Mã lớp học phần: 21C1HIS51002632 Sinh viên: Đào Bích Châu Khóa – Lớp: K46 - KNC01 MSSV: 31201023142
TP Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 12 năm 2021
1. Trình bày quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam qua 3 bước đột phá tư duy về kinh tế (1976-1986) và ý nghĩa của quá trình này. Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam qua 3 bước đột phá tư duy về kinh tế (1976-1986): Sau năm 1975, đất nước còn vô vàn những khó khăn. Đó là: Hậu quả của 30 năm chiến tranh đối với cả nước và chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam phải giải quyết vô cùng nặng nề; miền Nam hậu quả của chiến tranh và chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; miền Bắc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bị tàn phá nặng nề trong hai cuộc chiến tranh phá hoại năm 1964-1968 và năm 1972; Nền kinh tế quốc dân mất cân đối một cách gay gắt, nhất là cung-cầu lương thực, sản xuất không đủ tiêu dùng. Trong khi đó, Mỹ và các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta. Nhân dân VN phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc. Các nước XHCN gặp nhiều khó khăn, đã bộc lộ trì trệ, đòi hỏi phải cải cách, cải tổ.... Từ những khó khăn đó, Đảng ta đã tìm thấy những bất cập của cơ chế, đồng thời phát hiện những điểm sáng của thực tiễn đặt ra. Do vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V, Đảng ta đã chỉ ra những đột phá lớn, mà cụ thể: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (15-23/8/79) “tìm kiếm lối thoát” cho nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng, trì trệ với những chủ trương, biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, làm cho sản xuất “bung ra”; tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển…; đồng thời được tự do lưu thông hàng hóa, xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ”.Hội nghị Trung ương 6 được cho là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường. Đặc biệt Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư ngày 13/01/1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp được nông dân cả nước ủng hộ, mang lại những kết quả tích cực khi sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể. Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%. Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết Đại hội. Nổi bật là Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm. Nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; giá, lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá. Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá. Tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó, đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”, gồm a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; b) Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Nhìn chung, “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế” của Hội nghị Bộ Chính trị khoá V đưa ra chủ yếu về thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, cho phép sở hữu các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý, xóa cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa…; đổi mới cơ cấu kinh tế, phải “thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được trình bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Đại hội VI năm 1986 với đường lối đổi mới toàn diện đất nước đã đáp yêu cầu bức thiết của yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng, xác định nhiệm vụ đổi mới và là vấn đề có ý nghĩa sống còn của cách mạng. Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI Ý nghĩa của quá trình này: - Quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận kinh tế của Đảng là xuyên suốt nhất quán, ngày càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm bảo sự thống nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, giữa phát triển và hội nhập trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Hình thành tư duy nhất quán có tính chiến lược về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế. Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia. Chính sách thị trường thông thương giữa các vùng trong nước và giữa trong nước và nước ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức và xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. - Có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đã được xác định rõ, đó là xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, can thiệp vào nền kinh tế với mục tiêu sửa chữa những khuyết tật của thị trường và đảm bảo an sinh xã hội. - Cơ chế giá chuyển từ quản lý mệnh lệnh hành chính, không phản ánh đúng quy luật giá trị, là một trong những nguyên nhân gây lạm phát cao sang quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã khắc phục những bất cập, hạn chế về giá, giá cả hàng hoá phản ánh giá trị hàng hoá, khắc phục được những mặt trái về giá trong KTTT, đảm bảo ổn định và an sinh xã hội. - Khuyến khích phát triển đồng bộ các loại thị trường, nhận thức được vai trò tích cực của cơ chế thị trường và đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị trường Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối đổi mới. Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên. Sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng. Từ năm 1986 đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới đã đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước. Những thắng lợi bước đầu đó được Đảng ta từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối đổi mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ Đại hội. 2. Tại sao đến năm 1986 đổi mới đất nước là nhiệm vụ bức thiết, sống còn của Việt Nam? Bạn có thể vận dụng được gì cho bản thân từ những bài học kinh nghiệm của Đại hội VI của Đảng (1986). Đến năm 1986 đổi mới đất nước là nhiệm vụ bức thiết, sống còn của Việt Nam, vì: Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự kiện, những nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một quy mô to lớn chưa từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có sự phát triển, bổ sung lý luận cho phù hợp mà trước tiên phải có cách nhìn mới, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới, cải cách mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt Nam. Bối cảnh chung lúc bấy giờ: - Hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng, khó khăn nghiêm trọng. Phong trào độc lập dân tộc phát triển mạnh; phong trào không liên kết trở thành lực lượng chính trị rộng lớn có vai trò ngày càng quan trọng. - Hố ngăn cách giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng sâu rộng. Sự bóc lột ngày càng nặng nề của các nước đế quốc chủ nghĩa khiến nhiều nước Á, Phi, Mỹ La tinh ngày càng bần cùng và nợ nần chồng chất. Phong trào công nhân của các nước tư bản có bước phát triển mới. - Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất và đời sống kinh tế thế giới, góp phần thúc đẩy nhiều quá trình hiện đại của xã hội như: cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng đến các thiết chế xã hội, đến văn hóa, lối sống các dân tộc. - Trong nước tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa gắn với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. - Tuy nhiên, 10 năm đầu tiên của thời kỳ quá độ, nền sản xuất cũ, hậu quả của các cuộc chiến tranh, tàn dư của chế độ cũ đã cản trở sự phát triển của đất nước. Chúng ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp. Những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm khó khăn. Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Đứng trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, với xu thế phát triển của thời đại, lại chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để khắc phục như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) làm cho sản xuất bung ra; Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (1/1981) về khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp; Quyết định 25-CP và 26- CP của Chính phủ (1981)về cải tiến cơ chế quản lý trong kinh tế quốc doanh; quan điểm của Đại hội V (3/1982) đến Nghị quyết Hội nghị Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6/1985) về giá - lương - tiền, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, những kết luận về các quan điểm kinh tế của Bộ Chính trị (9/1986) ...Những thử nghiệm đó có cả thành công và thất bại tuy không kiềm chế nổi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ngày càng trầm trọng, song đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới tư duy của Đảng và xã hội để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc, được mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng năm 1986 - Đại hội của đổi mới. Vận dụng cho bản thân từ những bài học kinh nghiệm của Đại hội VI của Đảng (1986) Những bài học kinh nghiệm rút ra được và vận dụng cho bản thân: - Phải biết thừa nhận những sai sót của bản thân, nghiêm khắc đánh giá những nguyên nhân dẫn đến kết quả đó, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí. Tương tự như Đảng nghiêm khắc đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng trong thời điểm diễn ra Đại hội VI năm 1986, đồng thời rút ra bài học sâu sắc: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo những quy luật khách quan…” - Phải cởi mở và chấp nhận sự thật là mọi thứ không đi theo hướng mình mong muốn, từ đó rút kinh nghiệm và tiến hành sửa chữa lỗi lầm. Cũng như Đảng nhận thấy rõ nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời gian qua (trước Đại hội VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản lý kinh tế. Chính vì vậy mà tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. - Phải quán triệt tư tưởng và mục tiêu ngay từ ban đầu, dù có thay đổi cách thức thực hiện hay chiến lược nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc và mục đích ban đầu. Giống như đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. - Nếu trong một tập thể thì đoàn kết chính là sức mạnh, sự đồng lòng của tất cả mọi người chính là yếu tố quan trọng nhất trong mọi hoàn cảnh, phải đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của bản thân. Đảng ta cũng vậy. luôn coi lợi ích quốc gia-dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. - Phải biết quan sát và học hỏi từ những người đi trước, từ đó tìm ra hướng đi và cách làm phù hợp với bản thân.Trong những năm trước Đại hội VI, Đảng đã có những biện pháp nóng vội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh nhưng sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có những quan hệ phù hợp với nó. “Những quan hệ sản xuất lạc hậu” hay “những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” ắt sẽ kìm hãm sự phát triển của nó. Và kinh nghiệm này đã được Lênin rút ra từ thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc. (2019). Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Hà Nội. https://digital.lib.ueh.edu.vn/viewer/simple_document.php? subfolder=86/85/64/ &doc=86856454077862330187070659385642002857&bitsid=7b58b98d-fceb- 411d-a521-fdb95dec4c3e&uid=9d658e75-e4a7-44cb-8c02-fd6f9ab35c87 2. ThS. Trần Văn Hòa. (2020). Nhìn lại sự đột phá, đổi mới về tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trường Chính trị Bến Tre. http://truongchinhtribentre.edu.vn/content/nhìn-lại-sự-đột-phá-đổi-mới-về-tư- duy-kinh-tế-của-đảng-cộng-sản-việt-nam 3. Ts.Lê Minh Nghĩa. (2018). Đổi mới tư duy kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Hội đồng Lý luận Trung ương. http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doi-moi-tu-duy-kinh-te-trong-nen-kinh- te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-mot-so-van-de-ly-luan- va-thuc-tien.html 4. Theo vov.vn. (2020). Đổi mới năm 1986: Bài học từ đổi mới tư duy của Đảng. Báo Hà Giang. http://baohagiang.vn/Dang-trong-cuoc-song-hom-nay/202001/doi-moi-nam- 1986-bai-hoc-tu-doi-moi-tu-duy-cua-dang-754134/ 5. Nguyễn Đức Luận. (2009). Đường lối kinh tế của Đảng từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng đến nay. Trường Đại học Lâm nghiệp. https://vnuf.edu.vn/duong-loi-kinh-te-cua-dang-tu-khi-dat-nuoc-hoan-toan-giai- phong-den-nay.html 6. Thông tấn xã Việt Nam. (2020). Đại hội Đảng VI: Quyết tâm đổi mới. https://daihoidang.vn/dai-hoi-dang-vi-quyet-tam-doi-moi/887.vnp 7. ThS. Nguyễn Thị Hiền. (2020). Những cơ sở hình thành đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI (1986). Trường Chính trị Kon Tum https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-doi/nhung-co- so-hinh-thanh-duong-loi-doi-moi-cua-dang-tai-dai-hoi-vi-1986-58.html 8. (2011). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng: Đổi mới toàn diện đất nước. Báo tin tức https://baotintuc.vn/tin-tuc/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-dang-doi- moi-toan-dien-dat-nuoc-20110108090639828.htm
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế 1982-1986 a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và quá trình thực hiện nghị quyết đại hội