You are on page 1of 14

NỘI DUNG ÔN TẬP MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Số tín chỉ: 2
Đối tượng: Sinh viên ĐHQGHN
Chú ý: đây là nội dung ôn thi chứ không phải là câu hỏi thi

1. Giai cấp công nhân: khái niệm, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1.1. Khái niệm "giai cấp công nhân"
- Giai cấp công nhân ("GCCN") là chủ thể và là sản phẩm xã hội của nền đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa. GCCN đã trở thành luận chứng thực tiễn cho phát hiện lý luận vĩ đại
của C.Mác và Ăng-ghen về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN.
- GCCN có thể được định nghĩa là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Ở các nước tư bản chủ nghĩa, GCCN là những người không có hoặc về cơ bản không có
tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp này bóc lột. Ở các nước
xã hội chủ nghĩa, GCCN cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu
và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội.

1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Nội dung kinh tế:
Theo quan niệm của Mác, sở dĩ GCCN có sứ mệnh lịch sử vì họ là giai cấp đại diện cho xu thế
xã hội hóa của lực lượng sản xuất hiện đại. GCCN là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến
nhất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

2. Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam và nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam.
3. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
tính tất yếu, đặc điểm, thực chất.
4. Điều kiện ra đời và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
5. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
6. Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa:
+
- nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
+
7. Khái niệm dân tộc. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vấn đề dân tộc ở Việt
Nam hiện nay.
- Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa cơ bản nghĩa rộng dân tộc Ăn quốc gia dân tộc là
một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước có lãnh thổ riêng nền
kinh tế thống nhất có ngôn ngữ chung và có Ý thức về sự thống nhất của mình gắn bó
với nhau bởi quyền lợi chính trị kinh tế truyền thống văn hóa truyền thống đấu tranh
chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước
- Nghĩa hẹp dân tộc tộc người là một cộng đồng tộc người được hình thành trong lịch
sử của mối liên hệ chặt chẽ và bền vững có chung Ý thức tự giác tộc người ngôn ngữ
và văn hóa
- Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin:
+ Cơ sở lý luận và thực tiễn đề Lênin xây dựng cương lĩnh dân tộc: Quan điểm của
các mác và ăn ghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, mối quan
hệ giữa hai xu hướng của phong chào dân tộc trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc,
thực tiễn phong chào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ 20, thực tiễn phong chào cách
mạng của nước Nga cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20
- Nội dung cương lĩnh
+ một là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: - các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi
của nhau trong đó các lĩnh vực của đời sống xã hội được tôn trọng và đối xử Nhưng mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội trong quan hệ xã hội không dân tộc nào được giữ đặc quyền
đặc lợi về kinh tế chính trị văn hóa không dân tộc nào được quyền đi áp bức bóc lột đối
với dân tộc khác, - Quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý nhưng
quan trọng hơn nó phải được thực hiện trên thực tế, - Thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp
trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc và đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc chủ nghĩa dân tộc cực đoan,- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để tụi
em tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc,
+ 2 là các dân tộc được quyền tự quyết: Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy
vận mệnh của dân tộc mình quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển
của dân tộc mình, - Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc
gia dân tộc độc lập đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ
sở bình đẳng,- Quyền tự quyết dân tộc không Đồng nhất với quyền của các tộc người
thiểu số trong một quốc gia đa tộc người
+ Ba là liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: - Nội dung này và lãnh sự thống nhất giữa
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính
- Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận quan trọng để các đảng
Cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh dành độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
2, Vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay:
- +Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời
cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
- + Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên
quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
- +Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh -quốc phòng trên
địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề
xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân
lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá
trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung
của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
- +Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế -xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập
trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường
sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng
thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương
trong cả nước.
- + Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống chính trị.
- -Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam
- +Về chính trị: thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển
giữa các dân tộc.
- +Về kinh tế: nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế -xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch
giữa các vùng, giữa các dân tộc.
- +Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn
ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các
dân tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên
thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư
tưởng-văn hóa ở nước ta hiện nay.
- +Về xã hội: thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua việc
thực hiện chính sách phát triển kinh tế -xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo
dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc
- +Về an ninh quốc phòng: tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn
định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ
các lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc
phòng toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
- Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn diện, tổng
hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mang tính cách mạng và tiến
bộ, đồng thời còn mang tính nhân văn sâu sắc. Bởi vì, chính sách đó không bỏ sót bất
kỳ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc nào; đồng thời
nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của
các dân tộc anh em trong cả nước
8. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1, bản chất
- Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh
sự bất lực, bế tắc của con người trước sức mạnh tự nhiên và sức mạnh xã hội.
- Theo C.Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực,
vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim … tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân”.
- Tuy nhiên tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo đức,
đạo lý của xã hội.
- Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật Mác xít và thế giới quan tôn giáo
là dối lập nhau. Tuy vây, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có
thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân
dân. Ngược lại, chủ nghĩa ML và những người cộng sản, chế độ xhcn luôn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
2. Nguồn gốc của tôn giáo
- Theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ 3 yếu tố: Tâm lí, Nhận
thức, Kinh tế - xã hội
* Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo:
- Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy
yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa nhứn sức mạnh đó. Từ đó, họ xây
dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ cúng.
- Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức
mạnh của thế lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa
giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác … tất cả họ quy về số phận và định mệnh. Từ đó, họ đã
thần thành hóa một số người thành những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và
hành động người khác mà sinh ra tôn giáo.
- Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh
tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là nguồn gốc sâu
xa của
* Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
- Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản
thân mình còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều khoa học
chưa khám phá và giải thích được nên con người lại tìm đến tôn giáo.
- Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo tưởng,
thần thành hóa đối tượng.
* Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
- Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà dẫn đến việc
ính ra tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự sợ hãi sinh ra tôn
giáo”. Lênin cũng cho rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản …. sự phá sản “đột
ngột” “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị diệt vong …, dồn họ vào cảnh chết đói, đó
chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
- Ngay cả những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện
qua tôn giáo.
3. Tính chất của tôn giáo
* Tính lịch sử của tôn giáo:
- Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù nó còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một phạm
trù lịch sử. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới
mức độ nhất định.
- Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi
cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tôn giáo
cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
- Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi con người nhận thức được bản chất các hiện
tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ được tự nhiên, xã hội, làm chủ được bản
thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi con người thì tôn giáo sẽ không còn.
* Tính quần chúng của tôn giáo:
- Tôn giáo là nơi sinh hoặt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao
động. Hiện nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế
giới.
- Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng của những con
người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bát ái … Bởi vì, tôn giáo thường có tính
nhân văn, nhân đạo hướng thiện. Vì vậy, còn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau
của xã hội.
* Tính chính trị của tôn giáo
- Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chi giai cấp, các giai cấp
thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.
- Trong nội bộ tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái nhiều khi cũng mang tính
chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo thường là một bộ phận của
đấu tranh giai cấp.
- Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không chỉ ở quốc
gia mà còn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện các tổ chức quốc tế của tôn giáo với
thế lực lớn đã tác động đến nhiều mặt, trong đó có chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì
vậy, cần nhận thức rõ: đa số quần chúng đến với tôn giáo nhằm thõa mãn nhu cầu tinh
thần; song trên thực tế đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi dụng để thực hiện
mục đích ngoài tôn giáo của họ.
- Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Nguyên nhân kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường với sự khác nhau về lợi ích của các giai tầng Trong
xã hội và những mặt trái của nó như sự bất bình đẳng lợi ích chính trị kinh tế văn hóa xã
hội giữa các giai tầng giữa các cộng đồng dân cư sự phân hóa dầu nghèo chính sự tồn tại
của nền kinh tế này đã khiến cho những con người đang chịu tác động mạnh mẽ của
những yếu tố ngẫu nhiên may rủi ro đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động nhờ cậy
cầu mong và những lực lượng siêu nhiên
+ Nguyên nhân chính trị xã hội trên thế giới cuộc đấu tranh giai cấp đấu tranh giữa các
lực lượng xã hội khác nhau diễn là diễn nhưng chị đã dặn tinh vi và phức tạp trong đó
nhiều lực lượng chính trị vẫn chú ý duy trì và lợi dụng tôn giáo vào các mục đích chính
trị khác nhau mặt khác những cuộc chiến tranh cục bộ xung đột dân dân tộc sắc tộc tôn
giáo tình trạng bạo loạn lật đổ khủng bố vẫn liên tục xảy ra ở nhiều nơi nỗi lo sợ của quần
chúng nhân dân về chiến tranh đói nghèo bệnh tật nhầm nhau cùng với những mối đe dọa
khác đang là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại. Trong điều kiện mới tôn giáo cũng
có khả năng tự biến đổi và thích nghi để đồng hành cùng dân tộc chấp nhận những điều
kiện chính trị xã hội mới để tồn tại hơn nữa trong bản thân mỗi tôn giáo đều chứa đựng
những giá trị đạo đức văn hóa phù hợp với mục đích yêu cầu của công cuộc xây dựng xã
hội mới có khả năng đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân
+ Nguyên nhân văn hóa ở mức độ nào đó sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp
ứng nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa giáo dục về Ý thức cộng đồng đạo đức
phong cách lối sống nhiều giá trị văn hóa của các tôn giáo cả văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể có tư tưởng văn hóa đời sống văn hóa đã có những đóng góp to lớn và trở
thành một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa mỗi dân tộc mỗi quốc gia do đó sự tồn
tại của tín ngưỡng tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng
xã hội khách quan
+ Nguyên nhân tâm lý trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội những sức mạnh tự phát
của tự nhiên xã hội tác động mạnh mẽ chi phối sâu sắc đời sống con người con người vẫn
cảm thấy sợ hãi bất an khi đối diện với những tác động đó mặt khác khi tôn giáo tín
ngưỡng đã ăn sâu vào đời sống tinh thần định nếp nghĩ nội dung của bộ phận quần chúng
nhân dân thì nó có gì nó trở thành phong tục tập quán thành một kiểu sinh hoạt văn hóa
tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của họ
9. Nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sựbiến
đổi trên nhiều mặt. Vì vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo cácnguyên tắc
sau:
- - Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tínngưỡng của nhân
dân.+ Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao,đấng
thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó,tự do tín
ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng củanhân dân. Quyền
này nói lên rằng việc theo đạo đổi đạo, hay không theo đạo làthuộc quyền tự do lựa
chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả những chức sắc tôn
giáo, tổ chức hội giáo…được quyền can thiệp vào sựlựa chọn này. Mọi hành vi cấm
đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạohay đe dọa, bắt buộc người dân phải
theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tưtưởng của họ. Ví dụ: người chồng ép vợ
mình đổi từ đạo Thiên Chúa sang đạoPhật để giống với gia đình, dòng họ nhà chồng;
hành vi này vi phạm Điều 24Hiến pháp 2013 và Luật Hôn nhân và Gia đình "quyền
Bình đẳng Hôn nhân VàGia đình trong quan hệ nhân thân".+ Tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền conngười, thể hiện bản chất ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hộichủ nghĩa không can thiệp và không cho bất cứ
ai can thiệp, xâm phạm đếnquyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không
theo tôn giáo của nhândân. Các tôn giáo và hoạt động tôn giáo bình thường, các cơ sở
thờ tự, các cácphương tiện phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân
đượcnhà nước Xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ. Ví dụ: Nhà nước Việt Nam
chophép các nhà thờ, giáo xứ đạo Thiên Chúa hằng tuần tổ chức các buổi đọc
Kinhthánh, nghe giảng và xem những tiết mục liên quan đến Thiên Chúa giáo.
- - Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắnliền với quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.+ Nguyên tắc này để khẳng định chủ
nghĩa Mác-Lênin chỉ hướng vào việcgiải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo đối với quần chúng nhân dânmà không chủ trương can thiệp vào công việc nội
bộ của các tôn giáo. Ví dụ:Việt Nam bài trừ các "tà đạo", các giáo hội không được
Nhà nước cho phép nhưHội Thánh Đức Chúa Trời tại thành phố Hồ Chí Minh; trừng
phạt những ngườimạo danh là các mục sư đi lang thang ngoài đường hòng trục lợi từ
lòng tin,lòng hướng Phật của người dân.+ Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn
thay đổi ý thức xã hội, trướchết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa
bỏ ảo tưởng này sinhtrong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo
tưởng ấy. Điều cầnthiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không
có áp bức, bấtcông, nghèo đói và thất học…cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã
hội. Đólà một quá trình lâu dài, và không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo
xãhội cũ, xây dựng xã hội mới. Ví dụ: Việt Nam hiện nay đi trên con đường quá
độlên chủ nghĩa xã hội - một xã hội "dân giàu, nước mạnh, công bằng, bình đẳng,văn
minh", thực hiện tiêu chí đó để người dân sẽ bỏ đi những ảo tưởng, nhữngtư tưởng xa
vời, tiêu cực, cực đoan như minh hôn trong các gia đình nhà giàucó con, cháu chưa
lập gia đình mà mất sớm
- -Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quátrình giải quyết
vấn đề tôn giáo.+ Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu
hiện thuầntúy về tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp
–chính trị ít nhiều đều in rõ trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tưtưởng
thường thể hiện và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bảnthân mỗi tôn
giáo. Ví dụ: trong xã hội chiếm hữu nô lệ, những tầng lớp, giai cấpnô lệ bị áp bức,
bóc lột, bần cùng nặng nề bởi chủ nô (chính trị), vì thế họ tintưởng rằng có một thế
lực siêu trần thế có thể cứu giúp họ và cho họ tự do,hạnh phúc (tư tưởng).+ Mặt chính
trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ và phản tiến bộ, phảnánh mâu thuẫn đối kháng
về lợi ích kinh tế chính trị giữa các giai cấp, mâuthuẫn giữa những thế lực lợi dụng
tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng vớilợi ích nhân dân lao động. Mặt tư tưởng
biểu hiện sự khác nhau về niềm tin,mức độ tin tưởng giữa những người có tín ngưỡng
tôn giáo và những ngườikhông theo tôn giáo, cũng như những người có tín ngưỡng,
tôn giáo khác nhau,phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng. Ví dụ: Thực dân
Pháp đã sửdụng tôn giáo để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta: “các sứ giả
củaChúa nộp những người An Nam yêu nước cho bọn chiến thắng đem lên máychém
hay giá treo cổ”. Trái lại, trong Kinh thánh của đạo Thiên Chúa đã truyềnlại rằng:
Mọi con người được tạo nên theo hình ảnh của Chúa và được banquyền làm chủ vũ
trụ, làm chủ thế giới.+ Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề
tôn giáothực chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn
tạitrong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực
tếkhông đơn giản, bởi lẽ, trong đời sống xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh
sailệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xenvào
nhau. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, tôn giáo thường bị yếutố chính trị
chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởngthuần tuý trong
tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránhkhuynh hướng cực đoan
trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quanđến tín ngưỡng, tôn giáo. Ví
dụ: người dân Việt Nam cảm thấy ăn thịt bò làchuyện bình thường, nhưng ở Hồi giáo,
họ tôn sùng con bò, bắt những ngườitheo đạo Hồi không được ăn thịt bò.
- - Cuối cùng, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng,tôn giáo.
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luônluôn vận
động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế -xã hội - lịch sử
cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồntại và phát triển nhất
định. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác độngcủa từng tôn giáo đối với
đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độcủa các giáo hội, giáo sĩ, giáo
dân về những lĩnh vực của đời sống xã hội luôncó sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánhgiá và ứng xử đối với những vấn đề có liên
quan đến tôn giáo và đối với từngtôn giáo cụ thể. Ví dụ: Ở triều đại phong kiến, Phật
giáo được truyền vào ViệtNam để hình thành giá trị văn hóa chùa, làng. Còn ngày
nay, đạo Phật khôngchỉ giữ gìn văn hóa đền chùa mà còn tổ chức rất nhiều buổi tọa
đàm giảng dạy,khóa tu, các lễ thiền, lễ phóng sanh, siêu độ cho các vong linh mới qua
đời,...
- Vấn đề tôn giáo ở việt nam hiện nay: Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ
phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ
phương Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam
như Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo
luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn
giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong
quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.

- Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình
thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- - Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết ở các
tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam
Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên-Huế...
- - Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó có một
số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng,...
10. Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề gia đình và xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Trả lời:
- Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành và duy trì cùng
cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng cùng
với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình
- Vị trí của gia đình trong xã hội:
+ gia đình là tế bào của xã hội
+ gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc sự hài hòa trong đời sống cá nhân
của mỗi thành viên
+ gia đình là cầu nối giữa các cá nhân với xã hội
- Chức năng cơ bản của gia đình
+ Chức năng tái sản xuất ra con người
+ chức năng nuôi dưỡng giáo dục
+ chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
+ chức năng của não nhu cầu tâm sinh lý duy trì tình cảm gia đình
- Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH
 Cơ sở kinh tế xã hội: Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa mà Cốt lõi là chế
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và
cũng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nguồn gốc của sự
áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần dần bị xóa bỏ tạo
cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải
phóng phụ nữ trong xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ
sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ không phải vì
lý do kinh tế địa vị xã hội hay một lý do nào khác.
 Cơ sở chính trị xã hội: - Thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động nhà nước xã hội chủ nghĩa ở đó nhân dân lao động
được thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và nữ, -
Nhà nước cũng chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ lạc hậu đè nặng
lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ
hạnh phúc gia đình, - Chế độ hôn nhân tiến bộ: Vai trò của nhà nước xã hội
chủ nghĩa được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật và chính sách xã hội
nhằm đảm bảo lợi ích công dân các thành viên trong gia đình đảm bảo sự bình
đẳng giới, chính sách daan số, việc làm, y tế bảo hiểm xã hội
 Cơ sở văn hóa: - Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư
tưởng chính trị của giai cấp công nhân từng bước hình thành và dần giữ vai trò
chi phối nền tảng văn hóa tinh thần của xã hội đồng thời những yếu tố văn hóa
công thức tập quán lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ, -
Sự phát triển hệ thống giáo dục đào tạo khoa học và công nghệ góp phần nâng
cao trình độ Dântrí kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội đồng thời
cũng cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức nhận thức mới làm
nên tảng cho sự hình thành những giá trị chuẩn mực mới điều chỉnh các mối
quan hệ gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, - Thiếu đi cơ sở
văn hóa hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế chính trị thì việc
xây dựng gia đình sẽ lịch là không đạt hiệu quả cao
- Vấn đề gia đình và xây dựng gia đình ở việt nam hiện nay: Việt Nam đã và đang thực
hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030,
là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao...; khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc,
xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn,
bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của Nhân dân...”2. Trong sự nghiệp chung
ấy, có sự đóng góp không nhỏ của từng gia đình. Vì vậy, quan điểm Đại hội lần thứ
XIII của Đảng ta tiếp tục xác định: “... thực hiện các chuẩn mực văn hóa gia đình Việt
Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh. Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi
dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ”3. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là
tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, nhất là thanh thiếu niên. Đây là một nhận
thức, một phương hướng lớn quan trọng và chính xác trong xây dựng gia đình mới,
góp phần quan trọng ổn định an ninh chính trị xã hội và phát triển đất nước vì mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”4. Trong điều kiện hiện nay,
một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của gia đình Việt Nam là chức năng giáo
dục. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, chăm lo việc học tập và
sự trưởng thành lành mạnh của con cả về thể chất và tinh thần. Nội dung giáo dục gia đình
chính là những yếu tố của vấn đề văn hoá gia đình và văn hoá cộng đồng nhằm tạo lập và
phát triển nhân cách của con người, như: đạo đức, lối sống, ứng xử, tri thức khoa học, lao
động, học tập, dám dấn thân vì sự nghiệp chung của đất nước…
- Giáo dục gia đình là một bộ phận của giáo dục xã hội; với chức năng giáo dục, gia
đình thực sự góp phần lớn lao vào việc đào tạo thế hệ trẻ và xây dựng con người mới
nói chung, vào việc duy trì, phát triển đạo đức, văn hoá dân tộc nhằm “xây dựng con
người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và
giá trị hiện đại”6. Với ý nghĩa đó, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục xây
dựng gia đình kiểu mẫu ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hòa
thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”7. Đề cao trách nhiệm của gia đình và
xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Đây là việc kết hợp
chặt chẽ giữa các môi trường giáo dục (gia đình - nhà trường - xã hội) để tiến tới mục
tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
- Xây dựng gia đình Việt Nam là tế bào lành mạnh của xã hội là chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta, là nguyện vọng của tất cả mọi người. Một trong những
biện pháp lớn để thực hiện chủ trương đó là “nâng cao nhận thức và thực hiện nghĩa
vụ gia đình đối với mọi công dân”, xã hội hoá việc xây dựng gia đình dưới chủ nghĩa
xã hội, thực hiện Nhà nước và Nhân dân cùng làm. Chủ nghĩa xã hội phải thực hiện
xây dựng gia đình mới khác về nhiều mặt so với gia đình truyền thống. Gia đình mới,
hình thành phát triển gắn liền với sự phát triển toàn diện của chủ nghĩa xã hội; đây là
sự cố gắng chung của từng thành viên, từng gia đình, của Nhà nước, địa phương và
các tổ chức xã hội thì mới có thể có gia đình “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”.

You might also like