You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


----------o0o------------

BÀI TẬP LỚN


Đề 2: Tại sao nói đường lối đổi mới năm 1986 là bước
ngoặt lớn trong công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam?
Ý nghĩa việc nghiên cứu trên?

Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Minh Tâm


Khóa : 61
Lớp tín chỉ : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam_AEP(220)_08
Giảng đường : A2 – 911, tiết 5 – 8, thứ 7
Mã sinh viên : 11194603
Giảng viên hướng dẫn : Trần Thị Thu Hoài

HÀ NỘI - 2021
MỤC LỤC
Tại sao nói đường lối đổi mới năm 1986 là bước ngoặt lớn trong công cuộc
xây dựng CNXH ở Việt Nam? Ý nhĩa việc nghiên cứu trên?
MỤC LỤC.......................................................................................................1
PHẦN 2: NỘI DUNG……………………………………………………….2
I. ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI NĂM 1986 LÀ BƯỚC NGOẶT LỚN TRONG
CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM……………………....2
1. Hoàn cảnh lịch sử………………………………………………………...3
2. Nội dung cơ bản của Đại hội VI…………………………………………3
3. Ý nghĩa……………………………………………………………………6
4. Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội VI (1986) ...
……………………………………………………………………………...6
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRÊN……….......................... 6
PHẦN 3: TƯ LIỆU THAM KHẢO............................................................11

1
Đề 2: Tại sao nói đường lối đổi mới năm 1986 là bước ngoặt lớn trong công
cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam? Ý nhĩa việc nghiên cứu trên?
I. Đường lối đổi mới năm 1986 là bước ngoặt lớn trong công cuộc xây dựng
CNXH ở Việt Nam
* Tiếp nối bước đột phá thứ nhất, từ Đại hội V đến trước Đại hội VI có 2 bước
đột phá:
- Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6 – 1985) là bước đột phá thứ hai trong
quá trình tìm tòi và đổi mới của Đảng:
+ Chủ trương xóa bỏ cơ chế quan liêu hành chính bao cấp.
+ Giá lương, tiền làm khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hoạch toán
kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Hội nghị Bộ Chính trị quá V (8 − 1986) đưa ra “Kết luận đối với một số
vấn đề thuộc quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới
kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối
đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá là:

+ Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội
đề ra một số chủ trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ
bản và phát triển sản xuất. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản
xuất trong 5 năm gần đây như dẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút,
chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế-xã hội ngày càng
không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng chậm giải
quyết căn bản các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu
và tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Bởi vậy, cần tiến hành một cuộc điều chỉnh
lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công
nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô
vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát
triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Theo hướng đó, cần tập
trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba chương
trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và
hàng xuất khẩu.
+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy
luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều
khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, phải biết lựa chọn bước
đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh
vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô
nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc
trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng
sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải
2
sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ
là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân
phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản
xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.

+ Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế
phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với
nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển. Hội nghị nêu ra những
nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới
kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh
tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ
hàng hoá-tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức
năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân
cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những
khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
=>Ý nghĩa: Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình
tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt
trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới đã định hướng cho việc soạn
thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng cũng là định hướng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

1. Hoàn cảnh lịch sử


a) Tình hình Thế giới.
- Cách mạng khoa học kĩ thuật (cách mạng khoa học công nghệ hiện đại)
phát triển mạnh.
- Xu thế của thế giới chuyển từ đối đầu sang đối ngoại (Mỹ và Liên Xô có
cuộc gặp gỡ không chính thức, sức mạnh của dân tộc là sức mạnh của
kinh tế chứ không chỉ là quân sự).
- Các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải cách, cải tổ đất nước (điển hình
là Trung Quốc và Liên Xô)
b) Tình hình Việt Nam
- Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận.
- Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng nhanh. Các hành
vi tiêu cực, vi phạm phát luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. 
Đổi mới trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước. 
2. Nội dung cơ bản của Đại hội VI
Đại hội VI đã diễn ra vào 12/1986 tại Hà Nội đề ra đường lối đổi mới toàn
diện thể hiện trên các lĩnh vực nổi bật.
- Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết
điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 – 1986. Đó là những sai lầm nghiêm
3
trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện. Đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, tư tưởng tiểu
tư sản, vừa tả khuynh, vừa hữu khuynh.

- Đại hội đã rút ra 4 bài học quan trọng


+ Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”.
+ Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan.
+ Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới.
+ Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi
mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao
cấp chuyển sang hoạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
Về kinh tế - xã hội :
+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy .
+ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý , trong đó đặc biệt chú trọng
ba chương trình kinh tế lớn là lương thực – thực phẩm , hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu , coi đó là sự cụ thể hóa nội dung trong công nghiệp hóa
trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ . Làm cho thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối , sử dụng mọi khả năng của các thành phần
kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ , dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát
triển phát triển sản xuất , nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho
người lao động.
+ Xây dựng và hoàn thiện 1 bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội việc làm , công bằng xã hội , chống
tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước.
Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã
hội và đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu : Bố trí lại cơ cấu
sản xuất , điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư ; xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa , sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ ;
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế , dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu ,
bao cấp , chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa ;phát huy động lực của khoa học kỹ thuật ; mở rộng
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

4
- Đại hội đã khẳng định chính sách xã hội bao gồm mọi mặt của cuộc sống
con người, cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm
vụ, phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặn đường đầu tiên. Bốn nhóm
chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người
lao động. Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục
trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu
giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Xây
dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Về huy động sức mạnh quần chúng :
+ Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động,
thực hiện khẩu hiệu “ dân biết, dân bàn , dân làm , dân kiểm tra “, tăng cường
hiệu lực quản lý của nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực
lượng to lớn của quần chúng.
+ Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng ,
Đại hội đã nêu rõ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt : đổi mới tư duy,trước hết
là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức ; đổi mới đội ngũ cán bộ ; đổi mới phong
cách lãnh đạo và công tác.

- Quốc phòng, an ninh: đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng
và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều
mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.

- Đối ngoại: 
+ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa: tăng cường tình hữu nghị và hợp
tác toàn diện.
+ Trung Quốc: bình thường hóa mối quan hệ.
+ Lào, Campuchia: Tăng cường quan hệ đặc biệt.

- Công tác xây dựng Đảng: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi
mới công tác tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ
vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí
trong Đảng.

3. Ý nghĩa
- Đại hội VI là đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đánh dấu
bước ngoặt phát triển mới trong thời kì quá độ lên CNXH.
- Các văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách mạng tạo điều
kiện cho sự phát triển của cách mạng VN.

4. Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội VI (1986)
vì: 
- Quá trình đổi mới từng phần (1979 − 1986) đã tạo tiền đề, động lực quan
tâm đổi mới đất nước.
5
- Để phù hợp với tình hình trong và ngoài nước lúc bấy giờ (theo mục hoàn
cảnh lịch sử), khắc phục sai lầm, khuyết điểm đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên, Đảng và
Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.
- Đổi mới là vấn đề cấp bách có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội
ở nước ta đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.

II. Ý nghĩa việc nghiên cứu trên

  Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được khởi xướng trên
những cơ sở khách quan, khoa học, trước bối cảnh quốc tế có những chuyển
biến hết sức sâu sắc và nhanh chóng. Đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và
ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của nó, điều đó cho thấy tinh thần
độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc khởi xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới.

 Hơn 30 mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, mặc dù còn nhiều vấn đề
mới nảy sinh cần tiếp tục thử ngiệm và hoàn thiện, song con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Nền chính trị ổn định,
kinh tế tiếp tục tăng tưởng, kết cấu hạ tầng xây dựng đồng bộ và ngày càng
khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận các tầng lớp dân cư
được cải thiện. Điều đó cho phép chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiệp đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn,
khoa học và sáng tạo.

Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới,
Đảng bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế
được điều tiết theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý
nhưng đặt vào bối cảnh khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội, mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới
mẻ và hiện đại của những chủ trương chưa từng có trong tư duy của những
người Cộng sản.

Giáo sư, Tiến sỹ Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh cho rằng, đây là những bước ngoặt lớn trong tư duy lãnh đạo. Chính đổi
mới đã khơi dậy sức mạnh toàn dân, giải phóng sức lao động và đưa đến những
thành công như hôm nay.

“Đây là mốc lớn đánh dấu việc chính thức đổi mới của Đảng ta. Tôi nói
chính thức bởi vì trước đó đã có những bước đổi mới từng phần, tổng kết từ
trước đó cho đến Đại hội 6 vào tháng 12 năm 1986 Đảng có báo cáo chính trị,
Nghị quyết Đại hội chính thức để ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Mốc
Đại hội 6 cực kỳ quan trọng, nhìn thẳng vào sự thật nói rõ sự thật, nói đúng sự
thật và nhấn xoáy vào điểm là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy khó lắm, tức là

6
đổi mới cái đầu của mình. Tư duy ở đây trước hết là tư duy về kinh tế. Đảng ta
đang đi đúng trọng tâm của nó”- GSTS Mạch Quang Thắng cho biết. 

Qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành được một hệ thống quan điểm
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm
cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, chủ động hội
nhập quốc tế, phát triển nhanh, bền vững đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,” góp phần bổ sung và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Một là, về hệ mục tiêu của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Hệ mục tiêu của đổi mới được hình thành và phát triển trong thực tiễn đổi
mới, được Đảng ta nhận thức, bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội Đảng, từ
Đại hội VI (1986) đến Đại hội XI (2011).

Bước vào đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta đã xác định đổi mới vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội văn minh.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Cương lĩnh năm 1991), đã bổ sung một mục tiêu rất quan trọng là "công bằng."
Đây vừa là một giá trị xã hội thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước
xây dựng, vừa là định hướng chính trị-xã hội rất căn bản khi đi vào kinh tế thị
trường.

"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh." Nhờ định hướng chỉ đạo
của hệ mục tiêu đó, Đảng và nhân dân ta đã nỗ lực giải quyết thành công cuộc
khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng vào những năm 80 của thế kỷ XX.

Sau hơn 30 năm đổi mới, với tầm nhìn chiến lược trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận
chính trị khá hoàn chỉnh, lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc. Đó là một trong những nguồn gốc của những thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử. Có thể khái quát một số vấn đề cơ bản về đổi mới tư duy
lý luận chính trị sau:
Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về con đường quá độ lên
CNXH.
Mặc dù thế giới có nhiều biến động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Những chủ trương và giải pháp của Đảng theo ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH, qua lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn con đường đã chọn. Bài
học chung cho mọi quyết sách trong thời đại hiện nay là tiếp tục làm sâu sắc hệ
giá trị phát triển Việt Nam theo con đường đã chọn; tìm ra chủ trương, giải
7
pháp, cách ứng xử tốt nhất trong mọi tình huống, bước ngoặt chiến lược của
cách mạng trong tình hình mới; để tiếp tục kiến giải một cách khoa học con
đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa mang bản sắc Việt
Nam.
Thứ hai, những nội dung lý luận chính trị cơ bản góp phần hoạch định các quyết
sách chính trị của Đảng trong quá trình đổi mới đi lên CNXH ở Việt Nam.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Từ đó, định hướng, định hình và định tính
CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Công tác lý luận đã xác định mô hình (định
hình) CNXH mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng và 8 mối quan hệ lớn.
Theo đó, công tác lý luận đã định tính CNXH trên từng lĩnh vực chủ yếu của
công cuộc đổi mới như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,
đối ngoại… Đồng thời chỉ rõ những khía cạnh cần đề phòng chệch hướng xã hội
chủ nghĩa… Định hướng, định mô hình và định tính CNXH của Đảng ta là bước
khởi nguyên và cũng là quan điểm chỉ đạo quán xuyến toàn bộ sự nghiệp xây
dựng CNXH.
Bước vào công cuộc đổi mới, năm 1986, Đảng ta đã xác định, xây dựng kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, khâu đột phá là đổi mới tư duy, nhất
là tư duy kinh tế. Theo đó công tác lý luận của Đảng tập trung mọi kiến giải, xác
lập, thực thi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình nền
kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương
đúng đắn, phù hợp quy luật, hợp với lòng dân theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa,
hợp với xu thế phát triển của thời đại, của Đảng ta, một đóng góp lớn, mới mẻ
đối với công tác lý luận.
Thực tiễn công cuộc đổi mới đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy nhà nước vững
mạnh, trong sạch, ngang tầm với yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới. Việc
xây dựng lý luận nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự phát triển mới về
nhận thức chính trị, đồng thời đó là mục tiêu, nội dung căn bản, bước tiến lớn về
thực tiễn đổi mới về chính trị của Đảng ta.
Xây dựng lý luận nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại, con người Việt Nam
thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định nền văn hóa Việt Nam mới là mục tiêu, nền
tảng, động lực của công cuộc đổi mới, nhằm đưa nước ta khỏi nước kém phát
triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phấn đấu đến năm
2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vấn đề mới, Đảng ta nhận thức sâu sắc và tổ chức thực hiện quyết liệt là tạo sự
phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa nhằm phát triển đất nước. Đảng ta chủ
trương tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao
dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng phát triển nguồn nhân lực. Xây
dựng nền văn hoá Việt Nam với chủ thể là con người là một bước tiến nổi bật
8
trong nhận thức, thực tiễn đổi mới văn hóa góp phần quan trọng để phát triển
trong chiến lược tiếp theo.
Xây dựng lý luận chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn của công cuộc đổi mới và xu thế của thời đại, hơn 30 năm qua, Đảng ta đã
chủ động xây dựng một nền lý luận về ngoại giao Việt Nam của thời kỳ đất
nước hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. Quan điểm chung là tập hợp
nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước, sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để khẳng định vị trí độc lập, vai trò tích cực, chủ
động của đất nước ta trước cộng đồng quốc tế vì một thế giới hòa bình, phát
triển và tiến bộ.
Phát triển lý luận về Đảng cộng sản Việt Nam. Có thể khái quát qua các phương
diện: Quan niệm về cầm quyền, Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
trong điều kiện có quyền lực nhà nước và Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cơ sở cầm quyền gồm cơ sở
lý luận, cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội. Về lý luận, nền tảng để mọi hoạt động của
Đảng diễn ra đúng quy luật, hợp lòng dân, hợp thời đại, là chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Về kinh tế là tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng hiện đại, phát triển mạnh mẽ,
bền vững với xung lực là kinh tế tri thức. Về xã hội là nhân dân muốn bảo đảm
được quyền lực của mình phải có sự lãnh đạo của Đảng; đến lượt Đảng, muốn
giữ vững vị thế và vai trò cầm quyền của mình cần phải có cái nền nhân dân,
phải coi trọng “dân là gốc”, “lấy dân làm gốc”.
Nguyên tắc, phương châm, chiến, sách lược cầm quyền, về nguyên tắc Đảng
không được phép chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất kỳ ai hoặc buông lỏng quyền
đó - quyền mà lịch sử và nhân dân đã giao cho Đảng là đứng mũi chịu sào trước
lịch sử. Về phương hướng là đưa nước Việt Nam độc lập, tự do tiến lên CNXH.
Về phương châm là để nhân dân là chủ nhân và nhân dân làm chủ thông qua
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về chiến lược và sách lược là
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái bất biến là
mục tiêu chiến lược của Đảng: độc lập dân tộc và CNXH. Theo mục tiêu lý
tưởng của Đảng, Đảng hoạch định Cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội theo từng thời kỳ, hoạch định chính sách theo từng giai đoạn.
Nội dung cầm quyền là sự bao quát, chi phối một cách toàn diện, triệt để và sâu
sắc toàn bộ đời sống và hoạt động của đất nước theo mục tiêu CNXH. Cơ chế
cầm quyền là sự vận hành và phát triển không ngừng mối quan hệ giữa Đảng -
Nhà nước - Nhân dân là mối quan hệ máu thịt không thể tách rời, không thể phá
vỡ vì mục tiêu độc lập và CNXH.
Phương thức cầm quyền là, về nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, có
trọng tâm trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước. Không ngừng xây dựng các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh trên cơ
sở đổi mới chức năng, nhiệm vụ, vị thế và vai trò của các tổ chức này trong hệ
thống chính trị.

9
Nguồn lực cầm quyền, có ba nguồn lực chính bảo đảm sự cầm quyền của Đảng
vững chắc đó là nguồn lực con người, tổ chức bộ máy và nhân tố vật chất. Môi
trường cầm quyền, một trong những mục đích của sự cầm quyền là đảm bảo sự
ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất nước, đến lượt nó, mọi sự phát triển
đều nhằm tới đảm bảo sự ổn định cao hơn về chính trị - xã hội. Cùng với đó là
cần xác lập, bảo vệ môi trường pháp luật vững bền nhằm bảo đảm triệt để tư
cách pháp nhân của Đảng với vị thế là một chủ thể, chính trị.
* Ý nghĩa với sinh viên:

- Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về quan
điểm, đường lối của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

- Ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng.

- Sinh viên có thể vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực giải
quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội...

10
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
http://thanhphotuyenquang.gov.vn/DetailView/16311/6/Thanh-tuu-doi-moi-
chinh-tri-cua-Dang-va-y-nghia-doi-voi-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van-Viet-
Nam.html
https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-doi/nhung-co-so-
hinh-thanh-duong-loi-doi-moi-cua-dang-tai-dai-hoi-vi-1986-58.html

11

You might also like