You are on page 1of 5

Họ và tên : Nguyễn Lê Minh Phước

Số thứ tự : 62
Bài làm
Câu 1:
Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp;
kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc; dựa vào kinh
nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Nga trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc những năm đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã khái quát Cương lĩnh
dân tộc như sau: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết,
liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”.
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Quyền bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc
lớn hay nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền
lợi như nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ
đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có
quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền
bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý, nhưng quan trọng hơn nó phải
được thực hiện trong thực tế.
Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp
bức giai cấp, trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và
xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết.
Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền
tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết
dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng thời có
quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Tuy nhiên, việc thực
hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực tiễn - cụ thể và phải đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi
ích của giai cấp công nhân. V.I.Lênin đặc biệt chú trọng quyền tự quyết của các dân
tộc bị áp bức, các dân tộc phụ thuộc. Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với
“quyền” của các tộc người thiểu số trong một quốc gia đa tộc người,nhất là việc phân
lập thành quốc gia độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực phản động, thù địch lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước, hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.
Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp; phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng
lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa
là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một
chỉnh thể. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác –Lênin là cơ sở lý luận quan trọng
để các Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Câu 2 :
Dân tộc Việt Nam có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh có 73.594. 341 người
chiếm 85,7% dân số cả nước; 53 dân tộc thiểu số có 12.252.656 người, chiếm 14,3%
dân số. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc cũng không đồng đều, có dân tộc với số dân lớn
hơn 1 triệu người (Tày, Thái, Mường, Khơ me, Mông. . . ), nhưng có dân tộc với số
dân chỉ vài ba trăm (Si la, Pu péo, Rơ măm, Brâu, Ơ đu). Thực tế cho thấy nếu một
dân tộc mà số dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho việc tổ chức cuộc
sống, bảo tồn tiếng nói và văn hoá dân tộc, duy trì và phát triển giống nòi. Do vậy,
việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt đối với những dân tộc
thiểu số rất ít người đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam có những chính sách
quan tâm đặc biệt.
Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính
chất chuyển cư như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân tán, xen
kẽ và làm cho các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc người riêng. Vì vậy,
không có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn.
Đặc biệt, hiện nay, “miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư
trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân tộc cư trú như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà
Giang, Tuyên Quang, Lâm Ðồng... Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú.
Nhiều xã, bản có tới 3-4 dân tộc cùng sinh sống”1.
Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người sống xen kẽ nên trong quá
trình sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch
lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự thống nhất của đất nước.
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng.
Mặc dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú trên
¾ diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh,
quốc phòng, môi trường sinh thái – đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa
của đất nước. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng
giềng và khu vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Khơme, dân tộc Hoa…
Do vậy, các thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách
mạng Việt Nam.
Thứ tư, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều.
Các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội. Về phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội của
các dân tộc thiểu số khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các dân tộc
thiểu số Việt Nam ở những trình độ phát triển rất khác nhau. Một số ít các dân tộc còn
duy trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên, đại bộ phận các dân
tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ, tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Về văn hóa, trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kỹ thuật
của nhiều dân tộc thiểu số còn thấp.

1
Đại gia đình dân tộc Việt Nam (2017, https://bandantoc.daklak.gov.vn/dan-toc-thieu-so/ai-gia-inh-
cac-dan-toc-viet-nam-1941.html
Muốn thực hiện bình đẳng dân tộc, phải từng bước giảm, tiến tới xoá bỏ khoảng
cách phát triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là nội dung quan
trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam để các dân tộc
thiểu số phát triển nhanh và bền vững.
Thứ năm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong cộng
đồng dân tộc -quốc gia thống nhất.
Đặc trưng này được hình thành do yêu cầu của quá trình cải biến tự nhiên và nhu
cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu tranh chống ngoại xâm nên dân tộc Việt Nam
đã hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết dính cao giữa các dân tộc. Đặc biệt, trong hai
cuộc chiến tranh kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, các dân tộc thiểu
số như Tày, Mường, Thái,… đã đóng góp đáng kể cho thắng lợi cuối cùng của nước
ta. Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong
các giai đoạn lịch sử; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành độc lập thống nhất Tổ
quốc. Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam,các dân tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát huy nội lực, giữ
gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan
mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ sáu, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa
dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có những
sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Sự thống nhất đó, suy cho cùng là bởi, các dân tộc đều có chung một lịch sử
dựng nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một quốc gia độc lập, thống
nhất. Ví dụ, Một trong những nét đặc sắc của dân tộc Tày chính là lễ hội cầu Trăng
được diễn ra vào Tết Trung thu hàng năm. Nói đến văn hóa Mường, chúng ta nói đến
cồng chiêng, hát xường, pồn pôông...
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến chính sách dân tộc, xem đó là vấn đề chính trị - xã hội rộng lớn và
toàn diện gắn liền với các mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Câu 3:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác quản lý nhà nước về phát triển
các dân tộc thiểu số.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia đa dân tộc và thực tiễn nước ta cho thấy, để thực
hiện quản lý nhà nước về phát triển dân tộc thiểu số, cần sớm ban hành Luật Hỗ trợ
phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhằm thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn chủ
trương của Đảng trong lĩnh vực dân tộc. Luật Hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số
và miền núi sẽ quy định các vấn đề về nguyên tắc hỗ trợ, các chính sách hỗ trợ và tổ
chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; bảo
đảm thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề dân tộc mà Việt Nam tham
gia và cam kết thực hiện, như: Công ước về các quyền dân sự, chính trị; Công ước về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa,… qua đó thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân của Nhà nước Việt Nam.
Việc xây dựng chính sách phải bảo đảm đúng quy trình, thủ tục quy định trong
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung chính sách phải bảo đảm tính
khoa học, thống nhất và có sự liên kết, tránh chồng chéo, xung đột, mâu thuẫn. Cần
tiến hành rà soát chính sách dân tộc hiện nay để điều chỉnh phù hợp với yêu cầu tình
hình mới.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý không chỉ là những nội dung quy định về
quản lý, phân công trách nhiệm và quyền lợi giữa các cấp, các tổ chức, mà còn bao
gồm hướng dẫn xây dựng, cải tiến tổ chức và điều hành bộ máy, góp phần tăng cường
sự tham gia của người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp ở địa
phương trong thực hiện công tác dân tộc và hỗ trợ phát triển vùng dân tộc và miền núi.
Xây dựng mạng lưới, thúc đẩy sự liên kết giữa các tổ chức và cá nhân trong hỗ trợ
phát triển vùng dân tộc và miền núi.
Thứ hai, đổi mới, hoàn thiện cơ chế hoạch định và thực thi chính sách dân tộc.
- Tăng cường sự phối hợp trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc.
Hệ thống chính sách dân tộc liên quan đến nhiều lĩnh vực, do nhiều ngành chịu trách
nhiệm quản lý nên cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan, nhất là
các bộ chuyên ngành.
+ Cần tuân thủ đúng quy định của Hiến pháp về vai trò tham gia của Hội đồng Dân
tộc đối với các dự thảo chính sách dân tộc trước khi Chính phủ ban hành. Các phòng
ban cần chủ động hình thành cơ chế quản lý thông tin về hệ thống chính sách dân tộc ở
cấp tỉnh và Trung ương; xây dựng kế hoạch, chương trình công tác; phối hợp chặt chẽ
với Hội đồng Dân tộc trong việc xác định vấn đề chính sách, xây dựng nội dung chính
sách và tổ chức thực thi, tiến hành kiểm tra, giám sát định kỳ.
+ Cải tiến tổ chức và điều hành quản lý trên cơ sở những chế định rõ ràng về trách
nhiệm, phân công hợp lý, xác lập cơ cấu tổ chức phù hợp. Cần tiếp tục đẩy mạnh sự
tham gia của các tổ chức Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ... vào các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn.
- Đổi mới công tác giám sát, đánh giá, quản lý theo mục tiêu chính sách, thiết lập
hệ thống mục tiêu và chỉ tiêu phù hợp.
+ Công khai hóa các chương trình, dự án đầu tư, đặc biệt là nguồn lực tài chính, cơ
chế thực thi chính sách, các chế độ liên quan đến đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn,
để người dân được biết và tham gia, bảo đảm nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”.
+ Tăng cường phối hợp kiểm tra, giám sát, chia sẻ thông tin giữa các cấp, các
ngành trong việc triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách và sử dụng các nguồn tài
chính huy động được.
-Tăng cường công tác thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ, minh bạch và đẩy
mạnh nghiên cứu phục vụ điều hành, quản lý. Nắm bắt tình hình chính trị, kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh trật tự và môi trường vùng dân tộc và miền núi, trong đó, tập
trung vào vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, khu
vực biên giới; các dân tộc còn nhiều khó khăn, các dân tộc ít người, vùng tiềm ẩn nhân
tố gây bất ổn về an ninh chính trị và trật tự xã hội.
- Đổi mới cách thức thông tin, phổ biến, quán triệt chính sách đến cơ sở, người dân.
Tổ chức truyền thông, tuyên truyền và phân phối thông tin theo nhiều kênh khác nhau
như: truyền hình, phát thanh, báo chí, internet, địa phương về chủ trương, chính sách
dân tộc và chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc
và miền núi. Thông tin rộng rãi về các mô hình và kinh nghiệm phát triển kinh tế, xã
hội, xóa đói, giảm nghèo hiệu quả ở các vùng sinh thái, với các quy mô khác nhau.
- Nâng cao năng lực của cấp ủy và chính quyền các cấp trong vận dụng và tổ chức
thực hiện chính sách phù hợp với đặc điểm từng địa phương. Ban Dân vận cần tăng
cường khả năng tham mưu cho cấp ủy địa phương về công tác dân vận vùng đồng bào
dân tộc thiểu số; Ban Dân tộc phối hợp với các ban, ngành xây dựng các chương trình,
dự án phát triển cũng như đề xuất các kiến nghị, giải pháp để bổ sung, hoàn chỉnh
chính sách. Cấp ủy và chính quyền cấp huyện và cơ sở không ngừng nâng cao vai trò
trong tổ chức và phối hợp thực hiện chủ trương, chính sách chung của Trung ương,
của địa phương cũng như các chương trình, dự án cụ thể.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy thực hiện
công tác dân tộc.
Trước hết, cần hoàn thiện và nâng cao năng lực hệ thống cơ quan phụ trách công
tác dân tộc ở Trung ương và địa phương trên cơ sở bảo đảm số lượng, chất lượng, tuân
thủ đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng, tổ chức thực hiện
và giám sát thực hiện chính sách dân tộc.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc. Chú trọng đào tạo, xây
dựng phong cách làm việc cho cán bộ gắn với dân chủ hóa trong đời sống kinh tế - xã
hội vùng dân tộc thiểu số, khắc phục tư tưởng xa dân, quan liêu và cục bộ. Bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức các ngành, các cấp có liên quan để có đủ khả năng và kiến
thức hoạch định chính sách, quản lý và triển khai các chương trình phát triển ở vùng
dân tộc và miền núi.
Xây dựng và ban hành chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số
phù hợp với điều kiện, khả năng và tình hình cụ thể mỗi giai đoạn. Nâng cao ý thức
trách nhiệm chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước Đảng, trước đồng bào các
dân tộc thiểu số, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân.
Thứ tư, gắn chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi với
chính sách xây dựng khối đoàn kết các dân tộc. Trong đó, chăm lo phát triển kinh tế
nhằm cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các
dân tộc, nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng và đồng bào
các dân tộc có số dân ít đang còn nhiều khó khăn là nền tảng bền vững để xây dựng
khối đoàn kết các dân tộc.
Quan tâm xây dựng lực lượng chính trị trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số để
họ tự đảm nhận công việc tại cơ sở, đưa dân tộc mình tiến lên cùng các dân tộc khác.
Phát huy vai trò của những người có uy tín ví dụ như : già làng, trí thức dân tộc thiểu
số trong quá trình củng cố và tăng cường khối đoàn kết các dân tộc.
Đổi mới công tác dân vận, công tác vận động quần chúng, thật sự hướng về cơ sở, nhất
là các thôn, buôn vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo. Nội dung,
phương pháp vận động cụ thể, thiết thực, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý của
đồng bào.
Mặt trận và các đoàn thể các cấp phối hợp chặt chẽ với chính quyền, hoạt động
thông qua quy chế phối hợp, hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng tôn giáo,
từng tộc người, đến từng hộ gia đình, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo.
Công tác vận động quần chúng phải được coi là một trong những biện pháp quan
trọng hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của hệ thống chính trị các cấp,
trong đó, cấp cơ sở có trách nhiệm chủ động, tự lực, trực tiếp thực hiện. Các đoàn thể
chính trị - xã hội các cấp đẩy mạnh các phong trào hoạt động của quần chúng và cử
cán bộ tham gia các đội công tác phát động quần chúng. Quan tâm xây dựng đội ngũ
cán bộ làm công tác vận động quần chúng có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói dân
nghe, làm dân tin.

You might also like