You are on page 1of 25

1

MỤC LỤC

1. Khái quát chung...........................................................................................................3

1.1 Bôi cảnh lịch sử..............................................................................................3

1.2. Thời gian, địa điểm........................................................................................3

1.3. Đại biểu tham dự...........................................................................................3

2. Nội dung Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V..........................................................4

2.1. Nhiệm vụ.......................................................................................................4

2.2 Mục tiêu.........................................................................................................6

2.3. Thành tựu.....................................................................................................8

2.4 Ý nghĩa...........................................................................................................9

3. Ưu điểm và hạn chế của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng..............11

3.1 Ưu điểm.......................................................................................................11

3.2. Hạn chế.......................................................................................................13

4. Ba bước đột phá đổi mới kinh tế (1979 - 1986)........................................................15

4.1. Bước đột phá thứ nhất: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8/1979).......15

4.2 Bước đột phá thứ hai: Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6/1985)...........20

4.3. Bước đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (tháng 8/1986) “Kết luận
đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”.............................................22

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................25


3

NỘI DUNG

1. Khái quát chung


1.1. Bối cảnh lịch sử
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang
đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm 1979 và quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung Quốc tiến
hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ và trên biển thường xuyên.
Trong thời điểm này, cả nước đang bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN, đất nước ta có những thuận lợi cơ bản song phải trải qua nhiều thách
thức nghiêm trọng, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng. Thực trạng đất nước đòi
hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá khách quan
thành tựu và khuyết điểm, định ra mục tiêu, nhiệm vụ, các biện pháp giải quyết đúng
những vấn đề quan trọng cấp bách trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm tiếp tục
đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên.

1.2. Thời gian, địa điểm: Diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, tại Hà Nội.

1.3. Đại biểu tham dự

Tham dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt 1.727.000 đảng viên hoạt động trong
35.146 đảng bộ cơ sở. Trong số đại biểu đó có 14 đảng viên từng tham gia các tổ chức
tiền thân của Đảng; 102 đại biểu hoạt động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại
biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số phía Bắc và Tây Nam; 79 đại biểu là anh hùng lao
động, anh hùng lực lượng vũ trang, chiến sĩ thi đua; một phần ba số đại biểu có trình độ
từ đại học trở lên, nhiều đại biểu là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật.
Đến dự Đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Trường Chinh đọc lời khai mạc Đại hội. Đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Phạm Văn Đồng đọc Báo cáo về
4

nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Đồng chí Lê Đức Thọ đọc Báo cáo về xây dựng Đảng. Nhiều
đại biểu Đại hội đọc tham luận, nhiều đại biểu quốc tế và trong nước đọc lời chào mừng.

2. Nội dung Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
2.1. Nhiệm vụ
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và
những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam. Trong giai đoạn mới của
cách mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có đủ sức đánh
thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại có
tăng cường phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có điều kiện để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
*Nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta phải đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Về tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần
chúng, Báo cáo chính trị nêu rõ: Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của
mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường Nhà nước là vấn
đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, cải tiến phương pháp lãnh đạo của các cấp uỷ đảng với chính
quyền là điều kiện để phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước.
Về nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: Hiện nay nhiệm vụ
lịch sử mà Đảng phải gánh vác hết sức nặng nề. Cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đang diễn ra gay gắt và phức tạp. Các loại kẻ thù trong và ngoài nước tìm mọi
cách phá hoại Đảng ta về tư tưởng, tổ chức. Vì vậy, công tác xây dựng Đảng càng có vị
trí đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp
tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng mạnh mẽ
về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng,
5

nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc; làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học,
một đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
*Nhiệm vụ về kinh tế - xã hội:
Báo cáo chính trị đã xác định những chính sách lớn về kinh tế - xã hội và nêu rõ: Trong
5 năm 1981-1985 chúng ta cần tập trung lực lượng thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
1. Giải quyết những vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một bước đời sống của
nhân dân.
2. Phát triển và sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục thực hiện việc phân công và phân bố lại lao
động xã hội.
3. Bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng và theo hướng tạo thêm điều
kiện để phát huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất
về kinh tế và xã hội.
4. Cải tiến công tác phân phối lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận
này.
5. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
cả nước về các mặt chế độ sở hữu, quản lý, phân phối.
6. Làm tốt hợp tác kinh tế với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước trong Hội
đồng tương trợ kinh tế.
7. Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm trong xây dựng cơ bản
và sản xuất.
8. Làm tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất và đời sống.
9. Đổi mới một bước hệ thống quản lý kinh tế.
10. Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, y tế phù hợp với yêu cầu và khả năng kinh tế.
Thực hiện cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc. Xác định quy hoạch hợp lý
và tiếp tục đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề.
6

11. Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các hành vi phạm pháp, tệ
nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ cương trong quản lý Nhà nước, quản
lý kinh tế, giữ vững trật tự và an toàn xã hội.
12. Bảo đảm các nhu cầu về kinh tế của công cuộc củng cố quốc phòng và an ninh, bảo
vệ đất nước, đồng thời huy động năng lực công nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý lực
lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp.
*Nhiệm vụ văn hóa xã hội:
Báo cáo chính trị nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới đã thu
được nhiều thành tích. Những cuộc đấu tranh giữa hai con đường trên lĩnh vực văn hoá,
tư tưởng, lối sống diễn ra hết sức phức tạp. Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là
sự nghiệp mang nội dung toàn diện. Trong đó hệ thống giáo dục bao gồm giáo dục mầm
non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề, giáo dục đại học và trên đại
học có tầm quan trọng hàng đầu. Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người
mới, văn hoá nghệ thuật giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, Đảng và Nhà nước cần tăng
cường quản lý, đồng thời ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá,
văn nghệ đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng.

2.2. Mục tiêu

Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường
lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, vạch
ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách
và biện pháp thích hợp trong từng chặng đường.
Chặng đường trước mắt bao gồm những năm trong thập niên 1980. Những mục tiêu
kinh tế và xã hội tổng quát cho những năm đó là:
(1) Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất dần dần ổn định, tiến tới cải
thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc
vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa
bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác
7

(2) Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; chủ yếu nhằm thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, trang bị thêm thiết bị kỹ
thuật cho các ngành kinh tế chuẩn bị cho bước phát triển mạnh mẽ của công nghiệp nặng
trong chặng đường tiếp theo
(3) Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn thiện
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong cả nước
(4) Đáp ứng những nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng,
giữ vững an ninh trật tự.
Từ các mục tiêu tổng quát ấy, phải cụ thể hoá thành những mục tiêu bộ phận, những
mức phấn đấu định lượng cho từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở. Việc này gắn
liền với việc kiểm kê, tính toán để phát huy khả năng, cân đối giữa yêu cầu và khả năng,
thông qua việc lập các phương án kinh tế - kỹ thuật, xác định các biện pháp thực hiện về
chính sách, tư tưởng, tổ chức. Đó chính là quá trình xây dựng chiến lược kinh tế, xã hội,
xây dựng kế hoạch nhà nước và đổi mới cơ chế quản lý.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, thời gian thực tế còn lại cho kế hoạch 5
năm (1981 - 1985) chỉ là hơn ba năm. Vì vậy, mức độ về mục tiêu, chủ trương và biện
pháp cần rất thiết thực và vững chắc
Về đời sống, phải bảo đảm cho được nhu cầu ăn của xã hội với mức cố gắng có đủ
lương thực; giải quyết vải mặc cho toàn dân; bảo đảm giấy viết, giấy in… Trong khi
chăm lo đời sống của nhân dân nói chung, phải coi những người trực tiếp sản xuất, đặc
biệt là công nhân, cùng với cán bộ, bộ đội là đối tượng cần được chú ý trước hết.
Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phải rất coi trọng phát triển chiều sâu, tức là cải
tạo, bổ sung và nâng cao, nhằm khai thác tốt những năng lực sản xuất sẵn có; đồng thời
tiếp tục phát triển chiều rộng, xây dựng mới một cách có trọng điểm, vừa tăng cường
những cơ sở vật chất - kỹ thuật có thể sử dụng ngay trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985),
vừa tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng với quy mô lớn hơn và tốc độ nhanh hơn trong
những kế hoạch sau.
8

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành rất kiên quyết cuộc cách mạng về quan hệ
sản xuất, theo bước đi và hình thức thích hợp. Đảng ta chủ trương sử dụng một cơ cấu
kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ đạo.
Về quốc phòng và an ninh, phải cố gắng đến mức cao nhất làm tốt công cuộc phòng
thủ đất nước và giữ vững an ninh của Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế, có kế hoạch chủ động để khi cần thiết chuyển được nhanh chóng
nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến.

2.3. Thành tựu

Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhân dân
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Trên mặt trận kinh tế chúng ta đã khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm
lược và thiên tai gây ra, khôi phục và phát triển sản xuất, phân bố lại lao động xã hội,
củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đã ngăn chặn được đà giảm sút của những
năm 1976 - 1980, từ năm 1981 - 1985 đã đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt. Nông nghiệp tăng
bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% thời kỳ 1976 - 1980. Sản lượng lương thực có
bước phát triển quan trọng, mức bình quân hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976
- 1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981 - 1985. Sản xuất công nghiệp tăng bình
quân 9,5% so với 0,6% thời ỳ 1976 - 1980. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm
6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước đó.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tiếp tục được tăng cường: Đã hoàn thành
hàng trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một
số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông.
Năng lực sản xuất tăng thêm 456 nghìn kW điện; 2,5 triệu tấn than; 2,4 triệu tấn xi măng;
33 nghìn tấn sợi; 58 nghìn tấn giấy; thêm 309 nghìn ha đất được tưới nước; 186 nghìn ha
được tiêu nước.
9

Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tiến thêm một bước. Ở miền Nam, công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa đạt được những kết quả bước đầu, giai cấp tư sản mại bản bị xoá bỏ,
một bộ phận công thương nghiệp tư bản đã được cải tạo, nông dân ở nhiều nơi tham gia
tập đoàn sản xuất kể cả vào làm ăn tập thể. Nhà nước và nhân dân đã cố gắng chăm lo
bảo đảm các nhu cầu của quốc phòng và an ninh. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ
quốc tế đối với Lào và Campuchia thêm thắng lợi.
Trên mặt trận văn hoá, sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển, nạn mù chữ về cơ bản
được thanh toán. Công cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển khai trong cả nước. Sự
nghiệp văn học nghệ thuật đạt được một số tiến bộ. Công tác y tế, thể dục thể thao, có
nhiều cố gắng vươn lên. Các ngành khoa học, kỹ thuật đã đáp ứng tốt một số yêu cầu của
kinh tế và quốc phòng.
Đại hội đã định hướng xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chọn giá và lương
làm khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh tế
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

2.4. Ý nghĩa
Trong 5 năm đầu cả nước bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, được ghi
đậm nét vào lịch sử vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó
khăn gian khổ, giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa. Đây cũng chính là thời kỳ Đảng và
nhân dân ta phải trải qua nhiều thách thức nghiêm trọng. Công tác lãnh đạo và quản lý
kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước phạm nhiều khuyết điểm. Xuất hiện tình
hình khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thực trạng đất nước đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại
đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, định
ra mục tiêu, nhiệm vụ, các biện pháp giải quyết đúng những vấn đề quan trọng cấp bách
trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng nước ta
tiến lên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập
hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những
vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự
10

chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.

- Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích
nguyên nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình thế giới;
khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hôị lần thứ IV
đề ra.

- Đại hội làm rõ hơn cục diện cách mạng nước ta, nhìn nhận đúng đắn hơn thành tựu và
khuyết điểm, động viên toàn Đảng, toàn dân tập trung cao hơn vào mặt trận nông nghiệp,
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, phấn đấu thực hiện toàn diện các chỉ tiêu, biện pháp
của kế hoạch kinh tế- xã hội 5 năm 1981-1985, vực dậy nền kinh tế yếu kém. Trong 5
năm 1981-1985 cần tập trung lực lượng, thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu như: giải
quyết các vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân,
cải tiến công tác lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận này, làm tốt việc
ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất đời
sống; đổi mới một bước quản lý hệ thống kinh tế; tăng cường quản lý xã hội; kiên quyết
đấu tranh chống các hành vi phạm pháp tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác; đề
cao kỉ cương trong quản lý nhà nước quản lý kinh tế giữ vững trật tự và an toàn toàn xã
hội.

- Phân tích, khắc phục các biểu hiện tư tưởng bi quan, hoài nghi, dao động về đường
lối, thái độ bàng quang, thiếu trách nhiệm, nói ít làm nhiều, chỉ kêu ca mà không gương
mẫu hành động góp phần khắc phục khó khăn, đẩy lùi tiêu cực.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V thể hiện tư duy đổi mới từng bước của Đảng
trong việc tìm tòi, tổng kết thực tiễn, đề ra những hướng đi sát hợp, xây dựng cơ cấu kinh
tế và cơ chế quản lý phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước đang trong chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
11

- Đại hội đã vận dụng đúng đắn những quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và của
chủ nghĩa xã hội vào điều kiện của nước ta dựa trên sự đánh giá đúng những đặc điểm
lớn của đất nước và của thế giới trong thời đại ngày nay, phản ánh ý chí và nguyện vọng
của nhân dân ta phấn đấu từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

- Đề ra hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của nước ta trong giai đoạn mới: Xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau.

3. Ưu điểm và hạn chế của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng

3.1. Ưu điểm
Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý
kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề
gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một bước
chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội lần thứ V đã kiểm điểm việc chấp hành đường lối mà Đại hội lần thứ IV đã
vạch ra, đánh giá đúng những thành tựu và khuyết điểm, thấy rõ thực trạng kinh tế - xã
hội hiện nay, chỉ ra được sự chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, trong thực tế hai mặt
đó cùng tồn tại và đều cản trở bước tiến của cách mạng.Những sai lầm và khuyết điểm
trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng,
tổ chức, công tác cán bộ của Đảng.
Phân tích nguyên nhân của những thắng lợi và khó khăn, vạch ra phương hướng, nhiệm
vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội của thời gian 1981-1985 và những năm 80,
những chủ trương và biện pháp lớn nhằm phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, giải
quyết đúng đắn những vấn đề quan trọng và cấp bách về xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, những vấn đề nóng hổi về sản xuất và đời sống của nhân dân, về tăng
12

cường công tác xây dựng Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiếp tục tiến
lên một cách vững chắc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế
giới. Đại hội đã quyết định một số điểm sửa đổi và bổ sung Điều lệ Đảng và bầu Ban
Chấp hành Trung ương mới của Đảng.
Với những quyết định có ý nghĩa trọng đại đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối
của Đảng và những nhiệm vụ cách mạng to lớn và phức tạp trong tình hình hiện nay của
đất nước và trong bối cảnh quốc tế, Đại hội toàn quốc lần thứ V đã đánh dấu một chuyển
biến mạnh mẽ của Đảng ta về năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện, về chất lượng của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, về mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với giai
cấp công nhân và toàn thể nhân dân ta.
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương,
đề ra những nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc, vạch ra phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu
về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, quyết định phương hướng
xây dựng Đảng và các vấn đề bổ sung Điều lệ Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới để bảo đảm cho toàn Đảng chấp
hành thắng lợi những nhiệm vụ trọng đại mà Đại hội đã quyết định. Bầu Ban Chấp hành
Trung ương khoá V gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương, khoá V đã bầu ra Ban Bí thư, Tổng Bí thư và Ủy
ban kiểm tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã có những nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
- Thứ nhất, Đại hội đưa ra quan niệm mới về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
- Thứ hai, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới có hai nhiệm
vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, Đại hội đã có những điều chỉnh về nội dung, bước đi, cách làm của công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
13

Từ Đại hội V, nâng cao tình hữu nghị , tình đoàn kết chiến đấu và sự ủng hộ của Liên
Xô , của hai nước láng giềng Lào; Campuchia, và các nước khác trong cộng đồng xã hội
chủ nghĩa.

3.2. Hạn chế

Đại hội V của Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh, từng bước xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đất nước vừa trải qua nhiều năm chiến
tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính mệnh lệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi
người, việc đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với điều kiện mới
chưa được đặt ra một cách đúng mức. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, một mặt, tạo ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội; mặt khác, cũng tạo ra tâm lý chủ quan duy ý chí cản trở sự phát triển nhận
thức của Đảng.

Trên nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề, tình trạng Đảng bao biện làm thay khá nghiêm trọng,
dẫn đến hệ thống chính trị bị xơ cứng, kém hiệu quả. Hoạt động của Nhà nước và các
đoàn thể quần chúng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Tính độc lập, chủ động của Nhà
nước bị vi phạm, hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước bị hạn chế. Kinh tế - xã hội thiếu
năng động. Quyền làm chủ của Nhân dân không được coi trọng, phát huy một cách thực
chất khiến đời sống nhân dân xảy ra nhiều tiêu cực.

Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính
sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.

Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về
chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế,
xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng
tiểu tư sản, vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.
14

Đúng như Đại hội lần thứ V nhận định, chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì
trệ, trong thực tế hai mặt đó cùng tồn tại và đều cản trở bước tiến của cách mạng.

Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân.

Trong lĩnh vực tư tưởng và tổ chức, Đảng ta đã làm được một số việc có kết quả tốt, tổ
chức đảng và đội ngũ cán bộ có một bước trưởng thành, đã có nhiều kinh nghiệm mới về
xây dựng đảng trong điều kiện đảng cầm quyền. Nhưng, phải thẳng thắn thừa nhận rằng,
trước những biến động và thử thách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động
tư tưởng và tổ chức của Đảng đã không theo kịp yêu cầu của cách mạng.

Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy
luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn
thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở
chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa
thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó,
không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa
chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm
của các nước anh em.

Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán
bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo
một số quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức, không
xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của công việc; cách làm lại thiếu
quy hoạch, chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng. Công tác giáo dục và quản lý
cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.

Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi
đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều
hành thường không tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán. Trong các đảng bộ và các
15

cấp uỷ có sự vi phạm nguyên tắc Lêninnist trong sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên
tắctập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương.

Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các đoàn thể phình ra
quá lớn, chồng chéo và phân tán. Những sai lầm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo
của Đảng trước hết thuộc về trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng. Cần nhấn mạnh rằng, việc chậm bố trí đúng sự chuyển
tiếp hạt nhân lãnh đạo là một nguyên nhân trực tiếp làm cho sự lãnh đạo của Đảng không
đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới.

4. Ba bước đột phá đổi mới kinh tế (1979 - 1986)

4.1. Bước đột phá thứ nhất: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8/1979)

4.1.1 Hoàn cảnh

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta thống nhất, thực hiện Nghị quyết Đại
hội lần thứ IV và các Hội nghị Trung ương sau đó, trong những năm 1976-1979, Đảng đã
lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa và đã đạt những
thành tựu quan trọng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn đang đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức. Mô hình hợp tác xã quy mô lớn tập trung ở miền Bắc
thời điểm đó không phù hợp nên nhanh chóng bộc lộ những hạn chế: ruộng đất bị bỏ
hoang, xã viên không thiết tha với ruộng đồng, các ngành nghề làm ăn thua lỗ, thu nhập
của xã viên ngày càng thấp,.... Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã xuất
hiện hiện tượng “khoán chui”. Ở miền Nam, tình hình ruộng đất rất phức tạp, việc làm thí
điểm hợp tác xã ở miền Trung và Tây Nguyên diễn ra thuận lợi nhưng thiếu vững chắc, ở
Nam Bộ diễn ra phức tạp và lúng túng, sản xuất nông nghiệp có chiều hướng suy giảm.
Trên phạm vi cả nước, từ năm 1976 đến năm 1979, đầu tư của nhà nước cho nông
nghiệp không ngừng tăng, nhưng năng suất và sản lượng lương thực lại giảm đến mức
16

thấp nhất. Nhà nước đã phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn. Về phát triển công
nghiệp, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 0,6%, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình
quân 1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%, trong khi dân số tăng 2,24%. Đặc
biệt, từ cuối năm 1979, đất nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội: Sản xuất trì trệ,
năng suất, chất lượng hiệu quả thấp; giá cả tăng vọt, đồng tiền mất giá; đời sống nhân dân
nhất là cán bộ, viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang rất khó khăn.
Trước tình hình trên, yêu cầu đặt ra tất yếu đối với Đảng ta là phải tìm tòi đổi mới, khắc
phục những sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước tiến lên theo mục tiêu con đường đã chọn.
Từ năm 1979 đến tháng 8 năm 1986 là thời kỳ đổi mới từng phần, có vị trí rất quan trọng
đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

4.1.2 Nội dung bước đột phá đổi mới kinh tế lần thứ nhất (Tháng 8-1979)

Trước những đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, khoá IV (8-1979) lúc đầu định bàn về kinh tế địa phương và sản xuất
hàng tiêu dùng nhưng sau đã chuyển sang bàn về những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách
có liên quan đến đường lối và chính sách kinh tế-xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Tư tưởng nổi bật của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu là “làm cho sản xuất bung ra”,
nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào cản
để cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là bước đột phá đầu tiên trong quá trình tìm tòi,
đổi mới của Đảng ta.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, Hội nghị cho
rằng nguyên nhân của tình hình khó khăn về kinh tế là do việc xây dựng kế hoạch kinh tế
thiếu căn cứ khoa học; chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với thị trường; chưa chú ý
tăng trưởng kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và chưa sử dụng đúng đắn các thành phần
kinh tế; có những biểu hiện nóng vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam. Từ đó, Hội nghị đã quyết định những chủ trương và giải pháp mới, mạnh dạn
và sáng tạo, sát hợp với yêu cầu cấp bách của đời sống kinh tế.
17

Trước hết, Hội nghị xác định phải coi nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là Động viên
cao độ và tổ chức toàn dân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Mục đích là nhằm
đảm bảo lương thực, thực phẩm, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh
nguồn hàng xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đó, cần ban hành
những chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp như: ổn định mức nghĩa vụ lương
thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước theo giá thỏa thuận hoặc được tự do lưu
thông; khuyến khích việc tận dụng đất canh tác còn bỏ hoang hóa; ổn định mức bán thịt
lợn, phần còn lại bán giá thỏa thuận cho Nhà nước hoặc tự do lưu thông; sửa đổi lại giá
lương thực và các loại nông sản khác; bỏ lối phân phối theo định suất, bảo đảm phân phối
theo lao động coi đó là nguyên tắc phân phối chủ yếu. Đối với các xí nghiệp, cần đảm
bảo quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính. Việc xây dựng kế
hoạch phải tính đến yếu tố thị trường, và sự tồn tại của thị trường tự do là tất yếu.
Tiếp theo là về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng: phải tận dụng các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể để phát triển sản xuất; phải tùy từng ngành
nghề, từng mặt hàng và xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức
tổ chức sản xuất cho thích hợp. Hội nghị còn chỉ rõ, cái gì hợp tác xã đã làm tốt thì không
vội vàng thay thế bằng quốc doanh. Đối với cá thể, kể cả sản xuất, sửa chữa và dịch vụ,
xét sản phẩm nào, công việc nào cá thể hiện đang làm tốt, phục vụ tốt thì giúp cá thể tiếp
tục làm, một số mặt hàng hiện do quốc doanh phụ trách sản xuất, nay nếu xét để cho tiểu,
thủ công nghiệp và tư bản tư nhân sản xuất có điều kiện phát triển thuận lợi hơn thì cần
mạnh dạn giao lại cho tiểu, thủ công và tư nhân làm. Đối với công nghiệp tư bản chủ
nghĩa ở miền Nam, phải uốn nắn những nhận thức lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương
của Đảng về sự tồn tại các thành phần kinh tế để tận dụng mọi khả năng lao động, kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý nhằm phát triển sản xuất. Đối với công tác cải tạo xã hội chủ
nghĩa trong nông nghiệp, Hội nghị xác định: phải nắm vững phương châm tích cực và
vững chắc, hiện nay phải nhấn mạnh vững chắc; chống tư tưởng nóng vội, chủ quan,
cưỡng ép, mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, tháng 9-1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết
định về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hóa được trả thù lao thích
18

đáng và được sử dụng toàn bộ sản phẩm, được miễn thuế. Tháng 10-1979, Hội đồng
Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát ngăn sông cấm chợ. Người
sản xuất có quyền đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường không phải nộp thuế sau khi
làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Được sự quan tâm của Nhà nước trong đầu tư phát
triển nông nghiệp và cố gắng của nhân dân, năm 1979 sản lượng lương thực tăng
1.718.500 tấn so với năm 1978.
Trước hiện tượng “khoán chui” ở một số các hợp tác xã nông nghiệp, ngày 22-6-1980,
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 22, cho phép các địa phương mở rộng thí
điểm khoán sản phẩm và khoán việc đối với cây lúa trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Rút kinh nghiệm qua khoán thí điểm cây lúa trong các hợp tác xã nông nghiệp, ngày 13-
1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao
động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo tinh thần của Chỉ thị này, mỗi xã viên nhận
mức khoán trên một diện tích nhất định và tự mình làm 3 khâu, cấy, chăm sóc và thu
hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Nếu thu hoạch vượt mức khoán
thì xã viên được hưởng. Phương hướng chủ yếu trong cải tiến khoán là khuyến khích lợi
ích chính đáng của người lao động làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình
sản xuất và quản lý hợp tác xã đều gắn với sản phẩm cuối cùng. Chỉ thị ra đời được nhân
dân cả nước hồ hởi đón nhận. Chưa có hình thức kinh tế nào khi xuất hiện lại được nhiều
người bàn luận sôi nổi và được mở rộng nhanh chóng, biến thành một phong trào quần
chúng sâu rộng, thu hút hàng triệu nông dân, không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn
mà còn mở ra triển vọng tốt đẹp cho việc cải tiến quản lý nông nghiệp như Chỉ thị 100.
Với hình thức khoán ấy, tuy còn ở trình độ thấp nhưng đã tạo nên không khí phấn khởi
trong nông dân. Nhiều hiện tượng tiêu cực, lãng phí ngày công đã từng tồn tại từ nhiều
năm trong các hợp tác xã nông nghiệp thì chỉ trong một vụ đông xuân (1981-1982) áp
dụng cách khoán mới đã giảm nhiều, theo đó sản xuất nông nghiệp ở nước ta trong thời
kỳ 1981-1985 đã có những bước tiến đáng kể. Nếu so với mức bình quân hàng năm của
thời kỳ trước đó 1976-1980 là 1,9% thì tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp trong thời kỳ
1981-1985 là 4,9%, sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức tăng bình
quân hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong
19

thời kỳ 1981-1985. Diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 62,1%; đàn bò tăng 33,2%;
đàn lợn tăng 22%; lương thực cung cấp cho Nhà nước tăng 2 lần.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trên cơ sở tổng kết các hiện tượng “xé rào” và làm thí
điểm nhằm phát triển công nghiệp, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh và Long An, ngày
21-1-1981, Chính phủ đã ban hành Quyết định 25-CP về quyền chủ động sản xuất kinh
doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định nêu rõ: Cần
lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, thị trường, kinh
doanh có lãi; cho phép các xí nghiệp quốc doanh có nhiều nguồn cân đối và kế hoạch ba
phần (phần Nhà nước giao, phần tự làm, phần sản xuất phụ). Cùng ngày 21-1-1981, Hội
đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương
khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh
doanh của Nhà nước. Những chủ trương chính sách nêu trên giúp cơ sở tự giải quyết một
phần khó khăn, góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước. Năm 1981, lần đầu tiên sau chiến
tranh sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch
7,5%.
Trên mặt trận phân phối lưu thông, ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26/NQ-
TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Đây là lĩnh vực rất nóng bỏng trong đời
sống kinh tế-xã hội ở nước ta thời đó. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu, biện pháp và các
bước cụ thể của việc cải tiến công tác phân phối lưu thông. Tuy nhiên, hạn chế của Nghị
quyết là chủ trương khuyến khích sản xuất trước (bước 1) rồi trên cơ sở sản xuất phát
triển mới cải tiến công tác phân phối lưu thông (bước 2 và 3). Trong khi thực tiễn lại yêu
cầu phải cải tiến ngay công tác phân phối lưu thông để phát triển sản xuất. Vì thế, tình
hình phân phối lưu thông sau Nghị quyết 26 vẫn chưa có chuyển biến đáng kể.
Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trên lĩnh vực kinh tế-xã hội, Đảng còn
quan tâm kiện toàn bộ máy Nhà nước và tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Bước đột phá đổi mới về kinh tế lần thứ nhất ngay khi triển khai đã được nhân dân cả
nước hồ hởi đón nhận, bước đầu đã xuất hiện những điển hình về cách làm ăn mới phát
huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên những giải pháp Hội nghị Trung ương sáu nêu ra chưa
đủ sức tháo gỡ khó khăn. Sau một thời gian thực hiện lại xuất hiện những khó khăn mới:
20

Sản xuất bung ra nhưng không đúng hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả
ngày càng cao.

4.1.3 Ý nghĩa

Những ý tưởng ban đầu của đổi mới tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng
đó là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới toàn diện
sau này. Những đổi mới nêu trên chưa đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra
vì nó vẫn nằm trong bối cảnh chung là mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, tư duy về kinh tế tập
trung, quan liêu bao cấp cơ bản còn tồn tại. Từ đây đặt ra yêu cầu thực tiễn đòi hỏi Đảng
phải tiếp tục tìm tòi đổi mới.

4.2. Bước đột phá thứ hai: Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6/1985)

4.2.1 Hoàn cảnh

Đại hội toàn quốc lần thứ V đánh giá thành tựu và hạn chế trong xây dựng CNXH cũng
như chỉ ra nguyên nhân sa sút của nền kinh tế. Từ đó đưa ra “con đường trước mắt”.
Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) phát triển thêm một bước, đánh giá một
cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên
nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh
đạo và quản lý. Để góp phần khắc phục tư tưởng nóng vội, Đại hội đưa ra khái niệm về
“chặng đường trước mắt” của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này, nội
dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là “coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ
cấu hợp lý”. Đại hội cũng khẳng định sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong một thời
gian nhất định ở miền Nam.

4.2.2. Mục tiêu

Chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp, thực hiện cơ
chế một giá, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản
21

xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa… Tháng 9-1985,
cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền được bắt đầu bằng việc đổi tiền, xoá bỏ hoàn toàn
chế độ tem phiếu. Hội nghị lần thứ 8 thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật sản
xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.

4.2.3. Nội dung

Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ (KHCN) đổi mới sáng
tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và
phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam có thể được hiểu là tiếp tục làm tốt hơn nữa
việc phát triển nguồn nhân lực có năng lực toàn diện; thúc đẩy sự phát triển KHCN toàn
diện ngang tầm với cuộc cách mạng 4.0, đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước.
Về nguồn nhân lực:
Đồng tình với nội dung nêu trong dự thảo, như: Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và
bồi dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả
trong và ngoài nước. Tuy nhiên dự thảo cũng cần nhấn mạnh việc bình đẳng và minh
bạch hơn nữa quá trình tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và bổ nhiệm cán bộ để hạn chế đến
mức thấp nhất tình trạng tham nhũng công tác tổ chức cán bộ. Dự thảo cũng đã chỉ ra
việc xây dựng nguồn nhân lực bằng cách: phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự
hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội. Cần thấy đó là
những giá trị mà dân tộc ta đã bồi đắp, trui rèn qua hàng nghìn năm lịch sử, đã thật sự trở
thành nguồn sức mạnh nội lực to lớn rất cần phải được gìn giữ và phát huy. Cần phải
khơi dậy khát vọng vươn lên, nhưng chú trọng đề cao ý thức trách nhiệm, đạo đức xã hội,
sống và làm việc theo pháp luật.
Về Khoa học công nghệ:
"Phát triển mạnh mẽ KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh" rất đúng đắn. KHCN ngày nay đã trở thành
lực lượng sản xuất, là nguồn lực rất mạnh, rất hiệu quả góp phần phát triển kinh tế ở mỗi
22

quốc gia. Nước ta có một đội ngũ những người làm khoa học đông đảo, con người Việt
Nam rất sáng tạo, rất cần cù. Nhưng thực tế, thời gian qua KHCN chưa thật sự trở thành
một nguồn lực cơ bản để phát triển kinh tế đất nước, hoạt động nghiên cứu khoa học còn
chưa xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với thực tiễn và để được phục vụ cho thực tiễn. Chủ
trương "Lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao
công nghệ, ứng dụng công nghệ số" cần phải được triển khai hiệu quả trong thực tiễn thời
gian tới.

4.2.4. Kết quả, đánh giá

Kết quả: Do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả
thị trường có nhiều diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Đầu năm 1986,
lại phải lùi một bước, quay trở lại thực hiện chính sách hai giá… nền kinh tế đạt được
một số tiến bộ. Song nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Hội
nghị chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là do nhận thức của Đảng về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa rõ.
Đánh giá: Cuộc cải cách giá, lương, tiền của nghị quyết Trung ương 8, Hội nghị lần thứ
9, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương cho rằng: Sự đúng đắn của chủ trương
bù giá, thực hiện chính sách bán lẻ theo một giá là cần thiết phù hợp với quy luật của sản
xuất hàng hoá. Nhưng tổ chức thực hiện lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền và
tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt. Hậu quả
lớn nhất của cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương, lần này đã làm cho cuộc khủ

4.3. Bước đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (tháng 8/1986) “Kết luận
đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”

4.3.1. Hoàn cảnh

Hội nghị Bộ Chính trị khóa V(8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về
quan điểm kinh tế” đây chính là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng
là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.
23

4.3.2. Nội dung

Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ
trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất.
Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như dẫm
chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình
hình kinh tế-xã hội ngày càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình
trạng chậm giải quyết căn bản các vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu
và tạo nguồn hàng cho sản xuất. Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản
xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức
phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy
mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc
lực yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực
lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba chương trình quan trọng nhất về
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh
cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như
từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ
quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm
năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả
chế độ quản lý, chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển
của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắn là
xong.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới
24

thúc đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ
nghĩa là: đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật
kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa-
tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức
năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của
các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp đảm bảo các quyền tập trung thống nhất của
Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn
lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.

4.3.3. Ý nghĩa

Đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm
mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được trình
bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại
hội địa biểu toàn quốc lần VI của Đảng, thay cho bản Dự thảo Báo cáo chính trị được
chuẩn bị trước đó vẫn còn giữ lại nhiều quan điểm cũ không phù hợp với yêu cầu trước
mắt là khắc phục cho được những khủng hoảng kinh tế-xã hội.
25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Giáo trình Lịch sử Đảng


- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
- https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lan-thu-v/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-v-cua-dang-21
- https://daihoidang.vn/phuong-huong-nhiem-vu-va-nhung-muc-tieu-chu-yeu-ve-
kinh-te-va-xa-hoi-trong-5-nam-1981-1985-va-nhung-nam-80/442.vnp
- Đại hội V của Đảng - TaiLieu.VN
- https://vtv.vn/chinh-tri/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-v-tat-ca-vi-to-quoc-
xhcn-vi-hanh-phuc-cua-nhan-dan-20200604211118282.htm
- https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-nganh-
tuyen-giao/thong-tin-tu-lieu/nhung-han-che-trong-linh-vuc-tu-tuong-trong-nhiem-
ky-dai-hoi-v-556368.html
- https://tuyengiao.vn/ban-can-biet/thang-12-1986-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-
thu-vi-cua-dang-131755
- Ba bước đột phá đổi mới kinh tế

You might also like