You are on page 1of 7

1

PHẦN DÀNH CHO CÁN BỘ CHẤM THI


Họ và tên cán bộ chấm thi:
Điểm đã chấm thành phần theo từng câu:
Câu 1: … điểm
Câu 2: … điểm
…..
Tổng điểm toàn bài: … điểm (Điểm bằng chữ: … )
Nhận xét chung nếu có: ……………………………………….……………….……

--------------------------------------------------------------------------------------------------------

PHẦN DÀNH CHO SINH VIÊN LÀM BÀI


(Sinh viên điền thông tin phía dưới và lưu ý không được đặt tên File bài làm có dấu, nhớ thường
xuyên lưu file và cuối giờ nộp bài trên hệ thống LMS.
Cú pháp đặt tên File: MSSV-HOVATEN, Ví dụ đặt tên file: 1556010001-NGUYENVANBINH)
Họ và tên sinh viên: NGUYỄN NGỌC THIÊN HƯƠNG
Mã số sinh viên: 2056110061
Môn thi: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã đề thi nếu có: Đề số 2

BÀI LÀM
(Sinh viên gõ, đánh máy trực tiếp phần trả lời bằng tiếng Việt có dấu, cỡ chữ 13 ở phía dưới)

Đề: Phân tích cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cho biết, trong các nội
dung ấy, nội dung nào là quan trọng nhất. Trình bày khái quát sự vận dụng cương lĩnh
ấy của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay?

Vấn đề dân tộc luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội của mỗi
quốc gia có một hay nhiều tộc người cả trong lịch sử và trong thế giới hiện đại. Nó ảnh
hưởng đến sự ổn định, tồn tại và phát triển của nhà nước, thể chế chính trị ở quốc gia đó
nếu không được giải quyết đúng đắn. Ở Việt Nam cũng  vậy, là một đất nước đa dân tộc
với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên mọi miền của tổ quốc, các vấn đề về dân tộc
luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và dành sự quan tâm đúng mực, nhất là trong
thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay.
 Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân
tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc,
bộ lạc, bộ tộc. Đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong
đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất.
2

      Nghĩa thứ nhất, dân tộc chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về văn hóa; xuất hiện
sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và
thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc
là bộ phận của quốc gia. Ví dụ: dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Mường,…

        Nghĩa thứ hai, dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nân dân một
nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn
hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Với
nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó, ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc 
Lào, dân tộc Trung Hoa,…

* Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin.

      Dựa trên thực tiễn tình hình các dân tộc trên thế giới, mối quan hệ dân tộc trên thế
giới và dựa trên thực tiễn tình hình dân tộc ở nước Nga lúc bấy giờ, Lenin đã nêu ra
Cương lĩnh dân tộc bao gồm các nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc theo cả góc độ
mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc cũng như theo cả góc độ mối
quan hệ dân tộc quốc tế.

Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

- Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc đầu tiên trong Cương lĩnh dân tộc của
V.I.Lenin. Đây là quyền thiêng liêng, quyền chính đáng của các dân tộc, mà ở đó mọi dân
tộc (kể cả bộ tộc và chủng tộc) dù lớn hay nhỏ, dù đông người hay ít người, dù phát triển
ở trình độ cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, được tôn trọng và đối
xử như nhau trên mọi lĩnh vựa đời sống xã hội hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân
tộc dù lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao thấp đều
có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau, không dân tộc nào có đặc quyền đặc lợi và đi áp bức
các dân tộc khác. Quyền bình đẳng của các dân tộc không những được ghi vào công pháp
3

quốc tế, luật pháp quốc gia mà hơn hết là phải được thực hiện ở mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội.

        Trong quốc gia có nhiều dân tộc, pháp luật phải bảo vệ quyền bình đẳng giữa các
dân tộc, từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc.

     Trên phạm vi giữa các quốc gia, dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân
tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đấu
tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát
triển với các nước chậm phát triển.

Đây là nội dung qua trọng nhất trong Cương lĩnh dân tộc của Mác Lenin. Vì bình
đẳng chính trị cũng là quyền của các dân tộc, tộc người. Mà bình đẳng về chính trị đóng
vai trò là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và là cơ sở để thực hiện quyền bình đẳng trên các
lĩnh vực khác trong quan hệ giữa các dân tộc. Đối với các dân tộc bị áp bức, bị lệ thuộc,
đấu tranh giành quyền bình đẳng về dân tộc, chính là điều kiện để có bình đẳng trên các
phương diện khác của đời sống xã hội. Mọi biểu hiện của tư tưởng dân tộc cực đoan, sô
vanh nước lớn, sự kỳ thị, phân biệt, đối xử giữa các dân tộc – tộc người; mọi biểu hiện
nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc đều vi phạm quyền bình
đẳng chính trị của các quốc qia, dân tộc. Như vậy, bình đẳng về chính trị là quyền của
mỗi dân tộc tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm: quyền lựa chọn chế độ,
con đường phát triển của dân tộc mình, quyền quyết định chính sách dân tộc mình trong
lĩnh vực quan hệ với các dân tộc khác.

Thứ hai, các dân tộc có quyền tự quyết.

      Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân
tộc mình, các dân tộc tự do lựa chọn con đường phát triển, lựa chọn chế độ chính trị trong
quá trình vận động, phát triển của dân tộc mình.

Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân
tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng để có
4

đủ sức mạng chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có
thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gai dân tộc.

Thứ ba, liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc lại.

      Đây là tư tưởng cơ bản và quan trọng trong cương lĩnh dân tộc của Lênin. Khi chủ
nghĩa tư vản trở thành lực lượng quốc tế, đòi hỏi giai cấp công nhân của các dân tộc phải
đoàn kết với nhau trở thành một liên minh quốc tế. Nó phản ánh bản chất quốc tế của
phong trào công nhân, phản ánh sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng
giai cấp, nó đảm bảo cho dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.

      Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để chống
chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dụng liên hiệp giai cấp
công nhân giữa tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh
thành một chỉnh thể. Nội dung này phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên
tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau, liên kết các lực lượng yêu chuộng
hòa bình trên thế giới.

Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của Chủ nghĩa Mác Lenin là một bộ phận trong cương
lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc
của Đảng Cộng sản và Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

* Sự vận dụng Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là vận dụng Cương lĩnh dân
tộc của Lênin đồng thời xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã xem vấn đề dân tộc và
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng hàng đầu. Như chúng ta đã biết,
Việt Nam là một quốc gia độc lập, một quốc gia đa sắc tộc với 54 dân tộc anh em cùng
chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 87% trong
tổng số dân cả nước. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu sống tại miền núi, vùng
5

sâu, vùng xa, và cả vùng biên giới - địa bàn quan trọng, có vị trí chiến lược trong phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Hơn nữa trình độ phát triển về văn
hóa xã hội giữa các dân tộc có sự chênh lệch nhau rất lớn và đời sống kinh tế từng vùng
cũng khác nhau rất xa, từ đó dẫn đến đời sống văn hóa, xã hội, chính trị … có sự cách
biệt. Dù vậy, người Việt Nam ta vẫn sớm đoàn kết lại, hợp thành sức mạnh để chống
chọi, khắc phục thiên nhiên và đuổi ngoại xâm, bảo vệ độc lập quốc gia, chủ quyền dân
tộc. Đây là đặc điểm bao trùm, nổi bật và đáng tự hào nhất của dân tộc Việt Nam. Sự đan
xen giữa các tộc người khác nhau đã tạo nên nét văn hóa đa dạng, phong phú trong lối
sống, văn hóa, phong tục tập quán của người Việt ta. Mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng, một
số dân tộc ít người có cả chữ viết riêng, nhưng đều lấy tiếng Việt làm phương tiện ngôn
ngữ giao tiếp thống nhất chung. Do những đặc điểm trên nên các dân tộc Việt Nam có sự
hợp tác, gắn bó nhau trong một cộng đồng dân tộc, trong một Tổ quốc Việt Nam thống
nhất. Song từ xưa đến nay, vấn đề dân tộc luôn là vấn đề rộng lớn, phức tạp và lâu dài,
cần phải xem xét nó như là vấn đề chính trị, xã hội rộng lớn, toàn diện gắn liền với mục
tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn xem vấn đề dân tộc
là vấn đề quan trọng có tính chiến lược, là yếu tố phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác
mọi tiềm năng của các thành phần dân tộc trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay trên tinh thần “đại đoàn kết dân tộc”. Từ cương
lĩnh đầu tiên của Đảng ta, qua các thời kỳ cách mạng và ngày nay xây dựng đất nước đi
lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
xác định: Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay là ra sức tăng cường khối đoàn kết không gì lay chuyển nổi giữa các dân
tộc trong cả nước, phát huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính sách dân tộc của
Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện
cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc
thiểu số với dân tộc đa số, đưa miền núi phát triển toàn diện làm cho tất cả các dân tộc
tiến bộ, cùng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, cùng làm chủ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Chẳng những thế mà các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ V, VI đã đặt ra vấn đề đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc, được cụ
thể hóa tại Nghị quyết 22/NQTW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị và Quyết định
6

72/HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng đề ra những chủ trương chính sách
lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Các chương trình 135, chương trình xóa đói
giảm nghèo, các chương trình điện, đường, trường, trạm để phát triển giao thông giữa các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thuận lợi hơn, đưa điện lưới quốc gia về tận các vùng
đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho con em và đồng bào dân tộc được khám
chữa bệnh và đến trường…Hơn nữa còn đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát
triển văn hóa, tư tưởng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc. Tôn trọng phong tục,
tập quán, tín ngưỡng, truyền thống và bản sắc văn hóa các dân tộc. Thực hiện dân chủ
hoá xã hội giữa các vùng dân tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một
cách quan liêu mệnh lệnh làm mất khả năng sáng tạo của quần chúng các dân tộc. Trong
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, nêu lên chính sách dân tộc thời kỳ
1996-2000... “ Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết
tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Xây dựng Luật Dân tộc. Từ nay đến năm 2000 bằng nhiều biện pháp tích cực và
vững chắc, thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ yếu: xóa được đói, giảm được nghèo, ổn
định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào dân tộc, đồng bào vùng cao,
vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa
tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ đảng viên của các
dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và vững mạnh” Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước
ta còn có chính sách đối ngoại về vấn đề dân tộc. Với nội dung tư tưởng là: Việt Nam sẵn
sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, cả song phương, đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và cùng có lợi. Đặc biệt, Việt Nam tăng cường mở
rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực trên tinh thần láng giềng thân thiện, cởi
mở. Tham gia tích cực vào tổ chức ASEAN, tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào
nội bộï của nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đại
đoàn kết dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra Chiến
lược lâu dài về vấn đề dân tộc. Vì vậy, tình hình dân tộc của nước ta hiện nay tốt đẹp hơn
bao giờ hết, các dân tộc đang cùng đồng bào cả nước phát triển tiến bộ vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đồng thời, nhà nước ta đang huy động
7

mọi nguồn lực làm cho miền núi và vùng dân tộc phát triển nhanh hơn, thu hẹp khoảng
cách chênh lệch về mọi mặt giữa vùng đồng bào dân tộc với các vùng khác. Từ đó, càng
khẳng định cho chân lý mãi sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không
bao giờ thay đổi”.

You might also like