You are on page 1of 6

Nguồn gốc hình thành dân tộc

Các khuynh hướng phát triển của các dân tộc


trên thế giới hiện nay.

Họ tên : Hà Sầm Dĩnh Hân

MSSV: 1953401020055

Lớp: 107-QTL44(A1)
Nguồn gốc hình thành dân tộc
Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp tư
sản đã ngày càng xóa bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư và
đã tạo nên những "dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một luật pháp thống
nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất mang tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống
nhất". Vậy theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ những cộng đồng người có
bốn đặc trưng: cộng đồng về ngôn ngữ; cộng đồng về lãnh thổ; cộng đồng về kinh tế;
cộng đồng về văn hóa, về tâm lý, tính cách. Những cộng đồng người được gọi là “dân tộc”
là kết quả của sự phát triển hết sức lâu dài của các cộng đồng người trong lịch sử nhân
loại: từ cộng đồng thị tộc, bộ lạc đến cộng đồng bộ tộc và phát triển lên hình thức tổ chức
cộng đồng được gọi là dân tộc. Đồng thời, sự hình thành dân tộc theo nghĩa này thường
gắn với hình thức tổ chức nhà nước vì thế cũng còn thường được gọi là “quốc gia – dân
tộc” (quốc gia – dân tộc Việt Nam, quốc gia – dân tộc Mỹ,…). Trong các tác phẩm kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm dân tộc thường được sử dụng theo nghĩa này.
Nhưng ngoài ra “dân tộc” còn được hiểu theo nghĩa hẹp như chỉ cộng đồng người có mối
liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét
văn hoá đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố
tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng
đồng đó.Theo nghĩa này, dân tộc được hiểu như một tộc người hay một dân tộc trong một
quốc gia đa dân tộc (Việt Nam chúng ta có 54 dân tộc anh em, Trung Quốc có 55 dân
tộc).
Theo nghĩa rộng, dân tộc là toàn bộ dân cư của một nước. Đây là một cộng đồng người
hình thành trong lịch sử có những đặc điểm chung sau:
1. Chung một nền kinh tế - chính trị nhất định (Đây là một đặc trưng quan trọng nhất
của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên
của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc)
2. Có chung một lãnh thổ quốc gia
3. Có quốc ngữ - ngôn ngữ chung cho quốc gia đó
4. Có sự thống nhất về truyền thống văn hoá
(Ví dụ: Dân tộc Việt Nam, một cộng đồng người có đặc điểm chung sau:
1. Chung một nền kinh tế - chính trị là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và nền chính trị đi theo nguyên mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa độc đảng.
2. Có chung một lãnh thổ quốc gia hình chữ S nằm ở rìa phía Đông bán đảo Đông
Dương kéo dài từ vĩ độ 23o23’ Bắc đến 8o27’ Bắc với đường biên giới trên đất liền
dài 4.639km, tiếp giáp với Lào và Campuchia ở phía Tây, với Trung Quốc ở phía
Bắc và Biển Đông ở phía Đông.
3. Có quốc ngữ là các ký tự Latinh, dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ
Roman đặc biệt là bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha với các dấu phụ chủ yếu từ
bảng chữ cái Hy Lạp.
4. Có sự thống nhất về truyền thống văn hoá với ba đặc trưng chính: 1.Nền văn hoá
phong phú, đa dạng trên tất cả các khía cạnh đầy ý nghĩa và phù hợp với thuần
phong mỹ tục. 2.Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc đã
tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng rất riêng tại Việt Nam. 3.Với
một bề dày lịch sử, những văn hoá đã hội tụ tinh hoa qua hàng nghìn năm )
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là các tộc người trong một quốc gia nhiều dân tộc khác nhau.
Đây là những cộng đồng có chung những đặc điểm như:
1. Có chung ngôn ngữ
2. Có chung lịch sử, nguồn gốc
3. Có chung nét văn hoá đặc sắc
4. Có ý thức tự giác dân tộc
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng trên, các
đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng
có một vị trí xác định. Sự tổng hợp các đặc trưng nêu trên làm cho các cộng đồng dân tộc
được đề cập ở đây - về thực chất là một cộng đồng xã hội - tộc người, trong đó những
nhân tố tộc người đan kết, hoà quyện vào các nhân tố xã hội. Điều đó làm cho khái niệm
dân tộc khác với các khái niệm sắc tộc, chủng tộc - thường chỉ căn cứ vào các đặc điểm
tự nhiên, chẳng hạn màu da hay cấu tạo tự nhiên của các bộ phận trong cơ thể để phân
loại cộng đồng người.
Về sự hình thành các dân tộc – quốc gia ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và thay thế vai trò của phương thức sản xuất
phong kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng
hoá đã làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau. Nền kinh tế tự cấp, tự túc bị xoá bỏ, thị
trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép kín được mở rộng thành thị trường dân tộc.
Cùng với quá trình đó, sự phát triển đến mức độ chín muồi của các nhân tố ý thức, văn
hoá, ngôn ngữ, sự ổn định của lãnh thổ chung đã làm cho dân tộc xuất hiện. Chỉ đến lúc
đó tất cả lãnh địa của các nước phương Tây mới thực sự hợp nhất lại, tức là chấm dứt tình
trạng cát cứ phong kiến và dân tộc được hình thành.
Ở một số nước phương Đông, do tác động của hoàn cảnh mang tính đặc thù, đặc biệt do
sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc đã hình thành trước
khi chủ nghĩa tư bản được xác lập. Loại hình dân tộc tiền tư bản đó xuất hiện trên cơ sở
một nền văn hoá, một tâm lý dân tộc đã phát triển đến độ tương đối chín muồi, nhưng lại
dựa trên cơ sở một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ nhất định nhưng nhìn
chung còn kém phát triển và còn ở trạng thái phân tán.
Nghiên cứu khái niệm và các đặc trưng của dân tộc cần thấy rằng: khái niệm dân tộc và
khái niệm quốc gia gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì, dân tộc ra đời trong một quốc gia
nhất định, thông thường thì những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi không tách rời
với sự chín muồi của những nhân tố hình thành quốc gia – chúng bổ sung và thúc đẩy lẫn
nhau.
Nếu như cộng đồng thị tộc (trong xã hội nguyên thuỷ) mang tính thuần tuý tộc người,
trong đó quan hệ huyết thống còn đóng vai trò chi phối tuyệt đối, thì ở cộng đồng bộ lạc
và liên minh bộ lạc (xuất hiện vào cuối xã hội nguyên thuỷ) đã xuất hiện dưới dạng đầu
tiên những thiết chế chính trị – xã hội, trong đó những quan hệ tộc người xen với những
quan hệ chính trị – xã hội. Cộng đồng bộ tộc xuất hiện vào thời kỳ xã hội có sự phân chia
rõ rệt hơn về giai cấp và sau đó là sự xuất hiện nhà nước – quốc gia. Từ đây, sự cố kết bộ
tộc là nhân tố quan trọng trong sự hình thành và củng cố quốc gia; ngược lại, sự hình
thành, củng cố quốc gia là điều kiện có ý nghĩa quyết định sự củng cố và phát triển của
cộng đồng bộ tộc, là sự chuẩn bị quan trọng nhất để cộng đồng bộ tộc chuyển lên một
hình thức cao hơn – tức là dân tộc.
Tính tộc người và tính chính trị - xã hội đó ghi đậm vào tâm trí của đông đảo dân cư ý
thức gắn bó quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân tộc, với nhà nước, quốc gia. Tình
cảm đối với dân tộc hoà nhập vào tình cảm đối với Tổ quốc và trở thành một trong những
giá trị thiêng liêng, bền vững của nhiều thế hệ con người ở nhiều dân tộc, quốc gia. Tình
cảm ấy xuất hiện và được củng cố trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài,
trở thành nét truyền thống đặc sắc của các dân tộc, quốc gia đó.
Nhận thức vấn đề này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan
trọng. Bởi vì, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – từ cơ sở kinh tế đến
kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hội không thể thiếu nội dung cải tạo, xây dựng
cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc. Ngược lại, việc cải tạo, xây dựng cộng
đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc không thể tách rời công cuộc cải tạo, xây dựng
toàn diện xã hội mà trước hết là xây dựng chế độ chính trị - xã hội, xây dựng nhà nước
theo con đường tiến bộ.
Hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc

Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã
phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:
Xu hướng thứ nhất: Thức tỉnh dân tộc và hình thành các quốc gia độc lập
Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các cộng đồng
dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Thực tế này đã diễn ra ở
những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng đồng dân cư với nguồn gốc tộc người khác
nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống
áp bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã
ý thức được rằng chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập, họ mới có quyền quyết định con
đường phát triển của dân tộc mình. (Ví dụ: Singapore, trong Chiến tranh thế giới thứ
hai, Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm và chiếm đóng Singapore từ năm 1942 đến năm 1945.
Khi chiến tranh kết thúc, Singapore trở lại dưới quyền cai trị của Anh Quốc, ngày càng
được cấp quyền tự trị lớn hơn, đỉnh cao là việc Singapore hợp nhất với Liên hiệp bang
Malaya để hình thành Malaysia vào năm 1963. Tuy nhiên, bất ổn xã hội và tranh chấp
giữa Đảng Hành động Nhân dân cầm quyền tại Singapore và Đảng Liên minh cầm quyền
tại liên bang khiến Singapore tách khỏi Malaysia. Singapore trở thành một nước cộng hòa
độc lập vào ngày 9 tháng 8 năm 1965. Hay cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt
Nam nhằm thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp vào tháng 8/1945). Xu hướng này
hướng đến sự tự chủ và phồn vinh của một dân tộc.
Xu hướng thứ hai: Liên kết lại để phát triển.

Khi dân tộc ra đời gắn liền với việc mở rộng và tăng cường quan hệ kinh tế, xoá bỏ sự
ngăn cách giữa các dân tộc, từ đó hình thành nên một thị trường thế giới. Chủ nghĩa tư
bản trở thành một hệ thống. Chính sự phát triển của lự lượng sản xuất, của khoa học –
chủ nghĩa đã xuất hiện như cầu xoá bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân
tộc xích lại gần nhau hơn trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xu hướng này nổi bật trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. (Ví dụ: Liên Hợp Quốc – Duy trì hoà bình, an ninh thế giới:
Phát triển các mối quan hệ hữu nghị: Tiến hình hợp tác quốc tế giữa các nước nước trên
cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Hay sự hình
thành Liên bang Xô Viết sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
gồm 15 nước cộng hoà hợp nhất lại. )

Hai xu hướng này vận động trong điều khiện của chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều trở ngại.
Bởi vì, nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của
chủ nghĩa đế quốc xoá bỏ. Chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đã biến hầu hết
các dân tộc nhỏ bé hoặc còn ở trình độ lạc hậu thành thuộc địa và phụ thuộc của nó.
(Phong trào dân tộc đã diễn ra mạnh mẽ vào những năm 60 của thế kỉ XX và kết quả hơn
100 quốc gia đã giành được độc lập dân tộc.). Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau
trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận. Thay vào đó áp đặt lập
ra những khối liên hiệp nhằm duy trì áp bức, bóc lột đối với các dân tộc khác, trên cơ sở
cưỡng bức và bất bình đẳng. Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện
của chủ nghĩa xã hội, khi chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ thì tình trạng dân tộc này
áp bức, đô hộ các dân tộc khác mới bị xoá bỏ và chỉ khi đó hai xu hướng khách quan của
sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thể hiện đầy đủ. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội là sự quá độ lên một xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết hữu nghị
giữa người và người trên toàn thế giới. Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc gắn với sự
phát triển của từng dân tộc. sự tăng cường thống nhất từng dân tộc trở thành một quá
trình hợp quy luật. Tuy nhiên, tính cộng đồng chung, tính thống nhất vẫn trên cơ sở giữ
gìn và phát huy tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc.

You might also like