You are on page 1of 16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

MÔN HỌC:
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài:
VẤN ĐỀ VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VIỆT NAM
HIỆN NAY
GVHD: PGS.TS: Đoàn Đức Hiếu
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Quốc Thắng 20133120
Hồ Thị Mỹ Sự 21125159
Lộc Chỉ Bình 20131096
Ngô Thị Hồng Đào 21125097
Trần Hồng Phương Uyên 21125187

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2022


CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Cơ sở
Trong quá trình hình thành và phát triển cộng đồng Việt Nam diễn ra
hàng nghìn năm,với hàng nghìn cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã sớm
tích lũy cho nhân dân Việt Nam ý thức hệ đoàn kết, cùng bảo vệ độc lập dân tộc.
Cũng từ đó, ý thức về :”nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một ” đã hình
thành và phát triển. Cùng với việc t hấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta từ khi mới thành lập luôn coi dân tộc và
đoàn kết dân tộc gắn bó chặt chẽ, không tách rời nhau và thực chất phải là một.
Vấn đề dân tộc, người ta có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như
triết học, lịch sử, văn hoá, xã hội, dân tộc học, tâm lý học, chủ nghĩa xã hội
khoa học… 
1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Ph.Ăngghen, C.Mác, V.I.Lênin về bình đẳng
dân tộc, đoàn kết các dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn
dân tộc trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.Từ việc nghiên cứu đó
giúp chúng ta hiểu rõ những đặc điểm của quá trình hình thành, tồn tại và phát
triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tìm ra những vấn đề có tính quy luật
của quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, quá trình phát triển phồn vinh và
gắn bó với nhau giữa các dân tộc. Sự thiết lập quan hệ đoàn kết, bình đẳng, dân
chủ, hữu nghị, đồng thuận giữa các dân tộc được dựa trên những cơ sở chiến
lược về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội suốt quá trình lịch sử.Dân tộc Việt
Nam đang hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa và phát huy tất cả những
tinh hoa của các dân tộc đã chung đúc từ mấy ngàn năm lịch sử, trên cơ sở làm
chủ của toàn thể nhân dân các dân tộc, trên cơ sở đoàn kết, gắn bó nhau về kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…

1
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG
2.1 Dân tộc
2.1.1 Khái niệm
Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi
dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp
đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất.

Nghĩa thứ nhất, dân tộc chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù
về văn hóa; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những
nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người
của dân cư cộng đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia-
Quốc gia có nhiều dân tộc. Ví dụ như dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc
Mường,…

Hiểu theo nghĩa thứ hai, dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ
chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền
lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn
bộ nhân dân của quốc gia đó, ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào, dân tộc
Trung Hoa,…
2.1.2 Dân tộc và xu hướng phát triển
Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc:

-Xu hướng thứ nhất: xu hướng phân lập. Ở những quốc gia, khu vực tư bản
chủ nghĩa gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau
làm ăn, sinh sống. Đến một thời kì nào đó, sự trưởng thành của ý thức dân
tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về quyền sống của mình mà các cộng đồng dân cư
đó muốn tách khỏi nhau để thành lập các dân tộc độc lập.

Bởi họ hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng độc lập họ mới có quyền tự quyết
định vận mệnh của mình, mà cao nhất là sự tự do lựa chọn chế độ chính trị
và con đường phát triển của dân tộc mình.

-Xu hướng thứ hai: xu hướng liên kết. Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm
chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát
2
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu kinh tế
và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào
ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ giữa các quốc gia và quốc tế
rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

Biểu hiện của hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc trong thời đại
ngày nay:

Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc.

Ở các nước này, xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân
tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh của dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo
nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại
gần nhau hơn nữa, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống.

Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng
chiều, bổ sung, hỗ trợ nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng
đồng quốc gia và đụng chạm đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự tự chủ, phồn
vinh của từng dân tộc sẽ tạo điều kiện cho dân tộc đó có thêm những điều
kiện vật chất và tinh thần để hợp tác chặt chẽ hơn với các dân tộc anh em.
Sự xích lại gần nhau hơn của các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh tới sự phát triển, phồn vinh.

Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện
rất nổi bật.

Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xoá bỏ ách
đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân
tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát
triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong
những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại – mục tiêu độc lập dân tộc.

Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh
chống chủ nghĩa đế quốc và chính sách thực dân dưới mọi hình thức; biểu
hiện trong cuộc đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé hiện còn đang là nạn nhân
của sự kỳ thị dân tộc phân biệt chủng tộc, vẫn đang bị coi là đối tượng chính
sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.

3
Ngược lại, trong thời đại ngày nay, còn có xu hướng các dân tộc muốn xích
lại gần nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên
trạng đã được hình thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân
tộc vào các liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích nhất định.

Có những lợi ích mang tính khu vực – dựa trên yếu tố gần nhau về địa lý,
giống nhau về môi trường thiên nhiên, tương đồng nhau về một số giá trị
văn hóa, trùng hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh chống
một kẻ thù chung nào đó.

Lợi ích toàn cầu có tác dụng sâu xa gắn bó loài người trong một quá trình
vận động thống nhất: các dân tộc, quốc gia trê thế giới còn đang ở những
trình độ phát triển khác nhau, cần sự giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
2.2.Quan điểm dân tộc và giải quyết vấn đề đại đoàn kết dân tộc
2.2.1 Cương lĩnh dân tộc theo chủ nghĩa Mác-Lênin
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc
với giai cấp; kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát
triển dân tộc; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới
và thực tiễn cách mạng Nga trong việc giải quyết vấn đề dân tộc những
năm đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã nêu ra Cương lĩnh dân tộc bao gồm
các nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc theo cả góc độ mối quan hệ
giữa các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc cũng như theo cả góc độ
mối quan hệ dân tộc quốc tế như sau: “Các dân tộc hoàn toàn bình
đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các
dân tộc lại”.

Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các
dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc dù
lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ
cao thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau, không dân tộc nào có
đặc quyền đặc lợi và đi áp bức các dân tộc khác.

Trong quốc gia có nhiều dân tộc, pháp luật phải bảo vệ quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ
kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc.

4
Trên phạm vi giữa các quốc gia, dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng
giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, gắn với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới,
chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển với các nước
chậm phát triển.

Hai là, các dân tộc có quyền tự quyết.

Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
của dân tộc mình, quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập
thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với
các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.

Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực tiễn
- cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo
sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin đặc biệt chú trọng quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức, các
dân tộc phụ thuộc.

Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với “quyền” của các tộc người
thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc
gia độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực phản động, thù địch lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước, hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.

Ba là, liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc lại.

Đây là tư tưởng cơ bản và quan trọng trong cương lĩnh dân tộc của Lênin, nó
phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự nghiệp
giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp, nó đảm bảo cho dân
tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.

Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để
chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội
dung liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc đóng vai trò liên
kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.

5
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luận quan trọng
để các Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình
đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

   2.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận
điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và
tiến bộ, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực
lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người.

1- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng.

Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân
dân ta. Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân
lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng  cách mạng vô sản. 

Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản,
nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh,
là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực
lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối
thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô của
đoàn kết quyết định quy mô, mức độ của thành công. Đoàn kết phải luôn
được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.

2- Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ  của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết
quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.

3- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
6
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu
tiên,  không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết
dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc
đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà.
Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì
ta đoàn kết với họ”.

Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí
thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân.

4- Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng

Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:

-  Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có 
thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống
nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở
rộng.

- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác
của nhau.

7
CHƯƠNG 3:VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
   3.1 Tổng quan về tình hình dân tộc Việt Nam hiện nay

Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc. Đại gia đình dân tộc Việt Nam
thống nhất hiện có 54 dân tộc anh em.Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, còn
lại là dân tộc ít người phân bố rải rác trên địa bàn cả nước.
Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết. Không cả già trẻ gái,
trai, hay dân tộc nào miễn là người dân Việt Nam thì các anh em dân tộc
Việt Nam luôn đoàn kết keo sơn gắn bó một lòng một dạ. Trước khi thời
chiến các dân tộc đồng lòng chống dịch, bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay thời bình
các dân tộc cùng nhau xây dựng và bảo vệ nền hòa bình dân tộc.
Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau. Các dân tộc không có lãnh thổ
riêng, không có nền kinh tế riêng. Và sự thống nhất giữa các dân tộc và quốc
gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.
Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế- xã hội không đều
nhau. Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các
dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt.
Dân tộc Việt Nam có nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Rất nhiều bản
sắc văn hóa tạo thành nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc làm phong phú
cho nền văn hóa dân tộc nước nhà.
Tuy chiếm số ít nhưng các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị
trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao
lưu quốc tế..
   3.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề đại đoàn kết dân tộc
Nhân dân đóng vai trò chủ thể tâm trong  xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ
quốc
Trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hô Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân
tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa,
vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng
dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.

8
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc,
kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân
dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách
mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

3.2.1 Đại đoàn kết toàn dân tộc – cội nguồn sức mạnh của mọi thành công

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của
mọi thành công, chiến thắng. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.

3.2.2 Đại đoàn kết toàn dân tộc - truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam

Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. “Dân” theo quan niệm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là đồng bào, là anh em một nhà; là không phân biệt
già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện. “Dân” là toàn dân, toàn dân tộc Việt
Nam; bao gồm dân tộc đa số, thiểu số cùng sống trên một dải đất Việt Nam.
Như vậy, “Dân” vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa là toàn thể đồng bào.

Ngay từ khi Đảng ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung xây dựng Mặt
trận Dân tộc thống nhất để quy tụ mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn
kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi chống
kẻ thù chung và xây dựng đất nước”.

 Mục tiêu chung của đại đoàn kết hiện nay là, xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu đó phản ánh lợi ích, nguyện vọng chung
của toàn thể dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện sự thừa nhận và tôn
trọng mục tiêu riêng, lợi ích riêng của các giai cấp, các tầng lớp, các thành
phần kinh tế và nói chung là của mọi người dân.

3.2.3  Quan điểm mới của Đảng về tăng cường đại đoàn kết dân tộc trong giai
đoạn cách mạng mới

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước theo tinh
thần Nghị quyết mà Đại hội XIII của Đảng đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn

9
dân và toàn quân ta những nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang. Đảng ta chỉ
rõ: “Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi,
thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu
mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng; tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp
thời diễn biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống;
nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới;
không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước
tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”

3.3 Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Theo dòng lịch sử dựng nước và giữ nước, từ khi thành lập nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đến nay, nước ta đã có 05 bản Hiến pháp và cả tất cả đều
có những quy định cụ thể về chính sách đại đoàn kết và đường lối dân tộc
của nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể: 
-Hiến pháp năm 1946
Lời nói đầu của Hiến pháp ban đầu đã ghi nhận: “Hiến pháp Việt Nam...
phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây: Đoàn kết toàn dân không
phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do
dân chủ”.
Trong các điều 1, 6, 7 quy định địa vị pháp lý và quyền bình đẳng của tất cả
mọi người không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo;
mọi người đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá
và bình đẳng trước pháp luật. Đồng thời, Điều 8 còn ghi nhận: “Ngoài sự
bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi
phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung”.
-Hiến pháp năm 1959 

Điều 3 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước
Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ
giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt,
áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm. Các dân tộc có quyền duy trì
hoặc sửa đổi phong tục, tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn
hoá dân tộc của mình”.

10
Đồng thời Hiến pháp cũng quy định: “Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc
thiểu sổ mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hóa chung”.

-Hiến pháp năm 1980

Sau khi đất nước thống nhất, cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng về đoàn kết dân tộc có những điều kiện mới để phát triển. Những quy
định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã được kế thừa và
phát triển ở mức cao hơn và được ghi nhận trong Điều 5 Hiến pháp năm
1980. Đồng thời, Điều 9 Hiến pháp năm 1980 khẳng định: “Mặt trận phát
huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và
tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân, giáo dục và động viên nhân dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức
thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc".

-Hiến pháp năm 1992


Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, một lần nữa truyền thống đoàn
kết dân tộc lại là nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta tiếp tục vượt qua
khó khăn, thu được những thành tựu mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam chủ xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một
cách đầy đủ và sâu sắc hơn chính sách đoàn kết và đường lối dân tộc của
nước ta trong Điều 5.
Đồng thời nhận rõ tầm quan trọng và sức mạnh to lớn của nhân dân trong
khối đại đoàn kết dân tộc, Điều 9 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Mặt
trận Tổ quổc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân,
tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia
xây dựng và củng cổ chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước. Nhà

11
nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động
có hiệu quả".
-Hiến pháp năm 2013

Kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước đã
quy định một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc đường lối đại đoàn kết và
chính sách dân tộc của nước ta tại Điều 5, Điều 9 và các điều khoản khác.
-Nhận xét

Như vậy, chính sách đoàn kết và đường lối dân tộc đã được thể hiện một
cách nhất quán trong toàn bộ 05 bản hiến pháp, phản ánh bản chất tốt đẹp
của chế độ chính trị của nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù
hợp với truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa từ ngàn đời của dân tộc ta, đã
thực sự phát huy tác dụng, tập hợp và phát huy sức mạnh to lớn của cả dân
tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, phục vụ thiết thực lợi ích của
các dân tộc và toàn thể nhân dân.
3.4 Các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách đại đoàn kết dân tộc ở nước ta

hiện nay:

- Tiếp tục thể chế hoá và cụ thể hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện
có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc
quyết định những vấn đề lớn của đất nước.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ
lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những
thành quả của công cuộc đổi mới.
- Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về
số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động
của công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.
- Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình
phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích nông

12
dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm
công nghiệp và dịch vụ.
- Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt
động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng
phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến.
- Xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách
nhiệm xã hội cao.
- Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng,
truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo
đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ.
- Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, thực
hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng.
- Đảng Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, đồng thời động viên
cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống,
tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ.
- Quan tâm chăm sóc sức khoẻ, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ
văn hoá, tiếp cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc. Đoàn kết
các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp
tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn
trọng, đoàn kết, giải quyết hài hoà quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng
phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy
những giá trị văn hoá đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều
kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ
chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật,
đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

13
- Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định
cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường
hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
- Tiếp tục tăng, cường củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân.

CHƯƠNG 4:KẾT LUẬN

Vấn đề dân tộc luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội của mỗi
quốc gia có một hay nhiều tộc người cả trong lịch sử và trong thế giới hiện đại. Nó
ảnh hưởng đến sự ổn định, tồn tại và phát triển của nhà nước, thể chế chính trị ở
quốc gia đó nếu không được giải quyết đúng đắn thì thành quả chính là việc huy
động được sức mạnh toàn dân tộc được hay không.

Nghiên cứu và vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác – Lênin vào thực tiễn
đất nước, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc thể
hiện ở hai lĩnh vực: vấn đề dân tộc ở cấp độ dân tộc – quốc gia và vấn đề dân tộc ở
cấp độ dân tộc – tộc người  (một quốc gia có nhiều dân tộc). Xét ở cấp độ quốc gia
có nhiều dân tộc, theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh thì việc giải quyết những
vấn đề dân tộc chính là việc đề ra những đường lối, chính sách đúng đắn để xóa bỏ
nghèo nàn, xóa bỏ lạc hậu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao đời sống
nhân dân các dân tộc với quan điểm “thực hiện đoàn kết, bình đẳng, tương trợ,
giúp nhau cùng tiến bộ” và làm cho “miền núi tiến kịp miền xuôi” và người đồng
bào dân tộc được hưởng đầy đủ những quyền lợi trong mọi mặt đời sống xã
hội.Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, đan xen giữa những thời cơ và thách thức,
tiếp tục tiếp thu và kế thừa một cách đầy đủ, sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta, cùng với các cấp, các ngành đã, đang và sẽ tiếp tục

14
xây dựng và thực hiện những chính sách dân tộc phù hợp, đúng đắn, góp phần giữ
gìn và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, kiên trì độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.

Tài liệu tham khảo


1. Cương lĩnh dân tộc của Lênin và sự vận dụng của đảng hiện nay
(luatquanghuy.edu.vn) 

2. Chính sách đại đoàn kết và đường lối dân tộc của nước Việt nam ?
(luatminhkhue.vn)

3. Đại đoàn kết dân tộc - Nguồn sức mạnh, nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam | Tạp chí
Tuyên giáo (tuyengiao.vn)

4. Đặc điểm của dân tộc Việt Nam hiện nay (luathoangphi.vn)

15

You might also like