You are on page 1of 17

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM




TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ VẬN DỤNG


TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn: Ngô Thị Thu Hoài


Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thanh Nam 21130023
2. Nguyễn Nguyên Duy 21130058
3. Nguyễn Quốc Đạt 21130006
4. Phùng Minh Khánh Hào 21130065
5. Hoàng Nam Bình 21130055

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2022


Nhận xét của giảng viên
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......

ĐIỂM (BẰNG SỐ): ……………….……………….

BẰNG CHỮ:……………….……………….

CHỮ KÍ GV:……………….……………….
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1

I. Lí do chọn đề tài......................................................................................1

II. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................1

III. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................1

NỘI DUNG.......................................................................................................2

I. Tư tưởng Hồ Chí minh về vấn đề con người.........................................2


1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người............................................2
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người..........................5

II. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY


DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................7
1. Thực trạng và một số vấn đề xây dựng con người Việt Nam.................7
2. Quan điểm của Đảng về phát huy yếu tố con người dựa trên cơ sở tư tưởng Hồ
Chí Minh......................................................................................................8
3. Giải pháp xây dựng và phát huy nhân tố con người Việt hiện nay.......11

KẾT LUẬN.....................................................................................................13

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................14


LỜI MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” đó
là lời căn dặn của Bác, câu nói đó đã thể hiện đầy đủ tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn
đề con người cũng như sự quan trọng của vấn đề “trồng người” trong việc xây dựng và
phát triển đất nước của nước ta.
Trong đưa nước chúng ta thành một quốc gia phát triển thì sự vấn đề con người và
phát triển con người ngày càng cần được chú trọng. Khi đi đôi với sự phát triển là sự
hội nhập, tiếp thu kiến thức văn hóa bổ ích nhưng bên cạnh đó những tư tưởng lệch
lạc, văn hóa tiêu cực cũng được du nhập vào đất nước dễ dàng khi mà mạng xã hội
phát triển quá mạnh mẽ. Từ đây ta có thể thấy vấn đề con người và sự nghiệp phát
triển con người có những điều kiện thuận là cũng như thách thức lớn trong sự nghiệp
phát triển đất nước.
Từ những vấn đề được nêu ra như trên nhóm em quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề con người và sự vận dụng trong việc xây dựng con người Việt
Nam hiện nay”.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Nắm vững những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hố Chí Minh về vấn đề con người từ
đó vận dụng vào thực tiển để xây dựng chính bản thân mình và những người xung
quanh.
III. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn dề con người, con người Việt Nam hiện nay
và những thực trạng, nguyên nhân, giải pháp.

1
NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí minh về vấn đề con người

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được
vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn,
được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư
tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn
dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và
của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn
bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước.
Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh.

a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể.

Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi
nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không
bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là “đầy tớ trung thành” có sứ mệnh phục vụ nhân dân,
lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này
đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu nhà
nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây cũng chính là điều đã làm nên
chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt
cách của một nhà hiền triết phương Đông.

Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội; con người là
chủ thể của các mối quan hệ xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá
trị vật chất và tinh thần của xã hội.
2
Hồ Chí Minh đề cập đến con người trong tính đa dạng: đa dạng trong quan hệ xã hội
(quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào…); đa dạng trong tính cách,
khát vọng, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhưng
đều hợp lại nơi bàn tay; mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác,
nhưng đều cùng là nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện
sống, làm việc…

Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác,
hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ… Bao gồm tính người – mặt xã hội và tính bản năng
– mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh con người có tốt, có xấu, nhưng “dù
là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.

Đối với Hồ Chí Minh, con người tồn tại vừa là tư cách cá nhân, vừa là thành viên của
gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong
phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình,
anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một
cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi
lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với
tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô
cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân
không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được.
Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “Đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều
có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”.
Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là
một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con
người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp
và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn
tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn
thế giới.

3
b. Con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận
có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó
là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới
ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ
nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những “người nô lệ mất nước” và “người cùng
khổ”. Logic phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến
với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo logic phát
triển tư tưởng ấy, khái niệm “con người” của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm
“giai cấp vô sản cách mạng”. Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống
nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc
biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy
nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn
thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một
khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải
pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các
chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v…) về thực chất chỉ là sự cụ
thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số trường hợp
(“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”…)
nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem
xét con người trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp,
trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện
thực, cụ thể, khách quan.

c. Bản chất con người mang tính xã hội.

Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất, con
người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về
mình và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan hệ giữa người với người.

4
Hồ Chí Minh định nghĩa về con người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em họ
hàng, người thân, bạn bè, nghĩa rộng là đồng bào cả nước, rộng nữa là cả loài người”.
Như vậy, con người không phải là những cá thể biệt lập và đơn độc mà là một tập thể
một khối đoàn kết vững mạnh. Chỉ có trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn
xã hội con người mới có lao động, ngôn ngữ, tư duy, chế tạo công cụ lao động, mới
thực sự trở thành con người đúng nghĩa con người để phân biệt với mọi loài động vật
khác. Những quan hệ xã hội mà Hồ Chí Minh quan tâm là những quan hệ gắn bó với
mọi người, với cộng đồng, tạo thành những cộng đồng xã hội từ nhỏ đến lớn, từ hẹp
đến rộng, những cộng đồng gia đình, họ tộc, làng xã, dân tộc đã tạo thành cộng đồng
bền vững được bồi đắp trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước.

2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, người luôn khẳng định một vai trò nòng
cốt của con người. Hồ Chí Minh khẳng định, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người
làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Con người là mục tiêu của
cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi
ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân
tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được
giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng
trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam…
Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người
là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy,
cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công sự nghiệp cách mạng. Tấm
lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng
5
con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và
nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân
loại" là "không bao giờ thay đổi"
Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và
vô tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được
hình thành rất sớm. Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những
người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm dùng dẫn và
đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm
của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chủng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch
sử. Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí
Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn
đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cũng quan điểm
"ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tỉnh
thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm
thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm
người cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bỏ không tách rời với
chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân
của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hỏi, mà nó tồn tại trong mối
quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa quốc gia với quốc tế. Yêu
thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh luôn coi
trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tỉnh ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm
châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta
là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân
loại trên phạm vi toàn thể giới.
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, họ biết “giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra". Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh
thần quật cưởng và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chi kiên
6
quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta
nhất định thắng lợi.
II. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là mục tiêu, là động lực của
cuộc cách mạng.Qua đó phát triển nhiều quan điểm mới về xây dựng, phát triển con
người. Những quan điểm này được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định
hướng cụ thể trong hoạt động thực tiễn và phát triển kinh tế - xã hội.

1. Thực trạng và một số vấn đề xây dựng con người Việt Nam

Sau nhiều năm đổi mới, sự nghiệp “trồng người” ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến
tích cực, đạt nhiều kết quả. Nhà nước đã quan tâm thực hiện các chính sách xã hội để
nâng cao đời sống cho người dân, thể hiện sâu sắc tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
o Hệ thống an sinh xã hội nói chung, hệ thống bảo hiểm nói riêng ở Việt Nam
thay đổi theo hướng mở rộng đối tượng, loại hình như bảo hiểm bắt buộc (bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, bảo hiểm tự nguyện). Nhà nước thực hiện chính
sách cấp bảo hiểm y tế hỗ trợ chăm sóc sức khỏe miễn phí cho trẻ em đến 6
tuổi, hỗ trợ một số đối tượng chính sách, người nghèo. Các chính sách trợ giúp
xã hội được mở rộng về quy mô và đối tượng, với mức trợ giúp ngày càng
tăng…
o Việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo những năm qua của Việt Nam
được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng cho các vùng nghèo, nâng cấp, làm mới, cải tạo các tuyến giao thông, tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế; đồng thời tiếp tục quan tâm tạo nguồn
lực để dân cư đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề tăng thu nhập. Tại Đại
hội XII, Đảng ta xác định một trong những mục tiêu quan trọng là: “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục tiêu của của chiến
lược phát triển”.

7
2. Quan điểm của Đảng về phát huy yếu tố con người dựa trên cơ sở tư tưởng
Hồ Chí Minh.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người, Đảng ta
luôn coi con người là “nguồn lực của mọi nguồn lực”, là nguồn lực nội sinh quan trọng
nhất quyết định thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Tiếp tục phát
huy các thành tựu 35 năm đổi mới tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học kinh nghiệm, Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát huy tối đa nhân tố con người;
con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”,
cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển con người mới hiện đại. Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị, nhân cách đồng thời nâng cao nhận thức và xác
định rõ trách nhiệm con người Việt Nam trong thời đại mới. Vấn đề quan trọng này
được Đảng ta sớm đề cập trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát
triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu,
chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được
chú trọng”. “Nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trước hết là các tổ chức Đảng, các
cấp chính quyền là điều kiện tiên quyết cho việc phát huy nhân tố con người. Phát huy
vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, con
người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm
chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại”. Trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 10 năm
2021-2030, một trong năm quan điểm phát triển xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi
dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút,
trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành
tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động
lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

8
Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng
con người, phát triển kinh tế, xã hội. “Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”, là sức
mạnh nội sinh làm cho Việt Nam phát triển bền vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá
trị chuẩn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu, ngăn chặn có hiệu quả sự xuống
cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ
đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Kinh tế
thị trường ở nước ta là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy
luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức
quản lý và phân phối.
Ba là, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích chính đáng, hợp pháp được pháp luật
và xã hội thừa nhận, tạo động lực cho con người. Lợi ích chính là điểm mấu chốt, là
một trong những động lực hàng đầu nhằm phát huy nhân tố con người. Trong thực tiễn
cách mạng trước đây, nhu cầu giải phóng dân tộc là quan trọng hàng đầu, nên lợi ích
toàn dân tộc phải được đặt lên trên hết trong giải quyết mọi mối quan hệ lợi ích. Tuy
nhiên, khi đất nước hòa bình, các nhu cầu và lợi ích chính đáng của người dân cần
được tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn. Đó chính là việc quan tâm, giải quyết
tốt vấn đề lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động; hạn chế, loại bỏ các hình
thức thu nhập bất chính, triệt tiêu động lực của người lao động, thực hiện công bằng về
cơ hội, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong thực tế hiện nay, vấn đề giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng
đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích trực tiếp trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi
ích vật chất với lợi ích tinh thần đang được đặt ra và không dễ tìm được sự đồng thuận.
Bốn là, mở rộng và phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thực hiện dân chủ
là một trong những điều kiện tiên quyết để khơi nguồn sáng tạo cho con người trong
sản xuất, tham gia kiến thiết xã hội. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi
mới và phát huy nhân tố con người, chúng ta phải hoàn thiện và xây dựng lối sống dân
chủ đưa nó vào thực tế hằng ngày để dần trở thành nề nếp, thói quen, nhu cầu của mỗi
9
người và của cả cộng đồng. Bên cạnh đó, chúng ta cần hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Năm là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham những, lãng phí và các tiêu cực
khác trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực trong bộ
máy Đảng và Nhà nước là “quốc nạn”, nó làm suy yếu năng lực kinh tế, làm chậm quá
trình phát triển của đất nước, khiến nhân dân mất lòng tin vào bộ máy lãnh đạo và đội
ngũ cán bộ thi hành đường lối, chính sách, nhân tố con người do vậy cũng sẽ chịu
những ảnh hưởng không tốt... Đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện
tiêu cực trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng con
người và phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay.
Sáu là, tiếp tục nâng cao hiệu quả, đổi mới giáo dục - đào tạo, phát triển khoa học
- công nghệ theo hướng đáp ứng nhu cầu phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện
nay. Thực hiện triết lý giáo dục học hiện đại, với bốn trụ cột: học để biết; học để làm;
học để cùng chung sống và học để làm người. Triết lý trên cho thấy học không chỉ để
nâng cao trình độ nhận thức, mặt khác là rèn luyện kỹ năng, hoàn thiện nhân cách cho
đối tượng được giáo dục.
Ở nước ta hiện nay, Đảng ta chủ trương giáo dục, “khoa học công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng của sản xuất hiện đại” .
Ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã có những bước phát triển mạnh mẽ,
sản xuất ra nhiều loại máy móc không những có khả năng thay thế lao động cơ bắp,
mà còn có thể thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn máy
tính điện tử, người máy thông minh, trí tuệ nhân tạo, máy vi tính có thể tính nhanh và
chính xác gấp triệu lần con người; rôbốt, người máy có thể làm được những việc mà
con người không thể làm nổi, nhưng những cái đó suy cho cùng đều do con người chế
tạo ra, con người điều khiển chúng, nếu thiếu con người, thì tự bản thân chúng cũng
không thể phát huy tác dụng. Khoa học, công nghệ chỉ thực sự phát huy vai trò to lớn
khi thông qua con người, chịu sự chi phối của con người. Do vậy, dù máy móc có hiện
đại đến đâu chăng nữa cũng không thể hoàn thiện được như bộ óc con người. Cần có
thái độ đúng đối với con người, quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn diện cả về
thể chất và tinh thần. Đặc biệt quan tâm bồi dưỡng thế hệ trẻ có kiến thức, nắm vững

10
khoa học, công nghệ hiện đại, có tình cảm cách mạng trong sáng, ý chí vươn lên xây
dựng đất nước giàu mạnh.
Bảy là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đối
với người lao động. Năng lực con người muốn có cần được giáo dục - đào tạo, muốn
tỏa sáng cần được sử dụng, muốn thăng hoa, phát triển cần có động lực qua các chính
sách đãi ngộ thỏa đáng. Thực tế thời gian vừa qua, nhiều người trong độ tuổi lao động
không tìm được việc làm, trong số đó có một lực lượng không nhỏ đã qua đào tạo;
trong số lao động đã qua đào tạo không phải ai cũng làm việc đúng ngành nghề chuyên
môn; tình trạng làm trái ngành, trái nghề không phải là cá biệt. Có thể nói, việc sử
dụng không hợp lý lao động nói chung đã là một sự lãng phí, song sử dụng không hợp
lý lao động đã qua đào tạo thì mức độ lãng phí còn lớn hơn nhiều.

3. Giải pháp xây dựng và phát huy nhân tố con người Việt hiện nay

Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, để đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải thực sự coi con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội; cần phải chú trọng phát triển con người Việt
Nam một cách toàn diện, cần phải nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo
và bồi dưỡng nhân tài, phát triển nhân cách con người Việt Nam vừa “hồng thắm” vừa
“chuyên sâu”. Không phải ngẫu nhiên, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng mới với những đức tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với
nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỉ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.

11
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ đảm
bảo mục tiêu phát triển bền bền vững là “con người có thế giới quan khoa học, hướng
tới chân - thiện - mĩ” , có lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”;
hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã
hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Muốn thực hiện được điều đó, Đảng ta nêu lên những nhiệm vụ chủ yếu, đó là:
“Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập… Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao
năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy
vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con
người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng
đồng.
-Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo
dục tri thức, đạo đức, kĩ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan
điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa
con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam”.
Do vậy, cần phải phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ;
hướng các lĩnh vực ấy vào việc phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững, đồng thời cần phải đổi mới cơ chế, chính sách sử dụng nguồn nhân lực
một cách hợp lí nhất, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.

12
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản với chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc Việt Nam, với đạo lí làm
người của người Việt Nam trong vấn đề xây dựng phát huy nhân tố con người phát
triển toàn diện. Tư tưởng ấy của Người là cẩm nang và có ý nghĩa to lớn trong quá
trình xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Con người là nền tảng của mỗi quốc gia dân tộc. Một dân tộc có thịnh vượng, giàu
mạnh hay không phụ thuộc vào sức mạnh của từng người và sức của đại đoàn kết dân
tộc. Với việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới nhóm chúng
em đã hiểu được vị thế, vai trò to lớn của con người trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, trong công cuộc xây dựng , đổi mới đất nước….Học tập theo tư tưởng của Bác, là
công dân Việt Nam mỗi người trong chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện bản
thân, để trở thành những con người hiện đai mà văn minh, đúng với những tư tưởng
của Bác nêu ra. Đặc biệt học sinh, sinh viên những chủ nhân tương lai của đất nước
hãy ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức để xây dựng đất nước giàu đep, văn minh.

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. https://thuvienpdf.com/giao-trinh-tu-tuong-ho-chi-minh

2. https://luathoangphi.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-con
nguoi/#Quan_diem_cua_Ho_Chi_Minh_ve_vai_tro_cua_con_nguoi

3. https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/
quan_niem_ve_con_nguoi_ho_chi_minh-e.html

4. https://vinhloi.baclieu.gov.vn/vi/-/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-con-nguoi-
1056

5. https://btgtu.binhthuan.dcs.vn/Tintuc/post/21774/xay-dung-con-nguoi-viet-nam-
theo-tu-tuong-ho-chi-minh.aspx

6. http://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/Default.aspx?
tabid=1292&Group=210&NID=3124&tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-van-hoa-
con-nguoi

7. https://nlv.gov.vn/phan-1-hcm-anh-hung-giai-phong-dan-toc/tu-tuong-ho-chi-minh-
ve-con-nguoi-ve-xay-dung-con-nguoi-va-su-van-dung-tu-tuong-do-trong-cong-cuoc-
doi-moi-o-viet-nam-hien-nay.html

14

You might also like