You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TPHCM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


🙧🙥

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: Vấn đề dân tộc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trách nhiệm của sinh viên
trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Giáo viên hướng dẫn:


Sinh viên:
Lớp học phần:
MSSV:

TP.Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2022


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
B. NỘI DUNG..........................................................................................................2
I - DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI............2
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc...............................................................2
II - DÂN TỘC VÀ QUAN HỆ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM....................................4
1. Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam.......................................................................4
2. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề
dân tộc.................................................................................................................5
III – THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
TA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM...7
1. Việt Nam thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc..............................7
2. Việt Nam chống nạn phân biệt chủng tộc..................................................10
3. Việt Nam chống chủ nghĩa bá quyền.........................................................12
4. Việt Nam xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc..........................................12
IV – TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM...................................................13
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................18

1
A. MỞ ĐẦU
Vấn đề dân tộc luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của mỗi
quốc gia có một hay nhiều tộc người cả trong lịch sử và trong thế giới hiện đại.
Độc lập dân tộc gắn với chủ quyền quốc gia đang là một xu thế của thế giới. Mỗi
quốc gia dân tộc, dù lớn hay nhỏ, đều cố gắng khẳng định giá trị dân tộc, như
quyền tự quyết định chế độ xã hội, kinh tế, đường lối phát triển đất nước, khẳng
định sự bình đẳng giữa các quốc gia trong sinh hoạt quốc tế. Ở nhiều nước trên thế
giới, vấn đề dân tộc đang nổi cộm, có nhiều cuộc xung đột tộc người, ly khai dân
tộc và chia cắt quốc thổ... đều bắt đầu từ vấn đề dân tộc. Sự phát triển của các dân
tộc ở Việt Nam được thể hiện trên nhiều phương diện: kinh tế - văn hóa - xã hội -
chính trị, một mắt xích bị bất ổn sẽ kéo theo chuỗi bất ổn của quốc gia, dân tộc. Ở
nước ta, việc giải quyết vấn đề dân tộc đã có quá trình lịch sử, gắn liền với công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến từ thế kỷ
XIX đến nay. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay dưới
tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật, trước yêu cầu của công
cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước và hội nhập quốc tế với những thời cơ và
thách thức đan xen, vấn đề dân tộc có ý nghĩa cốt lõi quan trọng trong xây dựng,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng
đất nước giàu mạnh định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm độc lập tự chủ, bảo
đảm các vấn đề về quyền con người và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là lý
do em chọn đề tài :Vấn đề dân tộc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay và trách nhiệm của sinh viên trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc.

B. NỘI DUNG
I - DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài
của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là
nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
Khái niệm dân tộc có thể được hiểu theo hai khuynh hướng như sau. Khuynh
hướng đầu tiên cho rằng dân tộc gắn liền với khái niệm quốc gia dân tộc (nation-
state). Khuynh hướng này cho rằng dân tộc gắn liền với một quốc gia, tức một

2
cộng đồng người sống chung một vùng lãnh thổ, có nền kinh tế thống nhất, có
chung ngôn ngữ giao tiếp, nền văn hóa chung và một nhà nước đại diện quản lý thì
được tính là một dân tộc. Khuynh hướng thứ hai thì mang nghĩa hẹp hơn, cho rằng
dân tộc (ethnie) chỉ một cộng đồng người trong xã hội, một bộ phận hoặc một
thành phần của một quốc gia và dân tộc này có văn hóa riêng, ngôn ngữ riêng và ý
thức tự giác tộc người. Ở Việt Nam, khái niệm dân tộc thường được hiểu theo
khuynh hướng thứ hai.
1.2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
 Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong một quốc gia không
bị phân biệt theo trình độ phát triển, màu da, đa số, thiểu số … đều có quyền lợi và
nghĩa vụ ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong quan hệ xã
hội cũng như quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột
dân tộc khác. Đây là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối
quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc. Để thực hiện được điều này, trước hết
phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp để xóa bỏ áp bức dân tộc, đấu tranh chống
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
 Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc được quyền
tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa chọn chế độ chính trị
và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền
tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với
dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Việc thực hiện phải xuất phát từ thực tiễn và
phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất
giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân.
Tự quyết dân tộc không có nghĩa là các tộc người thiểu số trong một quốc gia được
phép phân lập thành quốc gia độc lập. Bởi vì nó có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự
quyết” để can thiệp vào nội bộ các nước hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.
 Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp; phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.

3
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng
lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ
yếu, vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc
thành một chỉnh thể.
II - DÂN TỘC VÀ QUAN HỆ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
Quan hệ dân tộc là quan hệ giữa các dân tộc - tộc người (hay giữa các thành phần
dân tộc) trong một quốc gia đa dân tộc, cũng như quan hệ giữa các thành viên
trong nội bộ một dân tộc, cũng như quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ một
dân tộc- tộc người. Quan hệ dân tộc bao hàm cả sự giao lưu, giao tiếp và tác động
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc - tộc người. Các mối quan hệ liên quan đến
vấn đề dân tộc tộc người vốn đã rất đa dạng và phức tạp trong lịch sử nhân loại và
ngày nay càng bộc lộ tính nhạy cảm chính trị - xã hội mang tính đặc thù của nó.
1. Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
 Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc.
Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc sinh sống trên lãnh
thổ. Trong đó có 53 dân tộc thiểu số (DTTS), chiếm khoảng 14,3% trên tổng số
dân cả nước, và còn lại là dân tộc Kinh chiếm 85,7%. Một quốc gia được xem là
đồng nhất là một quốc gia có một dân tộc chiếm áp đảo các dân tộc còn lại (Nhật
Bản, Hàn Quốc, hay Triều Tiên). Vì thế, xét theo lý thuyết này, Việt Nam vẫn
được tính là một quốc gia đa dân tộc. Bên cạnh đó, tại Chương I, Điều 5, Khoản 1
của Hiến Pháp 2013 cho nói rõ: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”, chứng tỏ nước
ta là một quốc gia đa dân tộc. Ngoài ra, trong lịch sử đấu tranh, trong kháng chiến
chống Pháp và Mỹ của Đảng ta đã ghi nhận rất nhiều công lao to lớn của các
DTTS, góp phần xây dựng tinh thần quân - dân và khối đại đoàn kết dân tộc. Các
dân tộc anh em phân bố trên khắp mọi miền Tổ quốc với những văn hóa, bản sắc
riêng của mình đã tạo nên những màu sắc phong phú, đa dạng hơn cho nước Việt
Nam. Qua đó, các yếu tố trên đã chứng minh được tính đa dân tộc của Việt Nam.
 Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Việt Nam là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á nên bản đồ cư trú của
các dân tộc ở Việt Nam khá phân tán, xen kẽ, làm cho các dân tộc này không có
lãnh thổ tộc người riêng. Vì vậy, ở Việt Nam không có một dân tộc nào sống tập
trung trên một địa bàn duy nhất. Về mặt thuận lợi, các dân tộc có cơ hội hiểu biết
lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một nền văn hóa thống nhất

4
trong đa dạng. Mặt khác, việc sống phân tán, xen kẽ sẽ dễ nảy sinh mâu thuẫn,
xung đột, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an
ninh chính trị và sự thống nhất của đất nước.
 Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bổ chủ yếu ở địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng.
Mặc dù chỉ chiếm 14.3% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú
trên 3/4 diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu về kinh tế, chính trị, an ninh
quốc phòng như vùng biên giới, hải đảo, các vùng sâu vùng xa.
 Thứ tư, các dân tộc ở VN có trình độ phát triển không đều.
Các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội. Muốn thực hiện bình đẳng dân tộc, cần phải từng bước giảm dần
và tiến tới xoá bỏ khoảng cách phát triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã
hội để các dân tộc thiểu số phát triển nhanh và bền vững.
 Thứ năm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời
trong cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất.
Ðoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt Nam, là một trong
những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong các
giai đoạn lịch sử. Ngày nay, để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam,
các dân tộc phải ra sức phát huy nội lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết
dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
 Thứ sáu, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong
phú, đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều
có những sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống
nhất trong đa dạng. Sự thống nhất đó là do các dân tộc đều có chung một lịch sử
dựng nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một quốc gia độc lập, thống
nhất.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam, Ðảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến chính sách dân tộc, xem đó là vấn đề chính trị - xã hội rộng lớn
và toàn diện gắn liền với các mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.

5
2. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân
tộc
2.1. Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc
Ngay từ khi ra đời, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nhất quán những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc. Ðảng và Nhà nước ta
luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm
quan trọng đặc biệt. Đại hội XII đã khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp các mạng của nước ta”, đồng thời đưa ra quan điểm về
vấn đề dân tộc, những gì nên làm, những gì cần hoàn thiện và những gì nên tránh.
Quan điểm cơ bản của Ðảng ta về vấn đề dân tộc thể hiện ở các nội dung sau:
 Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cũng là vấn
đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
 Các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh chống lại
mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
 Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; phát triển kinh tế đi đôi với
giải quyết các vấn đề xã hội; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân
lực; giữ gìn và phát huy giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam thống nhất.
 Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi;
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc; tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương
và địa phương trên cả nước.
 Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Ðảng,
toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống chính trị.
2.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước hiện nay
Đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc là một bộ phận hữu cơ
của đường lối, chính sách chung của Đảng, Nhà nước ta, được thể hiện rõ trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ
sung, phát triển năm 2011).

6
Về kinh tế - xã hội: Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu,
vùng xa; phát triển kinh tế hàng hóa, phát huy tiềm năng kinh tế của miền núi theo
hướng chuyên canh, thâm canh để tạo nên các vùng nguyên liệu chất lượng cao và
đa dạng; đổi mới cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ. Xây dựng kết cấu hạ
tầng, mạng lưới đường giao thông, các công trình kinh tế quan trọng; thực hiện
hiệu quả các dự án xóa đói, giảm nghèo và chính sách định canh, định cư, ổn định
đời sống và đất sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Về chính trị - xã hội: Phát huy quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc thiểu số và
tạo điều kiện để đồng bào tham gia công việc quản lý nhà nước, xây dựng Đảng,
chính quyền; phát huy quyền bình đẳng dân tộc các quyền dân chủ và tính năng
động, sáng tạo của đồng bào. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số trong sạch, vững mạnh; tuyên truyền, vận động đồng bào thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; giáo dục đồng bào ý thức
cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc. Giữ vững an ninh biên giới và an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.
Về văn hóa, xã hội: Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc
thiểu số, tập trung xóa đói, giảm nghèo; nâng cao dân trí, an sinh xã hội. Giữ gìn,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và phát triển ngôn ngữ của các dân tộc
thiểu số; xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Vận động đấu tranh chống mê tín dị
đoan, tập tục lạc hậu; ngăn chặn các hiện tượng phổ biến, truyền bá văn hóa xấu
độc, truyền đạo trái phép.
Về quốc phòng, an ninh: Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ
an ninh biên giới, ngăn chặn mọi hành động thâm nhập, móc nối, nhen nhóm của
các phần tử xấu, phản động, âm mưu gây phỉ, xưng vua, kích động chia rẽ,... ở
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế
- xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; kết hợp quốc phòng - an ninh với đối
ngoại ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; Xây dựng các khu kinh tế
- quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và
các khu vực phòng thủ mạnh ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.
III – THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Trong công tác dân tộc ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn khẳng
định chủ trương, chính sách nhất quán là thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng

7
và cùng giúp đỡ nhau phát triển giữa các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam
lẫn trên trường quốc tế.
1. Việt Nam thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc
Ở nước ta, phần lớn các DTTS đều phân bố ở các vùng nông thôn, miền núi, các
khu vực xa xôi, khó di chuyển. Vì thế, họ gặp rất nhiều khó khăn về mặt kinh tế,
văn hóa, chính trị, và đặc biệt là giáo dục hay y tế. Điều này đã tạo ra một hiện
trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc với nhau trong xã hội Việt Nam. Vì thế, Đảng
và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm, nỗ lực xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và
thực hiện nhiều chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các DTTS
phát huy nội lực, vươn lên phát triển về mọi mặt, đóng góp vào sự nghiệp chung
của đất nước. Những thành tựu sau đây là minh chứng cụ thể trong việc bảo đảm
và thúc đẩy quyền của DTTS nói riêng và quyền của con người nói chung tại Việt
Nam.
Về kinh tế, đã có 118 chính sách đã được Chính phủ triển khai thực hiện nhằm hỗ
trợ về kinh tế cho các đồng bào DTTS tại các vùng sâu, xa tính đến thời điểm
tháng 10 năm. Có thể kể đến Chương trình 135 (được triển khai từ năm 1998)
nhằm phát triển kinh tế - xã hội cho các xã DTTS tại các vùng miền núi và nông
thôn đã đầu tư cho 9.106 công trình bảo dưỡng và hỗ trợ trực tiếp cho 1.521 triệu
hộ nghèo. Trải qua hơn 20 năm thực hiện, chương trình đã giúp nâng cao cơ sở hạ
tầng cho các xã DTTS với 100% xã DTTS nay đã có đường ô tô đến trung tâm;
99% trung tâm xã và 80% thôn đã có điện; 65% xã có hệ thống thủy lợi; 42% thôn
đã có đường giao thông đạt chuẩn quốc gia. Tỷ lệ hộ nghèo của các DTTS giảm từ
4,5% (1999), xuống còn 3,5% vào năm 2006. Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư,
hỗ trợ kinh phí nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi, với tổng kinh phí giai đoạn 2016 - 2020 là 998.000 tỷ đồng. Ngày
14/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 1719/QĐ-TTg trong
giai đoạn 2021-2025, và hướng đến 2030 với mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền
vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo, hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên
mức sống tối thiểu.
Về chính trị, Đảng và Nhà nước liên tục đề ra các chính sách nhằm gia tăng tính
bình đẳng trong chính trị giữa các dân tộc, đặc biệt là với Nghị quyết số 1135/NQ-
UBTVQH13/2016 khi lập danh sách ứng cử viên làm Đại biểu Quốc hội, phải có ít
nhất 165 người trong danh sách là DTTS, bằng với 18% trong tổng số các ứng cử
viên của Đại biểu Quốc hội. Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội liên tiếp, tỷ lệ đại biểu
Quốc hội là người DTTS đã tăng qua các khóa: khóa XIII chiếm 15,6%, cao hơn tỷ
lệ dân số dân tộc thiểu số trên tổng số dân là 14,35%, khóa XII đạt cao nhất là

8
17,7%, khóa XIV có 86 đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số thuộc 32 dân
tộc khác nhau (chiếm tỷ lệ 17,3%). Ngoài ra, trong những năm gần đây còn có
chính sách “Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức dân tộc thiểu số
trong thời kỳ mới” do Bộ Nội vụ chủ trì nhằm nghiên cứu xây dựng, bổ sung chính
sách có tính đặc thù trong tuyển dụng, thăng hạng, và tạo chế độ đối với các viên
chức DTTS. Thông qua những chính sách trên, các DTTS tại Việt Nam sẽ dần
ngày càng có tiếng nói, sự bình đẳng của dân tộc mình trong lĩnh vực chính trị.
Về văn hóa, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: Văn hóa các DTTS là một bộ
phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất và đa dạng. Vào ngày 27-7-
2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1270/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
“Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020” nhằm hỗ trợ
đúng mục đích bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa của các DTTS, xây dựng
các làng văn hóa – du lịch, góp phần vào việc giữ gìn văn hóa cho các DTTS cũng
như thúc đẩy kinh tế, tạo việc làm cho họ. Ngoài ra, gần đây nhất, Chính phủ đã
phát động Dự án “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch" gai đoạn 2021-2030 nhằm tăng cường
cơ sở vật chất, trang thiết bị, để tăng cường phát triển du lịch cộng đồng, cũng như
quảng bá văn hóa của các DTTS. Hơn thế nữa, Nhà nước cũng đã đề ra ngày lễ
“Văn hóa các dân tộc Việt Nam” phối hợp với Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch tổ
chức các hoạt động chào mừng ngày Dân tộc Việt Nam (19/04) mỗi năm và đã
được thành công lớn trong việc truyền bá văn hóa truyền thống của các đồng bào
DTTS. Bên cạnh đó, các dân tộc vùng Tây Bắc, Đông Bắc, miền Trung... cùng
thực hiện giao lưu văn hoá như: ngày Ngày hội Văn hoá dân tộc Hoa, Thái, Chăm,
Khmer...; Giao lưu Liên hoan nghệ thuật Hát then - Đàn tính của các dân tộc Tày,
Nùng, Thái và nhiều ngày lễ hội khác nhằm củng cố sự đoàn kết giữa các dân tộc,
vận động đồng bào các dân tộc giữ gìn và phát huy giá trị di sản và truyền thống
văn hoá tốt đẹp của các dân tộc; mở các lớp truyền dạy văn hoá truyền thống phi
vật thể, các nghề thủ công truyền thống của các dân tộc ít người như Bố Y, Ơ Đu,
Brâu, Rơ Măm, Chứt, Si La... do chính các nghệ nhân truyền dạy lại cho thế hệ trẻ
sau này. Từ đó, giáo dục truyền thống yêu nước, sự tôn vinh bản sắc văn hoá dân
tộc góp phần củng cố, tăng cường sức mạnh khối Đại đoàn kết các dân tộc.
Về giáo dục, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều khuyến khích, ưu tiên cho các
DTTS thiểu số trong thi cử, đặc biệt là tại Khoản 1 và Khoản 7 Điều Thông tư
09/2020/TT-BGDĐT. Các điều lệ này quy định công dân Việt Nam là DTTS tại
khu vực 1 sẽ được cộng 2 điểm trong bài thi THPT Quốc gia, và các khu vực còn
lại sẽ được cộng 1 điểm. Bên cạnh đó, Đảng cũng đề ra chính sách miễn, giảm học

9
phí đối với sinh viên, học sinh DTTS. Đối với sinh viên DTTS, theo Quyết định số
66/2013/QĐ-TTg, các sinh viên này được hỗ trợ bằng 60% mức lương tối thiểu
chung và hưởng không quá 10 tháng/năm học/sinh viên. Còn đối với học sinh, theo
Nghị định số 81/2021/NĐ-CP, các trẻ em, học sinh, thuộc đồng bào DTTS sẽ giảm
từ 70% đến 100% tiền học phí tại các trường học công lập trên toàn quốc. Pháp
luật Việt Nam quy định rằng: Nhà nước phải ưu tiên phát triển giáo dục ở miền
núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Trong
những năm qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào DTTS và miền núi như: Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020, Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,... Theo kết quả điều tra của Tổng cục
Thống kê và Uỷ ban Dân tộc công bố về tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc
thiểu số, tính đến ngày 01/08/2015, số lượng người DTTS biết đọc, biết viết đạt
79,8%; tỷ lệ người có việc làm đã qua đào tạo từ 15 tuổi trở lên đạt 6,2%; tỷ lệ học
sinh trong độ tuổi đi học, đi học đúng cấp đạt 70,2%... Ngoài ra, với các chính sách
cử tuyển nhiều dân tộc thiểu số như các dân tộc Hà Nhì, Cơ Lao, Pà Thẻn,... lần
đầu tiên có học sinh được cử tuyển đi học các trường trung cấp, cao đẳng, đại học.
Những ưu tiên trên cũng đã thể hiện được phần nào tính bình đẳng về giáo dục
giữa các dân tộc và phát triển giáo dục ở vùng đồng bào DTTS mà Đảng và Nhà
nước Việt Nam đang hướng đến.
Về y tế, mạng lưới y tế ở vùng DTTS và miền núi tiếp tục phát triển, hệ thống bệnh
viện tỉnh- huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư. Vào năm 2003, Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày
12/3/2003 về Công tác dân tộc, trong đó sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ vùng
đồng bào DTTS và miền núi được đặc biệt quan tâm. Nghị quyết đã đạt được kết
quả tích cực, tính đến năm 2018, cả nước đã có 98,4% số xã của các DTTS có đầy
đủ trạm y tế, cơ sở y tế; 96% số thôn bản có nhân viên y tế, và 76% số xã đạt tiêu
chí quốc gia về ý tế xã trong giai đoạn 2011-2020. Ngoài ra, Nhà nước đã hỗ trợ
mua Bảo hiểm y tế cho đồng bào DTTS ở vùng khó khăn, tỷ lệ bảo hiểm y tế đối
với các đồng bào DTTS ngày càng được cải thiện, tăng từ 8% vào năm 1998 lên
đến 80% vào năm 2013 và đặc biệt tại các xã khó khăn đã lên đến 84%. Theo quy
định, đồng bào DTTS sinh sống ở vùng kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn được
nhà nước đóng 100% kinh phí bảo hiểm y tế và không phải cùng chi trả chi phí
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế. Qua đó, người nghèo, các đồng bào DTTS, trẻ em
hay các đối tượng ở khu vực khó khăn ngày càng có thêm cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ y tế cơ bản, các dịch vụ chữa bệnh miễn phí. Những chính sách này góp
phần giảm bớt gánh nặng chi phí khám chữa bệnh cho người DTTS, tạo điều kiện
10
thuận lợi để ổn định cuộc sống, sản xuất, đẩy mạnh công cuộc xóa đói giảm nghèo,
giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của đồng bào
DTTS đối với Đảng và Nhà nước
2. Việt Nam chống nạn phân biệt chủng tộc
Mặc dù Nhà nước ta đã và đang đề ra những giải pháp cũng như là những hành
động thiết thực nhằm bảo vệ quyền lợi cho công dân, đặc biệt là đối với các DTTS.
Tuy vậy, trong xã hội hiện nay vẫn luôn tồn tại một vấn nạn chính là nạn phân biệt
chủng tộc. Phân biệt chủng tộc (racism) bắt nguồn từ niềm tin vào sự phân chia
loài người thành các chủng tộc khác nhau dựa trên hình dạng bên ngoài, rằng một
chủng tộc này có tính ưu việt hơn các chủng tộc khác dựa trên ngoại hình, và các
chủng tộc không phải mang tính “ưu việt” đó sẽ bị phân biệt đối xử, định kiến, và
chống đối. Phân biệt chủng tộc tồn tại từ rất lâu đời trên thế giới, phổ biến nhất
phải kể đến phân biệt mà người da trắng dành cho người da màu. Ngày nay, dẫu
thế giới đã ngày càng phát triển về mặt nhận thức, phân biệt chủng tộc vẫn là một
vấn đề vô cùng nhức nhối. Đặc biệt trong những năm gần đây là sự kiện cái chết
của George Floyd đã dẫn đến phong trào Black Lives Matter bùng nổ mạnh mẽ vào
tháng 6/2020; hay việc kỳ thị, đổ lỗi cho người châu Á vì đại dịch Covid-19 đã dấy
lên phong trào Stop Asian Hate. Đối với Việt Nam thì mức độ đa dạng chủng tộc ở
nước ta vẫn còn khá ít khi hằng ngày ta tiếp xúc chủ yếu với những người có ngoại
hình khá giống nhau: da vàng, tóc đen, nói tiếng Việt,... Tuy là vậy nhưng không
phải là không có sự phân biệt chủng tộc ở ngay đất nước ta.
Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ, và tiến bộ xã hội trên thế giới, Việt Nam đã thực
hiện nhiều chính sách nhằm chống lại phân biệt chủng tộc – một vấn đề “nóng”
trên toàn cầu ngày nay. Tiêu biểu là vào ngày 9-6-1981, Việt Nam đã gia nhập
Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, màu da,
dòng dõi, dân tộc hoặc gốc người thiểu số (CERD), với bốn lần đệ trình Báo cáo
quốc gia về thực hiện Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000, và 2012.
Việt Nam luôn coi trọng và nghiêm túc triển khai các khuyến nghị của Uỷ ban
Công ước CERD nêu ra và luôn tuân thủ các nguyên tắc, quy định của Công ước
và hiện thực hoá các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền phổ biến và đặc thù của
DTTS trong quản lý nhà nước và các chương trình phát triển kinh tế - xã, cụ thể là
không phân biệt đối xử với nước ngoài, cho phép họ tự do sinh sống, học tập, làm
việc dưới cùng một quy chế pháp lý hành chính và khuyến khích hòa nhập lành
mạnh vào đời sống xã hội Việt Nam. Việt Nam còn là thành viên của hầu hết các
điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người như: Công ước về các quyền

11
dân sự, chính trị; Công ước về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội; Công ước về
ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng... Tất cả những chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước Việt Nam đều tôn trọng quyền và chống sự phân biệt
của người dân, đồng thời tạo mọi điều kiện tối đa để các cộng đồng DTTS Việt
Nam có cơ hội bình đẳng để phát triển, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Qua
đó, khẳng định đường lối nhất quán của Việt Nam ta chính là các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển; kiên quyết phản đối và chống
chia rẽ, kích động hận thù giữa các dân tộc.
3. Việt Nam chống chủ nghĩa bá quyền
Bá quyền (Hegemony) là việc một quốc gia có ưu thế hoặc kiểm soát về chính trị,
kinh tế hoặc quân sự một hay những quốc gia khác. Trong quan hệ quốc tế, các
nước đế quốc thường sử dụng bá quyền nhằm áp lực, bóc lột các nước nhỏ, với ví
dụ điển hình là qua chủ nghĩa thực dân trong lịch sử. Việt Nam ngày nay được xem
là một nước bị ảnh hưởng bởi bá quyền các nước lớn, đặc biệt là các nước tư bản
chủ nghĩa do vị trí địa lý, nền kinh tế đang phát triển, và thể chễ xã hội chủ nghĩa.
Đối với bá quyền về xâm chiếm chủ quyền, đặc biệt là đối với Trung Quốc đối với
nước ta, Việt Nam đã cương quyết phê phán và bác bỏ yêu sách về ranh giới biển
theo đường "lưỡi bò" do Trung Quốc áp đặt. Ngoài ra, Luật Biển Việt Nam được
Quốc hội thông qua ngày 21/6/2012 và có hiệu lực ngày 1/1/2012 khẳng định hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đối với chủ quyền Việt Nam, quy định về hoạt
động trong vùng biển Việt Nam. Trong lúc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương
2014, Việt Nam cũng đã đăng cai APEC 2017 – Việt Nam trên cương vị nước chủ
nhà, nhằm tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Việt Nam cũng đã tham gia các tổ chức đa
phương như Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á (Đối thoại Shangri-La), hay
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), nhằm tăng cường
sức mạnh quốc phòng, chống lại chủ nghĩa bá quyền về chủ quyền dân tộc.
4. Việt Nam xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định, “đoàn kết” là giá trị cốt lõi,
“đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương và biện pháp
quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết

12
toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống nhân dân; động viên
nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào
thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Nhờ đó mà truyền thống
đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta đã tiếp tục được duy trì, củng cố và phát huy
sức mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới đặt ra.
Sức mạnh của khối đoàn kết giữa các dân tộc được thể hiện thông qua thắng lợi
nhiều mục tiêu và đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản đã được ổn định, an ninh -
quốc phòng được giữ vững. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản đã được
Hiến pháp xác định và được thể hiện trên mọi lĩnh vực xã hội. Kinh tế đất nước có
những bước phát triển vượt bậc, đời sống của nhân dân về cơ bản được nâng lên.
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Mặt bằng dân trí đã được
nâng lên, sự nghiệp giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển mạnh.
Bản sắc văn hóa các dân tộc được gìn giữ và phát huy. Việc chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa được quan tâm hơn... Những kết quả
này đã chứng minh rằng chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
thực sự đi vào cuộc sống; đã góp phần quyết định trong việc tăng cường khối đoàn
kết giữa các dân tộc ở nước ta thêm chặt chẽ, hùng mạnh. Tích cực phát huy mạnh
mẽ truyền thống đại đoàn kết dân tộc với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” định hướng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài và khó
khăn. Thành công hay thất bại phụ thuộc trước hết vào sựu đúng đắn của đường
lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
IV – TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên trong lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước, hình thành và phát triển qua nhiều thế hệ. Biểu hiện
cụ thể của nó là: Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động... Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Để trở thành văn hóa đích thực thì những sáng tạo
đó phải hướng về các giá trị nhân văn, hoàn thiện nhận thức, nhân cách con người.
Các giá trị quý báu đó góp phần làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, dân
tộc”. Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm
hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các
cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Trong bối

13
cảnh đất nước ta đang hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc cần được đặc biệt chú trọng. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay,
thanh niên, đặc biệt là sinh viên là lực lượng xung kích, sáng tạo có vai trò quan
trọng to lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Vì họ là lực lượng trực tiếp
tham gia bảo vệ, giữ gìn, bổ sung, phát triển và quảng bá những giá trị bản sắc văn
hóa dân tộc thông qua việc thực hiện nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.

Nói đến bản sắc văn hoá dân tộc là chạm đến các vấn đề về lịch sử, về truyền
thống, về ngôn ngữ, về tính cách. Để thực hiện được điều đó, sinh viên cần tự mình
phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi và rèn luyện cho bản thân những kỹ năng cần thiết,
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, xây dựng bản lĩnh văn hóa, tìm hiểu,
tiếp thu về những phong tục, truyền thống quý báu của dân tộc, hiểu biết sâu sắc về
lịch sử, cũng như niềm tự hào về những đức tính tốt đẹp của người Việt Nam vì lợi
ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Có thể kể đến một
số hoạt động như đọc sách, tìm hiểu, xem phim ảnh về cội nguồn, lịch sử đất nước,
tham quan bảo tàng để hiểu biết sâu sắc hơn về công cuộc dựng nước và giữ nước
của ông cha ta; quan tâm hơn đối với hoạt động văn hóa nghệ thuật truyền thống
của dân tộc; sở hữu một vài bộ trang phục truyền thống của nước nhà; tham gia các
chiến dịch tình nguyện để cống hiến sức mình vào nâng cao tình hình xã hội....
Ngày nay, những hoạt động tìm hiểu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong xã
hội lẫn trong phạm vi nhà trường ngày càng trở nên phong phú, đặc sắc và thú vị
để thu hút sự quan tâm đông đảo của giới trẻ và sinh viên. Sinh viên tham gia tích
cực vào những hoạt động đó cũng chứng tỏ ít nhiều đến các giá trị truyền thống
của dân tộc và góp phần vào công cuộc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc. Những kiến thức về tinh hoa dân tộc được sinh viên tiếp thu sẽ dần dần đi vào
đời sống thực tiễn và tinh thần để hình thành những năng lực, phẩm chất tốt đẹp
cần có đối với lực lượng thanh niên và giáo dục tình yêu của thế hệ đối với văn hóa
truyền thống nước nhà.

14
Tuần lễ bản sắc, một chương trình giúp sinh viên Đại học Kiến trúc TP.HCM tiếp thu những tinh
hoa văn hóa dân tộc đặc sắc của các địa phương trên cả nước thu hút đông đảo sinh viên tham
gia vào tháng 4 năm 2022.

15
Sinh viên Kiến trúc TP.HCM làm infographic tìm hiểu về mỹ thuật truyền thống Việt Nam.

Bên cạnh đó, sinh viên cần phải tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa
hiện đại, nhưng đồng thời phát huy tinh thần yêu nước niềm tự hào dân tộc, gìn giữ
và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của
cha ông, kết hợp học hỏi những tinh hoa văn hóa nhân loại của nền văn minh thế
giới để không ngừng hoàn thiện mình. Dân tộc và vấn đề dân tộc là sự đối thoại,
xâm nhập, đan xen, trao đổi, tác động qua lại và có chút pha trộn giữa các yếu tố
nội sinh và ngoại sinh. Không có nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối đơn lẻ,
thuần khiết và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Không hội
nhập với thế giới bên ngoài thì sớm hay muộn cũng sẽ suy thoái.Những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu
quốc tế là cơ hội để chúng ta tiếp thu thành quả trí tuệ của loài người. Từ đó sáng
tạo nên một nền văn hóa mới: kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân
tộc và quốc tế lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh. Nền tảng có
vững chắc, bản lĩnh có vững vàng mới tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại
một cách đúng đắn, mới chủ động, tự tin hội nhập và làm giàu thêm, sáng lên đặc
trưng văn hóa dân tộc. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự tư duy, năng động, sáng tạo
không ngừng nghỉ của sinh viên, một thế hệ trẻ đầy nhiệt huyết.
16
Các sản phẩm đồ họa của sinh viên ngành Thiết kế đồ họa K21 về văn hóa dân tộc kết hợp với
với phong cách phương Tây (học phần Lịch sử đồ họa).

Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với
những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh, kiên quyết đấu tranh đối
với những những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành nền kinh tế số; đồng thời
cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của Việt Nam. Một số nước lớn lợi dụng quá
trình toàn cầu hóa để tìm cách truyền bá, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa”,
làm phai nhạt, biến dạng các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Thời đại ngày
nay, đặc biệt là thế hệ trẻ, được tiếp xúc với vô vàn thông tin và văn hóa khác
nhau, cho nên việc chọn lọc, tiếp thu thông tin đúng đắn và bài trừ những tệ sùng

17
bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, những luận điệu xuyên
tạc về lịch sử văn hóa truyền thống nước nhà, chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân, vị kỷ... đang gây hại cho thuần phong mỹ tục của dân tộc là điều vô cùng cần
thiết.

Phim Hàn Quốc Little Women (Ba chị em) vừa mới công chiếu trên Neflix đã bị yêu cầu gỡ bõ vì
xuyên tạc lịc sử Việt Nam.

C. KẾT LUẬN
Luận văn đã nêu lên cơ sở lý luận về dân tộc dựa trên quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin và việc giải quyết những vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trên nhiều
lĩnh vực trong thực tiễn của Đảng và Nhà nước trước những cơ hội và thách thức
trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ta hiện nay. Điều này thể
hiện tính ưu việt của những chính sách dân tộc dựa trên sự tiếp thu và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những trào lưu, tư
tưởng tiến bộ về dân tộc của thế giới đương đại để giải quyết vấn đề dân tộc trong
điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ đó, tạo niềm tin của đồng bào các dân
tộc với Đảng và Bác Hồ, với Nhà nước và chế độ ta là thực hiện bình đẳng và đoàn

18
kết thực sự giữa các dân tộc, xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh nhưng đồng
thời còn phải góp phần xứng đáng với thế giới.
Để đạt được thành tựu ấy, đòi hỏi sự chung tay của Nhà nước, xã hội và các cá
nhân, nhất là đối với thế hệ học sinh sinh viên năng động, sáng tạo trong thời đại
đổi mới hiện nay. Bản sắc văn hóa dân tộc và những giá trị truyền thống tinh hoa
của Việt Nam vẫn đang tiếp tục phát triển và ngày càng được quan tâm hơn qua
những nỗ lực đưa văn hóa con người Việt Nam thâm nhập vào đời sống xã hội và
cả trên phạm vi quốc tế. Chúng ta có thể tin tưởng rằng bản sắc văn hóa của Việt
Nam vẫn sẽ tiếp tục được gìn giữ và phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, hòa nhập
với nền văn minh của nhân loại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị). Hà Nội - 2021: Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.

Dung, H. (2016, November 29). Những vấn đề cơ bản cần giải quyết về công tác
dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản.

PV. (2018, October 23). Kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện. Cổng thông tin Điện tử Uỷ ban Dân tộc.

Bùi, S. L. (2022, March 06). Giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi ở nước ta hiện nay. Tạp chí Cộng sản.

(2017, April 11). Đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số khóa XII. Cổng
thông tin Điện tử Uỷ ban Dân tộc.

Văn, D. (2017, December 31). Bình đẳng giữa các dân tộc - Biểu hiện cụ thể của
quyền con người ở Việt Nam. Quân đội Nhân dân.

Bach, D. (2022, April 18). Gìn giữ văn hóa các dân tộc thiểu số: Sự đầu tư không
bao giờ lỗ. Bộ Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch.

Nguyễn, T. H. N. (2021, April 29). Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đồng
bào các dân tộc thiểu số. Dân tộc và Phát triển.

19
Bùi, T. (2022, March 21). Hướng dẫn triển khai Dự án bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.
Ban Dân Tộc.

(2022, January 13). Tăng cường công tác phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu
số - cơ sở quan trọng để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc. Cổng thông tin
Điện tử Uỷ ban Dân tộc.

Cao, C. (2021, August 30). Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào vùng dân
tộc thiểu số và miền núi thời gian qua. Ủy Ban Dân Tộc - Thông Tin, Tuyên
Truyền Về Dân Tộc, Tôn Giáo.

Quốc, V. (2021, August 09). Chăm sóc sức khỏe đồng bào dân tộc thiểu số. Tin
Tức.
Linh, Đ. (2022, April 7). Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt quân sự hoá
Trường Sa. Báo Công an Nhân Dân.

Minh, T. (2022, April 6). Triển khai thực hiện các chính sách tuyển dụng đối với
người dân tộc thiểu số. Quốc Hội.

Lam, A. (2021, January 28). Việt Nam là quốc gia luôn coi trọng và nghiêm túc
trong việc thực thi công ước CERD. Lâm Đồng online
.
(2021, September 26). Việt Nam gia nhập Công ước CERD năm nào?. Nhân
quyền.

(2012, February 22). Việt Nam báo cáo thực hiện Công ước Chống phân biệt
chủng tộc tại Liên hợp quốc. Báo Điện tử.

Nguyen, T. (2014, November 27). Bá quyền (Hegemony). Nghiên Cứu Quốc Tế.

Ngọc, A. (2021, May 2). Chương trình 135: Nhìn lại một chặng đường. Dân tộc và
Phát triển. Báo Dân Tộc.

Quyết định Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016 - 2020. (n.d.). Thư Viện Pháp Luật.

Thương, S. (2021, April 29). Số lượng đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số
ngày càng tăng. Công an Nhân Dân.

20
TS. Lê, H. B. (2022, January 19). Đại đoàn kết toàn dân tộc – Cội nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Tuyên giáo.

Đỗ, V. C. (2022, September 20). Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tạp
chí Mặt trận.

Minh, A. (2022, October 5). Khán giả phẫn nộ khi phim "Little Women" xuyên tạc
lịch sử Việt Nam. Công lý.

(2015, September 10). Vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay. Tạp chí Cộng sản.

Lù, V. Q. (2021, February 23). Mấy suy nghĩ về vấn đề dân tộc và thực hiện chính
sách dân tộc trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

21

You might also like