You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN


MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN VỀ DÂN TỘC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG XHCN.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Họ và tên : Phạm Thị Huyền Trang

Lớp tín chỉ : LLNL1107(122)_28

Mã sinh viên : 11215895

GVHD : TS Nguyễn Văn Hậu

...................................................................... .
HÀ NỘI, NĂM 2022

0
MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................. 2


B. NỘI DUNG ...................................................................................................... 3
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC ................................................................... 3
1. Dân tộc và xu hướng phát triển khách quan của dân tộc theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin ............................................................................................. 3
1.1. Khái niệm về dân tộc và đặc trưng................................................................ 3
1.2. Hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc và vấn đề dân tộc trong
xây dựng CNXH .................................................................................................... 5
2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin ............................................... 6
2.1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng ................................................................. 7
2.2. Các dân tộc được quyền tự quyết .................................................................. 7
2.3. Liên hiệp công nhân các dân tộc ................................................................... 8
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM ................................................................... 8
1. Đối chiếu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin với một số đặc điểm của dân
tộc đất nước ta hiện nay ........................................................................................... 8
2. Sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin vào thực tiễn của cách mạng
Việt Nam ................................................................................................................ 10
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 15

1
A. LỜI MỞ ĐẦU
Khi đề cập đến khái niệm dân tộc, V.I. Lênin cho rằng: Dân tộc là hình thức
cộng đồng người xuất hiện sau bộ lạc và là cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai
cấp, nhà nước. V.I. Lênin cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa cùng với việc xóa bỏ
chế độ bóc lột tư bản, đồng nghĩa với việc chấm dứt sự thống trị của giai cấp tư sản đối
với dân tộc và dân tộc tư sản sẽ được thay thế bằng dân tộc xã hội chủ nghĩa mà người
đại diện chân chính là giai cấp công nhân, mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết và mối
quan hệ giữa các dân tộc được duy trì và phát triển theo nguyên tắc bình đẳng. Vận
dụng lý luận của C. Mác, Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã phát triển
thành học thuyết quan trọng, khoa học. Thực tế cho thấy, đây một hệ thống tư tưởng,
lý luận hoàn chỉnh kết hợp chặt chẽ tính khoa học và cách mạng trong học thuyết Mác
- Lênin về vấn đề dân tộc.
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề hết sức nhạy cảm của tất
cả các dân tộc và của các quốc gia trong thời đại ngày nay. Ở Việt Nam, vấn đề dân
tộc và giải quyết vấn đề dân tộc được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là vấn đề hết
sức quan trọng trong xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước, với quan điểm: Bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, nhằm phát huy khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, việc giải quyết “Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc”
của V.I. Lênin vẫn còn nguyên giá trị. Đây là vấn đề luôn có tính thời sự và cấp bách
trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, góp phần đấu tranh chống lại mọi
luận điệu sai trái, phản động, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học, nhân văn của
chủ nghĩa V.I. Lênin trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những thực tiễn trên, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách
mạng XHCN. Liên hệ thực tiễn Việt Nam” cho bài tiểu luận của mình. Việc nghiên
cứu đề tài này là có ý nghĩa vô cùng thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, do
trình độ và vốn hiểu biết của em còn hạn hẹp nên không thể tránh khỏi những thiếu sót
trong quá trình viết tiểu luận, rất mong nhận được sự đóng góp của Thầy để bài viết
của em được hoàn thiện hơn.
2
B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Dân tộc và xu hướng phát triển khách quan của dân tộc theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

1.1. Khái niệm về dân tộc và đặc trưng


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu
dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên
nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng người.
Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản được xác lập
thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở của sự
phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá đã làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau. Nền
kinh tế tự cấp, tự túc bị xoá bỏ, thị trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép kín
được mở rộng thành thị trường dân tộc. Cùng với quá trình đó, sự phát triển đến mức
độ chín muồi của các nhân tố ý thức, văn hoá, ngôn ngữ, sự ổn định của lãnh thổ
chung đã làm cho dân tộc xuất hiện. Chỉ đến lúc đó tất cả lãnh địa của các nước
phương Tây mới thực sự hợp nhất lại, tức là chấm dứt tình trạng cát cứ phong kiến và
dân tộc được hình thành.
Ở một số nước phương Đông, do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước
và giữ nước, dân tộc đã được hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản được xác lập trên
cơ sở một nền văn hóa, một tâm lý dân tộc đã phát triển tương đối chín muồi và trên cơ
sở một cộng đồng kinh tế tuy đã đến một mức độ nhất định song nhìn chung còn kém
phát triển và ở một trạng thái phân tán.
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa cơ bản dưới đây:
Nghĩa thứ nhất, (nghĩa hẹp) dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ
chặt chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng (ngôn ngữ tộc
người), có những nét đặc thù về văn hoá; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát
triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác
tộc người của dân cư cộng đồng đó. Ví dụ, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc bao
gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Theo nghĩa này, dân tộc là cộng đồng người
được hình thành lâu dài trong lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản sau:
3
- Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngôn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là
vấn đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát
triển tộc người vì nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không còn
ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
- Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở mỗi
tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo của tộc người đó. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền
thống văn hóa của họ. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa vẫn song song
tồn tại xu thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
- Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một tộc
người và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Đặc
trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân tộc
mình; đó còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người dù
cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh
hưởng của giao lưu kinh tế, văn hóa... Sự hình thành và phát triển của ý thức tự
giác tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc
người.
Nghĩa thứ hai, (nghĩa rộng) dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm
thành nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ
chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch
sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Theo nghĩa này dân tộc là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc gia - dân
tộc. Ví dụ, dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Lào Từ cách hiểu như vậy ta
thấy, khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau, dân tộc bao giờ cũng ra đời trong một quốc gia nhất định và thực tiễn lịch sử
chứng minh rằng những nhân tố hình thành dân tộc không tách rời khỏi những nhân tố
hình thành quốc gia, chúng bổ sung cho nhau trong quá trình phát triển. Dân tộc theo
nghĩa rộng bao gồm những đặc trưng như sau:

4
- Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của
dân tộc và là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền
tảng vững chắc của dân tộc.
- Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt, là địa bàn sinh tồn và phát triển
của cộng đồng dân tộc. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển, hải
đảo, vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc và thường được thể chế hoá
thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan
trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.
- Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước - dân tộc độc lập.
- Có ngôn ngữ chung của quốc gia làm công cụ giao tiếp trong xã hội và trong
cộng đồng (bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết).
- Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của
nền văn hóa dân tộc. Đối với các quốc gia có nhiều tộc người thì tính thống nhất
trong đa dạng văn hóa là đặc trưng của nền văn hoá dân tộc.

1.2. Hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc và vấn đề dân tộc
trong xây dựng CNXH
Nghiên cứu vấn đề dân tộc, V. I. Lênin phát hiện ra hai xu hướng khách quan
trong sự phát triển của dân tộc.

Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành thành cộng đồng
dân tộc độc lập. Nguyên nhân là do sự thức tỉnh, sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý
thức về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra để thành lập các
dân tộc độc lập. Xu hướng này thể hiện rõ nét trong phong trào đấu tranh giành độc lập
của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của các
nước thực dân đế quốc. Ví dụ như cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam nhằm thoát
khỏi sự áp bức bóc lột của thực dân pháp 1945.

Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học, công nghệ, của
giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng
rào ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

5
Trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, sự vận động của hai xu hướng trên gặp
nhiều khó khăn. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở bình đẳng và tự
nguyện bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là nhứng khối liên hiệp với sự áp
đặt, thống trị của chủ nghĩa đế quốc nhằm bóc lột, áp bức những nước còn nghèo và
lạc hậu. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, giai cấp công nhân đã trở
thành giai cấp cầm quyền, tạo tiền đề cho tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng
thời cũng mở ra quá trình hình thành và phát triển dân tộc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện khi có sự cải tạo, xây dựng từng bước
cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ xã hội, quan hệ dân tộc theo các nguyên lý của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời từ kết
quả toàn diện trên mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong thời đại ngày nay, hai xu hướng này diễn ra với những biểu hiện rất đa
dạng và phong phú Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa, xu hướng thứ
nhất thể hiện sự nỗ lực của từng quốc gia để đi tới sự tự chủ, phồn thịnh của dân tộc
mình, xu hướng thứ hai thể hiện ở chỗ các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại
gần nhau, hòa hợp với nhau ở mức độ ngày càng cao trong mọi lĩnh vực.

Ví dụ, sự hình thành Liên bang Xô Viết sau thắng lợi của cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 (gồm 15 quốc gia cộng hòa hợp nhất). Ở các quốc gia xã
hội chủ nghĩa, hai xu hướng này tác động cùng chiều, bổ sung cho nhau và diễn ra
trong từng dân tộc và trong cả cộng đồng quốc gia. Xét trên phạm vi thế giới, xu
hướng thứ nhất thể hiện trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc
bị áp bức, hoặc là đấu tranh để thoát khỏi sự kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc.

2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin


Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân
tộc và giai cấp, cùng với sự nghiên cứu hai xu hướng khách quan trong quá trình phát
triển dân tộc, V.I. Lênin đã xây dựng nên “Cương lĩnh dân tộc”, đây cũng chính là
những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Cương lĩnh dân tộc bao
gồm ba nội cung chính:

6
2.1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ xã hội cũng
như quan hệ quốc tế; không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc
khác. Trong một quốc gia nhiều dân tộc sự bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội...giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thể hiện
sinh động trong thực tế. Trên phạm vi quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện
nay đòi hỏi trước hết phải thủ tiêu tình trạng giai cấp này áp bức giai cấp khác để trên
cơ sở đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác, tạo điều kiện để các dân
tộc giúp đỡ nhau phát triển trên con đường tiến bộ.
Chống những biểu hiện sai trái với quyền bình đẳng dân tộc. Đó là: Chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc; chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa
phát xít mới; phấn đấu xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống áp bức bóc lột
nặng nề của các nước tư bản phát triển với các nước kém phát triển. Bình đẳng dân tộc
là quyền thiêng liêng của dân tộc và là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự
nghiệp giải phóng. Nó là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối
quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.

2.2. Các dân tộc được quyền tự quyết


Thực chất đây là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh
của dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc) khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên
theo con đường tiến bộ xã hội. Quyền dân tộc tự quyết trước hết là tự quyết về chính
trị: quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập (quyền phân lập), quyền các dân tộc
tự nguyện liên hợp lại thành một liên bang trên cơ sở bình đẳng giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ (quyền liên hiệp).
Khi xem xét và giải quyết quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập
trường quan điểm của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến
bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc
biệt là phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Kiên quyết đấu tranh
chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế lợi
dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước cũng

7
như giúp đỡ các thế lực phản động, thế lực dân tộc chủ nghĩa đàn áp các lực lượng tiến
bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, của CNTB.
Quyền dân tộc tự quyết là một quyền cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xoá bỏ
sự hiềm khích, thù hằn giữa các dân tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các
dân tộc; phát huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại.

2.3. Liên hiệp công nhân các dân tộc


Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là
tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản, nó phản ánh bản chất
quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để
giành thắng lợi. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc qui định mục tiêu hướng tới,
quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết,
quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công
nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng
rãi thuộc các dân tộc, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc
và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên
kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân
các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà trong thời đại ngày nay đã trở
thành sức mạnh cực kỳ to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính
đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.

II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

1. Đối chiếu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin với một số đặc điểm
của dân tộc đất nước ta hiện nay
Nước ta có 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn
lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước. Có 10 dân tộc có số dân
từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người, 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16 dân
tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1
ngàn người.
Đăc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân tộc,
hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống, thành sức
8
mạnh và đã được thử thách trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay. Trải qua lịch sử chống
giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một quốc gia dân tộc
thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng khách quan cố kết các
dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một tương lai
tiền đồ. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực thì có nơi có lúc cũng xảy ra hiện tượng
tiêu cực trong quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn
dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ của nước ta. Do đó, phát
huy truyền thống đoàn kết, xóa bỏ thành kiến, nghi kị dân tộc và kiên quyết đập tan âm
mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của nhân dân tatrong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu vực
nhất định có những dân tộc sống tươngđối tập trung, nhưng không thành địa bàn riêng
biệt. Do đó, các dân tộc nước ta không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng và
sự thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội
ngày càng được củng cố.
Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa các dân tộc,
giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc phục dần sự
chênh lệch để thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta.nhiều dân tộc có trình
độ rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của bà con dân tộc
thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn
mù chữ và tái mù chữ còn xuất hiện ở nhiều nơi. Đường giao thông và phương tiện đi
lại còn khó khăn, điện và nước phục vụ cho đời sống còn rất khan hiếm, thông tin, bưu
điện còn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân ở nhiều nơi nhất là ở những vùng
xa xôi, hẻo lánh...Do điều kiện tự nhiên, xã hội,hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên các dân tộc mới có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa....
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi vì bất cứ
dân tộc nào dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa riêng, phản ánh truyền
thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân tộc bằng những bản sắc văn hóa độc
đáo. Đặc trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói, văn hóa,
9
nghệ thuật, tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dòng họ....
Một số dân tộc có chữ viết riêng như: Thái, Chăm, Mông, Giarai,... Một số dân tộc
thiểu số gắn với một vài tôn giáo truyền thống như: đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành,
đạo Thiên Chúa ...Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn hóa
riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản
sắc văn hóa của từng dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng.

2. Sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin vào thực tiễn của cách mạng
Việt Nam

Tư tưởng lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc được vận dụng vào nước ta
thông qua Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng do Người sáng
lập và rèn luyện). Tư tưởng chỉ đạo và phương pháp luận cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận Mác -
Lênin về vấn đề dân tộc nói riêng là kết hợp tinh thần kiên định với phát triển sáng tạo.
Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu từ đọc và thấm nhuần nội dung cốt lõi
trong “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.
Lênin.
Đứng trên lập trường cộng sản để phân tích sự nghiệp giải phóng dân tộc của
nhân dân ta, từ năm 1923, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp
vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản” (Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 1, 1995, tr.416). Năm
1959, tổng kết một chặng đường vẻ vang mà đất nước đã trải qua Hồ Chí Minh lại
viết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 9, 1995, tr.314).
Hồ Chí Minh luôn kiên định lập trường Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp: Vấn đề dân tộc luôn gắn bó với vấn đề giai cấp và phải
được xem xét, giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân. Đồng thời, xuất phát
từ tình hình thực tế nước ta, Người cũng nhấn mạnh tính độc lập tương đối, vị trí, vai
trò vô cùng quan trọng của vấn đề dân tộc. Năm 1941, khi từ nước ngoài trở về nước
để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc tình hình
trong nước và chỉ rõ: “Lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi
nước sôi lửa nóng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 3, 1995, tr.198). Nhìn nhận vấn đề
10
dân tộc “cao hơn hết thảy” là hoàn toàn đúng đắn, chẳng những phản ánh đúng mâu
thuẫn của xã hội ta lúc đó, mà còn vì nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì
công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới theo con đường xã hội chủ nghĩa
nhằm giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giải phóng toàn xã hội chỉ
là những mong muốn viển vông. Phát triển tư tưởng trên đây trên cơ sở tổng kết thực
tiễn cách mạng nước ta và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh khẳng định “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”. Điều đó đã trở thành chân lý lớn của thời đại.
Trên cơ sở lĩnh hội thực chất nội dung Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin và từ
thực tế các dân tộc ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng về bình đẳng,
đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ ở nước ta. Ngay từ năm 1946, trong thư gửi Đại
hội các dân tộc thiểu số ở miền Nam tại Pleiku, Hồ Chí Minh đã viết: “Ngày nay nước
Việt Nam là nước chung của chúng ta... giang sơn và Chính phủ là giang sơn và chính
phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ
gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính
trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu
chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không
bao giờ giảm bớt” (Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4, 1995, tr.217). Đoạn trích trên thể
hiện những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa
các dân tộc ở nước ta. Theo đó, bình đẳng dân tộc được Người nhấn mạnh đầu tiên.
Các dân tộc bình đẳng về quyền lợi trong đó quyền lợi tối cao là cùng nhau làm chủ
đất nước “Nước Việt Nam là nước chung của chúng ta”, “giang sơn và Chính phủ là
giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta”; vậy cho nên các dân tộc cùng bình đẳng
về nghĩa vụ, trong đó nghĩa vụ nặng nề và cao cả nhất là “cùng nhau giữ gìn nước non
ta, “ủng hộ Chính phủ ta”. Nội dung thứ hai được Người nhấn mạnh là đoàn kết và chỉ
rõ đây là đoàn kết giữa các dân tộc anh em vốn gắn bó máu thịt trong cùng một quốc
gia, do đó là sự đoàn kết “thương yêu nhau”, “kính trọng nhau”. Đoàn kết để đấu tranh
chống kẻ thù, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, để xây dựng xã hội mới làm cho mọi
người các dân tộc được ấm no, hạnh phúc. Nội dung thứ ba được Người nhấn mạnh,
đó là “các dân tộc phải giúp đỡ nhau”. Đây là sự giúp đỡ nhau trên tinh thần bình
đẳng, có đi có lại, trong đó dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số có điều kiện phát triển
cao hơn có trách nhiệm và vinh dự giúp đỡ các dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn

11
và hiện đang còn ở trình độ lạc hậu để cùng tiến lên phía trước. Đó là sự giúp đỡ chân
thành, vô tư không giống sự ban ơn, chiếu cố...
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng trực tiếp để Đảng và Nhà nước ta xây dựng
đường lối, chính sách dân tộc trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta cũng như lãnh
đạo, tổ chức thực hiện chính sách đó. Tư tưởng lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thể hiện trên các nội dung sau:
Một là, “phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc
tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” (C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập. Tập 4, 1995, tr.623-624). Nội dung này không chỉ có ý nghĩa
khẳng định rằng sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản trở thành người đại
biểu chân chính và chính thức của dân tộc mà còn chỉ ra rằng giai cấp vô sản, nhất là
đội tiền phong của nó phải “hóa thân” vào dân tộc, trở thành hiện thân của dân tộc
trong suốt tiến trình lãnh đạo toàn dân tộc cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Trên
cấp độ hệ tư tưởng, trước đây Đảng ta khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin, ngay từ Đại hội lần thứ IX, Đảng chính thức tuyên bố nền tảng tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2001, tr.20). Hồ Chí Minh là chiếc cầu nối vĩ đại giữa chủ nghĩa Mác -
Lênin và tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam.
Theo tinh thần đó, phải làm sao để quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc được quán triệt trong mọi lĩnh
vực hoạt động của xã hội ta. Chẳng hạn, chúng ta đang xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; nhưng cũng rất cần làm cho tiến trình phát triển kinh tế ở
nước ta được triển khai trên cơ sở phát huy tối đa những tiềm năng kinh tế của đất
nước, những kinh nghiệm truyền thống của dân tộc, để trở thành một chủ thể kinh tế
độc lập mang đặc trưng dân tộc hòa nhập vào môi trường kinh tế thế giới. Trong đổi
mới bộ máy nhà nước, cần quan tâm đến công việc cải cách hành chính, cần quan tâm
thích đáng đến việc kế thừa và phát huy mọi giá trị truyền thống của khoa học và nghệ
thuật “trị quốc” của cha ông ta. Trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, song song
với nội dung giáo dục, rèn luyện về lập trường, ý thức giai cấp công nhân phải quan
tâm đầy đủ đến nội dung giáo dục, rèn luyện về chủ nghĩa yêu nước. Ở nước ta, ý thức
xã hội chủ nghĩa vừa là kết quả của sự phát triển ý thức giai cấp đến độ chín muồi, vừa
là kết quả của sự phát triển ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước đến độ thuần thục. Công
12
việc cải cách giáo dục căn bản, toàn diện hiện nay phải làm sao tiếp thu được những tri
thức giáo dục hiện đại của thế giới, nhưng trước hết phải kế thừa được những tinh hoa
của nền giáo dục dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử.
Hai là, V.I. Lênin đã phát hiện hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân
tộc. Hiện nay cần xem xét biểu hiện của hai xu hướng đó trong bối cảnh toàn cầu hóa
và tìm cho được giải pháp phát huy những thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Xem xét dưới góc độ của vấn đề dân tộc, nét bao quát của giai đoạn lịch sử hiện
nay so với giai đoạn của V.I. Lênin là toàn cầu hóa diễn ra với nhịp độ ngày càng tăng
gây nên những tác động vừa tích cực vừa tiêu cực. Toàn cầu hóa gây nên tác động làm
thu hẹp quyền lực, phạm vi, hiệu quả hoạt động của các nhà nước dân tộc, quốc gia,
quá trình này gây nên tác động tiêu cực đối với nền độc lập và chủ quyền của dân tộc,
quốc gia. Trong lĩnh vực tinh thần toàn cầu hóa có thể tác động như là sự đồng hóa
cưỡng bức về văn hóa, làm mất bản sắc độc đáo của nền văn hóa dân tộc, quốc gia,
đồng thời tạo điều kiện cho sự quốc tế hóa cả những hiện tượng phản văn hóa như các
tệ nạn xã hội, mất an ninh trật tự…
Ở nước ta cần vận dụng giải pháp tổng thể cho vấn đề này là: Đảng và Nhà
nước ta thực hiện chính sách mở cửa để hội nhập vào dòng vận động chung của nhân
loại đang tiến lên phía trước, đồng thời có phương sách hữu hiệu giữ gìn, phát huy bản
sắc của dân tộc, quốc gia, lấy nó làm nền tảng để giữ vững độc lập, chủ quyền, tránh
nguy cơ bị đồng hóa do các thế lực lợi dụng xu hướng toàn cầu hóa gây nên. Cần tìm
cách thức hữu hiệu để phổ cập nhận thức đó trong toàn dân.
Ba là, từ vận dụng lý luận của Lênin trong vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc
và tư tưởng chiến lược đại đoàn kết, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
đúng vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân tộc thiểu số ở nước ta, chỉ ra một số nội
dung cần vận dụng trong thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong vấn đề dân tộc, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh
là chúng ta cần nhận thức đúng và khơi dậy những tiềm năng to lớn ở vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số và miền núi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, làm cơ sở vững
chắc thực hiện bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Trong đó chỉ
ra 5 điểm lớn về xây dựng văn hóa dân tộc như sau: (1) Xây dựng tâm lý: Tinh thần
độc lập tự cường. (2) Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. (3)

13
Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
(4) Xây dựng chính trị: Dân quyền. (5) Xây dựng kinh tế”.
Trong vấn đề dân tộc, Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện quan
điểm sâu sắc về vấn đề cán bộ vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhằm thực hiện các
dân tộc đoàn kết, tôn trọng, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển. Trong công tác xây
dựng Đảng cũng như trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ là tiền vốn của
đoàn thể”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Cán bộ quyết định mọi việc”. Từ
những luận điểm ấy, có thể thấy rõ cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, quyết định sự thành bại của cách mạng nói chung và của việc thực hiện chiến
lược đại đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển. Vì vậy, “Huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Việc đó không được làm qua loa, đại khái. Đó là
công việc mà Đảng phải bỏ nhiều công sức, phải được tiến hành “chu đáo, công phu”.
“Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”.
Giống cây có tốt, có quý đến mấy nhưng nếu không được vun trồng, chăm sóc cẩn
thận thì cũng không tránh khỏi sâu bệnh, úng hạn, rất dễ bị thui chột, cằn cỗi, không
thể phát triển, không thể đơm hoa kết trái.

C. KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đã được V.I. Lênin chỉ ra rằng:
Trong các cuộc cách mạng việc giải quyết đúng đắn quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
hai xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc; đấu tranh chống chủ nghĩa dân
tộc cực đoan và cần thực hiện tốt cương lĩnh về vấn đề dân tộc đó là việc làm của
những người cộng sản trong thực hiện các cuộc cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đã vận dụng lý luận của
Lênin một cách sáng tạo trong vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc và từ tư tưởng
chiến lược - đại đoàn kết dân tộc trong các cuộc cách mạng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định đúng vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân tộc ở nước ta, chỉ
ra những nội dung cần vận dụng trong thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế: “Bình
đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển” giữa các dân tộc.

14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2011). Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin. NXB Chính trị quốc gia sự thật.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. NXB
Chính trị quốc gia sự thật.
3. Hội đồng xuất bản C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập. (1995). C. Mác và Ph. Ăng-
ghen toàn tập. NXB Chính trị quốc gia sự thật.
4. Hồ Chí Minh. (2011). Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Chính trị quốc gia sự thật.
5. Mấy suy nghĩ về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trong chiến lược
đại đoàn kết toàn dân.
http://mattran.org.vn/dan-toc-ton-giao/may-suy-nghi-ve-van-de-dan-toc-va-thuc-
hien-chinh-sach-dan-toc-trong-chien-luoc-dai-doan-ket-toan-dan-36443.html
6. Tư tưởng V.I.Lênin về quan hệ giai cấp - dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3164-tu-tuong-
vilenin-ve-quan-he-giai-cap-dan-toc-va-su-van-dung-cua-dang-cong-san-viet-
nam.html
7. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/35133/van-de-
dan-toc-o-viet-nam-trong-boi-canh-toan-cau-hoa-hien-nay.aspx
8. Vận dụng đúng đắn Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cơ sở thực
tiễn trong chính sách dân tộc.
http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/Hoc-tap-lam-theo-loi-Bac/Van-
dung-dung-dan-Chu-nghia-Mac-Lenin-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-va-co-so-thuc-tien-
trong-chinh-sach-dan-toc-3759/

15

You might also like