phải là chính quốc. Bởi vậy, cách mạng ở thuộc địa
có vai trò cức kì quan trọng trong việc cùng với cách mạng vô sản ở chính quốc tiêu
diệt chủ nghĩa đế quốc.

15
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd , tr.87.
16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.295, 48.
17
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.295, 48.

9
- Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa
sẽ bùng lên mạng mẽ khi được tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng.

Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, khi kêu gọi các dân tộc thuộc
địa đấu tranh, Hồ Chí Minh viết: “Hỡi anh em ở các thuộc địa… bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em”18. Thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam kết hợp với thắng lợi của các
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong những năm 60 của thế kỷ XX khi
mà cách mạng vô sản ở chính quốc thậm chí còn chưa nổ ra chính là bằng chứng vững
chắc chứng minh giá trị lý luận và thực tiễn to lớn cho luận điểm Cách mạng giải
phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường bạo lực
cách mạng

Đi ngược với chủ trương cải lương của “người bác lớn” Phan Châu Trinh, Hồ
Chí Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được
tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng, đấu tranh chính trị kết hợp với đấu
tranh vũ trang. Trước đó, bạo lực cách mạng lần lượt được đề cập trong các tác phẩm
của C. Mác, nhắc lại bởi Ph. Ăngghen và khẳng định của V.I. Lênin về tính tất yếu
của bạo lực cách mạng trong cách mạng vô sản, không có bạo lực cách mạng thì
không thể thay thế nhà nước vô sản được. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiến của cách
mạng Việt Nam.

Kết hợp vận dụng quan điểm về bạo lực cách mạng với việc nhận thức sâu sắc
bản chất của chế độ thực dân, Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải sử dụng bạo
lực cách mạng. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp
và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy

18
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.137-138.

10
chính quyền và bảo vệ chính quyền”19. Hành động dùng bạo lực để xâm lược và cai
trị các nước thuộc địa cho thấy bản chất bốc lột của chủ nghĩa thực dân và đế quốc
trên danh nghĩa “khai hóa văn minh”. “Chúng dùng bạo lực để đàn áp dã man các
phong trào yêu nước, thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bóc lột và đẩy
người dân thuộc địa vào bước đường cùng”20. Đầu thế kỉ XX, đặc biệt ở Việt Nam và
các nước thuộc địa của mình, bản chất xấu xa của thực dân Pháp đã được Nguyễn Ái
Quốc lột trần trong tác phẩm chính luận Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản lần
đầu năm 1925. Vì lí do đó, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải được tiến
hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng. Tuy nhiên, việc xác định phương thức
đấu tranh phải phù hợp với điều kiện thực tiễn và có khả năng giành thắng lợi.

Trong sử dụng bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ cả hai
lực lượng chính trị và quân sự, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang để hình thành nên phương pháp bạo lực cách mạng hiệu quả. Trong
đó, chính trị và đấu tranh chính trị được xác định là hình thức đấu tranh cơ sở, là nền
tảng để xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang, tạo lợi thế to lớn về mặt
chính trị tinh thần. Đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh mang tính quyết định,
có tác dụng trực tiếp tiêu hao sinh lực địch, đập tan những âm mưu và hành động
chính trị, quân sự của chúng; thắng lợi của đấu tranh quân sự cũng là tiền đề để đấu
tranh chính trị phát triển. Nhưng Người cũng chỉ rõ: “Tùy tình hình cụ thể mà quyết
định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp
các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách
mạng”21. Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết hợp chặt chẽ lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
lấy lực lượng chính trị làm chính; là kết quả của một quá trình chuẩn bị đấu tranh
cách mạng lâu dài.

19
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.391.
20
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.91.
21
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.391.

11
Bạo lực cách mạng mang tính nhân văn, nhân đạo và hòa bình là nội dung cơ
bản và quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy,
Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn tìm mọi cách để tránh xảy ra chiến tranh, nhiều lần
nhân nhượng; nhưng càng nhân nhượng các thế lực thực dân, đế quốc hiếu chiến càng
lấn tới, buộc quân và dân ta phải “đứng lên” cầm vũ khí bảo vệ Tổ quốc.

Câu 2: Theo anh, chị, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
còn có giá trị trong giai đoạn hiện nay không? Tại sao? Anh, chị hãy đề xuất các
giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam hiện nay.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc còn có giá trị trong
giai đoạn hiện nay không? Tại sao?

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là sự tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại kết hợp với tư tưởng, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, được Người vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn hoàn
cảnh lịch sử của Việt Nam và xu thế thời đại. Vì lí do đó, tuy không trọn ven nhưng
cả năm nội dung cơ bản đều giữ vững giá trị cốt lõi trong giai đoạn hiện nay trong
công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước.

1.1. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân
Việt Nam

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định, chủ nghĩa xã hội (CNXH)
là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và Nhân dân ta; đi lên CNXH là con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã chứng
tỏ con đường đi lên CNXH là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại. Tuy phải thừa nhận rằng, với sự thay đổi, điều
chỉnh cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả trong cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng đã làm cho chủ nghĩa tư bản (CNTB) hiện nay có sự phát triển vượt

12
bậc, đóng góp to lớn đối với sự phát triển của thế giới, nhưng có thể khẳng định,
những điều chỉnh, thay đổi đó vẫn chưa phá vỡ được khuôn khổ và nền tảng của chế
độ tư bản chủ nghĩa. Trong lòng xã hội CNTB hiện đại vẫn tồn tại đầy rẫy những mâu
thuẫn, bất cập…; xét đến cùng thì bản chất chế độ bộc lột vẫn đang hiện hữu. CNTB
hiện đại không những không xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã
hội mà sự phân hóa còn tiếp tục gia tăng; không thể ngăn chặn và thoát khỏi các cuộc
khủng hoảng kinh tế gắn liền với mâu thuẫn cơ bản của CNTB là mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Ngày nay, những mâu thuẫn gắn liền với bản chất của CNTB vẫn hiện diện,
dù có những hình thức biểu hiện mới. Đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm
thuê, giữa tư bản với tư bản, giữa các cường quốc tư bản với các nước nghèo, kém
phát triển, đang phát triển.

Trong 35 năm đổi mới, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, do đó “Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”22. Với
30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Cương lĩnh 1991), đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù
hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Một lần nữa có thể khẳng
định, sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là là sự lựa chọn duy
nhất, đúng đắn của Đảng và dân tộc ta.

So với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội có nhiều ưu điểm đặc trưng như sau:

Thứ nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhân dân ta
đã chứng kiến bản chất áp bức, bóc lột, bất công, tàn bạo của CNTB trong thời gian
dài bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lăng, đô hộ. Trong khi đó, CNXH chủ trương
xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng để tất

22
https://vtv.vn/chinh-tri/voi-tat-ca-su-khiem-ton-chung-ta-van-co-the-noi-rang-dat-nuoc-ta-chua-bao-gio-co-
duoc-tiem-luc-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-nhu-ngay-nay-20210126121805801.htm

13
cả cùng giàu có. Đó cũng là tiền đề để đất nước giàu mạnh thật sự trên các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng. CNXH mà nhân dân ta
đang xây dựng là quá trình dân chủ hóa, phát huy mọi quyền dân chủ của nhân dân,
đồng thời hướng tới những giá trị công bằng cho mọi tầng lớp, mọi người dân, xây
dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội văn minh, hiện đại.

Thứ hai, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu
việt trên lĩnh vực kinh tế của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế
độ xã hội khác. Trong xã hội tư bản, chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa giữ
vai trò thống trị của quan hệ sản xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh
tế và áp bức về xã hội. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất, từng
bước xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất là một trong những đặc trưng của CNXH, khác biệt so với CNTB.

Qua đó, có thể khái quát những nét đặc trưng lý tưởng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam như sau: Xã hội không có áp bức bóc lột; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, làm theo năng lực, phân phối theo lao động; đời sống vật chất và tinh thần
cao; con người được phát triển toàn diện; xã hội công bằng, bình đẳng; có chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân;… Đây cũng là giá trị cốt lõi của
nội dung cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trong
suốt tiến trình cách mạng

Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) ra đời, đáp ứng nhu cầu
của lịch sử, gánh vác trọng trách lãnh đạo cách mạng Việt Nam. ĐCSVN là sự kết
hợp của phong trào công nhân, phòng trào yêu nước Việt Nam và chủ nghĩa Mác –
Lênin, là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của
Hồ Chí Minh. Trong 92 năm qua (1930 - 2022), ĐCSVN luôn phấn đấu rèn luyện để

14
xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng đã được
khẳng định trong suốt tiến trình cách mạng: thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, cứu nước và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước sau ngày
thống nhất. Bước vào thời kì đổi mới, “khi đứng trước những sai lầm, khuyết điểm
do bệnh chủ quan, duy ý chí, Đảng đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự
thật” và khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới toàn
diện đất nước của Đảng đã đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
phù hợp với xu thế thời đại, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.”23 Quan trọng nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng được nhân dân
thừa nhận, tin tưởng tuyệt đối vào quyết định của Đảng và tự nguyện đứng dưới ngọn
cờ của Đảng.

Cụ thể, trong những năm qua, bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến
phức tạp, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Đông. Trên cơ
sở đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, Đảng đã xác định quan
điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên biển hiện nay, điều đó
đã thể hiện thông qua Đại hội XIII: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ,
lợi ích quốc gia – dân tộc trên biển, trên không và trên bộ; hợp tác quốc tế về biển,
đảo được tăng cường, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy quan hệ với các
nước”24. Ở phương diện xã hội, trong ba năm gần nhất, làn sóng dịch bệnh Covid-19
đã đe dọa nghiêm trọng đến tình hình nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Trên tinh thần chỉ đạo sát sao, quyết liệt, chủ động, kịp thời thực hiện các biện pháp
mạnh mẽ, quyết liệt để phòng, chống, ngăn chặn dịch bệnh, Đảng và Nhà nước xác
định tư tưởng nhất quán, kiên định với mục tiêu kép: phòng, chống dịch hiệu quả
đồng thời phát triển kinh tế, chăm lo đời sống, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Kết quả
thấy rõ, Đảng, hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân Việt Nam đã đoàn kết, chung

23
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/dang-
cong-san-viet-nam-lanh-dao-nha-nuoc-va-xa-hoi-la-tat-yeu-khach-quan
24
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157.

15
sức đồng lòng, quyết tâm chống dịch như chống giặc, từng bước đẩy lùi và vượt qua
đại dịch. Ở phương diện chính trị, phong trào đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực do Đảng phát động và lãnh đạo đang có những kết quả tích cực, được cán bộ
đảng viên và nhân nhân đồng tình, ủng họ, đánh giá cao, được bạn bè quốc tế ghi
nhận. “Kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành mới
đây cho thấy: “tuyệt đại đa số ý kiến của người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; khiến cho mọi sự xuyên
tạc, chống phá của các thế lực xấu, thù địch đều trở nên trơ trẽn, nực cười”.”25

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Hơn bao giờ hết, nhân dân phải tin tưởng tuyệt đối vào
sự lãnh đạo của Đảng, đi theo Đảng, giữ vững tinh thần đoàn kết và ý chí cách mạng
trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Đại hội XIII của ĐCSVN cũng đã
đánh giá những thành tựu trong 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, qua đó
càng khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với ĐCSVN trước nhiệm vụ xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng, đại biểu trung thành cho lợi ích của toàn thể dân tộc, cũng được nêu tại
Đại hội XIII.

1.3. Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh công - nông -
trí làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong giai đoạn đổi mới

Ngay khi tìm ra con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc
xây dựng lực lượng cách mạng. Theo Người, giai cấp công nhân có vị trí trung tâm
trong xã hội bởi là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất; giai cấp

25
https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/nang-cao-hieu-qua-dau-tranh-phong-chong-
tham-nhung-tieu-cuc-van-de-quan-trong-trong-cong-tac-xay-dung-chinh-don-dang-hien-nay-617522.html

16
nông dân Việt Nam là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, là “đồng minh chắc chắn
nhất của giai cấp công nhân” và là “quân chủ lực của cách mạng”; tri thức Việt nam
là tầng lớp có tinh thần dân tộc và cách mạng, là đồng minh ngày càng quan trọng
của giai cấp công nhân trong tiến trình đi lên CNXH. Ngay từ khi thành lập Đảng,
Hồ Chí Minh đã vạch ra nhiệm vụ vận động công nhân, nông dân, trí thức đoàn kết
lại, đứng lên làm cách mạng. Thực tiến đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đóng vai trò nòng cốt trong
khối đại đoàn đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính
quyền của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ nghĩa xã hội là một xã hội có nền kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có nền văn hoá, khoa học-kỹ thuật tiên tiến. Ngày nay,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của từng bộ phận càng được nhấn mạnh trong giai
đoạn đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể, giai cấp nông dân có
vai trò quan trọng trong việc phát triển nền nông nghiệp ổn định, làm “bàn đạp” vững
chắc cho kinh tế phát triển. Giai cấp công nhân ở nước ta có nhiều chuyển biến quan
trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, tuy nhiên so với yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì vẫn là chưa đủ. Cùng
với liên minh công nông là nòng cốt, trách nhiệm của đội ngũ trị thức gắn liền với
các cuộc công nghiệp của thời đại. Trước tác động to lớn của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam và đội ngũ tri thức đang đứng trước
những cơ hội và thách thức to lớn. Hiểu được nhu cầu đó, nhiều chủ trương lớn của
Đảng và chính sách của Nhà nước được triển khai, qua đó từng bước nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của các bộ phận trong liên minh, phát huy tối đa vai trò phát
huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh xây dựng liên minh giai cấp, tư tưởng đoàn kết và đại đoàn kết toàn
dân tộc luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán, xuyên suốt trong đường lối, chủ
trương của Đảng. Đảng nhấn mạnh việc xây dựng và thực hiện đoàn kết phải dựa trên
nguyên tắc bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc và quyền lợi cơ bản của
nhân dân lao động. Trong thời kỳ kháng chiến, giải phóng dân tộc là mục tiêu trọng

17
tâm của toàn Đảng, toàn dân, là mẫu số chung để thực hiện đoàn kết dân tộc. Trong
thời kì đổi mới hiện nay, mục tiêu đã có sự thay đổi so với lúc trước, Đảng xác định
mục tiêu mới là kết hợp sức mạnh đại đoàn kết dân tộc với sức mạnh của thời đại;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để tập trung phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa đây cũng là mục tiêu, là nguyện
vọng của toàn thể nhân dân trên cả nước; qua đó càng làm rõ nét sự đồng nhất trong
ý Đảng và lòng dân. Trong Nghị quyết Đại hội XIII - Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam gần nhất, Đảng đã đề ra các nhiệm vụ để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; đồng thời thể chế hóa các chủ trương của Đảng, từng bước đi vào cuộc
sống. Thực tế, các hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới;
dân chủ xã hội được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở
trong xã hội. Tiêu biểu là ngày 23/5/2021 - dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát
triển đất nước, “trên 66 triệu cử tri”26 đã thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng, bỏ
phiếu bầu những người đại diện cho mình tại Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, không khí Ngày Bầu cử đã thực sự là ngày hội
lớn của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh công - nông - trí làm gốc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã trở thành một trong những bài học kinh
nghiệm quý báu, mang ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, bài học kinh nghiệm này vẫn còn nguyên giá trị và cần tiếp
tục phát huy mạnh mẽ để khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường và giàu mạnh.

26
https://vtv.vn/chinh-tri/truc-tiep-ngay-bau-cu-23-5-sang-suot-lua-chon-nhung-dai-bieu-cua-nhan-dan-
20210522221346678.htm

18
1.4. Tư duy chủ động, sáng tạo trong giai đoạn đổi mới

Tuy nội dung Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc không còn phù hợp
với hoàn cảnh hiện tại nhưng giá trị về tính chủ động và sáng tạo là điều không thể
thiếu để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Năm 2020, Việt Nam đã ứng
phó nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt và hiệu quả trước thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt
là đại dịch COVID-19. Chính sự thành công trong phòng, chống đại dịch COVID-19
đã tạo điều kiện cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đạt kết quả cao nhất.Bên
cạnh đó, các đổi mới sáng tạo, phát triển đột phá lực lượng sản xuất trên nền tảng
trình độ khoa học - công nghệ ngày càng được đẩy mạnh; đồng thời hoàn thiện quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây chính là nền tảng, động lực cho phát triển đất nước. Để thực hiện điều đó, Đảng
và nhà nước tích cực động viên, khuyến khích, tạo cơ hội, tạo điều kiện cho tất cả
mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế đổi mới sáng tạo không ngừng
và phát triển công nghệ tạo ra bởi người Việt “made by Vietnam” để phát triển bền
vững kinh tế tri thức, kinh tế số, bao trùm mọi lĩnh vực, mọi ngành, nghề, mọi tầng
lớp nhân dân. Chủ động, tích cực tận dụng triệt để những thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, coi đây là “cơ hội vàng” để đất nước phát triển.

Chủ động, sáng tạo là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược phát triển của đất
nước. Không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống
chính trị và của toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ trí thức, các doanh nhân, doanh
nghiệp,… Đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nâng cao chất
lượng lao động, nhất là lao động giữ vị trí then chốt, lao động kỹ thuật số chất lượng
cao, vừa là đột phá, động lực, vừa là tiềm năng, lợi thế để phát triển bền vững. Huy
động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trí tuệ con người, trí
tuệ nhân tạo, các công nghệ tiên tiến hiện đại, công nghệ kỹ thuật số,… cho phát triển.
Nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
là chìa khóa để phát triển kinh tế bền vững, làm cơ sở, tiền đề để phát triển xã hội bền

19
vững; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển toàn diện con
người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điểm tựa cho phát triển bền vững.

Một xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi ở mỗi
con người, dù là người lao động hay người quản lý phải có tư duy khoa học, tác phong
công nghiệp, dám nghĩ, dám làm, luôn tìm tòi sáng tạo, tầm nhìn rộng lớn, vượt qua
những định kiến xã hội hẹp hòi để học tập những kinh nghiệm sáng kiến và thành tựu
của người khác, của các quốc gia khác. Bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế là bước vào một thời kì mà khoa học kỹ thuật, công nghệ, thâm
nhập sâu sắc mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ sản xuất vật chất đến lĩnh vực sản xuất
tinh thần, từ sinh hoạt cá nhân đến giao tiếp xã hội, từ lao động, học tập đến nghỉ
ngơi, giải trí,… Tầm nhìn, cách suy nghĩ của mỗi con người không còn bị giới hạn
trong địa phương mình, trong quốc gia mình, mà thường xuyên được tiếp cận với
những nhân tố mới ở mỗi quốc gia, châu lục.

1.5. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới

Với tình hình đất nước đã hoà bình, thống nhất, trong Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Đảng ta đề ra hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội kết hợp với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, là
cơ sở và điều kiện để cùng nhau phát triển, thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong tình hình hiện nay, mối quan
hệ đó càng trở nên khăng khít hơn bao giờ hết, xây dựng là cái gốc của bảo vệ và bảo
vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng. Xây dựng đất nước vững mạnh tự nó đã
có sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, mặt khác sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thành công sẽ giúp
cho sự nghiệp xây dựng đất nước phát triển xây dựng ngày nay không chỉ đơn thuần
là phát triển, ngăn chặn chống lại kẻ thù, mà xây dựng đạt hiệu quả tốt cũng chính là
một phương thức tích cực để tự bảo vệ, làm tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ sẽ tạo

20
ra sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho Tổ quốc ngày càng phát triển bền vững. Do đó,
tuy nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội là trọng tâm nhưng cũng không lơ là nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc. Và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh là tiền đề
vững chắc để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược đó.

Ngày nay, lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng với tinh thần sẵn sàng
chiến đấu, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ
trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt,
duy trì và chấp hành nghiêm các chế độ, quy định về sẵn sàng chiến đấu, trực ban,
trực chiến, trực chỉ huy. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang đã thường xuyên nêu cao
cảnh giác, thực hiện tốt công tác sẵn sàng chiến đấu ở tất cả các cấp, bảo vệ và quản
lý chặt chẽ vùng trời, vùng biển và nội địa; chủ động tham gia và góp phần bảo đảm
an toàn các sự kiện trọng đại của đất nước và các diễn đàn, hội nghị quốc tế được tổ
chức tại Việt Nam; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, tăng cường công tác quản lý
biên giới, kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả với mọi hoạt động vượt biển, xâm
nhập phá hoại của lực lượng phản động và các loại tội phạm. Để đáp ứng tốt yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, quân đội ta đã tiến hành điều chỉnh bố trí lực lượng; bổ
sung hệ thống các phương án, kế hoạch tác chiến cho phù hợp với sự phát triển của
tình hình; tích cực tổ chức luyện tập, diễn tập theo phương án đã xây dựng; qua đó,
tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, đối phó thắng lợi với mọi tình huống.

Với tình hình biển Đông những năm vừa qua diễn biến phức tạp, Chủ tịch
nước Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ: “Đảng và Nhà nước ta đã nhất quán chủ trương
những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ chúng ta không bao giờ nhân
nhượng; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
Chúng ta đã, đang và tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng nhiều biện pháp phù
hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển
năm 1982 và đấu tranh trên thực địa; đồng thời gìn giữ môi trường hòa bình và quan
hệ hữu nghị, hợp tác với các nước. Chủ trương đúng đắn, lập trường chính nghĩa và
các nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta đã nhận được sự đồng tình, chung sức của nhân

21
dân cả nước và sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế”27. Việt Nam kiên quyết
bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi hợp pháp của Việt Nam tại Biển Đông bằng các
biện pháp luật pháp quốc tế cho phép. Chúng ta đã có những hành động kiên quyết,
kiên trì, bình tĩnh, khôn khéo, xử lý đồng bộ, hiệu quả các biện pháp đấu tranh chính
trị, ngoại giao, pháp lý và thực địa, tạo được đồng thuận cao trong nhân dân và cộng
đồng quốc tế, giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên biển
Đông, tạo điều kiện ổn định trong nước để thu hút đầu tư, du lịch, phát triển kinh tế -
xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Thời gian qua, quốc phòng, an ninh được tăng cường; trật tự an toàn xã hội
được giữ vững; các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Chú
trọng xây dựng khu vực phòng thủ, tăng cường tiềm lực quốc phòng và củng cố nền
quốc phòng toàn dân. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn kịp
thời các hoạt động, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Đảng ta
khẳng định chủ quyền đất nước là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, Việt Nam sẽ
không bao giờ chấp nhận nhân nhượng trước bất kỳ thế lực nào. Muốn vậy, Việt Nam
ta phải xây dựng được quân đội nhân dân theo hướng cách mạng chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại hóa. Ngoài ra, phải xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân
tự vệ hùng hậu, lực được huấn luyện và quản lý tốt, bảo đảm theo kế hoạch. Đây là
một quá trình phấn đấu lâu dài, quá trình hiện đại hóa quân đội phải gắn với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng.

2. Các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam hiện nay.

2.1. Nhận thức và tư duy bảo vệ chủ quyền trong thời đại mới

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước là nhiệm vụ
xuyên suốt trong các giai đoạn lịch sử của Việt Nam. Có thể thấy, vấn đề này được

27
https://baochinhphu.vn/khong-bao-gio-nhan-nhuong-nhung-gi-thuoc-ve-doc-lap-chu-quyen-toan-ven-lanh-
tho-102262912.htm

22
chia làm hai thời kỳ rõ rệt: thời kì chiến tranh và thời kì đất nước được hòa bình và
thống nhất.

Trong thời kì chiến tranh, bảo vệ chủ quyền đất nước thể hiện qua sự quyết
tâm, kiên trì đấu tranh đánh đuổi kẻ thù xâm lược, diệt trừ bọn theo giặc phản quốc.
Điều đó còn thể hiện qua lòng yêu nước của mỗi con người, mong muốn được sống
trong một quốc gia hòa bình không chiến tranh. Mục tiêu lớn nhất của nước ta lúc đó
chính là “Độc lập, tự do”, để bảo những quyền thiêng liêng nhất: “Toàn vẹn lãnh thổ
cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”28. Cách đây 77 năm, vào mùa thu năm 1945,
dưới ngọn cờ của Đảng nhân dân ta đã tạo nên cuộc Cách mạng Tháng tám hào hùng,
vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Nó đã đập tan xiềng xích của chế độ thực dân và phong
kiến, giúp nước ta giành lại được độc lập, nhân dân có được tự do, làm chủ đất nước,
vận mệnh của mình từ thân phận nô lệ mà Bác gọi là “Vong quốc nô”. Ngày 2/9/1945,
tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã độc bản Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thực tế khi đó, nước ta vẫn
chưa được thống nhất, nhiệm vụ chiến lược của miền Bắc lúc này là khôi phục kinh
tế, hàn gắn vết thương chiến tranh; tiến hành công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, làm cho miền Bắc vững mạnh, trở thành hậu phương vững chắc cho miền
Nam và là căn cứ địa cách mạng của cả nước. Mùa xuân năm 1975, Nam - Bắc thống
nhất, khi đó, bảo vệ chủ quyền đất nước không còn là đánh đuổi giặc ngoại xâm nữa
mà là không để các thế lực thù địch cả bên ngoài lẫn bên trong đe dọa đến lãnh thổ
quốc gia, nền hòa bình của dân tộc. Điều này được thể hiện rõ qua hai cuộc chiến bảo
vệ biên giới, đó là chiến tranh bảo vệ chủ quyền ở biên giới tây nam với Khmer Đỏ
vào năm 1975 - 1989 và ở biên giới phía bắc với Trung Quốc vào năm 1979. Tinh
thần yêu nước, đoàn kết, quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dưới sự lãnh đạo sáng
suốt, tài tình của Đảng Cộng sản đã giúp đất nước ta vượt qua biết bao cuộc chiến
khó khăn, gian khổ. Sau năm 1989, nước ta bước sang giai đoạn mới, có được hoàn
toàn sự độc lập, tự do để phát triển đất nước.

28
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1.

23
Trong thời kì hòa bình, bảo vệ chủ quyền đất nước có đôi nét thay đổi, bên
cạnh không để các thế lực thù địch cả bên ngoài lẫn bên trong đe dọa đến lãnh thổ
quốc gia, nền hòa bình của dân tộc; bảo vệ chủ quyền đất nước còn thể hiện qua việc
đưa nước ta lên Chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, phát triển
quân sự để cho thấy sự lớn mạnh của nước ta, qua đó khẳng định chủ quyền một cách
mạnh mẽ. Bảo vệ chủ quyền đất nước là sự nghiệp và trách nhiệm của toàn dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Mọi công dân Việt Nam,
không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa hay
nơi cư trú đều có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền dân tộc, chủ quyền đất
nước. Ngoài việc phải chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật của nhà nước,
mọi công dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quân sự, sẵn
sàng hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Từ bao đời nay, ông cha ta đã hi sinh biết
bao xương máu trong công cuộc dựng nước và giữ nước, thế hệ ngày nay được thừa
hưởng thành quả của lao động, chiến đấu gian khổ ấy, được sống trong hòa bình, độc
lập và tự do, chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ nền độc lập chủ quyền
dân tộc, tiếp nối tuyền thống vẻ vang ấy. Từ trong suy nghĩ và hành động, mỗi chúng
ta phải luôn ý thức về trách nhiệm của mình, không được một giây phút lơ là, thiếu
cảnh giác và thiếu trách nhiệm với đất nước.

Bảo vệ chủ quyền trong thời đại mới như hiện nay được thể hiện qua việc bảo
vệ chủ quyền biên giới đất liền, bảo vệ chủ quyền biển đảo và cả bảo vệ chủ quyền
trên không gian mạng. Vì vậy, mỗi chúng ta đều phải có tinh thần đứng lên bảo vệ
lãnh thổ quốc gia trước những thế lực thù địch nào muốn xâm chiếm nước ta trong
tương lai. Bên cạnh đó, phải ngăn chặn các hành vi khủng bố, phản quốc làm ảnh
hưởng tới chủ quyền đất nước. Trong những năm gần đây, tình hình tranh chấp chủ
quyền trên Biển Đông ngày càng phức tạp và diễn biến khó lường nhất là từ khi Trung
Quốc công khai khẳng định chủ quyền theo “đường lưỡi bò” phi lý của họ. Ngoài ra,
trong thời đại 4.0, nước ta đang đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, xây dựng chính
phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, công dân số. Thời gian
qua, tình hình an toàn, an ninh mạng diễn biến phức tạp trên không gian mạng toàn

24
cầu, khó kiểm soát, khó dự báo, tác động ngày càng sâu sắc tới mọi mặt đời sống kinh
tế-xã hội, chủ quyền, an ninh quốc gia của các nước và tâm lý, nhận thức của người
dân. Qua đó, có thể thấy, bảo vệ chủ quyền biển đảo và trên không gian mạng là hai
vấn đề vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa chính
trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Với bờ biển
dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven
biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới, vấn đề chủ quyền biển đảo của Việt
Nam có tầm quan trọng đặc biệt, tác động lớn đến phát triển kinh tế biển và bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường hòa bình của đất nước. “Theo Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu
km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông
gần 3,5 triệu km2). Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần
đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ
biển đất nước, với vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo
vệ sườn phía Đông của đất nước”29. Tuy nhiên, hiện nay tình hình tranh chấp chủ
quyền biển đảo và các vấn đề an ninh phi truyền thống như: khủng bố, cướp biển,
buôn lậu, tranh chấp ngư trường, khai thác tài nguyên biển gây ô nhiễm môi trường,…
diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường. Bên cạnh đó, tình hình trên thế giới, trong
khu vực và trên biển Đông có nhiều chuyển biến khiến cho nhiệm vụ phòng thủ, bảo
vệ đất nước, đặc biệt là an ninh trên biển gặp nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vụ
việc nghiêm trọng đã xảy ra như: tàu Viking 02 và tàu Bình Minh 02 của Việt Nam
bị cắt cáp năm 2011 và 2012; vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm
phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên Biển Đông năm 2014; sự kiện tàu Hải
Dương 8 của Trung Quốc khảo sát trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm

29
http://www.hocvienhaiquan.edu.vn/tin-tuc/khai-quat-ve-bien-dao-viet-nam

25
lục địa phía Nam Biển Đông của Việt Nam (4/7/2019 - 24/10/2019); các hoạt động
tập trận trên Biển Đông tại một số thời điểm;… Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Tình
hình Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, đe dọa nghiêm trọng đến
hòa bình, ổn định của khu vực và môi trường đầu tư phát triển”30.

Giải phóng dân tộc của nước ta trong quá khứ đã thành công dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, và hiện nay, bảo vệ chủ quyền biển đảo cũng sẽ thành công dưới
sự lãnh đạo tài tình ấy. Những năm qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều
diễn biến phức tạp, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, quân
và dân ta triển khai tích cực các hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển. Nhà nước ta đã thực hiện cơ bản chiến lược bảo đảm chủ quyền, an ninh; xử lý
kịp thời các tình huống trên biển, bảo đảm giữ vững được chủ quyền, mối quan hệ và
môi trường hòa bình trên biển. Để có được những kết quả như trên, điều kiện tiên
quyết chính là vì Đảng đã đề ra được những quan điểm, đường lối đúng đắn trong
công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo, xử lý kịp thời các tranh chấp trên biển Đông trên
cơ sở tiếp thu và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ nhất, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải dựa trên lực
lượng đoàn kết toàn dân tộc. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp để vận dụng đối với
việc bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Dân tộc ta phải nêu cao tinh thần
đoàn kết, cùng nhau phản đối những hành động xâm phạm đối với vùng biển của
chúng ta. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
phát huy và nâng tầm sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, để đại đoàn kết toàn dân thực
sự là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo
đảm thắng lợi bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo đất nước. Sau quá trình tìm hiểu và vận dụng tư tương Hồ Chí Minh,
nhóm đề xuất một số giải pháp thực tiễn, có thể áp dụng ngay tại trường học như sau:

30
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.88.

26
Một là, phải khơi gợi được lòng yêu nước trong mỗi thanh niên Việt Nam
thông qua các hoạt động thường niên như chương trình văn nghệ, cuộc thi kể chuyện,
viết báo về lịch sử, về biển đảo Việt Nam ta qua các thời kì; các hoạt động giới thiệu
Việt Nam đến bạn bè quốc tế,…

Hai là, không quên khắc sâu quyền sở hữu đối với biển đảo của Việt Nam
thông qua các băng-rôn, khẩu hiệu mang tính tích cực.

Ba là, đẩy mạnh việc tổ chức thường xuyên các hoạt động đội nhóm, các hoạt
động tình nguyện giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn,… nhằm nâng cao tinh thần đoàn
kết, gắn bó giữa người với người, giáo dục cho thanh niên hiểu tầm quan trọng của
“đoàn kết dân tộc”.

Thứ hai, cũng như phát triển đất nước, việc bảo vệ chủ quyền biển đảo không
thể thiếu đi hai yếu tố chủ động và sáng tạo. Vì vậy, thanh niên Việt Nam với nền
tảng là cơ sở lí thuyết khoa học, chúng ta phải chủ động trong:

Một là, chủ động tìm hiểu kiến thức về vấn đề chủ quyền biển đảo không chỉ
trong nước mà cả ngoài nước thông qua các luật quốc tế, các hiệp hội quốc tế, tình
hình chủ quyền trên thế giới,…

Hai là, chủ động nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về giá trị và ý nghĩa thiêng
liêng chủ quyền quốc gia; về lịch sử Việt Nam gắn liền với biển đảo;…

Ba là, hiểu rõ chính sách ngoại giao nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề biển đông cũng như nội dung của luật pháp, chế độ pháp lý của các vùng biển
theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.

Những điều trên tuy đơn giản, dễ dàng nhờ có mạng internet và thiết bị truy
cập nhưng để xây dựng được tinh thần chủ động trong thanh niên Việt Nam là một
quá trình lâu dài và cần nhiều sự cố gắng. Muốn vậy, thanh niên cần hưởng ứng và
tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet,
khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt
lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm phạm chủ quyền biển

27
đảo Việt Nam. Ngay trong trường Đại học Bách Khoa, với nền tảng khoa học kĩ thuật
và cơ sở lí luận chính trị, sinh viên có thể sáng tạo để tạo ra các sản phẩm khoa học
để phục vụ cho việc bảo vệ chủ quyền biển đảo. Để thúc đẩy hoạt động đó, các cuộc
thi nên được tăng cường tổ chức nhằm tìm kiếm ý tưởng, mô hình, sáng kiến, giải
pháp của hội viên, sinh viên nhằm cải thiện, giải quyết các vấn đề trong việc giữ gìn,
bảo vệ chủ quyền và phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo.

2.3. Bảo vệ chủ quyền không gian mạng

Bên cạnh vấn đề biển đảo, an ninh mạng cũng đang là vấn đề gây nhức nhối
hiện nay. “Chia sẻ tại sự kiện Security World 2019, Đại tá Đỗ Anh Tuấn, Phó Cục
trưởng Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công
an cho biết, một vấn đề nổi lên trong bức tranh an ninh mạng tại Việt Nam thời gian
gần đây là hoạt động tấn công mạng nhằm vào các cơ sở hạ tầng thông tin trọng yếu
của Chính phủ, các Bộ, ngành và các tổ chức, tập đoàn kinh tế, tài chính tiếp tục diễn
biến phức tạp, với tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm. Theo thống kê của Bộ
Công an, mỗi năm có hàng nghìn trang mạng của Việt Nam bị tin tặc tấn công nhằm
đánh cắp thông tin, chiếm quyền điều khiển, thay đổi, chèn nội dung, cài cắm mã
độc,… Trong 6 tháng đầu năm 2019, Bộ Công an đã phát hiện trên 2.500 trang tin,
cổng thông tin điện tử tên miền quốc gia Việt Nam bị tấn công; hàng trăm ngàn máy
tính bị nhiễm mã độc. Đáng lưu ý, Việt Nam xếp thứ 4 trong Top 10 quốc gia bị kiểm
soát bởi mạng máy tính ma (mạng botnet). Cùng với đó, hoạt động sử dụng mạng xã
hội nước ngoài để đăng tải tin giả với mục đích làm nhục, vu khống, bôi nhọ, xúc
phạm các tổ chức, cá nhân diễn ra tràn lan trên không gian mạng, xâm phạm trực tiếp
quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Năm 2018, Bộ Công an đã phát
hiện hơn 800 trang blog, gần 6.000 tài khoản mạng xã hội đăng tải hàng trăm nghìn

28
tin, bài có nội dung tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, phỉ bang, xúc phạm nhân
phẩm,…”31

Để góp phần giải quyết những vấn đề trên, nhóm đề xuất một số giải pháp phù
hợp với khả năng của sinh viên và nhà trường:

Một là, về phía nhà trường, tăng tổ chức các sự kiện, diễn đàn để chia sẻ, hội
thảo hoặc fanpage chính thống, từ đó có thể định hướng đúng đắn cho sinh viên cách
tiếp thu vấn đề, thông tin trên mạng, cách chọn lọc thông tin; bài trừ những thông tin
không chính thống, thông tin xuyên tạc, gây ảnh hưởng đến chính trị, lòng tin trong
nhân dân; nâng cao hiểu biết về tầm quan trọng của quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu
cá nhân, trách nhiệm khi phát ngôn trên mạng xã hội,…

Hai là, về phía hội sinh viên, cần phải chủ động tìm hiểu, tuyên truyền thông
tin chính thống bằng hình thức đăng các bài viết về luật an ninh mạng hiện hành, cụ
thể các trường hợp có thể bị xử lí dân sự hoặc hình sự liên quan đến mạng xã hội và
vấn đề bản quyền,…; xây dựng các trang thông tin, diễn đàn uy tín để cùng nhau chia
sẻ hiểu biết, học hỏi lẫn nhau. Từ đó, mở rộng mô hình đến nhiều đối tượng, tầng lớp
khác trong xã hội, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ an ninh mạng toàn dân.

Ba là, xác định một trong những con đường tấn công an ninh mạng đó chính
là virus và mã độc hại từ các việc cài đặt các phần mềm giả mạo, không bản quyền.
Nhằm từng bước ngăn chặn điều đó, nhà trường có thể đưa ra thêm chính sách hỗ trợ
sinh viên được sử dụng các phần mềm bản quyền, từ đó tạo dần thói quen tôn trọng
bản quyền, đồng thời giảm thiểu nguy cơ bị xâm nhập bởi những phần mềm độc hại,
đặc biệt đối với sinh viên khối ngành kĩ thuật, khi mà nhu cầu sử dụng phần mềm bản
quyền ngày càng tăng nhưng vấn đề chi phí vẫn gây ra những khó khăn nhất định đối
với đông đảo sinh viên.

31
https://www.mic.gov.vn/atantt/Pages/TinTuc/143836/Bo-Cong-an--Tinh-hinh-an-ninh-mang-ngay-cang-
dien-bien-phuc-tap.html

29
KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách
mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường
lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
cùng những thành tựu to lớn, quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng
minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Bài tiểu luận đã nêu rõ và phân tích các nội dung cơ bản, các luận điểm sáng
tạo, sâu sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Các
nội dung này cũng được đề cập và áp dụng thực tiễn thông qua các giải pháp thực
tiễn mà nhóm đưa ra, góp phần nhỏ công sức trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất
nước Việt Nam hiện nay. Qua đó, khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc có giá trị trường tồn, là kim chỉ nam của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta trong công cuộc bảo vệ vững chắc, toàn vẹn chủ quyền quốc gia thiêng liêng
của Tổ quốc hiện nay. Do đó, thanh niên Việt Nam phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc nhằm ứng dụng linh hoạt, sáng tạo và phù hợp
với tình hình bảo vệ chủ quyền đất nước trong từng thời kì. Đồng thời, luôn nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc diễn biến, xác định rõ đối tượng, đối tác của
cách mạng, tăng cường xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an
ninh nhân dân, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm độc lập, chủ quyền
của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

30
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, II.
3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 1, 2, 4,
12, 15, 17.
4. Trần Dân Tiên (2015), Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.

Website:
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa (23/09/2011), Khái quát về biển, đảo Việt
Nam, http://www.hocvienhaiquan.edu.vn/tin-tuc/khai-quat-ve-bien-dao-viet-
nam
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (17/01/2011), Những đặc trưng thể hiện
tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng,
https://dangcongsan.vn/dua-nghi-quyet-dai-hoi-dang-vao-cuoc-song/nhung-
dac-trung-the-hien-tinh-uu-viet-cua-xa-hoi-xa-hoi-chu-nghia-ma-nhan-dan-
ta-dang-xay-dung-56322.html
3. Hà Chính (21/10/2019), Không bao giờ nhân nhượng những gì thuộc về độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, https://baochinhphu.vn/khong-bao-gio-
nhan-nhuong-nhung-gi-thuoc-ve-doc-lap-chu-quyen-toan-ven-lanh-tho-
102262912.htm
4. Đào Thị Hiền (28/09/2021), Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác bảo
vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới,
https://www.tuyengiaokontum.org.vn/ly-luan-chinh-tri/quan-diem-chu-
truong-cua-dang-ve-cong-tac-bao-ve-chu-quyen-bien-dao-trong-tinh-hinh-
moi-3769.html

31
5. PGS, TS. Vũ Trọng Lâm (03/07/2020), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Nhà nước và xã hội là tất yếu khách quan,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-
/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/dang-cong-san-viet-nam-lanh-dao-
nha-nuoc-va-xa-hoi-la-tat-yeu-khach-quan#
6. Lý luận Chính trị (20/01/2016), Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng - ngọn
cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-kien/item/1261-cuong-
linh-chinh-tri-dau-tien-cua-dang-ngon-co-dan-loi-cho-cach-mang-viet-
nam.html, ngày truy cập 15/01/2022.
7. Minh Nguyễn (26/01/2021), “Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, https://vtv.vn/chinh-tri/voi-tat-ca-su-
khiem-ton-chung-ta-van-co-the-noi-rang-dat-nuoc-ta-chua-bao-gio-co-duoc-
tiem-luc-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-nhu-ngay-nay-20210126121805801.htm
8. Ngọc Mai (26/09/2020), Bộ Công an: Tình hình an ninh mạng ngày càng diễn
biến phức tạp, https://www.mic.gov.vn/atantt/Pages/TinTuc/143836/Bo-
Cong-an--Tinh-hinh-an-ninh-mang-ngay-cang-dien-bien-phuc-tap.html

9. PGS, TS. Vũ Văn Phúc (07/12/2019), Quan điểm, chủ trương, chính sách lớn
về phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm,
https://www.angiang.dcs.vn/Lists/KinhTe/DispForm.aspx?PageIndex=25&I
D=39
10. Đại Thắng (18/04/2022), Nhận thức đúng về chủ quyền biển, đảo, đấu tranh
với luận điệu sai trái, https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/nhan-
thuc-dung-ve-chu-quyen-bien-dao-dau-tranh-voi-luan-dieu-sai-trai-i650613/

11. Hà Văn (07/04/2022), Thủ tướng Phạm Minh Chính: Chủ động bảo vệ chủ
quyền quốc gia, an toàn, an ninh trên không gian mạng,
https://baochinhphu.vn/thu-tuong-pham-minh-chinh-chu-dong-bao-ve-doc-
lap-chu-quyen-quoc-gia-an-toan-an-ninh-tren-khong-gian-mang-

32
102220407182013846.htm?fbclid=IwAR3EB0FC-xJsbk-
RFEsY9HfkqYZRNVSOXqRSFX4o89PaUNz0npRwlXq7-Qo
12. Trương Viên (19/04/2021), Đi lên chủ nghĩa xã hội có phải là sự lựa chọn
đúng đắn?, https://hcma2.hcma.vn/nghiencuukhoahoc/Pages/bao-ve-nen-
tang-tu-tuong.aspx?CateID=334&ItemID=11420
13. VTV News (23/05/2021), Ngày bầu cử 23/5: Hơn 66 triệu cử tri đi bỏ phiếu,
ngày hội toàn dân thành công, an toàn, https://vtv.vn/chinh-tri/truc-tiep-ngay-
bau-cu-23-5-sang-suot-lua-chon-nhung-dai-bieu-cua-nhan-dan-
20210522221346678.htm

33

You might also like