You are on page 1of 15

1.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người:

1.1. Con người là một chỉnh thể đa dạng.

Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực luôn
vươn tới Chân – Thiện – Mỹ. Theo người, dù mang tính chỉnh thể, tuy nhiên mỗi con
người đều có tính đa dạng khác nhau, quyết định bởi nhiều yếu tố

Về mối quan hệ, con người đa dạng trong mối quan hệ cá nhân và xã hội (Quan hệ gia
đình dòng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc…). Đa dạng cả về mối quan hệ với chế
độ xã hội và hình thái kinh tế (quan hệ chính trị, văn hoá, đạo đức, tôn giáo, làm chủ hay
bị áp bức). Ngoài ra con người còn đa dạng về mối quan hệ với tự nhiên ( Cây cỏ, không
khí, môi trường, tài nguyên,….)

Về bản chất, tính đa dạng được thể hiện trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng,
đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc.

Chỉnh thể con người còn được Bác nhìn nhận dưới góc độ yếu tố sinh vật. Người vẫn
xem trọng câu nói “dân dĩ thực vi thiên”; tức “Con người xem thức ăn là trời”. Lại có câu
"Có thực mới vực được đạo" (Không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả). Do đó đối với
người, trước tất đều phải lo cho dân được những quyền cơ bản này, trong mọi đường lối,
chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ
ở, có học hành. Người căn dặn: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm
lo đến đời sống của nhân dân”. Nếu dân đói, dân rét, dân dốt là Đảng có lỗi. Trách nhiệm
đối với đời sống của nhân dân hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào giai tầng lãnh
đạo xã hội. Từ đó ta thấy việc quan tâm đến cái ăn, cái mặc, cái ở của nhân dân luôn đặt
lên hàng đầu trong mối quan tâm của Hồ Chí Minh.

Mặc dù Hồ Chí Minh không đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về con người, nhưng trên
cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, Người đã đưa ra một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về con người trong từng hoàn cảnh và từng góc độ khác
nhau, nó biểu hiện một cách rất đa dạng và vô cùng phong phú, thể hiện trong từng việc
làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Tất cả đều toát lên tình yêu vô hạn, sự
tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin tuyệt đối vào con người.

1.2. Con người có tính đặc thù

Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp
(“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”…), nhưng
đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, là phần lớn. Bằng phương pháp luận
khoa học, Hồ Chí Minh nhìn nhận con người một cách cụ thể, khoa học, Người xem xét
con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới tính (thanh niên, phụ
nữ), theo lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (công nhân, nông dân, trí thức…),
trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế
(bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản). Đó là con người hiện
thực, cụ thể, khách quan.

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối
lập: thiện và ác hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,… Nhờ quan sát cuộc sống của nhân dân
các dân tộc thuộc địa dưới ách kìm kẹp của chủ nghĩa đế quốc, nên Người cũng đã có sự
phân biệt rạch ròi giữa một bên là đế quốc, thực dân tàn bạo, độc ác và bên kia là những
người lao động bị bóc lột, áp bức nặng nề. Người đã kết luận sâu sắc: “Dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột”1. Ở cuối những năm 40 của thế kỷ XX, liền mạch suy nghĩ về đạo đức cách
mạng, Hồ Chí Minh viết: “Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có
thể chia thành hai hạng người Thiện và người Ác”2. Rồi Người lại ghép “bọn Việt gian
bán nước,… bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ ma tà” vào một nhóm; còn “tất cả
những người khác”3 vào một nhóm khác.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1982, t 1, trang 212.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1985, t 5, trang 246.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5. NXB Sự thật, H. 1985, trang 246.
Sở dĩ chia con người ra từng hạng khác nhau như vậy, theo Người là để “thực hành chữ
BÁC - ÁI, thực hành “đại đoàn kết” và “giúp người tiến tới”. Người cho rằng những
người bị bóc lột, những người đi theo điều thiện thì dù màu da, tiếng nói có khác nhau, có
thể coi nhau như anh em một nhà, có thể “đại đoàn kết”, “đại hòa hợp” trong một “thế
giới đại đồng”.

Tuy rằng có phân chia như vậy, nhưng theo Người con người mới sinh ra đều vốn tốt cả,
nhưng về sau do ảnh hưởng của bố mẹ, bạn bè, xã hội mà dần dần mỗi người một khác.
Đồng thời, “ngay trong mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng”4. Vì vậy: “Ta phải
biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi... Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và
nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người
nãy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”5.

Điều này thể hiện được tính nhân văn cao cả của Người, cho dù có thế nào, Hồ Chí Minh
vẫn thể hiện tấm lòng bao dung, và tỏ ra thiện chí đối với những con dân lỡ lầm đường
lạc lối. Lại càng rõ ràng hơn, trong chiến tranh, đối với những người theo địch chống lại
cách mạng người vẫn mong muốn thức tỉnh phần lương tri chỉ còn ít ỏi trong họ và đối
xử khoan hồng độ lượng. Người căn dặn: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và
rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp lại nơi bàn
tay. Trong mấy chục triệu người, cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế
khác đều là dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng, đã
là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào
lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn
kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắc sẽ vẻ vang”6

1.3. Con người có bản chất xã hội

4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 10. NXB Sự thật, H. 1989, trang 666 - 667.
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 10. NXB Sự thật, H. 1989, trang 666 - 667.

6
Hồ Chí Minh (06/1946), Thư gửi đồng bào Nam Bộ.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người chính là sản phẩm của xã hội. con người
là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn, chủ yếu bao gồm các
quan hệ: anh, em: họ hàng: bầu bạn: đồng bào, loài người. Con người, với tư cách là
những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng
đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.

Khi nói con người là tổng hòa các mối quan hệ thì trong các mối quan hệ xã hội ấy, quan
hệ sản xuất đóng vai trò chi phối, quyết định các quan hệ xã hội khác, vì nó xác định con
người thuộc các giai cấp khác nhau. Tuy vậy, Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa quan hệ
sản xuất, coi quan hệ sản xuất là quan hệ duy nhất tạo thành bản chất con người. Không ít
người đã nhận thức không đúng về vấn đề này, đã dẫn đến những lệch lạc coi bản chất
con người chỉ là bản chất giai cấp, đồng nhất bản chất con người với bản chất giai cấp,
không còn là tổng hòa các quan hệ xã hội như C.Mác đã chỉ ra. Những lệch lạc này đã
dẫn đến hậu quả, hoặc là mơ hồ về mặt giai cấp, hoặc cứng nhắc về lập trường giai cấp
vô sản.

Người định nghĩa thêm về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" 7. Như vậy,
con người không phải là những cá thể biệt lập. Chỉ có trong quan hệ xã hội, trong hoạt
động thực tiễn xã hội con người mới có lao động, sử dụng ngôn ngữ, tư duy, chế tạo công
cụ lao động, để cùng nhau sản xuất, tạo giá trị, mới có thể sinh tồn và cùng chung sống,
càng sản xuất nhận thức của con người về các hiện tượng, quy luật của tự nhiên của xã
hội mới càng cao, có như thế con người mới hiểu về mình và hiêủ biết lẫn nhau, xác lập
được các mối quan hệ giữa người với người.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người

Một trong những tư tưởng nổi bật của Hồ Chí Minh là tư tưởng coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Theo Người, sự nghiệp đấu tranh cách

7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5. NXB Sự thật, H. 1985 , trang 247.
mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh…, xét đến cùng, là vì hạnh phúc, vì sự phát triển
toàn diện của con người. Đến lượt mình, con người lại là động lực thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Vai trò to lớn đó của quần chúng nhân dân, trước hết là nhân dân lao động,
thể hiện ở chỗ: Họ là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng
sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của
xã hội.

Tiếp nối được truyền thống tư tưởng của dân tộc và tiếp thu, vận dụng sáng tạo những
quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người, suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh chỉ có một “… ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” 8. Người là hiện thân của lý tưởng vì con
người trong thời đại mới. Mọi hành động và suy nghĩ, mọi nỗ lực và trăn trở của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng, một cách trực tiếp hay gián tiếp, đều toát lên một tư
tưởng bao trùm, có ý nghĩa cách mạng và nhân văn sâu sắc - tư tưởng coi con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội.

2.1. Con người là mục tiêu của cách mạng

Về con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội, của công cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Tư tưởng này được thể hiện xuyên suốt và nhất quán trong di sản lý luận của Hồ
Chí Minh. Trong đó, đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng con người là nội dung căn
bản đầu tiên, là tiền đề để phát triển con người.

Thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn phong
phú của mình và đặc biệt được soi sáng bởi lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc rằng, để giải phóng con người, cần phải đấu tranh giải phóng

8
Hồ Chí Minh. Toàn tập, t. 4. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 161.
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Các cuộc đấu tranh này luôn gắn bó chặt
chẽ với nhau và chỉ có như vậy, con người mới được giải phóng hoàn toàn.

2.1.1. Mục tiêu con người trong cách mạng giải phóng

Đầu tiên là về mục tiêu giải phóng dân tộc, với khát vọng giải phóng con người, với cách
nhìn sáng suốt và khoa học về thời cuộc, với tài năng phân tích thực tiễn một cách biện
chứng, Hồ Chí Minh đặt mục tiêu này lên hàng đầu, vì Người hiểu rằng, nếu dân tộc
không được giải phóng, không có độc lập thì cũng không giải phóng được các giai cấp
cần lao. Nói cách khác, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để giải phóng
con người và thực hiện các quyền con người. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8,
tháng 5 - 1941, Người vạch rõ rằng, nếu chúng ta không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì không những toàn thể
quốc gia dân tộc còn phải chịu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi bộ phận, giai cấp đến ngàn
năm cũng không đòi được. Sau này, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy khó
khăn và gian khổ, Người tuyên bố một cách đanh thép: Dù đốt cả dãy Trường Sơn thì
cũng phải giành cho được độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định lẽ sống của dân
tộc Việt Nam và vạch ra chân lý của thời đại qua luận điểm bất hủ: “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”. Tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc - đó là mục tiêu mà suốt đời
Người phấn đấu không mệt mỏi.

Tuy nhiên, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc phải luôn gắn liền với đấu tranh giải
phóng giai cấp, Hồ Chí Minh tiếp tục răn dặn. Bởi vì, nhìn lại lịch sử phát triển của nhân
loại, chúng ta thấy rằng, dân tộc có thể được giải phóng khỏi ách ngoại bang nhưng
những giai cấp cần lao - lực lượng đông đảo nhất trong xã hội chưa hẳn đã thoát khỏi
những xiềng xích nặng nề. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này chính là nhằm giải phóng
con người, trước hết là nhân dân lao động, thoát khỏi những gông cùm của giai cấp bóc
lột, thống trị trong xã hội. Nói cụ thể hơn, mục tiêu của cuộc cách mạng vô sản là giải
phóng giai cấp công nhân, nông dân thoát khỏi ách tư bản, địa chủ, vì công nông là lực
lượng xã hội đông đảo nhất và cũng là những người bị bóc lột nặng nề nhất.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập cho dân tộc là điều vô cùng quý giá, song đó
mới chỉ là tiền đề tiên quyết để giải phóng con người. Thực vậy, giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp mới chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, con người thoát
khỏi ách nô lệ, bóc lột, thống trị. Người cho rằng, giành được độc lập dân tộc rồi thì phải
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ là xu hướng phát triển tất yếu
của thời đại, mà còn tạo cơ sở để hiện thực hoá các quyền con người một cách toàn diện
hơn. Xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa chính là để cho nhân dân lao
động có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hưởng công bằng, văn minh; con người
thực sự được giải phóng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có điều kiện để
thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, có cơ hội để phát triển toàn diện về thể lực, trí
lực, đức dục; đồng thời, có thể phát huy mọi khả năng để cống hiến được nhiều nhất cho
xã hội.

Bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới, con người ít nhiều còn mang những tàn dư tư
tưởng của chế độ xã hội cũ. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng, cần phải giáo dục con người,
tẩy rửa những thói hư tật xấu mà xã hội cũ đã tiêm nhiễm nhằm làm cho phần tốt của họ
“nảy nở như hoa mùa xuân”, phần xấu mất dần đi. Có thể khẳng định rằng, giải phóng
con người là một biểu hiện sinh động trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là mục
tiêu của sự phát triển xã hội. Nó chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, bởi không những
mang lại quyền con người, mà còn hướng con người tới cái đẹp, cái cao cả. Ngay từ
những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sớm có những ý tưởng sâu
sắc về các quyền cơ bản của con người. Chẳng hạn, Người đòi hỏi phải bảo vệ và phát
triển lành mạnh cho trẻ em, sự nghỉ ngơi cho người già, thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng và
tất cả mọi người đều có quyền được hưởng thụ hạnh phúc

Cần phải nói thêm là, cho đến trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều nhà tư
tưởng yêu nước, nhiều lãnh tụ của các phong trào đấu tranh trong lịch sử dân tộc đã từng
nói tới và quan tâm ít nhiều đến lợi ích của quần chúng nhân dân lao động. Nhưng, sự
quan tâm ấy dù sao cũng gắn với lợi ích của giai cấp hay một tầng lớp nào đó đang thống
trị trong xã hội. Vượt lên trên tất cả, Hồ Chí Minh đã và luôn hướng tới lợi ích của đông
đảo quần chúng cần lao. Nói cách khác, lợi ích của con người mà Hồ Chí Minh nói tới và
đấu tranh suốt đời vì nó là lợi ích phổ biến, mang tính toàn xã hội. Bởi, hơn ai hết, Người
nhận thấy mối vững bền của đất nước chính là nhân dân và sự cường thịnh, trường tồn
của quốc gia, của dân tộc phải dựa vào chính cái gốc rễ sâu chặt ấy.

2.1.2. Mục tiêu con người trong việc xây dựng đất nước

Coi con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội, Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc
giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, mọi trói buộc bởi những quan niệm
cũ kỹ, lạc hậu của xã hội cũ, mà còn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân. Trong mọi
hoàn cảnh, mọi trường hợp, Người luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.

Kiên định nguyên tắc lấy dân làm gốc, trong điều kiện đất nước vừa giành được độc lập
lại phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài và muôn vàn khó khăn khác, Hồ Chí Minh
vẫn dành sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề dân sinh. Ngay trong việc giải quyết một
vấn đề cơ bản thuộc thượng tầng kiến trúc - vấn đề nhà nước, Hồ Chí Minh cũng chủ
trương xây dựng một nhà nước kiểu mới, hướng đến lợi ích của đại đa số quần chúng
nhân dân lao động - đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ấy phải là nhà
nước dân chủ, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”9. Nghĩa
là, nó phải phụng sự cho lợi ích của nhân dân lao động chứ không phải là công cụ quyền
lực của một nhóm người nào đó trong xã hội. Nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong
chế độ xã hội mới là phục vụ nhân dân; cán bộ là công bộc, là đầy tớ của dân. Người
khẳng định rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ
dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở các cán bộ
phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân, nghĩa là luôn vì nhân dân. Công việc trọng tâm, trước tiên mà Đảng và Nhà
nước phải làm, như Hồ Chí Minh đã xác định rõ, là chăm lo đời sống của nhân dân, làm
cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm. Người

9
Hồ Chí Minh. Sđd., t. 5. , tr. 698.
yêu cầu mọi chính sách, mọi hoạt động của Đảng, của Nhà nước phải hướng vào nhân
dân, cải thiện đời sống của nhân dân lao động; phải coi mọi lợi ích, mọi quyền hạn của
nhân dân là trên hết với nguyên tắc xuyên suốt là việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm,
việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

Với tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, lợi ích vật chất dù rất quan trọng và cần
thiết nhưng đó không phải là duy nhất; ngoài lợi ích vật chất, con người còn có những
nhu cầu, lợi ích về mặt tinh thần. Do vậy, quan tâm đến nhân dân không đơn giản chỉ là
chú ý nâng cao đời sống vật chất, mà còn phải chăm lo đến đời sống tinh thần của họ.
Người nói: “Nếu ăn no mặc ấm mà không học thì cũng không được”. Sau này, trong Di
chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người vẫn không quên nhắc nhở “Đảng cần phải
có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”10.

Với lòng nhân ái bao la, Người cho rằng, trong khi giải quyết vấn đề đời sống của nhân
dân cần đặc biệt chú ý đến các vùng chiến tranh bị tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già
yếu, các gia đình thương binh liệt sĩ, đồng bào dân tộc ít người,… kể cả những người mắc
sai lầm nhưng đã biết hối cải. Những lời dạy đó của Người thể hiện tinh thần trách nhiệm
to lớn của vị lãnh tụ trước nhân dân.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội không nằm ngoài mong muốn của Hồ Chí Minh là làm cho người dân được tự do,
có đời sống vật chất đầy đủ, đời sống tinh thần phong phú. Mục tiêu đó của Người phản
ánh nguyện vọng của nhân dân và được Đảng ta thể hiện trong đường lối, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội vì con người.

Hướng đến con người, vì con người, theo Hồ Chí Minh, đó không chỉ là chăm lo đến
cuộc sống của con người, mà còn phải tôn trọng cái riêng, cái cá nhân của mỗi người.
Bởi, với tư cách một cá nhân trong cộng đồng, “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở

10
 Hồ Chí Minh. Sđd., t. 2, tr. 295.
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”11. Khi những cái riêng
của cá nhân được trân trọng thì cũng có nghĩa là quyền con người được tôn trọng, nhu
cầu của con người được đáp ứng, con người dần vươn tới tự do. Sự trân trọng cái riêng,
cái cá nhân của con người thể hiện bản chất nhân văn của chế độ xã hội mới – xã hội xã
hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, việc tôn trọng cái riêng, cái cá nhân của
con người phải gắn liền với lợi ích chung của Tổ quốc, của dân tộc. Vì, theo Người, trong
một xã hội nhân đạo thì cái riêng, cái cá nhân của con người bao giờ cũng gắn bó mật
thiết với cộng đồng, dân tộc. Nếu cái riêng, cái cá nhân của con người nằm ngoài lợi ích
của cộng đồng, của dân tộc, đi ngược lại với lợi ích chung của xã hội thì sẽ trở thành chủ
nghĩa cá nhân, vị kỷ và điều đó tất yếu dẫn đến cản trở, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Tôn trọng những cái riêng, cá nhân của con người là một biểu hiện nhân văn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội.

Nói tóm lại, sự phân tích trên cho thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là mục
tiêu cao nhất của sự phát triển xã hội.

2.2. Con người là động lực cách mạng

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người không chỉ là mục tiêu của sự phát triển xã hội,
mà còn là chủ thể của lịch sử, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử và với những kinh nghiệm đúc rút từ
thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức, đánh giá đúng đắn về vai trò
của con người. Theo Hồ Chí Minh, người lao động là lực lượng chủ yếu, trực tiếp sáng
tạo ra của cải, luôn nâng cao sức sản xuất, mà sức sản xuất phát triển tức là xã hội phát
triển và do vậy, lịch sử xã hội là do người lao động sáng tạo ra. Với những luận điểm này,
Người đã khẳng định sức mạnh cũng như vai trò cải tạo, biến đổi thế giới của con người,
trước hết là của những người lao động.
11
Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr. 291.
2.2.1. Về vai trò cách mạng

Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, quần chúng nhân dân là lực lượng quan
trọng của mọi phong trào đấu tranh cách mạng. Họ có mặt ở khắp mọi nơi và nếu được
dẫn dắt bởi một tổ chức chính trị có đường lối đúng đắn, khoa học sẽ trở thành một khối
thống nhất, có sức mạnh vô địch; sẵn sàng chiến đấu vì mục tiêu chung của sự nghiệp
cách mạng. Ngay từ rất sớm, khi còn bôn ba tìm đường cứu nước và giải phóng dân tộc,
Người đã phát hiện sức mạnh của cách mạng nằm ở chính khối đông đảo quần chúng cần
lao đang bị  áp bức đến cùng cực của mỗi dân tộc và khẳng định: “Đằng sau sự phục tùng
tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”12.

Là lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, hơn ai hết, Hồ Chí Minh
đã cảm nhận một cách rõ ràng, sâu sắc về vai trò của quần chúng nhân dân đối với cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước. Theo Người, trong mọi
giai đoạn phát triển của cuộc cách mạng, quần chúng nhân dân luôn là lực lượng quyết
định, làm thay đổi lịch sử. “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có
lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì
làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”13. Sự
nhìn nhận và đánh giá đó của Hồ Chí Minh dựa trên sự hiểu biết sâu sắc truyền thống lịch
sử của dân tộc và con người Việt Nam.

Công nhân: Trong khối quần chúng đông đảo có sức mạnh “dời non, lấp biển”, Hồ Chí
Minh cho rằng, lực lượng chủ chốt, nòng cốt của cách mạng là công nông. Đặc biệt,
Người chỉ rõ: Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì sự nghiệp kháng chiến mới thắng
lợi, công cuộc kiến quốc mới thành công. Người tin tưởng rằng, cùng với dân tộc, giai
cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong công cuộc đấu tranh lật đổ chế độ thực dân
phong kiến và xây dựng xã hội mới, tốt đẹp hơn. Tư tưởng sáng suốt này là một sáng tạo
12
Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 28.
13
Hồ Chí Minh. Sđd., t. 2, tr. 295.
của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Nhờ đó, Người không những phát huy được vai trò hạt nhân cách mạng của
giai cấp công nhân, mà còn gắn giai cấp công nhân với tất cả mọi tầng lớp lao động và
yêu nước khác, tạo thành một khối thống nhất, thúc đẩy cách mạng tiến lên.

Nông dân: Nước ta là một nước nông nghiệp, nông dân là một bộ phận chủ yếu trong cơ
cấu xã hội. Dưới chế độ cũ, cũng như giai cấp công dân, nông dân là những người nghèo
khổ nhất, cùng cực nhất, bị áp bức và bóc lột nặng nề nhất. Hồ Chí Minh đã nhận thấy
giai cấp nông dân là lực lượng cách mạng tiềm tàng, đông nhất, mà nếu “khéo tổ chức,
khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy sẽ làm xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong
kiến cũng sẽ bị lực lượng to lớn ấy đánh tan”14. Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng của
dân tộc từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chúng ta thấy giai cấp nông dân đã
tích cực tham gia vào sự nghiệp chung, góp phần quan trọng vào việc giành, giữ vững
chính quyền nhân dân, đánh đuổi quân xâm lược trong các cuộc kháng chiến và hăng hái
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.

Các giai tầng khác: Sự sáng suốt và thiên tài của Hồ Chí Minh trong việc xác định lực
lượng cách mạng còn biểu hiện ở chỗ, trong khi Quốc tế cộng sản chỉ nhấn mạnh vai trò
của công nông thì Người còn thấy khuynh hướng tích cực của các giai tầng khác. Trong
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, quan điểm của Hồ Chí Minh là giai cấp nào ủng hộ
cách mạng, có thể tham gia cách mạng đều trở thành động lực cách mạng. Người cho
rằng, dưới chế độ cũ, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trí thức cũng bị áp bức, bóc lột.
Nhưng điều đáng quan tâm là lực lượng này có đầu óc dân tộc, có đầu óc cách mạng. Họ
cũng muốn chống đế quốc, phong kiến và do vậy, có thể trở thành bầu bạn của cách
mạng. Người cũng chỉ rõ là các tầng lớp phú, trung, tiểu địa chủ, tư bản An Nam khi
chưa ra mặt làm phản thì cũng nên lợi dụng họ, lôi kéo họ để trở thành lực lượng cách
mạng. Với quan điểm đó, Người chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản để phát huy tinh thần cách mạng của
các bộ phận xã hội này.
14
Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 185.
2.2.2. Về vai trò sản xuất

Với tính cách động lực của sự phát triển xã hội, quần chúng nhân dân không chỉ là lực
lượng chính của cuộc đấu tranh cách mạng, mà còn là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã
hội. Theo Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo nên lịch sử, sáng tạo
nên những giá trị vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội. Người nói: “Tất cả của cải vật
chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân
và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”15. Thông qua quá trình sản xuất, con
người không chỉ thực hiện một quy luật tất yếu để tồn tại – lao động, mà còn tạo nên tiền
đề vật chất chuẩn bị cho những bước biến đổi, phát triển mới của lịch sử.

2.2.3. Về vai trò tạo ra giá trị tinh thần

Hồ Chí Minh khẳng định rằng, quần chúng nhân dân là nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội, họ “… không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần
chúng còn là người sáng tác nữa… Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là
những sáng tác của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn, chứ không “trường
thiên đại hải”, dây cà ra dây muống… Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý” 16.
Những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra xuất phát từ chính “nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”17. Sự sáng tạo ấy thể hiện sức mạnh trí tuệ của con
người. Trước đây, khi nói về vai trò của con người đối với sự phát triển xã hội, Goócki,
một nhà văn lớn của dân tộc Nga, đã đưa ra một nhận định đúng đắn và sâu sắc rằng,
nhân dân không chỉ là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất, nhân dân là nguồn duy nhất
và vô cùng tận sáng tạo ra của cải tinh thần; về mặt thời gian, vẻ đẹp và thiên tài của sáng
tác, nhân dân đều là nhà triết học và là nhà thơ hạng nhất, nhà triết học và nhà thơ ấy đã
tạo ra những bài thơ vĩ đại, đã tạo ra những vở kịch trong dân gian; trong đó, có vở kịch
vĩ đại nhất - lịch sử văn hóa thế giới.

15
Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 203.
16
Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr. 250.
17
Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr. 431
2.2.4. Về vai trò lịch sử

Con người không chỉ là sản phẩm, mà còn là chủ thể của lịch sử. Sự phát triển của lịch sử
sẽ tác động một cách mạnh mẽ và tích cực đối với con người, làm cho năng lực sáng tạo
của quần chúng nhân dân phát triển hơn. Con người chính là sự kết tinh những giá trị vật
chất và tinh thần cao nhất, có khả năng lao động, sáng tạo và do vậy, là động lực thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh coi quần chúng nhân dân
là lực lượng sáng tạo nên lịch sử, là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội và tạo ra bước
ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nếu trước đây, một số nhà yêu
nước, như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… muốn dựa vào sức mạnh bên ngoài để tiến
hành đấu tranh giải phóng dân tộc, thì trái lại, đến Hồ Chí Minh, Người khẳng định rằng,
phải dựa vào sức mạnh của chính quần chúng nhân dân; rằng, chính quần chúng nhân dân
là động lực quan trọng nhất, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng thành công. Trong suốt
tiến trình cách mạng Việt Nam, Người luôn kêu gọi đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi tầng
lớp nhân dân trong các tổ chức, đoàn thể xã hội để phát huy sức mạnh toàn dân tộc.
Chính vì biết khai thác, phát huy triệt để sức mạnh nội lực này mà cách mạng Việt Nam -
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh - đã giành được
những thắng lợi to lớn.

Có thể khẳng định rằng, trong lịch sử dân tộc ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra
những tư tưởng sâu sắc, khoa học và cách mạng về con người. Mọi luận giải của Người
về vấn đề này, tựu trung lại, toát lên một tư tưởng bao trùm, đầy tính nhân văn - con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Tư tưởng đó của Hồ Chí
Minh chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, được Đảng và Nhà nước kế
thừa, vận dụng và phát triển hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

Tham khảo:
1. https://www.bqllang.gov.vn/chu-tich-ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong-
ho-chi-minh/5506-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-con-nguoi-vua-la-muc-tieu-vua-la-
dong-luc-cua-su-phat-trien-xa-hoi.html

You might also like