You are on page 1of 17

ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI

KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC


*****

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề số 02: “Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về dân tộc? Liên
hệ vấn đề này với việc thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay
đồng thời anh chị cần làm gì để thực hiện tốt vấn đề này ?”

Sinh viên thực hiện: Phạm Tiến Đạt


Mã sinh viên: 71DCCO22040
Lớp: 71DCCN21
Khóa: 71
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Tâm

HÀ NỘI – 2022
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.............................................................................................................1

NỘI DUNG.........................................................................................................2

1.1. Khái niệm dân tộc:...................................................................................2

2.1. Nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin:......................2

2.1.1. Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam:.............4

a. Quan điểm của Nhà Nước và Đảng về vấn đề dân tộc:......................4

b. Các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam:...............5

2.1.2. Thực hiện chính sách về dân tộc Việt Nam hiện nay:.....................7

2.1.3. Liên hệ bản thân:.............................................................................12

KẾT LUẬN.......................................................................................................14

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................15


MỞ ĐẦU
Trải qua bao nhiêu thế kỷ, người dân Việt Nam chúng ta đã phải gặp rất
nhiều khó khăn để có thể giành lại độc lập, tự do cho dân tộc ta. Mọi người đã
gắn bó chặt chẽ với nhau trong suốt quá trình lịch sử lâu dài để đấu tranh chống
lại kẻ thù nhòm ngó, xâm lược đất nước tươi đẹp Việt Nam chúng ta, tất cả mọi
người luôn luôn phải bảo vệ bờ cõi, cội nguồn để xây dựng đất nước để đất nước
là chỗ dựa cho người dân. Qua suốt nhiều hành trình dài như vậy mà dân tộc ta
có thể giành chiến thắng không để Đất nước vào tay kẻ thù nào, thì dân tộc ta rất
đoàn kết và cùng nhau đi lên bảo vệ Tổ quốc. Chủ nghĩa Mác -LeNin và tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn sáng suốt về dân tộc Việt Nam rất sâu sắc
và tuyệt vời. Xuất phát từ những vấn đề trên nên em đã lựa chọn đề tài “Phân
tích quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc? Liên hệ vấn đề này
với thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay, đồng thời anh chị cần
làm gì để thực hiện tốt vấn đề này”. Mục đích nghiên cứu đề tài này là em muốn
giải quyết những vấn đề cấp thiết hiện nay về vấn đề liên quan đến dân tộc và
các chính sách dân tộc, để đạt được những mục đích đó thì đề tài sẽ giải quyết
những nội dung về dân tộc ở nước ta hiện nay.

1
NỘI DUNG
1.1. Khái niệm dân tộc:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, dân tộc là quá trình phát triển
lâu dài của xã hội của loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến
cao, bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản
xuất chính là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc. Ở
phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất phong kiến. Ở phương
Đông, dân tộc được hình thành trên cơ sở một nền văn hóa, một tâm lí dân tộc
đã phát triển tương đối chín muồi và một cộng đồng kinh tế uy đã đạt tới một
mực độ nhất định song nhìn chung còn kém phát triển và ở trạng thái phân tán.

Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:

Thứ nhất: Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã
hội có những đặc trưng cơ bản sau đây: Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế.
Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc và là cơ sở liên kết các bộ phận,
các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của dân tộc; có lãnh thổ
chung ổn định không bị chia cắt, là địa bàn sinh tồn và phát triển của cộng đồng
dân tộc; có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước – dân tộc độc lập; có ngôn
ngữ chung của quốc gia làm công cụ giao tiếp trong xã hội và trong cộng đồng
(bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết); có nét tâm lý biểu hiện qua nền
văn hoá dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc.

Thứ hai: Dân tộc - tộc người (ethnies). Theo nghĩa này, dân tộc là cộng
đồng người được hình thành lâu dài trong lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản sau:
Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết hoặc chỉ riêng
ngôn ngữ nói); Cộng đồng về văn hoá; Ý thức tự giác tộc người

2.1. Nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp; kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan, nội dung cương lĩnh của
dân tộc thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
2
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay
nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi
ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được
giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trong quan hệ xã hội cũng
như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột
dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc
phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý, nhưng quan trọng hơn nó phải được thực
hiện trên thực tế. Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ
tiêu tình trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc;
phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết
Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình,
quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc
độc lập, đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực
tiễn - cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo
sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân. V.I.Lênin
đặc biệt chú trọng quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức, các dân tộc phụ
thuộc. Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với”quyền”của các tộc người
thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc gia
độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
phấn động, thù địch lợi dụng chiêu bài”dân tộc tự quyết”để can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước, hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.
Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tỉnh thần của
3
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Đoàn kết, liên hiệp công
nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động
thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải
pháp quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một
chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng
để các Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2.1.1. Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam:
a. Quan điểm của Nhà Nước và Đảng về vấn đề dân tộc:
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp; kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan, nội dung cương lĩnh của
dân tộc thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.


Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay
nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi
ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được
giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trong quan hệ xã hội cũng
như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột
dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc
phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý, nhưng quan trọng hơn nó phải được thực
hiện trên thực tế. Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ
tiêu tình trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc;
phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết

4
Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình,
quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc
độc lập, đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực
tiễn - cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo
sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân. V.I.Lênin
đặc biệt chú trọng quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức, các dân tộc phụ
thuộc. Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với”quyền”của các tộc người
thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc gia
độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
phấn động, thù địch lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước, hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.
Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tỉnh thần của
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Đoàn kết, liên hiệp công
nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động
thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải
pháp quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một
chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng
để các Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

b. Các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam:
Về an ninh quốc phòng, tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở
đảm bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh Công tác dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp,

5
các ngành và toàn bộ hệ thống chính trị. Chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta được thể hiện cụ thể ở những điểm sau:

Về chính trị: thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát
triển giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính
trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm
quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Về kinh tế: nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng
cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế
thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số,
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.
Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát
triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa
cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết
chế văn hóa phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc.
Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế
giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa ở nước ta hiện nay.
Về xã hội: thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công băng
thông qua việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm
nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi
dân tộc. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị -

6
xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối
hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo
thế trận quốc phòng toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống. Thực hiện
đúng chính sách dân tộc hiện nay ở Việt Nam là phải phát triển toàn diện về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng các địa bàn vùng dân tộc
thiểu số, vùng biên giới, rừng núi, hải đảo của tổ quốc.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn
diện, tổng hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến
mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia. Phát triển
kinh tế - xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các dân tộc. Do vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân văn sâu
sắc. Bởi vì, chính sách đó không bỏ sót bất kỳ dân tộc nào, không cho phép bất
cứ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc nào; đồng thời nó còn nhằm phát huy nội lực
của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em
trong cả nước.

2.1.2. Thực hiện chính sách về dân tộc Việt Nam hiện nay:
Các dân tộc ở nước ta sinh sống gắn bó cùng nhau từ lâu đời, đã sớm có ý
thức đoàn kết, giúp nhau trong trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm và xây dựng đất nước. Sự đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng đã tạo nên
một quốc gia đa dân tộc bền vững, thống nhất. Ngày nay, trước yêu cầu phát
triển mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc tiếp tục phát huy
truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng nước Việt
Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh tiến lên chủ nghĩa xã hôi. Trong 54 dân tộc thiểu số, dân số giữa các nhóm
không đồng đều, có dân tộc với số dân trên một triệu người như Tày, Thái,
Mường,Khmer. Nhưng lại có những dân tộc với dân số rất ít, đặc biệt là 5 dân
tộc có dân số dưới 1000 người như: Si La, Pu Péo, Rơ Răm..... Tuy dân số có sự
chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc đều coi nhau như anh em một nhà, quý
7
trọng yêu thương đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam. Nhìn chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có dân tộc
thiểu số nào cư trú trên vùng lãnh thổ riêng. Yếu tố đó nói lên sự hòa hợp của
cộng đồng các dân tộc đã có từ lâu đời và đã trở thành đặc điểm lịch sử, văn hóa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tính chất cư trú của các dân tộc đã tạo
điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Phần lớn các dân tộc thiểu số cư trú ở miền
núi, với địa bàn rộng lớn chiếm ¾ diện tích cả nước, bao gồm 21 tỉnh miền núi,
vùng cao, 23 tỉnh có miền núi và các tỉnh đồng bằng Nam bộ có đông dân tộc
thiểu số. Đây là khu vực biên giới, phên đậu của Tổ quốc, là cửa ngõ thông
thương với các nước láng giềng, có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc
phòng của đất nước. Miền núi nước ta có nguồn tài nguyên dồi dào, đa dangh,
phong phú như đất, rừng, khoáng sản... Với tiềm năng to lớn phát triển kinh tế.
Miền núi là đầu nguồn các dòng sông lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng về
nguồn nước và môi trường sinh thái. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là
những nguyên nhân do lịch sử để lại và do điều kiện địa lý, tự nhiên khắc nghiệt
ở địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số, nên trình độ phát triển kinh tế -xã
hội của các dân tộc, không đồng đều. Một số dân tộc đã phát triển kinh tế-xã hội
tương đối cao, nhưng hần lớn các dân tộc thiểu số vẫn còn trong tình trạng lạc
hậu, có mức sống thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, chậm phát triển hơn so với các dân
tộc đa số. Một số dân tộc còn trong tình trạng tự cung, tự cấp, du canh, du cư.
Đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, cùng sâu, vùng xa nhìn
chung gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát triền. Tuy có sự khác nhau về
quy mô dân số, về trình độ phát triển kinh tế- xã hội, nhưng mỗi dân tộc đều có
văn hóa truyền thống riêng về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, trang
phục,... tạo nên bản sắc đặc trưng của từng dân tộc, góp phần làm phong phú, đa
dạng nền văn hóa Việt Nam của các dân tộc đều được chú trọng bảo tồn và phát
triển. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình cách
mạng đến hiện nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc
là nhất quán theo nguyên tắc: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau
8
cùng phát triển. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta. Bình đẳng gữ các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu của chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc
thiểu số. Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triền cao
hay thấp đều nang nhau về quyền lơik và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động
của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu
hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan,… Quyền bình
đẳng về kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc.
Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc về kinh tế chậm phát triển để cùng
đạt được trình độ phát triển chung với các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm
giúp các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển
chung với các dân tộc khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hóa, xã hội, đảm
bảo cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, làm phong
phú và đa dạng nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Do phần lớn các dân tộc thiểu
số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển thấp, vì vậy bên cạnh việc đẩm bảo
quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội cần phải tạo mọi
điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số có cơ hội phát triể bình đẳng với các
dân tộc khác. Sự quan tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, đó chính là
biểu hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc đặc trưng nhất ở Việt Nam. Các dân
tộc Việt Nam đã cùng nhau chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu thịt với
nhau, no đói có nhau, vĩnh nhục cùng nhau, đồng cam cộng khổ, sống chết một
lòng sát cánh cùng nhau dựng nước và giữ nước. Truyền thống đoàn kết đó được
giữ gìn và phát triển trong suốt tiến trình hàng ngàn năm lịch sử, gắn kết các dân
tôc chung sức xây dựng tổ quốc Việt Nam thống nhất. Kế thừa truyền thống
đoàn kết quý báu dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã xá định đoàn kết dân tộc là
một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc xuyên suốt quá trình cách mạng
Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc đang phát huy
truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây dựng đất nước với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh và tiến bộ. Tất cả các dân
9
tộc sống trên đất nước Việt Nam đều phải có trách nhiệm chăm lo, vun đắp,
củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc theo lời dạy của Hồ Chí Minh: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Do lịch sử
để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn đang tồn tại tình trạng phát
triển không đồng đều. Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để cùng
phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta đã coi tương trợ cùng nhau phát triển là một nguyên tắc
quan trọng của chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa.
Chính sách dân tộc của Đảng đã được thể hiện bằng hiến pháp, luật pháp và
bằng các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Hiến pháp nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc,
nghiêm cấm mọi hành v kỳ thỵ giữa các dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập
quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách
phát triển mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số - Điều 5, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo Hiến pháp, các bộ luật, luật như Bộ luật dân sự, luật
hôn nhân gia đình, luật giáo dục, luật nảo vệ sức khỏe nhân dân,... đều thể hiện
rõ quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đồng thời với việc thể
chế bằng Hiến pháp và pháp luật, chính sách dân tộc Đảng và Nhà nước được cụ
thể hóa trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, trong các chương
trình, dự án đầu tư phát triển cho các vùng dân tộc và miền núi, trong các chính
sách, các quy định cụ thể ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ... đối với
đồng bào dân tộc thiểu số. Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách dân tộc
của Đảng đã được thể hiện ở các nghị quyết Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính sách dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
10
tế-xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chấ và tinh thần,
xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản sắc văn
hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc đã khẳng định chính
sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay là: “Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế- xã
hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông
và cơ sở hạ tầngm xóa đói, giảm nghèo, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, phát huy
nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng
cường sự quan tâm hỗ trợ của trưng ương và sự giúp đỡ của các địa phương
trong cả nước? ”. Tiếp theo, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định:
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ...”. Xuất phát từ những quan
điểm trên, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số tập trung vào
những nội dung chủ yếu sau: Xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong
những năm trước mắt tập trung trợ giúo đồng bào nghèo, đồng bào các dân tộc
thểu số đặc biệt khó khăn. Phát triển sản xuất hàng hóa phù hợp với đặc điểm,
điều kiện từng vùng dân tộc, khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm
năng, thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghệp hóa, hiện đại hóa bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo, coi
trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức dân tộc. Kế thừa phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống của các dân tộc góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam
đa dạng, phong phú, giàu bản sắc dân tộc. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc và miền núi, nâng cao dần mức sốn của đồng bào các dân tộc
trong những năm đổi mới vừa qua và nhất là giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ chương chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân
tộc thiểu số một cacgs đồng bộ và toàn diện, trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã
11
hội. Đồng thời, đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát
triển trên địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc như: Chương trình trông mới
năm triệu ha rừng, Chương trình xóa đói giảm nghèo, Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu vùng xa, (Chương trình
135) ....Với sự quan tâm đặc biệt sâu sắc của Nhà nước cùng với tinh hần nỗ lực
cố gắng của đồng bào dân tộc ta , thì dân tộc ta đã có những chuyển biến mới về
cuộc sống cho bà con ở mọi nơi trên đất nước Việt nam được cải thiện và đầy đủ
hơn.

2.1.3. Liên hệ bản thân:


Ngày nay, vấn đề dân tộc mặc dù còn nhiều vấn đề nảy sinh phức tạp
nhưng Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chính sách kịp thời, giải quyết các
vấn đề dân tộc. Đối với quốc gia đa dân tộc thì việc giải quyết vấn đề trở nên
khó khăn hơn, tuy nhiên sự đồng lòng, đoàn kết của các dân tộc với Đảng và
Nhà nước đã tạo nên đất nước hoà bình, ổn định. Mỗi dân tộc có những nét đặc
trưng, tập tục khác nhau nên để có thể bình đẳng, hợp tác, chung sống, bản thân
người Việt Nam cũng như thế hệ trẻ ngày nay đóng vai trò rất lớn trong việc
chung tay giải quyết các vấn đề đó. Bản thân em nhận thấy với vấn đề này, sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo thực hiện thành công
các cuộc chiến tranh và cũng là bài học kinh nghiệm quý giá rút ra từ lịch sử.
Trong giai đoạn phát triển hội nhập như ngày nay, sức mạnh đoàn kết vẫn luôn
cần phát huy cao độ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đặc biệt trước những tình hình căng thẳng của đại dịch Covid 19 hiện nay
thì tầm quan trọng của sự đoàn kết giữa các dân tộc càng được nêu cao. Chúng
ta đã cùng nhau chiến đấu chống lại dịch bệnh với tinh thần chủ động tích cực,
những hành động kịp thời: chi viện các y, bác sĩ đến tâm dịch, hỗ trợ bà con
vùng dịch tiêu thụ nông sản, ủng hộ quỹ vác – xin, thực hiện nghiêm giãn cách
xã hội,… Bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số bộ phận người dân thiếu ý thức,
không đeo khẩu trang, không trung thực khai báo y tế,…khiến việc kiểm soát
dịch bệnh căng thẳng hơn. Đây là lúc cần sự hợp tác, đồng lòng của mọi người
để đất nước sớm đẩy lùi được đại dịch này.
12
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước đã chú trọng hơn đến các chính sách nhằm
bảo vệ quyền lợi, tạo sự bình đẳng, hoà hợp cho các dân tộc. Để đáp ứng lại các
chính sách đó, các dân tộc cũng đã tích cực tham gia vào phát triển kinh tế, giữ
vững ổn định chính trị, đất nước. Nhưng vẫn luôn phải nâng cao tinh thần cảnh
giác trước những âm mưu, thủ đoạn mới của thế lực thù địch, phản động xuyên
tạc về Đảng và Nhà nước. Mục tiêu của các thế lực này thường hướng vào các
dân tộc vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo nên việc tổ chức giáo dục, tuyên
truyền kịp thời đến nhân dân là điều vô cùng quan trọng. Mỗi người luôn phải
đẩy mạnh việc tự học, tự bồi dưỡng kiến thức để nâng cao hiểu biết, trình độ của
bản thân để có thể tuyên truyền cho mọi người chính sách của Đảng và Nhà
nước. Có ý thức rèn luyện, trau dồi các phẩm chất đạo đức, thẳng thắn, trung
thực, phê phán những hành vi phản động, gây chia rẽ nội bộ dân tộc cũng như
giữa dân tộc với Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, cần tham gia bảo vệ chủ
quyền biển đảo nhất là trong diễn biến căng thẳng hiện nay với Trung Quốc và
các quốc gia khác. Không chia sẻ tràn lan thông tin sai sự thật gây hoang mang
dư luận trên các trang thông tin, trang mạng xã hội. Đặc biệt là những tin tức về
biển Đông luôn giành được sự quan tâm hàng đầu, đó cũng là quân bài để các
thế lực thù địch lợi dụng đưa thông tin sai sự thật đến nhân dân. Chúng ta đã xác
định vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo là vấn đề lâu dài vì vậyphải kiên trì,
đoàn kết, hợp tác thì đất nước mới có thể hoà bình, ổn định và phát triển.

13
KẾT LUẬN
Đối với các quốc gia đa dân tộc như Việt Nam thì vấn đề dân tộc luôn là
vấn đề thời sự nóng hổi. Bởi sự hình thành cũng như đặc trưng của mỗi dân tộc
là khác nhau nên để hoà hợp, bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc cần có những
chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước. Vấn đề này vừa là nhiệm
vụ trước mắt vừa có tính chiến lược lâu dài nên phải xác định được tình hình
thực tế thì mới có thể đưa ra được chính sách kịp thời. Bài tiểu luận đã đưa ra
những lý luận về cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm và
chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc; điều
đó cho thấy vấn đề dân tộc không chỉ là mối quan tâm của riêng Việt Nam mà
của cả thế giới. Qua đó cũng giúp chúng ta hiểu hơn về dân tộc, các vấn đề có
thể nảy sinh trong các dân tộc để kịp thời đưa ra các chính sách nhằm ổn định,
đoàn kết giữa các dân tộc. Góp phần phát triển dân tộc mà không làm ảnh hưởng
đến kinh tế - chính trị quốc gia. Hơn hết là sức mạnh đoàn kết toàn dân để giải
quyết, giữ vững chủ quyền biển đảo trước những diễn biến căng thẳng với Trung
Quốc. Đặc biệt việc giải quyết vấn đề dân tộc, biển đảo ở nước ta hiện nay phải
được xác định là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương của cả hệ
thống chính trị và của chính đồng bào các dân tộc.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
2. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/821811/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-bao-ve-chu-
quyen-bien%2C-dao-viet-nam-trong-tinh-hinh-moi.aspx
3. http://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-in/may-suy-nghi-ve-van-de-
dan-toc-va-thuc-hien-chinh-sach-dan-toc-trong-xay-dung-va-bao-ve-
to/2923.html

15

You might also like