You are on page 1of 15

Mục Lục :

Trang
Mở đầu..................................................................................................................................
Nội dung................................................................................................................................
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người......................................................................
II.Tư tưởng Hồ Chí Minh Về chiến lược trồng người............................................................
1.Cơ sở lí luận thực tiễn........................................................................................................
2.Tư tưởng cơ bản................................................................................................................
3.Phương châm....................................................................................................................
4.Giải pháp...........................................................................................................................
Kết Luận...............................................................................................................................
MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm khoa học rộng lớn, sâu sắc và phong phú
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tư tưởng của Người
là một kho tàng những giá trị nhân văn cao cả. Một trong những giá trị đó là tư tưởng về con
người và chiến lược “trồng người”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ
nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề
lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng
của Người.

            NỘI DUNG

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng
một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải
phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn
đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng
một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải
phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn
đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân,
tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực
của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận
dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng
như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản ủa toàn bộ tư tưởng về
con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình
và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã
nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Quan điểm đó thể hiện ở
chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về
chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến
nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người
chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi
ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát
huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có
tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình". Trong
quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân
chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được
đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư
cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng
đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính
trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt
Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong
kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa
là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là
xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế
chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận
với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự
thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt
là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất
yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi
sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác
phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo
đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục
con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được
thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải
phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến,
đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu
khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi". Cuộc
chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Về chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn
chỉnh, một công thức bất biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người: "Nói
một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi
bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc";
"Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân" xây dựng chủ
nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được
quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù,
tránh giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận
điểm của Ăngghen: "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái cần phải
sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa
cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay". Vì vậy, không chỉ trong lý
luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định
ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, "cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ
Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người là mục tiêu, đồng thời vừa
là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con
người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân dân
các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao
giờ thay đổi". Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh
liệt và vô tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình
thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn,
tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động trong nước và nước
ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một
cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến"1. Tin vào
quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ bản của
người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ
Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần
thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn
dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy dân làm
gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại
ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách", một phương tiện để thực hiện mục đích "trị
nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người
yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân
dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào
nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng
nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có
nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt
Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng
điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại
ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công
giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu
nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn
bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó
tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế.
Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh
đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại
tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách
rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân"
và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng,
dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản
thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí
Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến
hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết
lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư
tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn
cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của
chính sự nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh
giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người
giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy
tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp
cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng "chăn
dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây,
cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân
văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con
người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự
nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính
sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó
tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm
trong "chiến lược phát triển toàn diện"; đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới
với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội".
_Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới này không có
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì đều do người làm ra,
và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người cho rằng “việc dễ mấy không có dân cũng
chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và
tinh thần, dân ta là tài năng và trí tuệ, sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản
đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân
tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta
có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của
cách mạng. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn,
không ai thắng nổi”.
 _Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc, phát
huy nhân tố con người
_ Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng.
- Mục tiêu của cách mạng: là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực
hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt, lợi ích cả
dân tộc, lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và các nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì
có lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân - dù nhỏ mấy - ta phải hết
sức tránh.
 Con người là động lực của cách mạng.
- Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng
bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới lấy công - nông - trí
làm nền tảng.
- Không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ
và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền
thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ
bản trong động lực con người.
- Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì
vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người - động lực tốt
bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh
chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
 Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ
nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc
hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý
kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
Hồ Chí Minh cho rằng con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia
đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người
đã nêu một định nghĩa về con người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động
nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc, là dân tộc Việt Nam
đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân, mở rộng hơn nữa là những “người nô lệ mất nước”,
“người cùng khổ”, là cả loài người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ: Theo Hồ Chí Minh, không có
con người trừu tượng, mà là con người cụ thể. Con người ở đâu và lúc nào cũng không tồn tại
một chiều, mà ở nhiều bình diện với nhiều chiều khác nhau, trong các mối quan hệ khác nhau.
Đúng như các nhà kinh điển đã nói “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Đó là quan
hệ với tộc loại, quan hệ với cộng đồng, với nhóm dân cư, với người thân trong gia đình, với
xóm giềng và với bản thân mình. Ngoài quan hệ xã hội, còn có quan hệ với thiên nhiên - tự
nhiên, với môi trường… trong các quan hệ đó, còn xem xét vị trí chủ động hay thụ động, chủ
thể hay khách thể; quản lý hay bị quản lý… Suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người,
vấn đề giải phóng dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người và xây dựng, rèn luyện,
giáo dục con người, bao giờ cũng là trung tâm của tư duy và mục tiêu của mọi hoạt động yêu
nước và cách mạng của Hồ Chí Minh. Con người tự do và tự do hạnh phúc của con người, đó
là mục tiêu cao cả nhất và thường xuyên nhất mà Hồ Chí Minh đã cống hiến trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình. Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm
giá tốt đẹp của con người. Người luôn luôn tôn trọng và nâng niu, khuyến khích mặt tốt, mặt
thiện của con người. Người nói “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác trong lòng, ta phải
biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Nếu như Khổng Tử coi “Nhân chi sơ tính bổn thiện” và
Tuân Tử coi “Nhân chi sơ tính bổn ác”, thì Người lại cho “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn” và
Người cho rằng hiền hay dữ “phần nhiều do giáo dục mà nên”. Xem xét, đánh giá con người
trong các mối quan hệ xã hội - lịch sử cụ thể; nhân ái, tin tưởng và khoan dung đối với con
người; tất cả vì con người và do con người; thực hiện giải phóng con người bắt đầu từ giải
phóng dân tộc; coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Đó là đặc trưng
của tư tưởng Hồ Chí Minh vì con người. Đó là vị trí, vai trò của con người và chiến lược trồng
người. Hồ Chí Minh có một lòng tin mãnh liệt và vô tận đối với nhân dân, đối với những con
người bình thường được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường
cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao
động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người
Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm
khi thời cơ đến”. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những
phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất,
giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các
bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí
Minh: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết toàn dân”, thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng
tích cực “lấy dân làm gốc”, mặc dù cũng chủ trương “khoan thư sức dân”, nhưng quan điểm
của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một “kế sách”, một phương tiện
để thực hiện mục đích “trị nước”, “bình thiên hạ”. Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí
Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm
đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân
dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của
Mác, Ăngghen, Lênin: “Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử”. Tin dân,
đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc
sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng
như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm “ái quốc là ái dân”, nhưng điểm khác cơ
bản trong tư tưởng “ái dân” của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư
tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do,
nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó
không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng
về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong
mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương
nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn
dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người
cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn
bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Tóm lại: Quan niệm về
con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con
người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp,
nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người,
đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát
từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương
yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con
người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã
trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp
cách mạng ấy. Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn
nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho
mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả
lãnh tụ) chỉ là “đầy tớ trung thành” có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần
vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư
tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa
kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ
nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông. Con người Việt
Nam đang là trung tâm trong “chiến lược phát triển toàn diện”; đang là động lực của công cuộc
xây dựng xã hội mới với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng  người”.

1. Cơ sở lí luận và thực tiễn.

Nếu như luận điểm về con người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh, thì vấn đề
‘trồng người” lại chiếm vị trí quan trọng trong luận điểm xuyên suốt ấy và hành động của Người
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Ngay từ khi còn tìm đường cứu nước,
trong tác phẩm “bản án chế độ thực dân”, từ năm 1925, Người đã lên án thực dân Pháp “Không
những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành chính sách ngu
dân để trị”. Khi chưa giành được chính quyền, Người đã chủ trương “Khi cách mạng thành
công, sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng”. Người cho “hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên”. Thấy trước vai trò quan trọng của giáo dục trong việc “trồng người”,
Người khát khao biến khát vọng “khai dân trí” của cha ông thành hiện thực và đưa sự nghiệp
“trồng người” trở thành sự nghiệp chiến lược. Sau cách mạng tháng 8 -1945 thành công, nào là
thù trong, giặc ngoài, nào là chết đói, mà Người vẫn để “giặc dốt” ở trên “giặc ngoại xâm”. Ngày
03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ bàn sáu vấn đề cấp bách của Nhà nước
Việt Nam non trẻ, Người để “nạn dốt” là vấn đề thứ hai, chỉ xếp sau nạn đói. Người nói “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và Người đề nghị mở một “Chiến dịch chống nạn mù chữ”. Có
thể nói từ khi giành được chính quyền, Người đã thực hiện sự nghiệp “khai dân trí” rộng lớn và
đều khắp chưa từng có trong lịch sử nước ta. Sự nghiệp đó đã thu được thành công hết sức to
lớn, mặc dù sự nghiệp đó được tiến hành trong điều kiện chiến tranh ác liệt. Trong thư gửi cho
học sinh tháng 9/1945, Người viết “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc
Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Qua mấy dòng ngắn ngủi,
chúng ta đủ thấy Người đánh giá vai trò lớn lao của giáo dục đào tạo và lợi ích của việc học tập
như thế nào. Trong các bài nói, bài viết, Người đưa ra nhiều vấn đề mà sau này chúng ta khái
quát lại là mục tiêu giáo dục và nguyên lý giáo dục. Đối với học sinh phổ thông Người dạy “cần
xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Với cán bộ Người dạy
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ
quốc và nhân loại…”; nếu như ông cha ta bảo “muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”, thì Người
khuyên các thầy cô giáo “phải yêu dân, yêu học trò, gần gũi cha mẹ học trò”. Người khuyên
“Học phải đi đôi với hành, lý luận phải đem ra thực hành, giáo dục ở nhà trường và gia đình có
quan hệ với nhau, nhà trường phải gắn với thực tế của nước nhà”. Đánh giá vai trò học tập ở
trường, Người nói “Sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh
niên và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà”. Trong mưa bom bão đạn của
những năm chống Mỹ cứu nước, Người vẫn luôn luôn quan tâm đến chiến lược “trồng người”.
Trong thư cuối cùng, Người gửi cho ngành giáo dục ngày 15/10/1968, Người căn dặn “Dù gian
khổ đến đâu, thầy và trò cũng phải thi đua dạy tốt và học tốt”, trong thư, Người còn dặn “Thầy
và trò phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu Chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình
cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng…”. Đến lúc đi xa, chiến lược “trồng người” vẫn cứ đeo bám
Người. Trong di chúc, Người dặn toàn Đảng rằng “Bồi dưỡng thệ hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và cần thiết”. Với tư tưởng tất cả vì con người và với chiến lược “trồng
người” Hồ Chí Minh đã bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực “vì sự
nghiệp trăm năm phải trồng người”. Người rất coi trọng trí thức, quý trọng người lao động trí óc.
Người xem trí thức văn hoá là cái “chìa khoá” để nhân dân lao động thực hiện vai trò làm chủ
của mình. Cả cuộc đời vĩ đại và thanh cao của Người là dành cho dân, cho nước, cho dân tộc
và nhân loại. Người “Chỉ có một ham muốn, ham muốn tốt bậc, là làm sao cho đất nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”. Bây giờ “ai cũng được học hành” rồi. Tuy nhiên để “phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân” nói cách khác là để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng
mới thì việc dạy và học của chúng ta chưa như mong muốn của Người. Đảng đã coi giáo dục
đào tạo là quốc sách hàng đầu rồi nhưng các ngành, các cấp, toàn xã hội phải nỗ lực hơn nữa
để giáo dục đào tạo thực sự là “quốc sách hàng đầu” để đền đáp và thảo lòng mong muốn của
Người lúc sinh thời. Nhằm thực hiện được ý tưởng cao đẹp giải phóng con người, đem lại sự
tự do, hạnh phúc cho con người thì phải xây dựng, kiến thiết được xã hội không còn chế độ
người bóc lột người, Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình trên bước đường cứu nước đã
nhận thức được và có quyết tâm hiện thực được trên quê hương của mình đó là chế độ xã hội
chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa không phải do lực lượng nào ban phát cho, nó là sản phẩm
của chính con người - con người mang tố chất xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Muốn
có xã hội chủ nghĩa phải có con người xã hội chủ nghĩa Muốn có người xã hội chủ nghĩa phải
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Người coi việc ươm trồng được những con người xã hội chủ
nghĩa, việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là công việc trọng đại của đất nước, của
dân tộc, của Đảng. Ngày 13/9/1958, nói chuyện với Hội nghị giáo dục toàn quốc trong bối cảnh
miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước, Người đã nêu
ra thông điệp: Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Thông điệp của Hồ Chí Minh có ý nghĩa vĩnh hằng trong đời sống kinh tế văn hóa của đất
nước, của dân tộc, nó mang một ý nghĩa cao cả, sâu sắc. Người đề cập đến “việc trồng người”
là vì lợi ích của nhân dân, của chính con người, vì thắng lợi Chủ nghĩa xã hội mà Người tiến
hành để đem lại sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Sau khi nêu ra thông điệp này, Hồ Chí
Minh đã có lời nhắn nhủ tha thiết sau đây với cán bộ giáo dục, cũng là lời nhắn nhủ với toàn
dân tộc: “Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà… đó là một
trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người cố gắng làm tròn nhiệm vụ”. Trong
chiến lược “trồng người” mà Hồ Chí Minh mang hết tâm lực thực hiện, Người đặc biệt quan tâm
đến vấn đề chuẩn bị của Đảng, của chính quyền mới. Hồ Chí Minh coi cán bộ là cái gốc của
mọi công việc, đó là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của của dân chugns báo cáo lại cho Đảng,
cho Chính phủ hiểu rõ để đạt chính sách cho đúng. Người khẳng định: “Muôn việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Với quan điểm con người là vốn quý nhất, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể, có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách,
công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi, không có cán bộ tốt thì hỏng viêc, tức
là lỗ vốn”. Đầu tư cho sự nghiệp trồng người, đầu tư cho công tác cán bộ là sự đầu tư sáng
suốt nhất, có lãi nhất. Đó là một tư tưởng lớn của kinh tế học đào tạo ngày nay. Trong vấn đề
cán bộ, Hồ Chí Minh rất chăm lo xây dựng cho đất nước một đội ngũ trí thức cách mạng. người
nhấn mạnh “Tri thức là vốn quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như
thế”. Một chiến lược trồng người, chiến lược giáo dục, chiến lược cán bộ đưa đất nước tới sự
phát triển bền vững và toàn diện bao giờ cũng phải chứa đựng trong nó một kế hoạch hiện thực
về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài của quốc gia. Kết tinh các ý tưởng tinh hoa của tiền
nhân, Hồ Chí Minh sau khi lãnh đạo nhân dân giành được độc lập đã quan tâm vấn đề chọn
người tài để kiến thiết quốc gia: “Kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến
thiết giáo dục”. Chiến lược con người Việt Nam mới mà Hồ Chí Minh vạch ra đặt trên nền tảng
hệ giá trị đạo làm người. Hệ giá trị này kết tinh đạo lí của dân tộc và cập nhật các nhân cách
của thời đại mới. Hồ Chí Minh xác định con người dù ở tầng lớp nào, làm nghề nghiệp gì, sự
hoạt động trong xã hội đều chia làm ba mặt quan hệ “Đối với bản thân, đối với người khác và
đối với công việc”. Hồ Chí Minh đưa khái niệm “Trung - Hiếu” vốn là các khái niệm sâu đậm
trong tâm thức người Việt Nam đến một chất mới phù hợp với chế độ dân chủ cộng hòa. Người
cho rằng đạo đức của chế độ mới cao rộng hơn không phải chỉ có hiếu với bố mẹ mà trung với
nước, hiếu với dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến các giá trị tình nghĩa trong đạo làm người. Đó
là các giá trị cốt lõi trong đời sống dân tộc: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau
có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ
nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh xây dựng hệ thống “Ngũ thường” mới cho dân tộc Việt Nam.
Kế thừa Khổng học, biết chắt lọc các tinh hoa và đặt vào hoàn cảnh của một đất nước phải tiến
hành cuộc kháng chiến chống bọn xâm lược, xây dựng đời sống mới. “Nhân - Nghĩa - Trí -
Dũng – Liêm”. Ngũ thường của nho gia là ngũ thường phục vụ cho trung hiếu hạn hẹp, thủ cựu
còn ngũ thường của Hồ Chí Minh là phục vụ cho đất nước, cho nhân dân, cho cách mạng:
Trung với nước, Trung với Đảng, Hiếu với dân. Hồ Chí Minh mong dân tộc từ bỏ những thói
xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô mà chế độ thực dân đã đầu độc. Mong mỗi người Việt Nam,
cả dân tộc Việt Nam phải lấy “cần, kiệm, liêm, chính” là phương châm sống trong cuộc sống
mới. Người xác định thế hệ trẻ là người chủ của nước nhà, Người mong họ phải rèn luyện đạo
đức cách mạng để chuẩn bị trở nên người công dân tốt, người cán bộ tốt của đất nước.
Phương pháp giáo dục mà Hồ Chí Minh kiên trì và khuyến khích cho các đồng chí của mình
cùng làm theo là phương pháp giúp cho mỗi người thấy được viễn cảnh sán lạn, quyết tâm tu
dưỡng làm theo điều thiện, điều tốt. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược con người: Đó là việc
phải coi con người là tung tâm của quá trình phát triển, đó là việc các chính sách kinh tế, chính
trị, xã hội, giáo dục phải lấy chữ Nhân làm gốc, phải coi “trong bầu trời không gì quý bằng nhân
dân”, phải giáo dục cho toàn dân, đặc biệt là cho thế hệ trẻ thành những người có các phẩm
chất Trung - Hiếu, Tình - Nghĩa, Nhân - Chí - Dũng, Cần - Kiệm - Liêm - Chính và có năng lực
sáng tạo trong học tập, lao động vươn lên đạt những đỉnh cao trong khoa học kĩ thuật.

2. Tư tưởng cơ bản: - Giáo dục lí tưởng Cách mạng:

Bồi dưỡng thanh niên có nhận thức đúng đắn về Chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý chí phấn đấu vì
lí tưởng cao cả là độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta. Giáo dục thanh thiếu niên thấm nhuần sâu sắc lí tưởng giải phóng con người khỏi áp
bức, bóc lột, xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng hạnh phúc. - Giáo dục đạo đức cách
mạng: Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc, là vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây dựng
con người mới. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và hiếu với
nhân dân. Đạo đức cách mạng là ra sức thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và
khiêm tốn giản dị. Đạo đức cách mạng là tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trí tuệ của tập
thể, của nhân dân và kiên quyết đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. - Giáo dục kinh tế, văn
hóa và nghề nghiệp: Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, không chịu lùi bước
trước mọi khó khăn, gian khó. Xây dựng tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa các tầng lớp
nhân dân vì lợi ích Tổ quốc. Phát huy truyền thống lao động cần cù, tinh thần hiếu học của cha
ông. - Giáo dục sức khỏe, thể chất: Giáo dục đức, trí, thể, mĩ. Pháp đầu độc người Đông
Dương bằng cồn và thuốc phiện, không đủ cơm ăn, không đủ áo mặc, thất học, đau ốm, chết
chóc.
+ “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng    
 Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ Chí
Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người nói đến “lợi
ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến
lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng
lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con
người.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với
nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp.
+ “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
- Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
- Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là
mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ
với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là, hình thành
những phẩm chất mới: như có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí
tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. 
+ Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội
- Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là
biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại tương lai tươi sáng
cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
- Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý
tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống
nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận
thức và hành động, lời nói với việc làm... có như vậy mới có thể “Học để làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều” không phải làm
một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó.  Nhận thức và giải quyết vấn đề
này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

3. Phương châm:

Kết hợp chặt chẽ học với hành, lí luận với thực tiễn. Kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã
hội trong giáo dục. Phát huy ý thức tự giác giáo dục, tự rèn luyện và lấy gương người tốt việc
tốt để giáo dục. (Xác định rõ mục đích học, tự mình lao động và tạo điều kiện cho việc tự học
suốt đời, tự học thành công phải có kế hoạch sắp xếp thời gian, bền bỉ kiên trì thực hiện đến
cùng không lùi bước, triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, phương tiện và hình thức, học đến đâu
thực hành đến đó, tập hợp thanh niên trong các tổ chức đoàn thể xã hội).
Từ quan điểm Hồ Chí Minh về con người toàn diện đến phát triển giáo dục nước ta
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và chăm lo đến sự nghiệp giáo dục và đào
tạo nước nhà. Người coi: “Giáo dục là cốt sách hàng đầu” trong quá trình xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn nhân dân ta phải chăm lo đến sự nghiệp giáo
dục, Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Đó là tinh
thần, là tình cảm rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục và đạo tạo
nước ta.
Công cuộc đổi mới giáo dục nước ta đã và đang được trú trọng quan tâm hơn bao giờ hết. Chủ
trương đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo của nước ta luôn thay đổi để phù
hợp với nhu cầu đặt ra.
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về vấn đề giáo dục thực sự đi vào thực tiến, Nghị quyết
40/2000/QĐ10 của Quốc hội khóa X, tập trung đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, thực
hiện chính sách hỗ trợ cho giáo dục.
Tại Hội nghị Trung ương 6 Khóa XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra một loạt câu hỏi
cần được thảo luận và làm rõ những vấn đề sau: “Vì sao lúc này phải đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ? Phạm vi, mục tiêu, yêu cầu của
mỗi Đề án thế nào? Đổi mới căn bản là gì, toàn diện là gì? Nội hàm phát triển khoa học và công
nghệ? Những chủ trương, chính sách, biện pháp gì cần phải thống nhất ban hành để lãnh đạo,
chỉ đạo tiếp tục đổi mới giáo dục - đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ?...
Trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước hiện nay cũng là một trong những
tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, một trong tư tưởng đó có tư tưởng về
giáo dục và đào tạo, đó là cơ sở, là nền tảng cơ bản và quan trọng nhất cho sự phát  triển xã
hội ở nước ta.
Phát triển con người toàn diện theo quan điểm Hồ Chí Minh
Tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào việc đào tạo
những người con ưu tú, làm thay đổi căn bản vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Hiện nay,
việc giáo dục, đào tạo, phát triển con người toàn diện ở nước ta đang có sự lệch hướng khá
lớn. Điều đó đang làm lệch lạc sự phát triển con người toàn diện theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Theo Người, con người toàn diện phải được tự do, được hạnh phúc, con người phải được giải
phóng, được giáo dục – đào tạo và được sống trong xã hội hòa bình ổn định. Để phát triển con
người toàn diện, ắt phải tiến tới Chủ nghĩa xã hội. Theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc
mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc".
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực
tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều cốt lõi trong tư tưởng của
Người là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn
đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là nội dung trọng tâm, xuyên suốt trong
toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ
tư tưởng về phát triển con người toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: “Con người
vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính
bản thân con người”.
Hồ Chí Minh là điển hình cho phát triển con người toàn diện cả về thể lực, đạo đức, trí lực, tài
năng và thẩm mỹ. Tư tưởng đó là hình mẫu sinh động của con người toàn diện cho hiện tại và
cho cả tương lai. Tư tưởng phát triển con người toàn diện của Người đã đang và sẽ cho chúng
ta những chỉ dẫn sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con người toàn diện trong điều
kiện mới ở nước ta.
Xuất phát từ những luận điểm trên, Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh thông qua thực
tiễn cách mạng, đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi
cho sự nghiệp cách mạng, trong đó không thể không bàn đến sự nghiệp cách mạng giáo dục
nước nhà.
Vì lợi ích mười năm trồng cây, Vì lợi ích trăm năm trồng người
Người coi “con người” là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định của sự nghiệp cách mạng. Trước
đây, Khổng Tử đã từng khuyên nhà cầm quyền phải chăm lo đời sống vật chất cho dân, phải
giáo hóa dân để thực hiện đường lối “đức trị”, thì tư tưởng của Người, Người cũng thường
xuyên nhắc nhở rằng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”.
Hồ Chí Minh đã mượn câu nói trên để chỉ ra tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục. Trong tư
tưởng Người, tất cả là vì “con người”. Đối với giáo dục thế hệ trẻ, Người viết: “Non sông Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
các em”.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho
công cuộc CNH – HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh". Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc giáo dục tri
thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động và thiết
thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý
tưởng, đạo đức, sức khoẻ và thẩm mỹ...
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện, tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Người nhấn mạnh mục đích
giáo dục phải gắn liền với nội dung giáo dục; giáo dục phải toàn diện. “Trong việc giáo dục và
học tập phải chú trọng đến các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa,
kỹ thuật, lao động và sản xuất”.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là sự kết hợp giữa lý
luận giáo dục và thực tiễn giáo dục.
UNESCO từng đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm
của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự
hiểu biết lẫn nhau”. Hồ Chí Minh là điển hình mẫu mực trong việc lựa chọn, kế thừa những mặt
tích cực trong quan điểm giáo dục, đào tạo con người. Những lời dạy của Người đã trở thành
phương pháp luận trong chiến lược xây dựng con người mới “xứng tầm thời đại”, đáp ứng yêu
cầu đổi mới toàn diện đất nước của Đáng ta hiện nay.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có vô vàn tâm tư và tình cảm của Người đối với sự nghiệp
giáo dục. Có tới hơn 592 lần Người nhắc đến “giáo dục”,159 lần nhắc đến “đào tạo”, trên 190
lần nhắc đến “trường học”, gần 100 lần nhắc đến “đại học”, 92 lần nhắc đến “trường học, giáo
sư”, 81 lần nhắc đến “giáo viên”, 80 lần nhắc đến “thầy giáo”, khoảng 145 lần nhắc đến “sinh
viên” và đến 225 lần nhắc đến “học sinh”... Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
bộ phận rất quan trọng trong kho tàng lịch sử phát triển sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa
của nhân loại và được sáng tạo một cách khoa học và đầy tâm huyết. Điều đó có thể khái quát
ở một góc nhìn cơ bản về vấn đề giáo dục trong tư tưởng của Người như sau:
Một là, Giáo dục là để nâng cao chủ nghĩa yêu nước, ý thức chính trị, truyền thống giáo dục và
tinh thần nhân ái. Người đặc biệt chú trọng đến việc truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước
của dân tộc. Người nói: “phải chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, kỹ thuật, lao động sản xuất”. Người nhấn mạnh: "Tăng cường hơn nữa việc giáo dục lao
động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa,
nhằm trang bị cho thế hệ trẻ có những kiến thức khoa học, lại có những kiến thức cơ bản về
sản xuất công nghiệp-nông nghiệp, những thói quen lao động, sẵn sàng bước vào xây dựng xã
hội chủ nghĩa".
Theo Người, nội dung giáo dục phải chứa đựng tính dân tộc, chủ nghĩa yêu nước và giá trị
nhân văn, truyền thống văn hóa của dân tộc, ngoài ra phải lĩnh hội những giá trị khoa học của
thế giới… Người còn dạy: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức
cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất”. Người chỉ rõ:
“Việc giáo dục gồm có: đức, trí, thể, mỹ” “Trước hết phải dạy cho họ những tri thức: lịch sử, địa
dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã hội, chính trị, cách viết báo cáo, nghĩa vụ và quyền lợi
người công dân”.
Người đã đúc kết chân lý về giáo dục với sức mạnh nội tại của một dân tộc trong giai đoạn
thuộc địa nửa phong kiến: "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Trong "ham muốn tột bậc" của
Người, Người muốn "làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc" "ai cũng được học hành”. Đối với cán bộ, Người chỉ rõ:
học là "để làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, tổ quốc
và nhân loại". Trong tư tưởng mà Người nói về “Học” được khái quát qua bốn ý về giáo dục là
"học để biết, học để làm, học để chung sống, học để làm người".
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn "đức" cho cán bộ. Bởi, theo Người: "có
tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi, nhưng lại đi đến thụt két thì
chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức
mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Người nhắc nhở và giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội,
trí thức, học sinh, sinh viên… coi đó như là "kim chỉ nam" để  con người nhận thức đúng và
hành động đúng con đường chủ nghĩa yêu nước của dân tộc để đi lên CNXH.
Hai là, Giáo dục là để cải tạo “con người” cũ, xây dựng “con người” mới tiến lên CNXH. Mục
đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là
xây dựng con người mới. Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn
hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, theo Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa
học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn
diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Như vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con
người toàn diện, "nhất định phải có học thức. Người nói: "Thiện,ác vốn chẳng phải là bản tính
cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên". Người nói với cán bộ khi kết thúc một khoá huấn
luyện "anh em sẽ còn phải học nữa, học mãi khi ra làm việc". Người lấy nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo
dục. Nguyên tắc này được Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế,
phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. Người dạy: "Mình phải
làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm
gương về cả ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá"…
Hồ Chí Minh đã gắn bó với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng
sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính
hay tôn giáo... Nền giáo dục mới của nước ta được Người định hướng phát triển là nền giáo
dục mở mang dân trí, nâng cao đảng trí cho nhân dân; là nền giáo dục toàn dân; là nền giáo
dục toàn diện; là nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, với mục đích là cải tạo con người cũ, đào tạo
con người mới xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Giáo dục là để chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Trong suốt thời
gian ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã không ngừng chăm lo, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau”. Trong đó, giáo dục đạo đức được đặt lên hàng đầu. Người rất chú trọng việc giáo
dục nâng cao trình độ văn hoá cho dân để dân "làm ăn có ngăn nắp", "bớt mê tín nhảm", "bớt
đau ốm", "nâng cao lòng yêu nước" và "để thành người công dân đứng đắn”. Người chỉ rõ:
"Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh
tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết
để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, văn minh và giàu
mạnh".
Hồ Chí Minh đề ra những nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phù hợp, Người kêu gọi sửa đổi
giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài. Để nâng cao trình độ nhận thức. Trong giáo
dục, theo Người, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục.
Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm
tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Người gửi thư cho nam nữ
chiến sĩ bình dân học vụ nhấn mạnh việc cần phải dạy các em “đạo đức của công dân”. Người
viết Thư gửi các em học sinh, trong đó yêu cầu các lực lượng giáo dục phải chú trọng giáo dục
đạo đức. Trong Di chúc, Người cũng căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta khẳng đinh: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo
dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của
nền giáo dục nước ta trong những năm tới là: “Tiếp tục quán triệt thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam” theo tinh thần
Chỉ thị của Bộ giáo dục và Đào tạo.
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII cũng đã xác định nhiệm vụ và
mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là nhằm xây dựng những con người mới, là những con
người vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. “Vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người cho rằng, nhiệm vụ của giáo dục là
phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Đó là không chỉ là trách nhiệm
nặng nề, mà là nhiệm vụ đặt ra đối với ngành giáo dục nước ta cho hôm nay và cho cả mai
sau.
Hơn 30 năm qua, kể từ ngày 20/11/1982 – 20/11/2012 – ngày truyền thống Nhà giáo Việt Nam.
Hơn 43 năm - kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi về cõi vĩnh hằng, Nhưng những lời dạy của
Người vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa sâu sắc đối với sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Tư tưởng Hồ Chí Minh với phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo
dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người theo tư tưởng của Người. Tư
tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ
trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách
mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục, thiết thực và hiệu quả
đối với người làm công tác giáo dục hiện nay.
4. Giải pháp:

- Không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới chương trình và nội dung giáo dục. -
Tiếp thu, quán triệt phương trâm, phương pháp giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp giáo dục văn hóa với lao động sản xuất, khoa học kĩ thuật… kết hợp quản lí giữa
gia đình, nhà trường và xã hội. - Xác định tổ chức Đoàn, tổ chức Hội thực sự vững mạnh đi đôi
với việc tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh để giáo dục thanh niên. - Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước đối với công tác qunr lí giáo dục thanh niên và có chính
sách giáo dục đúng đắn với sự nghiệp “trồng người” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ:
phải chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, kỹ thuật, lao động sản
xuất. Người nhấn mạnh: "Tăng cường hơn nữa việc giáo dục lao động trong nhà trường là một
khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhằm trang bị cho thế hệ trẻ
có những kiến thức khoa học, lại có những kiến thức cơ bản về sản xuất công nghiệp-nông
nghiệp, những thói quen lao động, sẵn sàng bước vào xây dựng xã hội chủ nghĩa". Theo
Người, nội dung giáo dục phải chứa đựng tính dân tộc, tính khoa họcvà tính nhân dân; phải làm
cho người học hiểu được những truyền thống quý báu của dân tộc như tinh thần yêu nước
nồng nàn, đoàn kết, tương thân tương ái, anh hùng trong chống giặc ngoại xâm, cần cù trong
lao động sản xuất. 
Về phương pháp giáo dục, Người chỉ giáo: cách học phải nhẹ nhàng; không gò ép học sinh vào
khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú trọng đến sức khỏe của các cháu, chú trọng bồi dưỡng
phương pháp tự phát huy nội lực, tư duy biện chứng Mác - Lê nin, óc tư duy lý luận, tư duy kỹ
thuật, tư duy kinh tế, óc phê phán và sáng tạo cho người học. 

KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo
ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn vì những sự đóng góp mới của
Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại
- Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã
sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
- Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng  đạo
đức macxit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi được thế giới
thừa nhận.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng:
+ Về lý luận: có nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp Giáo
dục & Đào tạo con người Việt Nam. Trên cơ sở quan triệt quan điểm GD đạo lý để làm người,
coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao
nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng Xã
hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định Giáo dục & Đào tạo là quốc sách hàng đầu.
+ Về thực tiễn: sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc
xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn
mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập theo tấm gương  đạo đức Hồ Chí Minh
không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị của các dân tộc,
nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con
người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân dân
các nước. Với Hồ Chí Minh, “lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại” là “không bao
giờ thay đổi”. Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Có lẽ bởi thế mà
“chiến lược trồng người” của Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những đề tài chủ yếu trong
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh.

You might also like