You are on page 1of 13

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN


Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Thực trạng và giải pháp để
tăng cường tối đa khối đại đoàn toàn kết dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ vững
chắc tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Trách nhiệm của thanh niên trong việc xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

SVTH: MAN HOÀNG VIỆT


MSSV: 18510101426
GVHD: THẦY CAO ĐỨC SÁU
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI TIỂU LUẬN MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Họ và tên sinh viên: MAN HOÀNG VIỆT
Mã số sinh viên: 18510101426
Mã lớp học phần: 000005004
ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN
Ghi bằng số Ghi bằng chữ Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 1

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 2

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 22 tháng 6 năm 2020


Sinh viên nộp bài
Ký tên
A. LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc có từ rất sớm và xuyên suốt trong hệ thống
luận điểm khoa học về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Đó là tư tưởng về
đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh cao nhất của dân tộc trong sự nghiệp đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, “… sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò,
sức mạnh của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay
đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương
phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền
và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế
hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc”(1). Vì vậy,
nghiên cứu giải pháp tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề cấp thiết
hiện nay.
B. NỘI DUNG

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc


Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò của đoàn kết trong sự
nghiệp cách mạng. Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thủ
đoạn chính trị nhất thời, sách lược mà là một chiến lược. Theo Người, “đoàn kết là
lẽ sinh tồn của dân tộc Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết tạo nên một sức mạnh thật sự, là “điểm mẹ”,
điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt.
Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là chiến lược vừa là yêu cầu khách
quan của sự nghiệp cách mạng. Bởi vì cách mạng là cuộc chiến đấu khổng lồ,
muốn giành thắng lợi thì phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ dại của toàn dân. Mặt khác trong thời đại mới được mở ra từ
Cách mạng Tháng Mười, phải chống kẻ thù mới là chủ nghĩa thực dân, đế quốc,
nếu không có lý luận khoa học và cách mạng về đoàn kết thì khó thành công.
Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, của dân tộc trong mọi giai đoạn lịch sử Đại đoàn kết dân tộc cũng là đại
đoàn kết toàn dân. Theo một nghĩa nào đó thì khái niệm “dân tộc" rộng hơn khái
niệm “nhân dân". Nhưng trong nhiều trường hợp nhất là khi bàn về đoàn kết, khái
niệm “dân” cũng rộng như dân tộc, có biên độ rộng lớn, gồm mọi con dân nước
Việt, không phân biệt đa số hay thiểu số giàu nghèo, già trẻ, gái trai, cùng sống trên
đất nước Việt Nam. Dân tộc thường được hiểu theo nghĩa cộng đồng, còn dân vừa
được hiểu theo nghĩa cộng đồng tức toàn thể đồng bào, cũng có thể được hiểu là
mỗi cá nhân. Vì vậy dân không phải là một khối đồng nhất mà là một cộng đồng
bao gồm nhiều giai cấp, dân tộc, tầng lớp, cá nhân có lợi ích chung và riêng, có thái
độ và vai trò khác nhau đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân thể hiện nhiều tầng nấc, cấp độ. các quan hệ rộng hẹp
khác nhau theo tinh thần đoàn kết rộng rãi, lâu dài vì độc lập thống nhất của Tổ
quốc và xây dựng nước nhà. Vì vậy theo Hồ Chí Minh, ai có tài có đức có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Trong khối đông đảo
toàn dân tộc đó, đa số nhân dân gồm công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác là nền gốc của đại đoàn kết trong đó nòng cốt là liên minh công
nông.
Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đoàn kết trong tư tưởng
Hồ Chí Minh phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp rộng
rãi mọi lực lượng, không bỏ sót một ai, trừ bọn Việt gian bán nước, quay lưng lại
với lợi ích của dân tộc.
Xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. từ hoàn cảnh một
nước Việt Nam thuộc địa muốn thực hiện được đoàn kết rộng rãi phải có lòng
khoan dung độ lượng, xóa bỏ mọi thành kiến theo tinh thần “Năm ngón tay cũng có
ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi
của tổ tiên ta”. Đã là con người thì có tốt có xấu, có thiện có ác trong lòng. Đặt lợi
ích của cách mạng trên hết, trân trọng phần thiện trong mỗi người dù nhỏ nhất.
Cũng như “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó
rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng
nó hẹp nhỏ”. Trong hoàn cảnh nước thuộc địa, tránh quan điểm giai cấp đơn thuần,
nói vô sản một cách cứng nhắc theo kiểu “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh,
mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như
thế nào để làm cho đúng”. Muốn đoàn kết phải khơi lòng yêu nước, trở về cội
nguồn “đồng bào”, căm thù đế quốc, khát vọng độc lập dân tộc của mọi người. Đó
là những điểm tương đồng, mẫu số chung của con người Việt Nam Trên cơ sở nhận
thức có ý nghĩa nhân văn và cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi
của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc
cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết”.
Người tuyên bố: “bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dân
chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn
kết với họ”.
Vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân làm nên thắng lợi của
cách mạng là gốc của nước, nhưng không phải là một khối đồng nhất, nên muốn có
đoàn kết vững chắc, lâu dài thì phải có lòng thương yêu, kính trọng nhân dân. Phải
hiểu dân, học dân, tin dân, dựa vào dân.
Mọi việc phải bàn bạc và giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Lòng thương yêu
nhân dân là điểm xuất phát mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh, tạo nên sự đoàn kết
chân thành, bền vững, lâu dài.
Để có sức mạnh thật sự đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải được tổ
chức trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận được
xây dựng trên nền tảng liên minh công nông, thực hiện đoàn kết rộng rãi, lâu dài,
vững chắc, thật sự vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới.
II. Thực trạng và giải pháp để tăng cường tối đa khối đại đoàn toàn kết dân
tộc nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại
đoàn kết dân tộc, về công tác dân tộc, về tôn giáo, về người Việt Nam ở nước
ngoài, từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính sách và ngày càng
thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Nhiều dự án về phát
triển kinh tế, văn hóa - xã hội của Nhà nước được ban hành nhằm chăm lo đời sống
cho nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, xã hội được thể chế hóa, đã từng bước được phát huy.
Cùng với những tiến bộ và chuyển biến nêu trên, nhiều vấn đề mới đã và
đang nảy sinh trong quá trình đổi mới, đó là xã hội, giai cấp, tầng lớp, nhóm dân cư
đang trong quá trình phân hóa. Xuất hiện sự chênh lệch ngày càng lớn về mức thu
nhập và hưởng thụ giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn, giữa công
nhân lao động ở các khu công nghiệp với những người lao động có chuyên môn,
tay nghề trong các lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, giữa người đương chức và
người về hưu… Sự phân hóa giàu nghèo có chiều hướng gia tăng đã và đang ảnh
hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc. Những đặc điểm nêu trên đã tác động mạnh mẽ
đến khối đại đoàn kết. Vì vậy, tuy đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng,
củng cố và tăng cường, song chưa thật vững chắc và đang đứng trước những thách
thức không thể xem thường. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang
khai thác những thiếu sót, yếu kém của ta hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các
thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, kích động tư tưởng ly
khai, chia rẽ dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta; khoét sâu
các mâu thuẫn, gây xung đột xã hội, kích động nhân dân tụ tập đông người bất hợp
pháp, bạo loạn, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Với việc làm đó, họ đang tìm
cách chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân; đối lập nhân dân với lực lượng vũ
trang; chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; kích động chống đối, làm suy yếu sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội. Những vấn đề đó đang là những thách thức đối với “Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới” và sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong bối cảnh tình hình trên, để tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành, lực lượng nhận
thức sâu sắc về sự cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện
nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu
của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(2); “Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào
dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết,
đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”(3). Công tác tuyên truyền cần
phải làm cho nhân dân thấm nhuần lời dạy của Người. Để tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, cần phát huy những yếu tố tương đồng, cố gắng tìm ra mẫu số
chung của mọi giai cấp, tầng lớp; quy tụ sức mạnh của các bộ phận cấu thành dân
tộc ta nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua đó,
để mọi người nhận thức rõ khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm mọi người dân
đang sinh sống, làm ăn ở trong nước và ở nước ngoài có nguồn gốc là người Việt
Nam, không phân biệt là dân tộc thiểu số hay đa số, theo hoặc không theo tín
ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt giàu hay nghèo, nam hay nữ, già hay trẻ, nếu
“Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ”(4) để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tiếp
tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chính sách, Nhà nước quản lý thông
qua hệ thống pháp luật, nhằm tạo cơ sở cho sự thống nhất các lợi ích, thống nhất về
ý chí và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là giữa giai cấp
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Do vậy, Đảng và Nhà nước không ngừng
hoàn thiện, thể chế hóa, cụ thể hóa hệ thống đường lối, chính sách, pháp luật để
“bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, nhân dân thực sự làm chủ,
được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân; đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và phải được thực thi trong
thực tiễn. Khắc phục triệt để tình trạng có nơi, có lúc thực hiện không đúng, thậm
chí trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo,
chính sách xã hội phải khuyến khích, động viên, phát huy được sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đồng thời, có những chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với
các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, nhất là chính sách đối với thương binh, gia đình
liệt sĩ, người có công với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, đảm
bảo cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, v.v. Thực sự tôn
trọng và tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những vấn đề
quan trọng của đất nước; phổ biến sâu rộng và thực hiện tốt hơn nữa Quy chế Dân
chủ ở cơ sở, giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra. Cấp ủy và
chính quyền các cấp phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý
kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân
và tôn trọng dân.
Thứ ba là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội;
kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. Tăng cường bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, ở
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ kháng chiến cũ, các vùng chiến
lược, vùng tôn giáo. Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân;
có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Tiếp tục xây dựng
cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao
động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực để cống hiến cho đất nước. Thực
hiện tốt chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng;
hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài, cần
có chính sách hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng
cường hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; đồng thời, cần có
cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Thứ tư là, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước,
tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Là tổ chức đóng vai trò nòng
cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tiếp tục đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động, sâu sát quần chúng, cơ sở, quan tâm hơn
nữa đến quyền lợi chính đáng của người dân và là “cầu nối” giữa Đảng với dân,
góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ngày càng khăng
khít, đảm bảo “ý Đảng” luôn hợp với “lòng dân”. Thường xuyên làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực tự cường, lòng
yêu nước, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội của mọi người dân. Phát huy vai trò của nhân dân trong việc xây
dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội, vận động các tầng
lớp nhân dân khắc phục khó khăn, kiên định với đường lối đổi mới do Đảng lãnh
đạo, đưa đất nước phát triển.
Thứ năm là, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá
hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp và các tổ chức thành viên cần tham gia tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng
lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đang lợi dụng
những khuyết điểm, hạn chế, sơ hở của các cấp chính quyền, của Đảng, Nhà nước
và vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Từ đó, tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác,
sự nhạy bén trong nhận diện và tích cực tham gia đấu tranh với những quan điểm
sai trái, thù địch.
Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tăng cường tối đa khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, đảm bảo cho đất nước có đủ sức mạnh để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
III. Trách nhiệm của thanh niên trong việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng
của thanh niên - lực lượng kế cận của Đảng đối với sự nghiệp của Đảng, tương lai,
vận mệnh của dân tộc, tiền đồ của Tổ quốc. Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng
toàn quốc nhân dịp Tết (tháng 1 năm 1946), Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa
xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”(5). Suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng, Người luôn dành tình cảm đặc biệt cho thanh niên, quan
tâm bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện thế hệ cách mạng cho đời sau. Thanh niên chính
là thế hệ tương lai tiếp quản đất nước vậy nên đây chính là đối tượng quan trọng
cần thiết học tập, tiếp thu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc. Mỗi thanh niên cần phải hiểu rõ và ý thức được tầm quan trọng của bản thân
trong sự nghiệp phát triển của đất nước, từ đó cố gắng phấn đấu làm mội người
công dân tốt, có ích cho xã hội. Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay thì
thanh niên cần phải bắt đầu từ những điều nhỏ nhất: biết yêu thương mọi người,
“Khi ở nhà, phải thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ về công việc, giúp đỡ về tinh
thần (học được điều gì về tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho cha mẹ
nghe). Ở trường thì phải đoàn kết, giúp đỡ anh chị em, thi đua học tập. Phải đoàn
kết giữa thầy và trò, làm cho trường mình luôn luôn tiến bộ”(6), tấm lòng nhân ái
không phân biệt đối xử kì thì những người dân tộc hoặc tôn giáo. Thanh niên còn
phải biết đoàn kết với mọi người từ những hoạt động, phong trào nhỏ nhất để rèn
luyện bản thân cho bản thân thấy được tầm quan trọng của sự đoàn kết từ đó càng
hiểu được sâu sắc hơn tư tưởng của Bác về đại đoàn kết dân tộc. Không chỉ hành
động trong những việc nhỏ mà thanh niên còn phải hướng đến những mục đích to
lớn hơn để giúp đỡ cho đất nước, cần chấp hành tốt mọi việc mà Đảng và nhà nước
ta ban hành góp phần giữ kỷ luật chung, hưởng ứng tốt những phong trào chung
của tổ quốc như giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, lá lành đùm lá
rách, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm…
cùng các phong trào “Uống nước nhớ nguồn", “Người Việt ưu tiên dùng hàng
Việt”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh," “Toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc”, kêu gọi mọi người tuyên truyền về chủ quyền biển đảo
của Việt Nam cho bạn bè thế giới, cùng Đảng và người dân cả nước vượt qua đại
dịch COVID-19,....
Hiện nay xã hội đang ngày một phát triển công nghệ khoa học ngày một tân
tiến hơn, con người có thể tiếp cận được với thông tin một cách dễ dàng, tuy nhiên
bên cạnh những nguồn tin đúng đắn và hữu ích thì vẫn còn những thông tin sai
lệch, trái chiều mà thanh niên chính là những đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất. Vì
vậy mỗi một thanh niên cần phải có nhận thức đúng đắn, kiên định về niềm tin với
Đảng và nhà nước không để những tư tưởng phản động xâm chiếm làm vấy bẩn tư
tưởng, nghĩ đến lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Chỉ khi thanh niên có suy
nghĩ, hành động đúng đắn thì tương lai của đất nước mới được đảm bảo phát triển
tốt và vững chắc, mỗi thanh niên cần tự ý thức được trách nhiệm của mình trong
việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó luôn nhắc nhở bản thân phải cố gắng
hơn để có thể tiếp nối tấm gương của Bác Hồ về đoàn kết toàn dân tộc.
C. KẾT LUẬN

Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều
luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi
nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt
Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo,
quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối
tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng
cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc
của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc
biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới,
thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
hiện nay.

Là thế hệ nắm giữ vận mệnh tương lai của đất nước, thanh niên ViệtNam
phải có ý thức cố gắng phấn đấu trong học tập để hoàn thiện bản thân, trở thành
một công dân tốt một người có ích cho xã hội, tích cực tham gia các hoạt động
đoàn thể rèn luyện bản thân về tính đoàn kết trong cộng đồng và hưởng ứng tốt
những phong trào do Đảng và nhà nước ban hành góp phần giúp ích cho đất nước
trong khả năng của mình.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, 2018
(1) Đảng Cộng Sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị Quốc gia, 2016
(2) Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011
(3) Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011
(4), (6) Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011
(5) Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011

You might also like