You are on page 1of 5

Họ và tên: Trương Thị Ngọc Tú

MSSV: 31211025500
Mã lớp HP: 22D1POL51002577
Phòng: B2-403

ĐỀ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Bài làm
1. Phân tích cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin ?
Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình lâu dài của xã hội loài người. Trước khi xuất
hiện, loài người trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ
tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có
hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Một là, dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuất hiện
sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia – quốc gia
nhiều dân tộc.
Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh
thỗ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất
quốc của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống, văn hóa và
truyền thống đấu tranh chung suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc.
Nội dung ‘Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin đã được V.I.Lênin nêu ra trên cơ sở tư
tưởng của học thuyết Mác về vấn đề dân tộc, sự tổng kết kinh nghiệm cuộc đấu tranh
của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; sự phân tích hai xu hướng
khách quan của sự phát triển các dân tộc.
Cương lĩnh dân tộc gồm có 3 nội dung chủ yếu sau:
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Quyền bình đẳng là quyền thiêng liêng và nội dung quan trọng nhất trong cương lĩnh
dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin. Các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ
cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Không có dân tộc nào có quyền
áp đặt lợi về kinh tế chính trị, văn hóa và ngôn ngữ lên một dân tộc khác.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc để đảm bảo quyền bình đẳng phải khắc phục sự
chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc tạo điều kiện
thuận lợi giữa các dân tộc để cùng phát triển nhanh trên con đường tiến bộ. Đồng thời
quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và quan trọng hơn là
phải được thực hiện trong thực tế.
Quyền bình đẳng dân tộc phải được gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn, chống sự sự áp bức bóc lột về kinh
tế đảm bảo tất cả các quốc gia được quyền đẳng trong quan hệ quốc tế
- Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền tự quyết là quyền thiêng liêng nhất của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân
tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia
dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng
để có đủ sức mạnh, chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài giữ vững độc lập chủ quyền
và lợi ích dân tộc.
Khi xem xét quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, ủng hộ Phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những
mưu đồ, lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để can thiệp vào công việc nội bộ chia rẽ dân
tộc
Thấm nhuần quan điểm em về quyền tự quyết của các dân tộc của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn thể hiện quan điểm lịch sử cụ thể khi
xem xét và giải quyết vấn đề tự quyết của dân tộc ta. Nội dung quan trọng của quyền
tự quyết là các dân tộc đoàn kết đấu tranh giành độc lập dân tộc và cùng nhau giữ gìn
nền độc lập tổ quốc xây dựng xã hội mới văn minh tiến bộ.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Đoàn kết giai cấp công nhân của các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân
tộc nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp đoàn kết giai cấp
công nhân của các dân tộc có vai trò quyết định đến việc xem xét thực hiện quyền bình
đẳng của dân tộc và quyền dân tộc, giải quyết đồng thời việc thực hiện quyền bình
đẳng và quyền tự quyết cũng tùy thuộc vào sự đoàn kết thống nhất giai cấp công nhân
các dân tộc trong từng quốc gia, cũng như trên toàn thế giới
Chỉ có đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân mới thực hiện được quyền
bình đẳng và quyền tự quyết một cách đúng đắn. Trên cơ sở đó, đoàn kết được nhân
dân lao động trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội đoàn
kết giai cấp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung trong cương
lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác- Lênin thành một chỉnh thể phù hợp với tinh thần quốc
tế nên đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn của thời đại
Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác – Lênin là một bộ phận trong
cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính
sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Bằng những dẫn chứng cụ thể (có nguồn trích dẫn rõ ràng, số liệu tin cậy) hãy nêu
đặc điểm dân tộc Việt Nam.
Đặc điểm dân tộc Việt Nam
Thứ nhất, Có sự chênh lệch về dân số giữa các dân tộc
- Việt Nam có 54 dân tộc trong đó dân tộc Kinh chiếm 85,7% dân số còn lại là dân tộc
ít người phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến
100 ngàn người là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê;
20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người
đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người (Cống, Sila, Pupéo, Rơmăm,
Ơ đu, Brâu). Cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình hình
thành và phát triển lâu dài trong lịch sử.
Thứ hai, Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
- Các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tập người riêng, bởi lẽ Việt Nam là nơi
chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á quá trình đào tạo nên bản đồ cư
trú của dân tộc trở nên phân tán xen kẽ đặc điểm này vừa có mặt thuận lợi nhưng cũng
là mày thích nhiều mâu thuẫn trong quá trình phát triển của dân tộc.
- Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Các dân tộc
không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Và sự thống nhất giữa các dân tộc
và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.
Thứ ba, Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng
- Các dân tộc thiểu số ở nước ta chiếm gần 14,3% dân số cả nước, nhưng lại cư trú
trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị kinh tế an ninh và giao lưu
quốc tế. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng,
H’Mông, Dao, Người Jrai (Gia Rai), Ê Đê, Ba Na, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai… Đa số
các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền
Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm
chỉ có trên 300 người. Vị trí của các dân tộc thiểu số là cư trú trên các địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.
Thứ tư, Các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển không đều còn có sự chênh
lệch lớn về kinh tế văn hóa và xã hội phần lớn các dân tộc thiểu số còn lạc hậu,
kinh tế và văn hóa xã hội còn ở trình độ thấp
- Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử
nên sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc, giữa các vùng
dân cư thể hiện rõ rệt.
Thứ năm, Các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời
trong cộng đồng dân tộc
- Không cả già trẻ gái, trai, hay dân tộc nào miễn là người dân Việt Nam thì các anh
em dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết keo sơn gắn bó một lòng một dạ. Trước khi thời
chiến các dân tộc đồng lòng chống dịch, bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay thời bình các dân
tộc cùng nhau xây dựng và bảo vệ nền hòa bình dân tộc. Tính cố kết dân tộc, hòa hợp
dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống của dân tộc ta.
Thứ sáu, Dân tộc Việt Nam có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng.
- Văn hoá Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng. Cùng với nền văn hóa cộng đồng,
mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt lại có đời sồng văn hóa mang bản sắc
riêng, góp phần làm phong phú thêm nên văn hóa của cộng đồng. Rất nhiều bản sắc
văn hóa tạo thành nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc làm phong phú cho nền văn hóa
dân tộc nước nhà.
Xuất phát từ tình hình đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam, sự phát triển của
dân tộc nước ta chịu sự tác động của xu thế chung của cả cộng đồng nhưng có những
nét đặc thù rất nổi bật của từng dân tộc từng vùng.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc, xem xét nó
như là vấn đề chính trị xã hội rộng lớn và toàn diện, gắn liền với mục tiêu trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
3. Căn cứ vào cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ đặc điểm trên,
hãy đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể, nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
 Về bình đẳng giữa các dân tộc
Thứ nhất, cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc. Chúng ta cần
hết sức tránh tư tưởng “dân tộc lớn” trong xây dựng, hoạch định các chính sách liên
quan đến vấn đề dân tộc. Bởi lẽ, áp đặt tư tưởng, quan điểm của người dân tộc đa số
cho dân tộc thiểu số dù với mong muốn tốt đẹp cũng là bất bình đẳng dân tộc.
Thứ hai, tăng cường sự giúp đỡ của dân tộc phát triển hơn cho những dân tộc kém
phát triển hơn. Ở Việt Nam, để bảo đảm quyền lợi của người dân tộc thiểu số cần có
sự giúp đỡ, hỗ trợ của dân tộc Kinh và các dân tộc khác phát triển hơn. Điều này đã
được Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển và thực tiễn đang khẳng định tính đúng đắn.
Thứ ba, phát huy vai trò của chính đồng bào dân tộc thiểu số, sự tự thân nỗ lực, cố
gắng phấn đấu; khắc phục tâm lý tự ty, ỷ lại trông chờ trong thực hiện bình đẳng dân
tộc. Thực tiễn thời gian qua đã chứng minh đây là nội dung rất quan trọng để đồng bào
thiểu số tiến kịp đồng bào đa số, thực hiện bình đẳng dân tộc, tất cả các dân tộc đều no
ấm, hạnh phúc. Đảng và Nhà nước cần có những chính sách tránh cho không mà có
điều kiện để động viên họ, đồng thời cần giáo dục, vận động, tuyên truyền để nâng cao
ý thức vươn lên của đồng bào.
Thứ tư, cần làm rõ hơn vai trò của Nhà nước, chính quyền và cán bộ địa phương
trong thực hiện bình đẳng dân tộc. Nhà nước cần ban hành những chính sách, cơ chế
phát triển mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó khắc phục khoảng cách
chênh lệch, thực hiện bình đẳng dân tộc. Chính quyền và cán bộ địa phương khi triển
khai các chính sách cần gắn bó với nhân dân để đưa ra những kế hoạch, biện pháp, đầu
tư các nguồn lực có hiệu quả, có tính khả thi nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số.
 Về quyền tự quết dân tộc
Một là, trong bảo vệ, bảo đảm quyền dân tộc tự quyết và quyền con người phải ưu
tiên bảo vệ, bảo đảm quyền dân tộc tự quyết phù hợp với Khoản 1, Điều 1 của Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa.
Hai là, phải kịp thời nhận rõ đồng thời giải quyết hiệu quả trong thực tiễn những vấn
đề mới đang đặt ra trước quyền dân tộc tự quyết và quyền con người, xuất phát từ
thành tựu đã đạt được cũng như phát sinh từ sai lầm, thiếu sót. Một mặt, hiện nay
trước tác động của toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, nếu không chủ động,
tích cực hội nhập vào thể chế khu vực và thế giới thì quyền dân tộc tự quyết sẽ bị xâm
phạm, trước tiên bởi công nghệ số. Mặt khác, nếu không tích cực làm giảm phân cực
giàu nghèo, đẩy mạnh chống tham nhũng và quan liêu thì quyền của đa số người dân
bị xâm hại. Để có những quyết sách như vậy, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút
kinh nghiệm trong quá trình thực hiện; trong đó cần nghiêm túc nhìn nhận những sai
lầm, thiếu sót về lý luận và thực tiễn trong bảo vệ, bảo đảm quyền dân tộc tự quyết và
quyền con người.
Ba là, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và quyền con người tương thích với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là đang đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN và phù hợp với thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong đó, cần chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là nội luật hóa
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhằm xác định rõ trách nhiệm pháp
lý của các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã hội trong việc bảo vệ, bảo đảm
quyền con người và quyền dân tộc tự quyết; đồng thời xử lý công minh mọi hành vi
xâm phạm quyền lợi hợp pháp của công dân và xâm hại quyền lợi hợp pháp của dân
tộc - quốc gia.
Bốn là, bảo vệ, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và quyền con người ở Việt Nam
hiện nay phải song hành với chủ động, tích cực đối thoại, đấu tranh phòng, chống
những quan điểm, hành động của tổ chức, hành vi của cá nhân trong việc xuyên tạc,
kích động chống phá chế độ chính trị - xã hội vốn là hàm nghĩa cốt lõi của quyền dân
tộc tự quyết; đồng thời tăng cường tuyên truyền, cả đối nội và đối ngoại về lập trường,
quan điểm đúng đắn của Việt Nam trong bảo vệ, bảo đảm quyền dân tộc tự quyết và
quyền con người phù hợp với pháp luật quốc gia và quốc tế trong điều kiện hiện nay.

Nguồn: Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Kinh tế Chính trị Mác-Lênin (SGK)
Nguồn: https://lytuong.net/noi-dung-cuong-linh-dan-toc-cua-chu-nghia-mac-
lenin/ ;Tên tài liệu tham khảo: Nội dung “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác –
Lênin
Nguồn: http://www.xaydungdang.org.vn/home/nhan_quyen/2020/13681/bao-dam-
quyen-dan-toc-tu-quyet-va-quyen-con-nguoi.aspx ;Tên tài liệu tham khảo: Bảo đảm
quyền dân tộc tự quyết và quyền con người ; Tác giả: PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn
Nguồn: https://hvdt.edu.vn/nghien-cuu/nghien-cuu-trao-doi/quan-diem-cua-v-i-lenin-
ve-binh-dang-dan-toc-va-su-van-dung-bo-sung-phat-trien-o-viet-nam; Tên tài liệu
tham khảo: Quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng, bổ sung,
phát triển ở Việt Nam ; Theo lyluanchinhtri.vn

You might also like