You are on page 1of 46

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ - KINH DOANH QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Nhóm thực hiện : Nhóm 1


Giảng viên hướng dẫn : Đào Thu Hà
Lớp học phần : 232_HCMI0121_22
Khóa : 2022-2026
LỜI MỞ ĐẦU
Đề tài : Một trong những đặc điểm của dân tộc Việt Nam hiện nay là có sự chênh
lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Sự chênh lệch đó ảnh hưởng như thế
nào đến chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam? Hãy luận
giải về các giải pháp pháp nhằm khắc phục tình trạng này?
Học thuyết Mác-Lênin đã chỉ rõ: “Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của
đảng, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng dựng tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng”.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề
đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc
là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành
công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” Đảng và Nhà nước
đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về
công tác dân tộc, về tôn giáo, từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh,
chính sách, nhằm chăm lo đời sống cho nhân dân, đảm bảo sự phát triển đồng đều
giữa các vùng miền.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc chung sống trong đó 53 dân
tộc thiểu số với số dân hơn 14,119 triệu người chiếm tỉ lệ 14,7% tổng dân số cả
nước. Trải qua bao năm thăng trầm cùng đất nước, cùng với sự chuyển hóa của các
giai cấp và tầng lớp xã hội, xuất hiện sự chênh lệch ngày càng lớn về mức thu nhập
và hưởng thụ giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp nhân dân…Tại các thành phố
lớn, nằm ở khu vực đồng bằng, ven biển như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh hay Đà Nẵng, đã có sự phát triển toàn diện, đặc sắc và hài hòa về kinh tế, văn
hóa, xã hội, người dân mức sống và chất lượng cuộc sống cao. Trong khi đó, tại các
vùng sâu, vùng xa và vùng hải đảo xa bờ, cuộc sống người dân vẫn chưa được ổn
định, vẫn còn rất nhiều những hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn cơm ăn, áo mặc, tỷ lệ
mù chữ cao và điều kiện cơ sở vật chất còn yếu kém. Bên cạnh đó, sự phân hóa giàu
nghèo có chiều hướng gia tăng đã và đang ảnh hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc.
Đây là vấn đề đã tác động mạnh mẽ đến khối đại đoàn kết hiện nay. Các thế lực thù
địch trong và ngoài nước đã và đang tiếp tục khai thác những thiếu sót, yếu kém của
đất nước ta hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị -
xã hội. Vì vậy, tuy đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng
cường, song chưa thật sự vững chắc và đang đứng trước những thách thức không thể
xem thường.
Điều này là cơ sở cho việc nghiên cứu của nhóm về đề tài “Nghiên cứu sự chênh
lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc Việt Nam và sự ảnh hưởng của sự chênh
lệch đến chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam, từ đó luận
giải về các giải pháp pháp nhằm khắc phục tình trạng này” để tìm hiểu rõ thực trạng
về sự chênh lệch và đánh giá các giải pháp đã đưa ra để đề xuất các giải pháp cải
tiến phù hợp. Trong quá trình nghiên cứu và tìm thông tin, do sự hạn chế về kiến
thức và kinh nghiệm, bài thảo luận của nhóm sẽ không thể tránh khỏi những sai sót
và nhầm lẫn. Chúng em mong sẽ nhận được lời nhận xét và đóng góp của cô và các
bạn để bài thảo luận của nhóm được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm
ơn.
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1

STT Mã sinh viên Họ và tên Điểm


1 22D130008 Ngô Thị Vân Anh
2 22D130009 Nguyễn Đức Phương Anh
3 22D130013 Nguyễn Vũ Trang Anh
4 22D260008 Phạm Thuý Anh
5 22D260011 Trần Quỳnh Anh
6 22D130016 Trương Thị Lan Anh
7 22D130017 Vũ Thị Hồng Anh
8 22D130018 Loan Ngọc Ánh

9 22D130019 Ngô Thị Minh Ánh


10 22D130021 Trần Thị Phương Ánh
11 22D130025 Vũ Đức Biển
12 22D130026 Nguyễn Hải Bình
13 22D130027 Dương Ngọc Bích
14 22D130033 Hoàng Tiến Cường
15 22D260021 Đỗ Thị Hồng Diễm
16 22D260023 Đồ Thị Diệu
17 22D260024 Phan Phương Dung
18 22D130045 Cao Thị Thuỳ Dương
19 22D130046 Chử Thị Ánh Dương
20 22D260028 Lê Tùng Dương

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN TỘC VÀ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
1.Khái niệm dân tộc và các đặc trưng của dân tộc.
1.1. Khái niệm dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài
của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm:
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc.
*Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định
làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn
ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt
quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, khái niệm dân tộc
dùng để chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ nhân dân của một nước. VD: Dân tộc Ấn
Độ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam…
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (Ethnie) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng tộc người
được hình thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức
tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc,
kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các cộng đồng đó. Với
nghĩa này, dân tộc là một bộ phận hay thành phần của quốc gia. Chẳng hạn, Việt
Nam là quốc gia có 54 dân tộc, tức 54 cộng đồng tộc người.
1.2. Các đặc trưng cơ bản của dân tộc.
Theo nghĩa rộng, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ ổn định. Lãnh thổ là yếu tố thể hiện chủ
quyền của một dân tộc trong tương quan với các quốc gia - dân tộc khác. Đối với
quốc gia và từng thành viên dân tộc, yếu tố lãnh thổ là thiêng liêng nhất, không có
lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia. Bảo vệ chủ quyền quốc gia là
nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất của mỗi thành viên dân tộc.
Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng
nhất của dân tộc, là cơ sở để gắn kết các bộ phận, các thành viên trong dân tộc, tạo
nên tính thống nhất, ổn định, bền vững của dân tộc. Mối quan hệ kinh tế là nền tảng
cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Thứ ba, có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp. Mỗi dân tộc đều có ngôn
ngữ riêng, bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, làm công cụ giao tiếp giữa
các thành viên trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và tình cảm… Trong một
quốc gia có nhiều cộng đồng tộc người, với các ngôn ngữ khác nhau, nhưng bao giờ
cũng có một ngôn ngữ chung, thống nhất. Và sự thống nhất về ngôn ngữ là một
trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.
Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý. Văn hóa dân tộc được biểu hiện thông
qua tâm lý, tính cách, phong tục, tập quán, lối sống dân tộc, tạo nên bản sắc riêng
của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt chẽ với văn hóa của các cộng đồng
tộc người trong một quốc gia. Văn hóa là một yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên
kết cộng đồng. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc đáo của dân tộc mình và văn
hóa của dân tộc không thể phát triển nếu không giao lưu với văn hóa của các dân tộc
khác.
Thứ năm, có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc). Các thành viên cũng như các
cộng đồng tộc người trong một dân tộc đều chịu sự quản lý, điều khiển của một nhà
nước độc lập. Nhà nước là đặc trưng cho thể chế chính trị của dân tộc, là đại diện
cho dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản gồm:
 Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết hoặc chỉ riêng
ngôn ngữ nói).
 Cộng đồng về văn hóa.
 Ý thức tự giác tộc người.
Ba tiêu chí trên tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát triển.
Đây cũng là căn cứ để phân định tộc người tại Việt Nam hiện nay.
2.Khái niệm chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết.
Đảng luôn xác định đoàn kết là giá trị cốt lõi, đại đoàn kết toàn dân tộc là đường
lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam,
có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo những lợi ích tối cao của dân
tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người. Xây dựng
khối đại đoàn kết là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
3. Vai trò của khối đại đoàn kết phân vùng
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu, được hun đúc qua lịch sử
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng là đường lối chiến lược, bài học lớn của cách
mạng Việt Nam, được Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công!”. Thực tiễn trong các giai đoạn kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, dưới sự
lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân, không phân biệt thành phần, giai cấp,
dân tộc, tôn giáo, đã tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam
trước đây và sau này là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp,
hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó,
không chỉ ở khía cạnh cách mạng mà khối đại đoàn kết dân tộc còn góp phần rất lớn
trong công cuộc phát triển thúc đẩy kinh tế - xã hội đất nước cũng như là xây dựng
Đảng và chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Đối với Cách mạng và chính quyền:
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định quan điểm của Đảng về đại đoàn kết
toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. chính đáng của
nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây
dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và
đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân
dân với Đảng, Nhà nước.
Đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta xác định là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện đường lối chiến lược đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, một
lần nữa Đảng ta khẳng định “Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp,
vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội”.
Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ được khẳng định trong ý
thức của nhân dân, trong đường lối, chủ trương của Đảng, mà còn được ghi nhận
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011), thể chế hóa trong Điều 9 Hiến pháp năm 2013 và trong Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.
Chương II. Ảnh hưởng của sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân
tộc đến chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết của nhà nước
1.Thực trạng và nguyên nhân của sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân
tộc Việt Nam
1.1 Thực trạng và nguyên nhân của sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa
các dân tộc Việt Nam
Hiện nay, tồn tại sự chênh lệch trình độ kinh tế giữa dân tộc thiểu số và nhóm dân
tộc phân bố ở vùng thành thị, trung tâm của nước ta như dân tộc Kinh/Hoa. Trong
đó, đồng bào các DTTS thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng xa như
khu vực Trung du miền núi Bắc Bộ (Tày, Mường, Nùng,…). tuy nhiên họ cũng
phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh và nhập cư.
Dưới đây là một số khía cạnh thuộc phạm trù kinh tế thể hiện sự chênh lệch giữa mức
phát triển của các dân tộc
a.Tỷ lệ nghèo đa chiều
Tỷ lệ nghèo đa chiều chủ yếu tập trung ở những hộ gia đình thuộc vùng dân tộc
thiểu số. Theo số liệu thống kê về tỷ lệ nghèo đa chiều theo nhóm dân tộc năm
2022, tỷ lệ nghèo đa chiều của dân tộc Kinh/Hoa chỉ khoảng 2% trong khi tỷ lệ này
ở các dân tộc thiểu số khác lên tới 23.7%. Đến năm 2024, ước tính tỷ lệ hộ nghèo
dân tộc thiểu số ước còn khoảng 17,82% .Có thể thấy, sự chênh lệch về tỷ lệ nghèo
vẫn có khá lớn. Điều này thể hiện những khó khăn của các dân tộc thiểu số trong
phát triển kinh tế, chủ yếu ở đây trình độ sản xuất thấp, hệ thống hạ tầng còn nghèo
nàn, lạc hậu so với dân tộc Kinh/Hoa.
Hình: Tỷ lệ nghèo đa chiều và tỷ lệ giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2016-2022

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2022

Ở khía cạnh các địa phương, những tỉnh thành tập trung nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số cũng có tỷ lệ nghèo cao hơn so với những nơi khác. Điển hình là ở khu vực
trung du miền núi Bắc Bộ, Tây Bắc,... Theo chuẩn nghèo đa chiều mới theo Nghị
định 07/2021/NĐ-CP, các tỉnh có tỷ lệ nghèo đa chiều cao nhất cả nước là: Hà
Giang 37,9%; Lai Châu 28,6%; Điện Biên 27,8%; Sơn La 23,9%; Gia Lai 22,7%;
Cao Bằng 20,1% …

Vì vậy, mặc dù sự chênh lệch hộ nghèo vẫn còn lớn giữa các dân tộc Kinh/Hoa và
các dân tộc thiểu số nói chung, tuy nhiên những năm gần đây dưới tác động của hệ
thống cơ chế, chính sách, pháp luật về giảm nghèo được Chính phủ ban hành, tỷ lệ
này cũng dần được thu hẹp giữa các dân tộc, hứa hẹn nền kinh tế trong tương lai
phát triển một cách toàn diện hơn.
b. Sự khác biệt về cơ cấu ngành kinh tế
Đối với dân tộc Kinh/Hoa: Cơ cấu ngành kinh tế ngày càng chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa như: ngành dịch vụ, ngành công nghiệp chiếm đa số.
Ví dụ, những tỉnh thành ở khu vực đồng bằng Sông Hồng (nơi tập trung chủ yếu của
dân tộc Kinh) như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương,... ngày này hình thành nhiều khu
công nghiệp, thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước trong các lĩnh vực
công nghiệp, dịch vụ. Hầu hết những ngành nghề mà người dân tộc Kinh/ Hoa tham
gia lao động đều có sự phục vụ và hỗ trợ của máy móc, thiết bị công nghệ cao.
Đối với các dân tộc thiểu số: Cơ cấu ngành nông nghiệp chiếm chủ yếu. Đa số đồng
bào dân tộc sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, nương
rẫy,...; những ngành nghề thủ công, đòi hỏi tay nghề với ít sự hỗ trợ từ máy móc,
thiết bị; một bộ phận thực hiện kinh doanh, buôn bán nhỏ, làm công nhân trong các
cụm, khu công nghiệp, doanh nghiệp. Ngày nay, một bộ phận dân tộc thiểu số có xu
hướng di chuyển lên các khu vực tập trung ngành công nghiệp cao để gia tăng thu
nhập phục vụ đời sống.
Tuy nhiên, ngày nay, nhiều DTTS đã bắt đầu áp dụng cơ giới hóa vào trong quá
trình sản xuất, đó là nhờ các cấp lãnh đạo đã thực hiện triển khai các biện pháp
trong “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi”.
c. Sự khác biệt về GRDP
GRDP của những khu vực, tỉnh thành tập trung đông người dân tộc thiểu số có sự
chênh lệch lớn so với những khu vực tập trung dân tộc Kinh/Hoa.
Ở những khu vực thành thị, đô thị lớn (nơi ngành dịch vụ, công nghiệp, công nghệ
cao phát triển), cũng là những nơi tỉ lệ dân tộc Kinh/Hoa chiếm đa số, GRDP thuộc
top cao nhất cả nước. Dưới đây là danh sách các đơn vị hành chính Việt Nam có
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) cao nhất đến năm 2022:

STT Tên tỉnh, thành phố Tổng GRDP Tổng GRDP


(tỉ VNĐ) (tỉ USD)

1 Thành phố Hồ Chí Minh 1.479.227 63,65

2 Thủ đô Hà Nội 1.196.004 51,39

3 Bình Dương 459.041 19,28

4 Đồng Nai 434.990 18,35

5 Bà Rịa – Vũng Tàu 390.293 16,79

Ngược lại, ở những vùng núi, vùng sâu vùng xa, GRDP thuộc top thấp nhất cả nước
bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do:
 Cơ sở hạ tầng ở những nơi đây bao gồm đường xá chưa được khai thác, trang
thiết bị máy móc phục vụ phát triển kinh tế còn lạc hậu.
 Trình độ học vấn người dân còn chưa cao, vì vậy nhận thực về các vấn đề còn
nhiều lạc hậu.
 Thường xuyên gặp những khó khăn về điều kiện thời tiết như: sạt lở đất, lũ
lụt,...
 Tồn tại nhiều hủ tục, tập quán không phù hợp với thời đại kinh tế
Dưới đây là Dưới đây là danh sách các đơn vị hành chính Việt Nam có Tổng sản
phẩm trên địa bàn (GRDP) thấp nhất đến năm 2022, có thể thấy là tập trung vào các
tỉnh miền núi, nhiều dân tộc thiểu số:

STT Tên tỉnh, thành phố Tổng GRDP Tổng GRDP


(tỉ VNĐ) (tỉ USD)
59 Kon Tum 30.413 1,31

60 Điện Biên 25.238 1,09

61 Lai Châu 23.389,15 1,03

62 Cao Bằng 21.635 0,94

63 Bắc Cạn 15.014 0,65

1.2. Thực trạng và nguyên nhân của sự chênh lệch về trình độ phát triển văn hoá
giữa các dân tộc Việt Nam
1.2.1. Thực trạng
* Đặc điểm của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm khoảng 86% dân
số, 53 dân tộc còn lại chiếm khoảng 14% dân số. Giữa các dân tộc thiểu số, tỷ lệ
cũng không đều nhau.
Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc cũng không đồng đều:
- Các dân tộc có số dân trên 1 triệu người bao gồm Tày, Thái, Mường, Khơ Me
- Các dân tộc có số dân từ 60 vạn tới dưới 1 triệu gồm các dân tộc Hoa, Nùng,
H. Mông, Dao
- Các dân tộc từ 10 vạn đến 50 vạn người bao gồm Gia lai, Ê đê, Ba Na, chăm
- Các dân tộc có số dân từ 10.000 tới 100.000 người như Mơ Nông, Thổ, Khơ
Mú, Giáy
- Các dân tộc có số dân dưới 1000 người như Si La, Pu Péo, Ơ- Đu, Brâu
Thực tế cho thấy nếu một dân tộc mà có số dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều
khó khăn cho việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hoá dân tộc, duy trì
và phát triển giống nòi. Do vậy, Việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc thiểu
số, đặc biệt đối với những dân tộc thiểu số ít người đang được Đảng và Nhà nước
Việt Nam có những chính sách quan tâm đặc biệt
a. Chênh lệch vùng miền:
Các dân tộc ở các vùng miền khác nhau thường có các phong tục, tập quán, và
truyền thống văn hóa riêng biệt. Vùng đồng bằng có văn hóa khác biệt so với các
vùng núi cao, và sự phát triển kinh tế, xã hội cũng ảnh hưởng đến việc duy trì và
phát triển văn hóa của từng dân tộc. Các dân tộc thiểu số thường tập trung ở các
vùng miền núi, biên giới và miền quê hẻo lánh, nơi mà tiếp cận với các dịch vụ giáo
dục, y tế, và hạ tầng phát triển kém hơn so với các khu vực đô thị và kinh tế phát
triển.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, HDI (chỉ số phát triển con người)
của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh phía Nam thường cao hơn so với
các tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang, Lai Châu, và Điện Biên. Trong năm
2020, Chỉ số HDI trung bình của TP. Hồ Chí Minh với mức cao nhất là 0,821. Tiếp
nối ngay sau là các tỉnh đồng bằng sông Cửu với chỉ số 0,724- mức cao của chỉ số
HDI. Ngoài ra với chỉ số 0,678 các tỉnh miền bắc đạt chỉ số HDI trung bình và thấp
nhất là Hà giang với chỉ số 0,624. Với các chỉ số HDI của từng vùng cho thấy,HDI
thấp thường phản ánh sự kém phát triển trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, và thu
nhập, ảnh hưởng đến văn hóa và các phong tục tập quán của các dân tộc và ngược
lại HDI càng cao phản ánh mức độ phát triển càng tốt. Chính điều này đã đưa sự
chênh lệch phát triển đến từng vùng miền.
Bên cạnh đó, trải qua thời gian, các tôn giáo lớn trên thế giới lần lượt xuất hiện ở
Việt Nam. Ban đầu là Phật giáo (được cho là đến Việt Nam vào cuối thế kỷ II đầu
thế kỷ III sau công nguyên), tiếp đến là Công giáo (giữa thế kỷ thứ XVI), Hồi giáo
(cuối thế kỷ XIX) và muộn hơn cả là đạo Tin Lành (vào Việt Nam năm 1911). Đến
nay, theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, ở Việt Nam có 41 tổ chức tôn giáo
đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký
hoạt động tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau; với trên 26,5 triệu tín đồ (chiếm
khoảng 27% dân số cả nước); trên 58 ngàn chức sắc; 148 ngàn chức việc và gần
29,8 ngàn cơ sở tôn giáo. Song có đến hơn 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo, chủ yếu ảnh hưởng Phật giáo.
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có nền văn hóa riêng biệt.
Ví dụ:
 Dân tộc Kinh: Nền văn hóa lúa nước, văn hóa Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.
 Dân tộc Tày: Nền văn hóa hóa Đông Sơn, văn hóa lúa nước, văn hóa tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
 Dân tộc Ê Đê: Nền văn hóa cồng chiêng, văn hóa nhà dài, văn hóa thờ cúng
Yang.
Với sự khác biệt văn hoá dẫn đến suy nghĩ của các vùng miền và phong tục giữa các
vùng miền có những sự khác nhau rõ rệt. Mỗi tôn giáo sẽ có những đặc điểm khác
nhau và mọi người luôn tin tuyệt đối vào tôn giáo mình lựa chọn dẫn đến bỏ qua
những cơ hội phát triển của bản thân. Đồng thời, chính sự khác biệt về tôn giáo suy
nghĩ của mỗi vùng miền khác nhau kìm hãm sự phát triển gây ra sự bất bình đẳng,
cản trở giao lưu, hợp tác văn hóa giữa các quốc gia, khu vực và dân tộc.
b. Sự đa dạng về bản sắc văn hoá của từng dân tộc
Mức độ phát triển văn hóa không đồng đều giữa các quốc gia, khu vực và dân tộc.
Với sự phát triển của công nghệ, mặt bằng dân trí và các điều kiện tiếp cận thông
tin, thị trường sản xuất hàng hóa, tiến bộ khoa học - công nghệ của cách mạng công
nghệ 4.0 đặc biệt yếu kém. Thậm chí nhiều nơi điều kiện về trang thiết bị, máy tính
tính, mạng internet không có, dẫn đến các vùng sâu vùng xa dường như trở thành
vùng trũng, không có đòn bẩy để phát triển. Cùng với sự tiếp xúc ít với các phương
tiện thông tin đại chúng, có hiểu biết hạn hẹp về hôn nhân và gia đình. Điều này dẫn
đến tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, hoặc là hôn nhân ép buộc.
Điều này gây ra hai hậu quả, một là có thể gây suy thoái giống nòi, đẻ con mắc các
khuyết tật, thứ hai là kết hôn quá sớm hoặc do ép buộc gây nên cuộc sống gia đình
không hạnh phúc, mất chỗ dựa tinh thần cho các thành viên trong gia đình. Đặc biệt
với sự tiếp cận thông tin còn hạn chế khiến cho tỷ lệ tảo hôn còn diễn ra nhiều tại
các vùng dân tộc thiểu số cùng với sự kết hôn sớm và kiến thức còn hạn chế dẫn
đến việc sinh nở vỡ kế hoạch, một nhà đẻ 5-8 người con. Trong khi trình độ sản xuất
yếu kém, bố mẹ đi làm không đủ nuôi con, một phần do bố mẹ cũng kém hiểu biết
và không chú trọng giáo dục nên có xu hướng các con đến tuổi lao động chỉ tầm 12-
13 tuổi đã phải nghỉ học để phụ giúp cha mẹ. Điều này vô hình chung tạo nên một
vòng luẩn quẩn không hồi kết: con cái không được học hành, phải lao động từ nhỏ
sẽ lại tiếp nối nền canh tác lạc hậu của cha ông, hoặc sẽ đến nơi khác để làm ăn. Tất
cả họ, thế hệ mới sinh ra đã tạo nên một lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng thiếu
trình độ kĩ thuật bởi họ không có trình độ học vấn, và cứ như thế lại tiếp nối cha mẹ,
đi lấy vợ lấy chồng, đẻ nhiều con, và lại cho con nghỉ học.
c. Lợi dụng cái gọi là bản sắc để bao biện cho các hủ tục.
Các hủ tục tước đoạt quyền sống của con người như là nếu mẹ bị chết thì phải chôn
con theo cùng, nếu sinh đôi thì phải giết một đứa.
Ngoài ra, sự khác biệt văn hoá còn thể hiện trong chính những các hôn ước. Với các
vùng kinh tế phát triển việc cưới xin được dựa theo sự tìm hiểu còn đối với dân tộc
mông việc cưới xin theo cách “kéo vợ”. Ngoài ra tục lệ thách cưới người Mông gồm
có bạc trắng, trâu, gà , lợn, rượu, gạo,.. khiến cho nhiều gia đình không đủ điều kiện
để lo sính lễ ăn hỏi dẫn đến nhiều chàng trai rất khó lấy vợ. Chính những tục lệ đã
đẩy nhiều gia đình đang khó khăn lại trở nên khó khăn hơn khi sính lễ quá cao.
Đồng thời chính những hủ tục này càng gây khó khăn trong việc kéo gần sự chênh
lệch trình độ giữa các dân tộc.
Văn hóa ăn uống lạc hậu, ăn các món gỏi cá nhảy, ăn các loại tiết canh, ăn món nậm
pịa ở một số dân tộc vùng cao. Bằng chứng cho thấy tuổi thọ nam giới ở vùng cao
thấp hơn nhiều so với tuổi thọ trung bình của Việt Nam. Việc ăn uống không sạch sẽ
dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa, giun sán, uống nhiều rượu phá hủy toàn bộ nội
tạng như gan, dạ dày,….Và khi họ mắc bệnh thì không xem xét lại cách ăn uống mà
lại đổ lỗi cho trời trừng phạt( giàng), hoặc bị ma rừng bắt.
Văn hóa cúng bái tâm linh mê tín dị đoan. Dân làng tin hoàn toàn vào thầy mo, xem
thầy mo là cầu nối giữa thần và người. Điều này khiến cho các đối tượng ly khai
phản động sẽ lợi dụng và tìm đến biến các thầy mo trở thành tay sai để truyền bá các
tư tưởng phản động, chống phá chính quyền. Thay vì đi bệnh viện hoặc cơ sở y tế để
khám chữa bệnh, một số người tin vào tâm linh mê tín dị đoan đi cúng các thầy dẫn
đến bệnh ngày một nặng khiến cho cuộc sống càng ngày trở nên khó khăn hơn rất
nhiều.
1.2.2. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân khách quan :
Một số dân tộc có lịch sử phát triển lâu đời hơn, có nền văn hóa phát triển sớm hơn.
Ví dụ dân tộc Kinh với sự hình thành và phát triển hơn 4000 năm còn dân tộc Bru -
Vân Kiều với sự hình thành và phát triển khoảng 1000 năm. Chính sự khác nhau về
lịch sử hình thành đã đưa đến những sự khác biệt trong chính cách sống, suy nghĩ và
văn hoá của từng dân tộc dẫn đến sự chênh lệch trình độ phát triển của từng dân
tộc.
Từng vùng miền hay dân tộc đều có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và địa hình
khác nhau dẫn đến sự khác biệt về văn hóa. Nổi bật là hình ảnh những dân tộc ở
vùng núi sẽ có nền văn hóa gắn liền với rừng núi, cách sống và sinh hoạt hướng đến
những điều giản dị thô sơ gắn liền với chính rừng núi nơi họ đã gắn bó. Đối với dân
tộc sống ở vùng biển họ thường dựa vào biển để mưu sinh kiếm sống, biển đối với
họ rất quan trọng và vì thế mà họ luôn coi trọng biển và xây dựng những nét văn
hoá thiên về biển cả. Chính những sự khác biệt về điều kiện tự nhiên mà cách sinh
hoạt và các nét văn hoá riêng biệt mỗi nơi mỗi khác. Điều này phần nào đó đem lại
nét đẹp riêng cho từng dân tộc nhưng cũng vô hình hoá tạo nên một khoảng cách
chênh lệch trình độ từng dân tộc.
b. Nguyên nhân chủ quan:
- Chính sách của chính phủ :
Chính sách của chính phủ cũng tạo ra sự phát triển văn hóa chưa đồng đều giữa các
dân tộc. Các dân tộc thiểu số được hưởng nhiều ưu đãi chính sách về giáo dục, y tế.
Tuy nhiên, các chính sách này chưa thực sự hiệu quả trong việc thu hẹp khoảng
cách phát triển văn hóa hóa.
- Mức độ đầu tư cho phát triển văn hóa:
Mức độ đầu tư cho việc phát triển văn hóa hóa của các nhóm dân tộc thiểu số còn
thấp.Kinh phí đầu tư cho các hoạt động văn hóa ở vùng cao nhưng có giới hạn.
Ngoài ra, Cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động văn hóa ở vùng sâu xa còn
thiếu. Trong khi các dân tộc vùng đồng bằng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế,
kinh tế đầu tư cho các hoạt động văn hoá được chú trọng hơn rất nhiều. Điều này
một lần nữa chứng minh sự chênh lệch trình độ phát triển giữa các dân tộc là vẫn
còn.
- Nhận thức của người dân:
Một số người chưa nhận thức đầy đủ những văn hoá cần giữ gìn và phát huy và
những văn hoá nào cần thay đổi. Một số dân tộc thiểu số vẫn giữ các hủ tục từ trước
đến tận ngày nay dù những hủ tục đó đã không còn phù hợp. Trong khi đó một số
dân tộc phát triển, họ vẫn giữ gìn những bản sắc văn hoá tốt đẹp và họ cũng có
những suy nghĩ tiến bộ hơn trong việc sẵn sàng thay đổi những hủ tục để phù hợp
với cuộc sống và trình độ phát triển ngày này. Điều này là nguyên nhân lớn nhất dẫn
đến sự chênh lệch trình độ phát triển của từng vùng dân tộc.
2. Ảnh hưởng của sự chênh lệch về trình độ đến chiến lược xây dựng khối đại đoàn
kết
Chênh lệch trình độ trong ba yếu tố kinh tế, văn hóa, giáo dục sẽ có ảnh hưởng đến
chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết của nhà nước. Thực tế, sự chênh lệch trong
ba yếu tố trên có sự tác động tương quan lẫn nhau, yếu tố này là một phần nguyên
nhân dẫn đến sự chênh lệch trong yếu tố kia giữa các dân tộc. Trên cơ sở đó, muốn
hiểu tổng thể tác động của ba yếu tố trên đến chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết,
cần tìm hiểu ảnh hưởng của từng nhân tố: kinh tế, văn hóa, xã hội đến việc triển
khai chiến lược này của nhà nước.
* Kinh tế
Ngày nay, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, đất nước ta đang phải đối
mặt với sự biến đổi ngày càng phức tạp của tình trạng phân hóa giàu - nghèo cùng
những hệ lụy tiêu cực của nó. Phân hóa giàu - nghèo đã và đang trở thành một trong
những mối đe dọa lớn nhất, trực tiếp nhất đến sự ổn định, bền vững của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta. Việc nhận diện những tác động tiêu cực của tình
trạng phân hóa giàu - nghèo đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để từ đó
đưa ra những biện pháp phòng ngừa, khắc phục đang là một vấn đề cấp thiết hiện
nay.
Một là, phân hóa giàu - nghèo làm nảy sinh những nhận thức sai lệch, gây suy giảm
tình cảm và niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Ở nước ta hiện nay, tình trạng phân hóa giàu - nghèo đang diễn ra khá phức tạp,
giữa các nhóm người trong xã hội và giữa các vùng miền, khoảng cách phân hóa lớn
và có xu hướng tăng nhanh. Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Chênh lệch giàu -
nghèo còn lớn; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai”(5); “khoảng cách phát triển giữa các
địa phương, vùng, miền còn khá lớn”(6); “Chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng gia
tăng”(7). Trên thực tế, từ năm 2018 đến năm 2022, mức độ chênh lệch thu nhập
bình quân đầu người một tháng giữa nhóm dân cư có thu nhập cao nhất so với nhóm
dân cư có thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành đang có xu hướng giảm. Cụ thể:
năm 2018 là 10 lần; năm 2019 là 10,2 lần; năm 2020 là 8,07 lần; năm 2021 là 7.9
lần; năm 2022 là 7.6 lần.
Phân hóa giàu - nghèo là yếu tố làm trầm trọng hơn những bất bình đẳng xã hội. Sự
chênh lệch về tài sản, thu nhập giữa các bộ phận dân cư kéo theo sự phân hóa về vị
thế, ảnh hưởng xã hội, về tiếp cận với các cơ hội phát triển, thụ hưởng các điều kiện
vật chất và tinh thần. Điều đó đi ngược lại với những giá trị của chủ nghĩa xã hội;
khiến cho một bộ phận người dân, đặc biệt là người nghèo nảy sinh nhận thức sai
lầm về mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hoài nghi các giá trị cao
đẹp của chế độ chủ nghĩa xã hội, hoài nghi vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, phân hóa giàu - nghèo làm cho chủ nghĩa cá nhân và lối sống cơ hội, thực
dụng ngày càng phát triển, phá vỡ sự gắn kết giữa các tầng lớp nhân dân. Tình trạng
chênh lệch, bất bình đẳng về tài sản, thu nhập sẽ dẫn đến sự phân hóa xã hội. Một
bộ phận người giàu, do sự dư thừa về điều kiện vật chất, có thể rơi vào lối sống xa
hoa, hưởng thụ, thậm chí trụy lạc, thờ ơ, lãnh cảm với xã hội, coi thường, kỳ thị
người nghèo, người yếu thế. Trong khi đó, bộ phận người nghèo trong xã hội, do sự
thua thiệt về nhiều mặt, dễ nảy sinh tâm lý ấm ức, bất mãn, thiếu thiện cảm, thậm
chí căm ghét người giàu. Họ có thể cho rằng sự thua thiệt, bất công mà mình phải
chịu là do người giàu trong xã hội gây ra. Những diễn biến tâm lý trái ngược ấy
trong các bộ phận xã hội làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc bị ảnh hưởng
nghiêm trọng.
Phân hóa giàu - nghèo, nhìn từ khía cạnh tích cực, sẽ tạo ra động lực thúc đẩy mỗi
người dân nỗ lực phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, ở khía cạnh
ngược lại, nó là “mảnh đất vàng” cho sự nảy sinh của chủ nghĩa cá nhân và lối sống
thực dụng. Phân hóa giàu - nghèo dễ đẩy con người vào trạng thái tâm lý muốn làm
giàu bằng mọi giá. Dưới tác động của các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường,
thang giá trị của con người được đo đếm bằng sự “giàu có vật chất”, lối sống của họ
bị dồn vào một khuôn mẫu hàng hoá - tiền tệ. Vật chất chi phối đến các mối quan hệ
gia đình, cộng đồng, xã hội; lấy lợi ích cá nhân làm nguyên tắc sống, không cần
quan tâm đến lợi ích tập thể, cộng đồng. Xã hội có sự phân hóa giàu - nghèo thường
làm mất đi lòng nhân ái; làm cho con người mất đi sự cảm thông, chia sẻ và đồng
cảm với những khó khăn, hoạn nạn của đồng loại; đồng thời, không quan tâm đến
vận mệnh đất nước, đến sự phát triển và tiến bộ xã hội; không đấu tranh bảo vệ lợi
ích chung, phá hoại tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.
Ba là, phân hóa giàu - nghèo đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Ở nước ta, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, lấy lý tưởng, mục tiêu cách mạng của Đảng làm mục tiêu chung
cho khối đại đoàn kết. Đảng duy trì, xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết toàn
dân tộc không chỉ thông qua việc tuyên truyền, vận động, giáo dục chính trị tư
tưởng đến các tầng lớp nhân dân mà còn thông qua việc hình thành và phát triển các
tổ chức, thiết chế gắn kết các tầng lớp xã hội, gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội. Trong bối cảnh phân hóa giàu - nghèo gia tăng, hoạt
động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức này trong tập hợp, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc sẽ không tránh khỏi khó khăn, thách thức.
Đối với Đảng, Nhà nước, phân hóa giàu - nghèo đặt ra hàng loạt vấn đề mới, phức
tạp như: vấn đề lòng tin của nhân dân đối với năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu
lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trong điều tiết nền kinh tế, giải quyết các
vấn đề xã hội; khả năng hiện thực hóa các mục tiêu công bằng, bình đẳng, gắn phát
triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; tình trạng quan liêu, tham
nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước; nguy cơ bất bình đẳng giữa các tầng lớp…
Các vấn đề đó không hoàn toàn chỉ do tình trạng phân hóa giàu -nghèo gây ra,
nhưng nó là một trong những tác nhân chủ đạo.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, phân hóa giàu -nghèo gây chia rẽ về nhận
thức, tư tưởng và tâm lý,khiến cho các tổ chức chính trị - xã hội gặp khó khăn trong
tập hợp thành viên và thể hiện vai trò đại diện của mình. Các thành viên trong tổ
chức có sự khác biệt, chênh lệch về thu nhập, mức sống và vị thế, sẽ rất khó tìm
được tiếng nói chung, thậm chí còn nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, gây cản trở đến
hiệu quả hoạt động chung của tổ chức. Đây là một vấn đề rất lớn, bởi nếu các tổ
chức chính trị - xã hội hoạt động không hiệu quả, thì nền tảng xã hội của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc không còn được bảo đảm.
Bốn là, phân hóa giàu - nghèo tạo ra “mảnh đất” để các thế lực thù địch lợi dụng phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. vì chênh lệch trong trình độ kinh tế giữa các dân
tộc, nhiều dân tộc ở miền xa với kinh tế khó khăn đã làm những điều phạm pháp,
buôn bán trái phép, nghe theo sự sai khiến của các tổ chức... để có thể kiếm về
khoản tiền lớn. Thực chất, khi kinh tế còn chưa có sự bình đẳng nhất định, thì hiện
tượng trên vẫn có xu hướng tiếp tục diễn ra, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế khó
khăn như hiện nay.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động vẫn không ngừng tìm mọi thủ đoạn để phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gây chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, chia
rẽ các giai tầng xã hội; từ đó làm cho địa vị, vai trò lãnh đạo của Đảng bị lung lay.
Lợi dụng những biểu hiện lệch lạc về nhận thức, những rạn nứt về tình cảm, niềm
tin trong một bộ phận nhân dân, chúng đã tung ra rất nhiều luận điệu phản động, sai
trái nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự tác động đó diễn ra một cách
vừa chậm rãi, vừa tức thời, song nó là một quá trình liên tục, phức tạp, tác động đến
cả nhận thức, tâm lý, hành vi xã hội và đến hoạt động của các tổ chức, lực lượng.
Chính vì thế, những tác động này trở nên rất nguy hại, cần phải sớm được khắc phục
bằng cả những biện pháp trước mắt và lâu dài.
Sự chênh lệch trong trình độ phát triển kinh tế giữa các dân tộc ảnh hưởng tiêu cực
đến mục tiêu đất nước đề ra, làm chậm quá trình phát triển kinh tế đồng bộ trên toàn
quốc gia. Thực tế, đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới với mục tiêu
phấn đấu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI, hướng đến
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa... ở một tầm
cao mới, cùng với hội nhập quốc tế toàn diện. Như vậy, việc không đồng đều trong
trình độ kinh tế có nguy cơ ảnh hưởng đến tiến độ Việt Nam đạt được mục tiêu trên,
làm chậm quá trình phát triển của quốc gia, tác động tiêu cực đến chiến lược xây
dựng khối đại đoàn kết của nhà nước. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng, nhất trong
bối cảnh thế giới biến động phức tạp, khó lường, cơ hội và thách thức đan xen, đặt
ra nhiều vấn đề mới cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc và công tác mặt trận
của dân tộc Việt Nam.

* Văn hóa
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có những
sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam đa dạng, phong phú.
Tuy nhiên điều này cũng rất dễ gây xung đột, mất đoàn kết giữa các dân tộc với
nhau ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết. Hiện nay, mâu thuẫn về
văn hóa giữa các dân tộc Việt Nam có thể xuất phát từ sự hiểu biết hạn chế về văn
hóa và truyền thống. Các khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, và quan điểm
tôn giáo của các dân tộc có thể dẫn đến sự hiểu lầm, đẩy xa sự giao tiếp cũng như
làm căng thẳng các mối quan hệ giữa những người không chung một dân tộc với
nhau hay lớn hơn là giữa các dân tộc với nhau.
Sự chênh lệch về văn hóa giữa các dân tộc ở Việt Nam hiện nay có thể:
- Gây xung đột và căng thẳng: Sự mâu thuẫn về văn hóa có thể làm tăng căng thẳng
và xung đột giữa các dân tộc, đặc biệt trong các khu vực có đa dân tộc sinh sống.
- Xuất hiện hiện tượng phân biệt, kỳ thị: sự chênh lệch, khác biệt về văn hóa có thể
dẫn đến phân biệt và kỳ thị. Có thể là do trang phục dân tộc khác nhau, tiếng nói
khác nhau hoặc do phong tục tập quán khác nhau, gây ra sự phân đoạn và mất đồng
thuận trong xã hội.
- Việt Nam với 54 dân tộc anh em, nên rất đa dạng trong các nền văn hóa dân tộc.
Sự khác biệt trong văn hóa đôi khi tạo ra những "cú sốc" văn hóa, dẫn đến những
ứng xử chưa thực sự thấu đáo. Những ứng xử đó ít nhiều đã làm tổn thương đến một
bộ phận đồng bào, họ cảm thấy bị phân biệt, đối xử và thiếu sự tôn trọng. Từ đó, sẽ
dẫn đến tâm lý bị lấn át, mặc cảm, tự ti, và sâu xa hơn ảnh hưởng tiêu cực đến chiến
lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của chính phủ.
- Ví như, nhiều người với nhận định chủ quan và phiến diện, đã phê phán tục “ăn
trâu” của một số dân tộc ở Tây Nguyên là dã man với động vật, là hành vi triệt tiêu
sức kéo. Họ không tìm hiểu văn hóa Tây Nguyên rằng việc ăn trâu thực chất là tập
tục hiến sinh lâu đời này gắn liền với những giá trị thiêng liêng và nhân văn, là sự
gửi gắm những khát vọng về mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, mong cầu sức
khỏe và ý thức cố kết cộng đồng.
Một số lễ hội cổ truyền được ngành văn hóa các cấp phục dựng với những kịch bản
sơ sài, sai sót về kiến thức dân tộc học, chắp nối và lẫn lộn văn hóa các sắc tộc. Tại
các sự kiện này, nhiều già làng, trí thức và đồng bào DTTS có ý kiến phản biện
nhưng hầu hết không được ghi nhận. Việc của những người tổ chức hình như chỉ là
giải ngân và ghi hình tư liệu báo cáo, mà không quan tâm đến những phản ảnh trên.
Hay như sự kiện năm 2018, lãnh đạo xã Pà Cò (huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) đã
“nhiệt tình” ban hành một văn bản thông báo cộng đồng người Mông bỏ tết riêng
mà sẽ cùng ăn Tết Nguyên Đán chung với người Kinh. Xét về yếu tố hành chính,
việc làm này ít nhiều có ý nghĩa tích cực, nhưng từ góc độ văn hóa thì đó là một ứng
xử chưa thực sự khoa học, phù hợp. Gộp tết, có nghĩa là mất tết, cũng là dấu hiệu
làm phai nhạt, dẫn đến triệt tiêu nhiều giá trị văn hóa tinh thần…
Những sai sót trong sự kiện văn hóa dân tộc từ nhỏ nhặt đến nghiêm trọng hơn, sự
bất cẩn trong tìm hiểu sự khác nhau giữa các nền văn hóa, thái độ kỳ thị, phân biệt
một số nền văn hóa tạo ra sự xa cách giữa các dân tộc, khiến các dân tộc mất dần sự
đoàn kết, giúp đỡ, yêu thương lẫn nhau. Và tất nhiên, nếu tình trạng này tiếp tục kéo
dài mà không có giải pháp khắc phục, Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.
*Giáo dục
Sự chênh lệch về giáo dục giữa các dân tộc ở Việt Nam hiện nay có ảnh hưởng đáng
kể đến việc xây dựng khối đại đoàn kết.
Đầu tiên, sự chênh lệch này có thể gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội, làm tăng
khoảng cách giữa các dân tộc và gây ra sự phân hoá và xung đột. Các dân tộc gặp
khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục có thể phải đối mặt với tình trạng thiếu kiến
thức và kỹ năng, làm cho họ khó thể tham gia vào các hoạt động xã hội và kinh tế
cùng với dân tộc khác. Khiến sợi dây kết nối giữa các dân tộc trở nên mỏng manh.
Hai là, sự chênh lệch về giáo dục cũng có thể làm suy giảm cơ hội phát triển cá nhân
và tạo ra sự mất cân bằng trong việc cạnh tranh trên thị trường lao động. Điều này
có thể dẫn đến việc các dân tộc gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội nghề
nghiệp và phát triển kinh tế cá nhân, góp phần làm gia tăng sự bất bình đẳng và
xung đột trong xã hội. Hiển nhiên trong bối cảnh thời đại công nghệ hiện đại như
hiện nay người lao động không chỉ cạnh tranh gay gắt với nhau mà còn với AI, công
nghệ. Các doanh nghiệp sẽ ưu tiên tuyển dụng những cá nhân có trình độ học vấn
cao, có chuyên môn nghề nghiệp. Xét như vậy, những cá nhân không có cơ hội tiếp
cận nền giáo dục toàn diện, không được đào tạo chuyên sâu ở một số dân tộc ít
người dường như đã thua ngay từ vòng đầu. Chênh lệch trong trình độ giáo dục tạo
ra sự đào thải nghiêm trọng, bất công với một bộ phận người dân tộc, tạo ra sự bất
mãn cho họ, có xu hướng gây ra gánh nặng cho khoản chi nhà nước với các vấn đề
xã hội. Theo lẽ đó, sự khác biệt trong trình độ giáo dục ảnh hưởng lớn đến việc nhà
nước thực hiện chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Nguy cơ sâu xa của sự chênh lệch trình độ của các dân tộc ảnh hưởng đến chiến
lược xây dựng khối đại đoàn kết là do sự chênh lệch trong giáo dục. Trình độ giáo
dục không ngang nhau từ các cấp mầm non, đến tiểu học, THCS, THPT dẫn đến
một dây chuyền tiếp tục mất cân xứng ở bậc đại học và sau đại học. Thực tế, ở các
thành phố lớn, ngay từ bậc mầm, tiểu học non trẻ con đã được tiếp xúc với nền giáo
dục hiện đại, tiếp cận với ngoại ngữ. Trái lại ở các dân tộc ít người, dân tộc vùng
sâu, vùng xa nhiều nơi vẫn đang dừng ở việc vận động trẻ đến lớp, đến trường, và
tình trạng này có xu hướng tiếp tục diễn ra ở các bậc học cao hơn, nhiều em chỉ học
hết cấp 2, cấp 3 đã nghỉ học và tham gia thị trường lao động. Như vậy, khả năng tiếp
nhận tri thức khác nhau, kiến thức sách vở tích lũy khác nhau, khả năng tiếp nhận sự
truyền đạt tri thức từ giáo viên khác nhau, dẫn đến trình độ giáo dục cũng có sự
chênh lệch lớn.
Không chỉ là giáo dục về tri thức, nhiều trẻ do không nhận được sự quan tâm, định
hướng từ gia đình, nhà trường...nên đã có những suy nghĩ lệch lạc, suy đồi đạo đức,
phản ánh tình trạng giáo dục đạo đức, nhân cách chưa thực sự được quan tâm trong
một bộ phận dân tộc ở Việt Nam. Tất nhiên phân tích như vậy không đồng nghĩa là
tất cả trẻ dân tộc ít người đều như vậy, nhưng phải nhìn nhận rằng đây vẫn là thực
trạng nhức nhối. Việc chênh lệch lớn trong trình độ giáo dục giáo dục lẫn nhân cách
là vấn đề cần được quan tâm giải quyết hàng đầu nếu chính phủ muốn thực hiện
hiệu quả chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Chênh lệch trình độ giáo dục còn ảnh hưởng đến việc tiếp nhận tư tưởng, triển khai
của Đảng và Chính phủ, tác động đặc biệt tiêu cực đến quá trình triển khai chiến
lược xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt Nam. Cụ thể, khi một bộ phận dân tộc
không có sự tiếp cận đúng đắn về tư tưởng của Đảng, trình độ giáo dục kém, họ sẽ
dễ bị thao túng, lừa gạt bởi những cá nhân phản quốc, bởi tàn dư của Việt Nam
Cộng Hòa. Từ đó, họ có hành vi chống phá tổ quốc, phản đối những chính sách của
nhà nước. không đồng lòng thực hiện chính sách về xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc của Chính phủ Việt Nam.
Chương III: Giải pháp
3.1. Đánh giá về những biện pháp trước đó của Nhà nước
Tại Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các
dân tộc, nó có những ảnh hưởng nhất định đến chiến lược xây dựng khối đại đoàn
kết các dân tộc. Bình đẳng dân tộc là mục tiêu quan trọng để nhà nước Việt Nam
khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc trên các lĩnh vực
khác nhau. Vì vậy để chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam
có thể đạt được thành công, Chính phủ đã đưa ra một số giải pháp:
* Về kinh tế: Tạo điều kiện, cơ hội cho các dân tộc thiểu số có sự phát triển đồng
đều về trình độ kinh tế, về phương thức, cách thức sản xuất, thu nhập, điều kiện ăn,
mặc, ở, đi lại; làm cho đời sống và sự sinh tồn của đồng bào các dân tộc được bảo
đảm và miền núi tiến kịp miền xuôi… Phải quan tâm giúp đỡ đồng bào các dân tộc
thiểu số phát triển về kinh tế để nâng cao đời sống đồng bào, từng bước khắc phục
sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các tộc người, giữa các vùng, miền.
* Về chính trị: Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đều cùng có quyền
lợi và nghĩa vụ như nhau, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, tôn giáo, đảng
phái, giàu nghèo... tất cả đều có quyền làm chủ Nhà nước, quyền bầu cử và ứng cử
vào các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương theo quy định của pháp
luật.
* Về văn hoá - giáo dục: Nâng cao trình độ học thức cho các dân tộc trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam nói chung bằng việc đẩy mạnh học bổ túc văn hoá, tiến hành
tốt công tác xóa nạn mù chữ, nâng cao hệ thống giáo dục cho các dân tộc thiểu số,
xóa bỏ mê tín, hủ tục, tập quán lạc hậu,... Đồng thời tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hoá, ngôn ngữ, phong tục, tập quán truyền thống của các
dân tộc.
* Về xã hội: Tôn trọng, không phân biệt giữa các dân tộc ở nước ta và tạo điều kiện
để những yếu tố tích cực trong thiết chế xã hội truyền thống của các dân tộc được
giữ gìn, phát triển phù hợp với những thiết chế xã hội mới. Đồng thời, khắc phục,
loại bỏ những yếu tố lạc hậu, tiêu cực trong các thiết chế xã hội truyền thống, trong
nội bộ dòng họ, thân tộc, cũng như quan hệ với các dòng họ cùng cư trú trên một địa
bàn. Giải quyết những vấn đề bức xúc ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi đang
đặt ra như: Xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, phòng chống các
tệ nạn xã hội, vệ sinh phòng bệnh, giao thông được thông suốt giữa miền núi và
miền xuôi.
* Về quốc phòng - an ninh: Mọi người đều phải góp phần vào việc củng cố quốc
phòng và giữ gìn trị an để nhân dân được yên vui sản xuất, xây dựng nước nhà. Các
dân tộc động viên con em mình thực hiện nghĩa vụ quân sự, giúp đỡ bộ đội bảo vệ
Tổ quốc kể cả trong thời bình như hiện nay.
3.1.1. Thành tựu của những giải pháp, chính sách trước đó
* Về kinh tế:
Tỷ lệ hộ nghèo tại các địa phương vùng dân tộc và miền núi giảm dần trong giai
đoạn 2020 - 2022:
- Năm 2020: Tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn
2016 - 2020 là 3,16%. Vùng dân tộc thiểu số và miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn
bình quân chung cả nước:
Vùng Tây Nguyên: 14,28%.
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc: 10,71%.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: 5,83%.
- Năm 2021: Tỷ lệ hộ nghèo tại các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi
cũng giảm:
Vùng Tây Nguyên: 12,23%.
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc: 9,22%.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: 4,89%.
- Năm 2022: Tỷ lệ hộ nghèo tại các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi
tiếp tục giảm:
Vùng Tây Nguyên: 10,61%.
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc: 7,83%.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: 4,21%
Thu nhập bình quân đầu người của người dân ở các địa phương vùng dân tộc và
miền núi tăng bình quân 7%/năm trong giai đoạn 2020 - 2023. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, cụ thể :
 Tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng khu vực công nghiệp và
dịch vụ tăng lên.
 Phát triển các ngành kinh tế có lợi thế của địa phương như du lịch,...
* Về chính trị:
- Tham gia bầu cử, ứng cử:
Tỷ lệ cử tri đi bầu cử ở các địa phương vùng dân tộc và miền núi (DTTS và MN)
luôn cao. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026: Tỷ lệ cử tri đi bầu cử ở vùng DTTS và MN đạt trên 99%. Nhiều người
dân DTTS và MN được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
- Tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội:
 Người dân DTTS và MN tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội như
Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị
- xã hội khác.
 Tham gia vào các hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp.
 Tham gia vào các cuộc giám sát, phản biện xã hội.
 Năm 2023:
 95% số xã ở vùng DTTS và MN có Ủy ban MTTQVN và các tổ chức chính
trị - xã hội hoạt động hiệu quả.
 80% số hộ dân ở vùng DTTS và MN tham gia vào các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương.
 90% số làng, bản ở vùng DTTS và MN có hương ước, quy ước, nội quy đảm
bảo an ninh, trật tự.
*Về văn hoá - giáo dục:
- Giáo dục:
 Năm 2021: Tỷ lệ xóa mù chữ mức độ 1 ở các địa phương vùng dân tộc và
miền núi đạt 98,2%, mức độ 2 đạt 96,5%.
 Năm 2022: Tỷ lệ xóa mù chữ mức độ 1 đạt 98,5%, mức độ 2 đạt 97%.
 Năm 2023: Tỷ lệ xóa mù chữ mức độ 1 đạt 98,8%, mức độ 2 đạt 97,3%.
- Văn hoá
 Đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng cao một bước,
văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và phát
huy. Hệ thống phát thanh, truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi không
ngừng phát triển.
 Nhờ có sự phát triển bùng nổ của các phương tiện truyền thông xã hội, một số
dân tộc thiểu số đã tham gia hoặc đứng ra tổ chức các sự kiện văn hóa có quy
mô quốc gia, quốc tế. Sự kiện “Giao lưu văn hóa Thái Việt Nam lần thứ nhất”
được tổ chức tại Hà Nội năm 2017 vừa quy tụ được đông đảo cộng đồng
người Thái ở Việt Nam, vừa có sự tham gia của các đoàn người Thái đến từ
Thái Lan, Lào… Bên lề các sự kiện, như “Ngày hội văn hóa Thái toàn quốc”
năm 2019 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, “Lễ hội Xòe Mường
Lò” các năm 2018, 2019… đều có sự tham gia của cộng đồng người Thái
Đông Nam Á. Lễ hội Gầu Tào của người Mông ở Pha Long, tỉnh Lào Cai
cũng thu hút được nhiều người Mông ở một số nơi trên thế giới. Năm 2023,
90% số lễ hội truyền thống của các dân tộc ở vùng DTTS và MN được tổ
chức thường xuyên, 80% số làng nghề truyền thống ở vùng DTTS và MN
được duy trì và phát triển, 95% số di tích lịch sử, văn hóa ở vùng DTTS và
MN được bảo vệ và phát huy giá trị.
* Về xã hội:
 Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư, hỗ trợ kinh phí nhằm phát triển kinh tế -
xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, với tổng kinh phí: giai đoạn 2003 -
2008 là khoảng 250.000 tỷ đồng, giai đoạn 2011 - 2015 là 690.000 tỷ đồng,
giai đoạn 2016 - 2020 là 998.000 tỷ đồng. Nguồn lực đầu tư đó được tập
trung vào xây dựng hàng vạn công trình kết cấu hạ tầng (đường giao thông,
công trình thủy lợi, hệ thống điện, công trình nước sạch, trường học, lớp học,
trạm y tế, nhà văn hóa, trung tâm cụm xã...);
 Nhờ đó, vùng đồng bào DTTS và miền núi có bước chuyển biến căn bản, góp
phần cùng cả nước giải quyết cơ bản vấn đề đói, nghèo (tỷ lệ hộ nghèo giảm
3-4%/năm); kinh tế tăng trưởng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
từng bước được cải thiện, an sinh xã hội được bảo đảm.
 Cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ; dần hình thành các vùng sản xuất nông - lâm nghiệp hàng
hóa: cà phê, chè, cao su, tiêu, cây dược liệu, cây lấy gỗ và sản phẩm ngoài
gỗ…
 Kết cấu hạ tầng vùng đồng bào DTTS và miền núi từng bước được hoàn
thiện; các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa ngày càng phát triển; bảo đảm quốc
phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội từng vùng, từng khu vực.
 Hiện nay, có 94,8% xã có đường ô-tô đến trung tâm xã; trên 98% hộ DTTS
được sử dụng điện lưới quốc gia, 100% xã có trường, lớp mầm non, trường
tiểu học, trung học cơ sở; 99,3% xã có trạm y tế; trên 90% xã được phủ sóng
phát thanh, truyền hình.
* Về quốc phòng - an ninh:
- Về an ninh:
 Ổn định tình hình: Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để
xảy ra các vụ việc phức tạp, kéo dài.
 Phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm: Tỷ lệ tội phạm giảm,
nhất là các loại tội phạm nguy hiểm, nghiêm trọng (tội phạm ma túy, buôn
lậu,..).
 Tăng cường công tác quản lý địa bàn: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự trên địa bàn.
 Xây dựng lực lượng an ninh nhân dân: Nâng cao chất lượng, trình độ, hiệu
quả hoạt động của lực lượng an ninh nhân dân.
- Về quốc phòng:
 Nâng cao ý thức quốc phòng toàn dân: Đồng bào các dân tộc thiểu số và miền
núi ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quốc phòng.
 Xây dựng tiềm lực quốc phòng: Tăng cường củng cố hệ thống phòng thủ, xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh.
 Bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo: Nâng cao hiệu quả bảo vệ chủ quyền
biên giới, biển đảo, phòng chống các hoạt động xâm lấn, vi phạm chủ quyền.
3.1.2. Hạn chế
* Về kinh tế:
Mặc dù kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có bước phát triển
mạnh nhờ các biện pháp thúc đẩy kinh tế của nhà nước trong những năm qua, bộ
mặt nông thôn miền núi có nhiều đổi thay tích cực. Nhưng do xuất phát điểm trung
bình của các vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, đồng thời địa hình chia cắt,
cơ sở hạ tầng thấp kém (như giao thông, thủy lợi, điện, trường học,...), địa hình gây
khó khăn cho việc xây dựng cơ sở vật chất khí hậu khắc nghiệt, các tác động tiêu
cực của biến đổi khí hậu, thiên tai,... nên việc việc phát triển kinh tế cản trở. Bên
cạnh đó, hệ thống các chính sách phát triển chưa đồng bộ, cơ chế thực thi còn thiếu
sự đổi mới mang tính đột phá, văn bản hướng dẫn của một số Bộ, ngành về địa bàn
thực hiện chính sách có điểm chưa thống nhất, chưa phù hợp với tình hình thực tế.
Ngân sách địa phương chưa tự cân đối được, chủ yếu nhận hỗ trợ ngân sách từ
Trung ương, khó có thể lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chính sách
dân tộc, trong khi đó ngân sách Trung ương chưa bố trí được nguồn vốn riêng để
thực hiện một số chính sách, do vậy không đạt được mục tiêu các đề án, chính sách
đã được phê duyệt.
Phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo trình độ phát triển còn nhiều bất cập;
định mức đầu tư còn thấp (về cơ sở hạ tầng, một năm xã 135 được đầu tư 1 tỷ đồng,
thôn đặc biệt khó khăn được đầu tư 200 triệu đồng); chưa có dòng ngân sách riêng
để thực hiện chính sách dân tộc, do vậy đề án, chính sách nhiều nhưng thiếu nguồn
lực thực hiện nên chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Việc chậm, muộn trong phân bổ vốn làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chương
trình và công tác tác thực hiện các chính sách dân tộc; cơ chế phối hợp thực hiện
một số chương trình, đề án, chính sách dân tộc còn bất cập.Việc thực hiện Quyết
định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách
xã khu vực III, khu vực II, khu vực I vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
giai đoạn 2021-2025 gặp khó khăn do có tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo được tính tại thời
điểm 31/12/2019 theo quy định tại khoản 3, Điều 10 Quyết định số 33/2020/QĐ-
TTg ngày 12/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân định vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển giai đoạn 2021 - 2025.
Việc tổ chức thực hiện các chính sách trên vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn tản
mạn, có nội dung chồng chéo, chưa được hệ thống hóa và chưa có tính đột phá, có
chính sách chưa được ban hành; nhiều đầu mối quản lý, theo dõi, tổ chức thực hiện
trên cùng địa bàn; công tác phối hợp giữa các Sở, ngành trong xây dựng và phân bổ
nguồn lực, kiểm tra đánh giá của một số chính sách chưa chặt chẽ.
Kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp chưa mang tính hàng hóa, đời
sống của đồng bào dân tộc thiểu số chưa thực sự đảm bảo và thiếu tính bền vững,
chưa có nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội. Tỷ lệ nghèo giảm nhưng nguy cơ
tái nghèo cao, chất lượng nguồn nhân lực thấp, đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập;
khoảng cách phát triển kinh tế giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn trong đồng bào
dân tộc thiểu số và giữa đồng bào dân tộc thiểu số với người Kinh chưa được rút
ngắn.
Mặc dù nhà nước đã tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện đưa các công nghệ tiên tiến trong
nông nghiệp nhưng việc tiếp cận công nghệ chăn nuôi và thông tin thị trường liên
quan đến đầu ra, đầu vào sản phẩm làm ra của người dân chưa thường xuyên, thức
thời, dẫn đến năng suất, chất lượng, giá thành hạn chế, không đảm bảo. Việc phát
triển kinh tế hộ mạnh ai nấy làm, thiếu liên kết hộ, như mô hình chăn nuôi chủ yếu
là nuôi tại nhà số lượng không nhiều, những mô hình chăn nuôi thường sử dụng
thức ăn công nghiệp, ít tận dụng vườn để trồng rau, thiếu kiến thức trong việc hạch
toán kinh tế, thiếu sự trao đổi kiến thức chăn nuôi giữa các hộ, chăn nuôi chủ yếu là
dựa vào kinh nghiệm, việc áp dụng tiến bộ khoa học trong việc phát triển từng mô
hình cụ thể còn yếu. Đối với một số mô hình chăn nuôi hộ gia đình, thời gian nuôi
dài dẫn đến hiệu quả kinh tế chưa cao, thậm chí một số gia đình chăn nuôi chủ yếu
là lấy công làm lời, sử dụng thời gian nhàn rỗi và thức ăn dư thừa hoặc từ hèm rượu
đơn thuần. Đường vào các khu rừng kinh tế, vườn cao su và một số mô hình chăn
nuôi kết hợp với vườn rừng chưa được đầu tư xây dựng; khoảng cách từ nhà đến mô
hình còn khá xa dẫn đến việc đi lại gặp nhiều khó khăn cũng như việc vận chuyển
hàng hóa ra thị trường hoặc vận chuyển về nhà cũng khó khăn,...
* Về chính trị:
Vấn đề ổn định chính trị ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi luôn được thực hiện
tốt; đồng bào các dân tộc luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới, thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu
phá hoại của các thế lực thù địch. Nhưng hiện nay, ở miền núi, vùng đồng bào dân
tộc đang có những khó khăn, thách thức lớn, đó là: kinh tế chậm phát triển, khoảng
cách chênh lệch lớn giữa các vùng, các dân tộc, sự phân hóa giàu nghèo có xu
hướng gia tăng; các thế lực thù địch tìm mọi cách lợi dụng khó khăn về đời sống, tín
ngưỡng của đồng bào để phục vụ cho âm mưu tuyên truyền, kích động nhằm chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, làm mất ổn định trong vùng đồng bào dân tộc. Còn nhiều
hạn chế trong thiết chế xã hội của các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, như: tàn
dư của tâm lý, phong tục, tập quán, luật tục lạc hậu, tính trì trệ, bảo thủ... đang là
những lực cản không nhỏ trong quá trình đổi mới, xây dựng cơ chế mới trong đời
sống, sinh hoạt của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở những vùng sâu, vùng
xa ở Tây Bắc, Tây Nguyên.
Mặc dù đã đề ra nhiều giải pháp củng cố, đổi mới, xây dựng bộ máy chính trị các
cấp vùng dân tộc thiểu số nhưng việc thực hiện phân bổ đội ngũ cán bộ còn gặp
nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Đội ngũ cán bộ ở miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiếu về số lượng, yếu về chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách
mạng trong giai đoạn mới. Đặc biệt đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số lại càng
thiếu và yếu. Cán bộ tại các thôn, bản phần đông lớn tuổi, có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt, nhưng trình độ năng lực còn yếu, tâm lý ỷ lại còn nặng, do đó năng lực
lãnh đạo, điều hành còn nhiều bất cập. Hệ thống chính trị cơ sở ở miền núi, vùng
đồng bào dân tộc chậm được củng cố, hiệu quả hoạt động còn nhiều yếu kém, nhất
là năng lực triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở còn
nhiều lúng túng, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương, trong công tác quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần
chúng. Ở nhiều vùng dân tộc, vai trò của hệ thống chính trị có lúc không rõ ràng,
chưa quy tụ, tập hợp được đồng bào. Tình trạng hoạt động hình thức, thụ động của
các đoàn thể đã làm giảm đáng kể vai trò, vị trí của hệ thống chính trị trong các
phong trào ở địa phương.
* Về văn hóa - giáo dục:
Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tuy đã được
nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp, mức độ tiếp cận các dịch vụ
còn nhiều khó khăn; tỷ lệ được cấp thẻ bảo hiểm y tế cao nhưng tỷ lệ khám, chữa
bệnh bằng thẻ còn thấp, tỷ lệ trẻ em người dân tộc thiểu số suy dinh dưỡng còn cao;
tầm vóc thể trạng người dân tộc thiểu số chưa được cải thiện; dân ca, dân vũ, nhạc
cụ truyền thống của nhiều dân tộc thiểu số chỉ được phục dựng khi lễ hội, ít được
diễn ra trong đời sống hàng ngày. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người dân
tộc thiểu số trong cơ quan nhà nước chưa đảm bảo tỷ lệ theo quy định tại Quyết
định số 402/QĐ-TTg ngày 01 tháng 03 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Chính sách giáo dục cho người DTTS được triển khai theo cách tiếp cận phổ quát
chủ yếu tập trung vào giải pháp kinh tế, gắn với Chương trình xóa đói giảm nghèo
quốc gia, hỗ trợ trực tiếp cho nhóm đối tượng người DTTS sinh sống, có hộ khẩu
thường trú tại vùng đặc biệt khó khăn, theo phân loại của nhà nước là thuộc khu vực
III. Cụ thể, học sinh DTTS vùng III được miễn hoàn toàn học phí, được trợ cấp hằng
tháng theo mức lương cơ bản (40%), tiền nhà ở, được cấp gạo, hỗ trợ ăn ở (đối với
nội trú và bán trú). Cách tiếp cận và các chính sách này, cùng với sự phát triển kinh
tế trong suốt 20 năm qua dường như đã có tác dụng đối với các DTTS có số dân hơn
1 triệu có địa bàn cư trú gần và mức độ hoà nhập cao với nhóm người Kinh – Hoa
như Tày, Thái, Mường, Nùng. Đối với hơn 40 DTTS còn lại, cần có những chính
sách đặc thù khắc phục những bất cập sau.
Thứ nhất, các chính sách quốc gia và cấp địa phương đều tập trung vào hỗ trợ trẻ
DTTS ở các thôn, xã đặc biệt khó khăn (vùng III), trong khi những học sinh DTTS ở
vùng I và II không nhận được hỗ trợ nào. Khảo sát thực địa do một số tổ chức phát
triển, phi chính phủ trong nước và quốc tế thực hiện tại các trường phổ thông trên
địa bàn các tỉnh miền núi như Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, cho thấy tình trạng học
sinh DTTS (ngoại trừ nhóm DTTS rất ít người hưởng chính sách theo Nghị định số
57/2017/NĐ-CP) cư trú giáp ranh giữa vùng II và III, khu vực dân cư thưa thớt, địa
hình hiểm trở, có điều kiện, hoàn cảnh gia đình khó khăn không kém trẻ em ở vùng
3, thậm chí nhà cách xa trường hơn, phải bỏ học giữa chừng. Ngay cả ở các địa bàn
vùng I và II, nhiều hộ gia đình DTTS không có đủ điều kiện kinh tế để chi trả chi
phí học tập bao gồm học phí, sách, vở, quần áo cho 2-3 đứa con trong độ tuổi đi
học. Việc SGK không thể sử dụng lại, phải mua sắm mới hằng năm cũng gây khó
khăn, cản trở đối với việc tiếp tục cho con cái đi học ở các gia đình này. Nhiều
trường phổ thông, cùng với giáo viên nhà trường, phải tổ chức vận động các nguồn
lực từ thiện trong xã hội hoặc tự đóng góp quỹ, hỗ trợ ăn trưa hoặc bán trú cho
nhóm đối tượng học sinh này để duy trì sĩ số và tỷ lệ trẻ đến trường của địa phương.
Do tính chất tự phát, những hoạt động này chỉ có thể là giải pháp tình thế mà không
có tính bền vững.
Bên cạnh đó, trong hơn 10 năm qua, số xã, thôn được công nhận thuộc khu vực III,
khu vực đặc biệt khó khăn, giảm đi đáng kể nhờ hiệu quả của Chương trình 135, từ
2068 xã năm 2012-2015, xuống còn 1935 xã giai đoạn 2016-2020, và chỉ còn 1551
xã trong giai đoạn 2021-2025. Đây là thành tích quan trọng trong công tác xóa đói
giảm nghèo nhưng cũng có nghĩa rằng một số không nhỏ học sinh DTTS rơi khỏi
phạm vi được hỗ trợ trong khi gia đình chưa sẵn sàng chi trả toàn bộ cho việc đi học
khi mọi khoản hỗ trợ bị cắt bỏ.
Tiếp đó, tỷ lệ trẻ DTTS đi học bậc THPT đặc biệt thấp là do việc đi học cấp 3 hay
các bậc cao hơn như dạy nghề, đại học chưa đem lại lợi ích thiết thực cho người
DTTS. Sinh viên DTTS tốt nghiệp đại học, dạy nghề, kể cả các đối tượng đi học
theo chính sách cử tuyển, đối mặt với thất nghiệp, phải làm lao động phổ thông,
không nhận được sự ghi nhận của cộng đồng, không có cơ hội tham đóng góp, xây
dựng cộng đồng bản địa là hiện tượng phổ biến.
Chính sách giáo dục hòa nhập và đa dạng văn hóa
Những nguyên tắc để đảm bảo hoà nhập trong giáo dục cần phải được thể hiện trong
chương trình giáo dục và sách giáo khoa (SGK), theo các chuyên gia của UNESCO
Xét về chương trình giáo dục, Chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 (CTGDPT
2018) có môn tiếng DTTS, bao gồm tiếng Bahnar, Chăm, Khmer, Ê đê, Jrai,
M’nông, Mông và Thái, là một trong các môn tự chọn. Học sinh DTTS phải theo
chương trình chuẩn, trong đó ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Việt, và môn tiếng Việt
cùng với tiếng Anh (ngoại ngữ 1 từ lớp 3) là bắt buộc. Do tiếng Việt không phải là
tiếng mẹ đẻ, nên đây thực chất đều là ‘ngoại ngữ’, buộc các em phải cố gắng rất lớn
để theo kịp bạn bè người Kinh và hòa nhập với môi trường nhà trường được giảng
dạy bằng tiếng Việt chủ yếu bởi giáo viên người Kinh. Vì thế, môn tiếng DTTS tự
chọn không đem lại lợi thế hay lợi ích cho học sinh DTTS mà còn gây bất lợi vì nếu
chọn, các em sẽ phải học ba ngôn ngữ, so với học sinh người Kinh chỉ phải học hai
ngôn ngữ. Hoàn cảnh này đẩy các em buộc phải lựa chọn không học môn tiếng mẹ
đẻ của mình. Hơn nữa, chất lượng dạy – học tiếng DTTS còn nhiều hạn chế do thiếu
sách giáo khoa, giáo viên người Kinh dạy môn tiếng DTTS thiếu hiểu biết về lịch
sử, văn hóa bản địa, tập tục tập quán của người DTTS, làm suy giảm hứng thú học
tập tiếng mẹ đẻ của trẻ DTTS. Đối với một số ngôn ngữ DTTS như tiếng Mông,
việc sử dụng bộ chữ Mông Việt Nam trong nhà trường, thay cho chữ Mông La-tin
(còn gọi là chữ Mông quốc tế) được cộng đồng người Mông sử dụng rộng rãi trong
đời sống là nguyên nhân khiến việc học tiếng Mông trong nhà trường không có ý
nghĩa thiết thực. Phần lớn người Mông tự học chữ Mông quốc tế để giao tiếp, giao
dịch trong cộng đồng.
Cùng với đó, việc không được học bằng tiếng mẹ đẻ ở những năm đầu tiểu học cũng
là một bất lợi lớn khiến học sinh DTTS tụt lại so với bạn bè người Kinh trong học
tập. Các em gặp khó khăn ngay cả trong giao tiếp cơ bản ở lớp học do nhiều giáo
viên không biết tiếng DTTS. Chính kết quả học tập thua kém tích luỹ qua nhiều năm
khiến học sinh DTTS khó có thể tiếp tục theo học ở các bậc học cao hơn, khiến tỷ lệ
học sinh bỏ học tăng cao.
Chính sách ngôn ngữ trong giảng dạy và giáo dục ngôn ngữ như vậy trong trường
phổ thông không những không giúp học sinh DTTS hòa nhập mà còn đẩy các em
ngày càng thua kém, thiệt thòi, và cơ hội hoà nhập càng xa vời hơn, kéo theo việc
duy trì, bảo tồn ngôn ngữ cũng như văn hóa bản địa không thể thực hiện được. Việc
phát triển và triển khai chương trình giảng dạy và bộ SGK của tám ngôn ngữ DTTS
vì giáo dục hòa nhập cho người DTTS và duy trì đa dạng văn hóa là nỗ lực lớn, tốn
kém nhiều nguồn lực nhưng có nguy cơ không đem lại kết quả kỳ vọng.
Chất lượng dạy – học tiếng DTTS còn nhiều hạn chế do thiếu sách giáo khoa, giáo
viên người Kinh dạy môn tiếng DTTS thiếu hiểu biết về lịch sử, văn hóa bản địa,
tập tục tập quán của người DTTS, làm suy giảm hứng thú học tập tiếng mẹ đẻ của
trẻ DTTS.
Về xã hội thì còn tồn tại một số hạn chế về bình đẳng giới; còn tồn tại hủ tục lạc hậu
tảo hôn, tục ma chay cưới xin, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội; lề lối, tác phong,
tập quán canh tác của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn tiềm ẩn nhiều
nguy cơ mất ổn định,...
* Về quốc phòng - an ninh:
Tình hình an ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ bất ổn. Số vụ khiếu kiện, tranh chấp đất đai diễn biến khá phức tạp,
chưa được giải quyết dứt điểm. Công cuộc phòng chống các loại tội phạm về ma túy
(tái trồng cây thuốc phiện, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán ma túy); buôn lậu hàng
hóa; lừa gạt, mua bán người qua biên giới; tàng trữ vũ khí quân dụng; xuất nhập
cảnh trái phép... còn nhiều thách thức; tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp. Hiện
tượng phá rừng, du canh du cư, di cư tự phát vẫn còn diễn ra. Các đối tượng phản
động trong và ngoài nước vẫn chưa từ bỏ âm mưu thành lập các "nhà nước”, “vương
quốc” tự trị; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng để lôi kéo, kích động, gây
mất an ninh, trật tự an toàn xã hội và đoàn kết dân tộc.
Nhờ sự chú trọng trong công tác an ninh - quốc phòng, trật tự trên địa bàn vùng dân
tộc thiểu số và miền núi cả nước trong những năm gần đây nhìn chung ổn định,
không xảy ra vụ việc bất ngờ, đột xuất không có điểm nóng, nổi cộm. Tuy nhiên,
một số nơi vẫn xảy ra tình trạng xuất cảnh trái pháp luật, buôn lậu qua biên giới...
một số vụ việc đã bị các lực lượng chức năng phát hiện bắt giữ, xử lý theo pháp luật.
3.2. Giải pháp đề xuất
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng giải quyết tốt
vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các phương
diện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Tuy nhiên, trong thực
tiễn việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập.
Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết tốt vấn đề dân tộc,
góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm sự ổn định chính trị và
gia tăng nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, Đảng viên và xã hội về vấn đề dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc.
Cán bộ, Đảng viên cần nâng cao nhận thức sâu sắc về công tác dân tộc, vị trí, vai trò
trọng yếu của vùng dân tộc và miền núi của cán bộ các cấp; nâng cao năng lực tham
mưu đề xuất chính sách dân tộc của các Bộ, ngành, địa phương; đẩy mạnh việc tổ
chức thực thi chính sách ở vùng miền núi. Bên cạnh đó cần thống nhất nhận thức, tư
tưởng từ Trung ương tới địa phương về vấn đề dân tộc; về vai trò, trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên và toàn xã hội trong công tác dân tộc, trong đó cán bộ, đảng viên
là lực lượng nòng cốt.
Ngoài ra cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước. Nội dung tuyên truyền phải mang tính toàn diện, tập
trung hướng tới các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS; xóa bỏ tư
tưởng kỳ thị dân tộc cũng như tư tưởng ỷ lại trong một số đồng bào các dân tộc;
khơi dậy lòng tự hào dân tộc; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền và
lồng ghép công tác tuyên truyền với những việc làm, hành động cụ thể, gắn với lợi
ích của đồng bào.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách và pháp luật về vấn đề dân tộc
theo hướng bảo đảm tính toàn diện, hiệu quả, bền vững và công bằng.
Cần thường xuyên rà soát lại hệ thống chính sách dân tộc đang được thực hiện, trên
cơ sở đó kịp thời điều chỉnh, thậm chí loại bỏ những chính sách lỗi thời và bổ sung
những chính sách mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Đồng thời xây dựng
chính sách cần theo hướng các chính sách bao quát được tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội vùng DTTS; không bị chồng chéo và có tác động tương hỗ; nguồn lực
thực hiện chính sách được tính toán đầy đủ và được phân bổ một cách công bằng
cho các đối tượng có điều kiện sống giống nhau.
Đặc biệt, để bảo đảm tính hiệu quả và bền vững, việc hình thành chính sách phải
dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ về đặc điểm dân cư, tộc người, văn hóa, điều kiện
địa lý, tự nhiên, môi trường ở các vùng dân tộc. Xây dựng chính sách theo địa bàn
và trình độ phát triển gắn với xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, trong điều kiện
nguồn lực thực hiện chính sách hạn chế, cần xác định rõ những ưu tiên, trọng điểm
trong xây dựng chính sách, trong đó đặc biệt chú trọng đến chính sách giảm nghèo
gắn với phát triển bền vững; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa của các DTTS.
Thứ ba, phân cấp, phân quyền cho các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Tăng cường quyền tự chủ cho các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của từng dân tộc. Cụ thể
cần chủ động hoạch định kế hoạch phát triển nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng để phát triển trên mọi lĩnh vực, thực hiện xóa đói giảm nghèo,
đảm bảo quốc phòng, an ninh, giữ gìn môi trường sinh thái… trên cơ sở phù hợp với
đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc nhằm giải quyết mối quan hệ
hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững với bảo tồn, giữ gìn và
phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của từng dân tộc, gắn với phát triển du lịch và
dịch vụ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đồng thời giám sát và đánh giá hiệu quả của các giải
pháp, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế mỗi vùng và mỗi dân tộc.
Thứ tư, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong giải
quyết vấn đề dân tộc.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần tích cực tham gia tuyên truyền, vận
động các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách dân tộc; phối hợp với các cấp
chính quyền tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào xóa bỏ tập tục lạc hậu, mê tín dị
đoan, xóa bỏ các tệ nạn xã hội; đi sâu nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân,
quan tâm hơn nữa đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bào, nhất là
đối với những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội như phụ nữ, người già, trẻ em,
người nghèo.
Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, chủ động xây dựng kế hoạch tham gia vào chương trình
phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc phản biện chính sách và giám sát quá trình
thực hiện. Trong tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, Mặt trận, các đoàn thể
nhân dân và chính quyền địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ và cần có biện
pháp thực hiện nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, nhân
tố tích cực trong đồng bào DTTS.
Thứ năm, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào các dân tộc thiểu số
Đảm bảo mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số theo các giai đoạn Chính phủ đã đề ra theo
Nghị quyết số 88, 120 của Quốc hội trên cơ sở lồng ghép với các chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; chương trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo bền vững; chương trình thực hiện mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với
đồng bào dân tộc thiểu số… từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các
vùng, miền nhằm đảm bảo sự bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc. Đặc biệt, tập
trung thực hiện trách nhiệm giám sát Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030
theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg cùng với các Chương trình mục tiêu quốc gia về
giảm nghèo bền vững; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Ngoài ra, trong phát triển kinh tế, cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch, đặc
biệt là các vùng trọng điểm, đi kèm với việc xác định mục tiêu, yêu cầu và các lĩnh
vực kinh tế mũi nhọn, có tính cạnh tranh của từng vùng. Tạo môi trường thu hút các
nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và thực hiện một số chương trình, dự án
phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có lợi thế; hỗ trợ, thu hút đầu tư của
các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và thân thiện với môi trường. Xây dựng
chính sách khuyến khích đồng bào DTTS khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp, vươn lên
làm giàu từ những chuỗi giá trị.
Bên cạnh đó, cần xây dựng các mô hình kinh tế hộ, mô hình trang trại, hợp tác xã
kiểu mới phù hợp với trình độ phát triển và đặc thù từng vùng, đồng thời mở rộng
các mô hình liên kết tiêu thụ sản phẩm nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp
đầu vào. Sắp xếp lại các nông, lâm trường quốc doanh theo hướng hỗ trợ những đơn
vị làm ăn có hiệu quả, thu hút được nhiều lao động là con em đồng bào DTTS và
kiên quyết giải thể những đơn vị làm ăn kém hiệu quả để thu hồi đất sản xuất giao
cho đồng bào quản lý. Tập trung giải quyết tình trạng đồng bào DTTS thiếu đất sản
xuất, trong đó chú ý siết chặt quản lý việc chuyển đổi, mua bán quyền sử dụng đất
sản xuất trong vùng đồng bào DTTS. Ngoài ra, cần đổi mới cách thức hỗ trợ vốn
phát triển sản xuất theo hướng tập trung vào một đầu mối quản lý cũng như bảo lãnh
tín chấp, tránh tình trạng hỗ trợ manh mún.
Trong giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội, cần đổi mới phương thức bảo tồn, phát
huy truyền thống văn hóa của các dân tộc theo hướng gắn bảo tồn và phát huy, chú
trọng bảo tồn động và tính hiệu quả đối với phát triển kinh tế. Đặc biệt, cần phát huy
vai trò chủ thể của người dân trong bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống các dân
tộc. Tăng cường giao lưu và đẩy mạnh quá trình xây dựng văn hóa theo hướng tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và sắc thái tộc người. Trong lĩnh vực giáo dục, cần tập
trung nâng cao chất lượng dạy, học và chống tái mù chữ. Cùng với việc duy trì và
phát triển mạng lưới trường nội trú và các chính sách hỗ trợ đồng bào DTTS, diện
hộ nghèo, cần tổng kết, đánh giá khách quan việc thực hiện chế độ cử tuyển.
Trong lĩnh vực y tế, trước hết cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và xây dựng
đội ngũ y bác sĩ cho các trung tâm/trạm y tế cơ sở để đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám
chữa bệnh của đồng bào. Mặt khác, chỉnh sửa các quy định về sử dụng bảo hiểm y
tế cho hợp lý theo hướng tạo thuận lợi tốt nhất cho đồng bào DTTS. Bên cạnh đó,
xây dựng và thực hiện đề án ngăn chặn suy thoái giống nòi ở một số DTTS có tỷ lệ
hôn nhân cận huyết thống, nạn tảo hôn cao.
Về an sinh xã hội, cần xây dựng mạng lưới an sinh nhiều tầng để hạn chế tình trạng
đói, thiếu lương thực và tái nghèo. Đồng thời, xây dựng quỹ chống rủi ro dành cho
đồng bào DTTS để đáp ứng yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội cho các nhóm dễ bị tổn
thương, những người có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, cần chú trọng giải quyết tốt
các vấn đề xã hội đặc thù trong vùng DTTS như: mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân
liên quan đến tranh chấp đất đai, niềm tin tôn giáo; tình trạng di cư tự do; quan hệ
đồng tộc xuyên biên giới, vv..
Thứ sáu, tăng cường đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc vào mục đích xấu và
đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trong các vấn đề liên quan đến dân tộc thiểu số.
Trong đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc vào mục đích xấu, cần đặc biệt chú
trọng công tác tuyên truyền vận động, giúp đồng bào các DTTS hiểu rõ chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Đẩy mạnh công tác phối hợp xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, miền núi. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù trong việc chia
rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc. Đồng thời, không để xảy ra các “điểm nóng” phức
tạp về an ninh, trật tự, nhất là các địa bàn chiến lược xung yếu như vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện các chính sách dân tộc, qua
đó củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, với chế độ. Thực hiện tốt công tác
nắm bắt tình hình, xây dựng đội ngũ cốt cán và những người có uy tín trong vùng
đồng bào DTTS. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an
ninh quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững
chắc trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với việc nâng cao hiệu quả bảo
đảm quyền của các DTTS, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong các vấn đề liên
quan đến dân tộc, qua đó tạo thế đan xen lợi ích và giúp các nước hiểu rõ chính sách
dân tộc của Việt Nam.
Chương IV : Kết luận
1. Tổng kết
Tinh thần đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam là một giá trị vô cùng quý báu mà
chúng ta đã cùng nhau xây dựng và bảo vệ để đối mặt với những thách thức và khó
khăn của cuộc sống. Đây cũng chính là nguồn động viên, nguồn sức mạnh to lớn để
chúng ta vượt qua mọi thử thách và tiến xa hơn trên con đường phát triển, xây dựng
đất nước. Do đó, sự trường tồn của quốc gia, đất nước phụ thuộc rất nhiều vào tinh
thần đại đoàn kết của toàn dân tộc.
Tuy nhiên, qua những phân tích trên ta có thể thấy, sự chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các dân tộc Việt Nam có những ảnh hưởng rất sâu sắc đến chiến lược xây
dựng khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta. Sự chênh lệch đó chủ yếu thể hiện
qua 3 yếu tố: kinh tế, văn hóa - xã hội và giáo dục. Trên đường đua của sự phát triển
kinh tế thì sự phân hóa giàu - nghèo chính là mối đe dọa khôn lường đến sự ổn định,
bền vững của đất nước. Sự phân hóa này làm trầm trọng thêm các bất bình đẳng xã
hội và mâu thuẫn giữa nhân dân; gián tiếp kéo cơ hội hội nhập, tiếp cận văn minh,
giáo dục giữa các dân tộc vùng miền thụt giảm. Sự chênh lệch giáo dục lại kéo theo
những phân biệt, kỳ thị về văn hóa, con người giữa các dân tộc. Như vậy 3 yếu tố
kinh tế, văn hóa, giáo dục có mối quan hệ tương quan lẫn nhau, yếu tố này là
nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch trong yếu tố kia.
Điều này đòi hỏi, Đảng và Nhà nước ta cần triển khai và ban hành các giải pháp và
chỉ thị cấp thiết, phù hợp và sát sao với tình hình thực tế của các dân tộc để đảm bảo
sự phát triển đồng đều giữa các dân tộc vùng miền nói riêng và cả đất nước nói
chung. Các giải pháp muốn đạt được hiệu quả toàn diện cần có sự phối hợp hành
động của toàn Đảng và toàn nhân dân. Trước hết cần nâng cao nhận thức của các
cán bộ Đảng viên và toàn dân về giải quyết vấn đề chênh lệch trình độ phát triển
giữa các dân tộc. Sau đó tiếp tục hoàn thiện, củng cố và áp dụng hiệu quả các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước để đầu tư phát triển đồng đều về mọi mặt
cho mọi dân tộc trên mọi vùng miền. Quyết tâm đồng lòng đấu tranh chống lại
những thế lực thù địch lợi dụng điểm yếu chênh lệch trình độ nhận thức dân tộc mà
chống phá đất nước ta.
Qua 35 năm đổi mới và phát triển đất nước, Đảng và nhân dân đã chung sức đồng
lòng thu hẹp lại phần nào sự chênh lệch trình độ phát triển giữa các dân tộc. Mặc dù
con đường xây dựng và phát triển đất nước chắc chắn sẽ còn rất nhiều biến động và
sóng gió, tuy nhiên, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ trở thành sợi chỉ đỏ dẫn
đường chỉ lối xuyên suốt chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam và góp phần đưa
đất nước ta phát triển bền vững hơn.
2. Liên hệ bản thân
Thế hệ trẻ chúng ta đang đứng trước một nhiệm vụ quan trọng: góp phần xây dựng
và duy trì khối đại đoàn kết của các dân tộc ở Việt Nam. Đồng thời bản thân sinh
viên chúng ta chính là những chủ nhân tương lai của đất nước có nhiệm vụ giảm bớt
sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc và các vùng miền
*Gìn giữ và phát huy truyền thống đại đoàn kết:
Thế hệ trẻ cần hiểu và tự hào về truyền thống đại đoàn kết của dân tộc. Đây là nền
tảng quý báu, đã giúp Việt Nam vượt qua khó khăn, thách thức trong lịch sử. Bằng
việc học hỏi và kế thừa, thế hệ trẻ có trách nhiệm duy trì và phát triển tinh thần yêu
nước, trọng nhân nghĩa, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau. Bên cạnh đó sinh viên
ngày nay diện cho sự đa dạng về tri thức, tư duy, và quan điểm. Họ có thể đóng góp
ý kiến mới mẻ và sáng tạo giúp giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các dân tộc. Tuy nhiên, để tạo ra sức mạnh, thế hệ trẻ cần có sự hợp tác, chia sẻ, và
đoàn kết với nhau. Không để sự khác biệt chia rẽ, mà hãy biến nó thành nguồn cảm
hứng và sức mạnh.
*Tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước:
Thế hệ trẻ là lực lượng chủ đạo trong việc phát triển kinh tế, xã hội, và văn hóa.
Chúng ta cần không ngừng học tập, rèn luyện, và đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
đất nước. Điều này bao gồm việc học tập, lao động, và tham gia vào các hoạt động
xã hội. Hiện nay rất nhiều bạn trẻ đã không ngại những khó khăn thử thách sẵn sàng
về những nơi vùng sâu vùng xa, có điều kiện hoàn cảnh khó khăn và cơ sở vật chất
thiếu thốn. Để giúp đồng bào và bà con nơi đây phát triển kinh tế, ổn định an sinh xã
hội, góp phần làm giảm sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng miền trên đất
nước.
*Tham gia các hoạt động thực tế đóng góp vào công cuộc xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc
Sinh viên tham gia các phong trào thi đua yêu nước, hoạt động tình nguyện, hỗ trợ
phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn.
Sinh viên tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về ý nghĩa của đại
đoàn kết dân tộc, đấu tranh chống lại mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối
đại đoàn kết. Không ngừng nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng, kiến thức, đặc biệt
là học ngoại ngữ để giao tiếp, học hỏi kinh nghiệm phát triển từ các nước khác, dân
tộc khác.
Trong thời đại bùng nổ mạng xã hội và các phương tiện truyền thông. Sinh viên là
thế hệ đi đầu trong việc sử dụng hiệu quả các kênh truyền thông xã hội để lan tỏa
thông điệp về đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc.
*Tư duy đổi mới và sáng tạo:
Thế hệ trẻ còn là những người có khả năng tư duy năng động và sáng tạo. Họ có thể
đưa ra giải pháp mới để khắc phục những vấn đề hiện tại. Việc khai thác tư duy của
bản thân mỗi chúng ta cần tạo ra những giải pháp hợp lý và hiệu quả là một phần
quan trọng của chiến lược xây dựng đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
*Tự hào và trách nhiệm với quê hương:
Thế hệ trẻ cần có ý thức về trách nhiệm với quê hương. Họ không chỉ là người tiếp
nhận, mà còn là người xây dựng và bảo vệ. Mỗi người chúng ta cần nhận thức sâu
sắc về tinh thần tự hào về dân tộc, tình yêu nước, và ý thức xây dựng đất nước là
động lực để thế hệ trẻ đóng góp cho sự phồn thịnh và hạnh phúc của Việt Nam.

Linh tham khảo tài liệu


https://www.bandantoc.kontum.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/Mot-so-kho-khan,-bat-
cap-trong-thuc-hien-chinh-sach-dan-toc-tren-dia-ban-tinh-Kon-Tum--De-xuat-giai-
phap-khac-phuc-2669
https://tapchimattran.vn/van-hoa-xa-hoi/phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-bao-
dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-va-nhung-kho-khan-thach-thuc-48643.html
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-
nuoc/-/2018/16936/xay-dung-va-phat-huy-vai-tro-cua-he-thong-chinh-tri-co-so-o-
vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so.aspx
https://tiasang.com.vn/giao-duc/giao-duc-cho-tre-dan-toc-thieu-so-bat-cap-va-can-
tro/
http://dttg.ubdt.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/mot-so-ket-qua-dat-duoc-trong-bao-
dam-quoc-phong-an-ninh-o-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui.htm
http://truongchinhtrils.vn/node/1293
https://chinhsachcuocsong.vnanet.vn/dai-doan-ket-toan-dan-toc-tien-de-va-dong-
luc-phat-trien-dat-nuoc/25480.html
http://tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/phat-huy-truyen-thong-suc-
manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-xay-dung-dat-nuoc-giau-manh-phon-/21570.html
http://tapchiqptd.vn/vi/ky-niem-79-nam-ngay-thanh-lap-qdnd-viet-nam-34-nam-
ngay-hoi-qptd-2212/phat-huy-suc-manh-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc-trong-su-
nghiep-quoc-phong-bao-ve-to-quoc/21157.html

You might also like