You are on page 1of 14

THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (1986 – NAY)

1. Nguyên nhân dẫn đến sự đỏi mới Thương Mại ở Việt Nam
1.1. Bối Cảnh Chuyển Đổi
Thời kỳ trước đổi mới:
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước độc lập thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi lớn: đất nước thoát khỏi thời
kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nhiệm vụ chính lúc này là khôi phục, ổn định xây
dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Tình hình đó đã đặt ra một yêu
cầu là cần phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình mới
của đất nước để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Trên thực tế, các chủ trương,
chính sách, biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng được
những yêu cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh tế
(những vấn đề liên quan đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất).

Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ
khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở
vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu
cầu đời sống và tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình
hình trên là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có
nhiều hạn chế,…Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa
chỉ ra. Ở miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương
tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo
công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức công tư hợp doanh; chủ trương
hợp tác hóa nông nghiệp; cải tạo thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ
yếu; cải tạo thương nghiệp nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Trong những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, đất nước ta lại phải đương đầu
với 2 cuộc xung đột ở biên giới phía Bắc và cuộc xung đột biên giới phía Tây Nam .
Tình hình đó ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở
nước ta. Nền kinh tế đất nước vốn đã gặp rất nhiều khó khăn nay lại phải đương đầu
với những kẻ thù mới khiến tình hình ngày càng trở nên nghiêm trọng. Kết quả thực
hiện kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối
nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi số dân tăng
nhanh. Thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội, lương thực và các
hàng tiêu dùng đều thiếu…

Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, một số ngành và nhiều địa
phương đã tiến hành những cuộc thử nghiệm, tìm tòi về cách làm ăn mới này nhằm
khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế phát triển sản xuất, cải tiến lưu thông,
phân phối, đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. Song, cho tới năm 1986 cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập
đồng bộ. Nhiều chính sách, cơ chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể chế quản
lý mới còn chắp vá, không ăn khớp, thậm chí trái ngược nhau.

Tuy vậy, với chủ trương đổi mới cơ chế quản lý này, Đảng đã đề ra được một
phương hướng quản lý mới có tính khả thi, thể hiện một sự chuyển biến đúng hướng
trong quan hệ sản xuất nói chung và trong việc tổ chức và quản lý sản xuất nói riêng.
Đây tiếp tục là một khâu đột phá mới để tiến tới sự đổi mới toàn diện và sâu sắc về
kinh tế-xã hội.

Đất nước ta sau nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nền
kinh tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém. Thực trạng đất nước vào giữa những năm
1980 với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp: Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp;
mất cân đối lớn trong nền kinh tế, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhiều nhu
cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa được đảm
bảo…Thực trạng kinh tế – xã hội đó đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách xoay
chuyển tình hình, tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển. Trên thực tế, Đảng ta đã
làm được điều đó.

1.2. Cơ chế cũ còn nhiều hạn chế


Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã hoàn thành được sứ mệnh của nó và cơ
chế cũ được đánh giá là phù hợp với bối cảnh kinh tế- xã hội Việt nam lúc bấy giờ.
Nhờ
mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung nước ta huy động được mọi yếu tố để đánh
thắng
kẻ thù, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và thống nhất 2 miền nam
Bắc,nâng cao cao trình độ thương mại quốc doanh, phát triển hợp tác xã cấp thấp lên
hợp tácxã cấp cao với quy mô ngày càng mở rộng.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1975 và đến trước đổi mới năm 1986, hơp tác
xãđược xác định là 1 trong 2 hình thức kinh tế chính thức ở Việt Nam (bên cạnh
doanh
nghiệp nhà nước). Hợp tác xã trở thành phổ biến, thay thế dần kinh tế cá thể và đội
sản
xuất. Trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, ở miền bắc, khi hầu hết lực lượng thanh
niênra mặt trận, hợp tác xã nông nghiệp đã có vai trò vô cùng quan trọng duy trì và
phát triểnsản xuất, đảm bảo hậu phương ổn định và cung cấp lương thực, thực phẩm
cho nhân dânmiền bắc và tiền tuyến lớn miền nam. Đến năm 1986, cả nước có 73.470
hợp tác xã, trong đó có 17.022 hợp tác xã nông nghiệp, 32.034 hợp tác xã công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và 24.414 hợp tác xã khác.
Tuy nhiên, sau khi giành độc lập( năm 1975), chính phủ ta quá hoan hỉ với
chiến
thắng, chủ quan, không chịu đổi mới, đổi mới không toàn diện- chắp vá, duy ý chí dẫn
đến sai lầm. Việc thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm, đặc biệt

không gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự xuất phát từ
thực tế lao động sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ: “về tổ chức thực hiện,
khuyết điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với
cuộc sống; là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế”. Trong khi đó,
cơ chế quản lý quan liêu bao cấp vẫn tiếp tục được duy trì đã ảnh hưởng không nhỏ
đến nền sản xuất, nhất là trong việc phân phối, lưu thông. Nhà nước đóng vai trò điều
tiết giá cả nên đã không kích thích được sản xuất kinh doanh phát triển. Cơ chế quản
lý quan liêu bao cấp với đặc điểm “tách rời việc trả công lao động với số lượng và
chất lượng lao động”, kết hợp với nguyên tắc “phân phối theo lao động” đã làm cho
chế độ phân phối mang tính bình quân, do đó không kích thích được sự nhiệt tình và
khả năng tìm tòi sáng tạo của người lao động.
Yêu cầu về cuộc cải cách “giá-lương-tiền” đã được phản ánh trong quyết sách
của Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 8/1985), với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Sau hơn
hai tháng nghiên cứu, ban chỉ đạo cải cách giá - lương - tiền do Nhà nước thành lập
mong muốn đưa giá cả các mặt hàng theo sát với chi phí sản xuất, sát với giá thực tế
trên thị trường. Trước đó, các cuộc cải cách quy mô nhỏ đã diễn ra tự phát ở nhiều địa
phương, nhất là các tỉnh phía Nam, song chỉ thực sự trở thành chính sách chung sau
quyết định của ban chỉ đạo. Việc thu đổi được tiến hành trong ngày 14/9/1985 với 4
loại có mệnh giá lớn đang lưu hành là 100, 50, 30 và 20 đồng. Các loại tiền từ 10 đồng
trở xuống tạm thời lưu hành song song. Theo quy định, mỗi gia đình chỉ được đổi tối
đa 1.500-2.000 đồng tiền mới. Hộ kinh doanh công thương nghiệp có môn bài bậc cao
được đổi tối đa 5.000 đồng. Trong ngày 14/9, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, học
tập... gần như ngưng trệ, khi toàn xã hội tập trung cho việc đổi tiền. Đặt ra với mong
muốn gỡ thế khó cho nền kinh tế bằng tư duy mới song thực tế triển khai cải cách giá
- lương - tiền lại nhanh chóng bộc lộ nhiều bất cập. Các xí nghiệp quốc doanh không
chịu nổi giá vật tư nâng lên khoảng 10 lần và đề nghị mức thấp hơn. Sau một hồi tính
toán, thương thảo, Ban chỉ đạo đồng ý lùi bớt giá vật tư khoảng 70% để đảm bảo sức
chịu đựng của các xí nghiệp này. Rồi mức lương tăng thêm 20% so với trước để bù
lạm phát trước tháng 8/1985 nhưng vẫn không đủ cải thiện đời sống và mức cuối cùng
được “chốt” là tăng 100%. Tuy nhiên trên thực tế, số tiền thực để trả lương mới đã
tăng tới 220% vì nhân dịp điều chỉnh, nhiều địa phương, đơn vị đã tranh thủ nâng bậc
cho hàng loạt cán bộ, góp phần khiến lạm phát tăng. Cuộc “vỡ trận” thứ ba được nhiều
người nhớ đến là chuyện đổi tiền. Chỉ hơn 3 tháng sau ngày chuyển đổi 14/9/1985,
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã đưa vào lưu thông một khối lượng tiền tương
đương gần 1,4 lần con số ghi nhận trong lần đổi tiền gần nhất (năm 1978) để phục vụ
công cuộc cải cách lương và giá. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công
nhân không có. Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Giá bán lương thực dù tăng 10 lần vẫn
không đủ bù đắp chi phí, sau khi đổi thì đồng tiền mới mất giá mạnh. Đấy là Lạm phát
bùng nổ. Năm 1986 khi tăng đến hơn 774%, chỉ số giá bán lẻ năm ấy cũng tăng gần
590%.
Kết quả là cuối những năm 70, đầu những năm 80 khủng hoảng, siêu lạm phát,
hàng hóa khan hiếm, nhập khẩu bằng ba lần xuất khẩu, trong đó phải nhập khẩu lương
thực(1976-1985 nhập khẩu 1,5 triệu tấn gạo), thiếu lương thực cung cấp cho dân, phát
sinh các tệ nạn xã hội,..Điều này đòi hỏi phải đổi mới. Trong bối cảnh đó nước ta có
nhiều sự lựa chọn:
Thứ nhất,chuyển hướng sang tư bản
Thứ hai, năm 1982 ta chấp nhận là quan sát viên của tổ chức ASEAN, nhà
nước ta nhờ ngân hàng thế giới tư vấn. Lịch sử có nước làm phát như trường hợp Việt
nam thì họ chưa có kinh nghiệm, tuy nhiên họ có tư vấn bỏ tiền Việt Nam thay thế
bằng đồng tiền khác( ngầm hiểu là đồng đôla để dùng sức mạnh của Mỹ vực dậy).
Thứ ba, vay mượn tiền và thay đổi cơ chế
Vì mới thoát khỏi chiến chiến nên nước ta chọn đường đi khó nhất đó là vay mượn và
thay đổi cơ chế. Năm 1986 nhà nước ta quyết định xóa bỏ nền kinh tế cũ-nền kinh tế
tập trung bao cấp; xây dựng mô hình kinh tế mới- nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần.

2. Các chính sách của nhà nước trong giai đoạn này
2.1. Chính sách về thương mại nội địa
Bao gồm chính sách đối với Doanh nghiệp nhà nước , Hợp tác xã và các hình thức
hợp tác khác tạo nền tảng của nền kinh tế ; chính sách thương mại đối với nông thôn
đảm bảo cung ứng những hàng hoá cần thiết cho nông dân sản xuất và tiêu dùng.Đồng
thời, đảm bảo tiêu thụ hàng hoá do nông nghiệp và nông thôn sản xuất ra .Chính sách
đối với miền núi, những chính sách khuyến khích phát triển thương mại miền núi,
chính sách ưu đãi về thuế ,trợ giá trợ cước cho một số mặt hàng….Chính sách lưu
thông hàng hoá và dịch vụ thương mại khuyến khích , tạo điều kiện mở rộng lưu
thông hàng hoá ,phát triển dịch vụ thương mại mà pháp luật không hạn chế hoặc
không cấm.
Sau đại hội VI- 1986 Đảng và Nhà nước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Từ đó nhà nước cho phép mọi công dân đều có
quyền tham gia kinh doanh theo quy định của pháp luật. Chính sách này quy định các
điều kiện, thủ tục điều kiện kinh doanh và phạm vi hoạt động của thương nhân, một số
quy định chủ yếu như: Điều 9 Luật doanh nghiệp quy định.
Tất cả các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hóa. Giá cả cơ bản do cung cầu
điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ. Sử dụng đầy đủ và đúng đắn các đòn
bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá và quản lý kinh tế, trên cơ sở kết hợp hài hoà lợi ích
của xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích của người lao động. Mức thu nhập của tập thể
và của người lao động tuỳ thuộc vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Sửa đổi, bổ sung các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách về cung ứng vật
tư, lưu thông hàng hoá, giá, thuế, tín dụng, tiền lương... nhằm khuyến khích các cơ sở
và công nhân, nông dân, thợ thủ công hăng hái phát triển sản xuất. Khuyến khích lao
động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý
và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
Nông nghiệp khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị
kinh tế tự chủ ở nông thôn, đã đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông
nghiệp và nông thôn nước ta. Khoản 10 đã xác định HTX nông nghiệp là đơn vị chủ
quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ nhận khoán với HTX. Cơ chế khoán
đã đem lại sự chuyển biến rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp. Chính sách thương mại
đối với nông thôn đảm bảo cung ứng những hàng hoá cần thiết cho nông dân sản xuất
và tiêu dùng. Đồng thời, đảm bảo tiêu thụ hàng hoá do nông nghiệp và nông thôn sản
xuất ra. Sản lượng lúa năm 1988 là 19,5 triệu tấn đến năm 1989 đạt 21,5 triệu tấn. Và
năm 1989, nước ta lần đầu tiên xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo, mở ra một giai đoạn mới,
đưa Việt Nam trở thành một cường quốc xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách quản lý mạng lưới
kết cấu hạ tầng thương mại bán buôn, bán lẻ bao gồm: các loại hình chợ, trung tâm
thương mại, hệ thống các siêu thị, hệ thống các cửa hàng, hợp tác xã thương mại, dịch
vụ thương mại; hệ thống Đại lý thương mại, nhượng quyền thương mại, trung tâm
logistis, kinh doanh hàng hóa dưới các hình thức khác theo quy Định của pháp luật và
các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại khác.
Nhà nước quản lý chặt chẽ vật tư, hàng hoá do kinh tế quốc doanh sản xuất và
nhập khẩu, có chính sách giá và phương thức mua bán hợp lý để nắm được hàng,
nắm được tiền. Trung ương phân cấp định giá và quản lý giá phù hợp với tình hình
thực tế, bảo đảm cho cơ sở sản xuất hoạt động bình thường, thương nghiệp xã hội chủ
nghĩa chủ động được trong việc mua và bán.
Đảm bảo tập trung nguồn lực để thúc đẩy sản xuất hàng hóa, quy hoạch và cơ
cấu lại những vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn, dỡ bỏ hiện tượng ngăn sông,
cấm chợ ở một số vùng. Đảm bảo cho hàng hóa lưu thông thông suốt trong phạm vi cả
nước. Triển khai thực hiện cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ phát triển
sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân vùng biên giới, miền núi, hải Đảo và vùng
dân tộc, vùng khó khăn (tại Nghị định 20/1998 NĐ-CP như là các chính sách ưu đãi
về thuế ,trợ giá trợ cước cho một số mặt hàng, hỗ trợ lưu thông hàng hóa và dịch vụ
thương mại... )
Mở rộng giao lưu hàng hoá, bãi bỏ các biện pháp cấm đoán, chia cắt thị
trường theo địa giới hành chính. Kịp thời phát hiện và nghiêm khắc trừng trị bọn đầu
cơ, buôn bán phi pháp. Mở cửa kinh tế và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước,
biến nền kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực.

Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế nước ta mở đầu từ Đại Hội VI đã có
những thay đổi to lớn và sâu sắc, đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới cơ chế, chính
sách và quản lý kinh tế nói chung, thị trường và thương mại – dịch vụ nói riêng. Đảng
và Nhà Nước đã ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, thực hiện đổi
mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn ( lương thực – thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu ) đạt những tiến bộ rõ rệt. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bước đầu dần được
hình thành chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế
thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị của hàng hóa và quan hệ cung cầu,
các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hoá phát triển mạnh thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động.
Thương nghịêp Nhà Nước đã có sự chuyển đổi từ trước về phương thức kinh doanh,
từng bước thích ứng với cơ chế mới, quản lý nhà nước về thị trường và hoạt động
thương mại nội địa có sự tiến bộ và tổ chức hệ thống hoạch định chính sách vĩ mô, tạo
điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển. Cụ thể:
Thành tựu:
Hàng hoá cung ứng trên thị trường tăng trưởng với mức cao, phong phú về quy
cách chủng loại và chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu
dùng trong nước và còn dư thừa để xuất khẩu, góp phần quan trọng giữ vững các cân
đối lớn của nền kinh tế, ổn định đời sống của nhân dân;
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục,không chỉ giải quyết đầu ra, tiêu
thụ sản phẩm cho các ngành sản xuất mà tự thân thương mại nội địa cũng góp phần
gia tăng GDP chung cả nước
Kiềm chế được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý đã tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, nhất là lao động phổ thông, góp
phần giải quyết áp lực về mặt xã hội của một quốc gia đông dân như Việt Nam
Kết cấu hạ tầng thương mại từng bước được củng cố và phát triển xuất hiện
nhiều loại hình tổ chức phân phối tiến bộ và hiện đại, nhất là ở các thành phố lớn , làm
thay đổi diện mạo tổ chức thị trường nội địa.

Hạn chế:
Nền thương nghiệp cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân
tán, manh mún, buôn bán theo kiểu chụp giựt qua nhiều tầng nấc, dẫn đến tình trạng
ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước. Nạn đầu cơ buôn lậu, buôn
bán hàng giả diễn ra nghiêm trọng, tác động xấu đến sản xuất và đời sống

Quản lý Nhà nước về thương nghiệp còn yếu kém, không ít tiêu cực
Hoạt động thương mại nội địa hoạt động thiếu tính bền vững ,chưa tương xứng
với vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.

Kết cấu hạ tầng thương mại tuy có bước cải thiện đáng kể nhưng về tổng thể,
các kênh phân phối vẫn còn yếu kém và lạc hậu.

2.2. Chính sách về hoạt động ngoại thương

Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm 90 đã đặt nền
ngoại thương nước ta trước thách thức "đa phương hoá quan hệ thương mại, tích cực
thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị trường mới" để phát triển. Thời kỳ này cũng diễn ra
những thay đổi quan trọng về chính sách ngoại thương mở cửa của nước ta bằng việc
tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN - 1995), Diễn đàn kinh tế các nước châu Á - Thái bình dương (APEC -
1998), nối lại quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (1995), tiến trình hội nhập WTO... Vào
năm 1986 Việt Nam có quan hệ xuất nhập khẩu với 43 quốc gia, năm 1995 là 100
quốc gia, năm 2000 là 192 quốc gia; đến nay khoảng hơn 200 nước.

Trước năm 1989, hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu do một số đơn vị chuyên
doanh ngoại thương của nhà nước thực hiện, nhưng đến nay tất cả các loại hình doanh
nghiệp đều tham gia xuất nhập khẩu. Năm 1985 có 40 đơn vị trực tiếp xuất nhập khẩu,
năm 1990 là 270 và đến nay đã có khoảng 20000 đơn vị.

Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2000 của Thủ tướng Chính
phủ về Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, đã xác
định: tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu, tăng tốc xuất khẩu trên
mọi lĩnh vực; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao
để xuất khẩu; góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Năm 2006, để chuẩn bị cho một giai
đoạn phát triển mới, nhất là chuẩn bị gia nhập WTO, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2006 phê duyệt Đề án
Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 với mục tiêu tổng quát: phát triển xuất khẩu
với tốc độ cao và bền vững. Một định hướng quan trọng của chính sách ngoại thương,
đó là xuất khẩu phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế
biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỉ trọng
hàng xuất khẩu thô.

Cùng với tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu, nhập khẩu với ý nghĩa là một trong
những nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng cũng tăng khá cao. Những mặt
tích cực của hoạt động nhập khẩu thể hiện trên một số nét:

Hướng vào mục tiêu chủ yếu là phục vụ chiến lược phát triển xuất khẩu và đáp
ứng yêu cầu thiết yếu của sản xuất, tiêu dùng trong nước.

Cơ cấu hàng nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư liệu sản xuất,
giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng

Thị trường nhập khẩu mở rộng, chất lượng hàng nhập khẩu được nâng cao,
góp phần đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và quy trình sản xuất tiến tiến, nâng cao sức
cạnh tranh của hàng Việt Nam.

Trước đây, nhập khẩu của các đơn vị chuyên doanh ngoại thương thực chất là
đưa hàng về và phân phối cho người sử dụng theo kế hoạch nhà nước mà không dựa
trên yêu cầu sử dụng và tìm hiểu thị trường. Thời kỳ mở cửa, công tác điều hành nhập
khẩu của nhà nước đã dựa trên nhu cầu thực tế của sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Từ quan điểm đó, cơ cấu hàng nhập khẩu được kiểm soát theo hướng ưu tiên phục vụ
sản xuất để xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhằm đổi mới trang
thiết bị lạc hậu, nhà nước chủ trương hạn chế nhập khẩu thiết bị cũ, mở rộng thị
trường sang các nước có trình độ kỹ thuật tiên tiến.

Hoạt động ngoại thương đã có những bước tiến mới nhưng vẫn tồn tại một số
vấn đề như: Các doanh nghiệp xuất khẩu chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng
của giá cả, tính cạnh tranh của giá cả còn thấp, phần lớn việc định giá là dựa vào giá
cả của đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa thật sự chủ động
trong việc nghiên cứu nhu cầu thị trường để hoạch định chiến lược giá. Nguồn vốn lưu
động của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay vẫn còn ít nên việc thu mua, dự trữ
hàng hoá còn hạn chế, đây cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp xuất khẩu
chưa có khả năng chủ động trong việc định giá. Khó khăn trong thực hiện thủ tục hải
quan khi xuất, nhập khẩu hàng hóa.

2.3. Chính sách của nhà nước ta đối với ASEAN

Ngày 28/7/1995, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-
28) diễn ra ở thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei Darussalam, Việt Nam chính
thức gia nhập ASEAN - ghi dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập khu vực và
thế giới của Việt Nam. Phát triển phương châm đối ngoại “ đa phương hóa, đa dạng
hóa”, chủ động, linh hoạt:
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, tình trạng bị cô lâ ̣p chính trị và bao vây
kinh tế kết hợp với cuộc khủng hoảng kinh tế đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới và
điều chỉnh tư duy đối ngoại. Trên thực tế, để hiện thực hóa sự kiện gia nhập ASEAN
vào ngày 28/7/1995, Viê ̣t Nam đã trải qua những bước phát triển mạnh mẽ trong tư
duy đối ngoại. Đây được xem là một quyết định sáng suốt, kịp thời, đúng đắn của
Ðảng và Nhà nước, đem lại nhiều lợi ích cho đất nước và nhân dân Việt Nam.
Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã tích cực
tham gia vào các hiệp định kinh tế thương mại nhằm phát triển kinh tế và cải thiện đời
sống nhân dân:
Từ ngày 1/1/1996- 1/1/2006, Việt Nam tham gia hiệp định thương mại tự do
ASEAN ( AFTA), hiệp định này có tác động rất mạnh mẽ đến các ngành trong nền
kinh tế trong đó có thương mại:
Về nhập khẩu: hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng 25% kim
ngạch nhập khẩu trong đó nguyên liệu dùng cho sản xuất và công nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn.
Về xuất khẩu: Đối với xuất khẩu sang các nước ASEAN khác, AFTA có tác
động làm tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN
nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan,…Đối với xuất khẩu sang
các nước ngoài ASEAN, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam ra ngoài thị trường ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất xuất
khẩu với giá rẻ hơn từ các nước ASEAN. Với tư cách là một thành viên của AFTA,
nước ta có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với
nước lớn.
Việt Nam ký kết tham gia hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA)
( tháng 2 năm 2009). Hiệp định ATIGA giúp nước ta cắt giảm, xóa bỏ sâu các dòng
thuế. Đến năm 2014 Việt Nam đã cắt giảm 6,897 dòng thuế ( chiếm 72% tổng biểu
thuế nhập khẩu) xuống 0%. Đến ngày 1/1/2015, Việt Nam cắt giảm về 0% thêm 1,
706 dòng thuế. Số còn lại gồm 669 dòng thuế ( chiếm 7% biểu thuế), chủ yếu là
những sản phẩm nhạy cảm trong thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, sẽ xuống 0%
vào năm 2018 bao gồm oto, xe máy, phụ tùng linh kiện oto, dàu thực vật, hoa quả
nhiệt đới và các sản phẩm sữa…Các sản phẩm không phải xóa bỏ thuế nhập khẩu
( duy trì thuế xuất MFN) gồm thuốc lá điếu, lá thuốc lá, các mặt hàng an ninh quốc
phòng như thuốc nổ, súng đạn…
 Các chính sách đối ngoại đúng đắn, phù hợp của nước ta đối với ASEAN đã
giúp cho hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong những năm qua đã có
những chuyển biến tích cực góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng một đất
nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong
những hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại phát triển mạnh mẽ và thu
được nhiều thành tựu to lớn nhất. Kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành
thành viên của ASEAN, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các
nước ASEAN đã tăng lên nhanh chóng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển
kinh tế của Việt Nam cũng như các nước thành viên của Hiệp hội

2.4. Chính sách đới với Mỹ và EU


Sau nhiều năm thực hiện chính sách cấm vận và bao vây kinh tế chống Việt
Nam, ngày 11-7-1995 Mỹ đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với nước
ta và ngày 12-7-1995 hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 17-7-1995 nước
ta và Liên minh Châu Âu đã ký Hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và
khoa học kỹ thuật. 1/1995 gửi đơn xin gia nhập WTO (cho đến nay, chúng ta đã tiến
hành được 10 phiên đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán với 20 đối tác song
phương)
Việc triển khai hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại những kết quả rất khả
quan:
Thương mại hàng hóa
Đối với xuất khẩu của Việt Nam ngay khi hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ
thuế nhập khẩu khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 07 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực EU sẽ
xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, thương đương 99,7% kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất nhập khẩu còn
lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn nghạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong
hạn ngạch là 0%
Như vậy có thể nói gần 100% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang
EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lô trình ngắn. Cho đến nay, đây là mức
cam kết cao nhất mà một đối tác dành cho ta trong hiệp định FTA đã được ký kết. Lợi
ích này đặc biệt có ý nghĩa khi EU liên tục là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn
nhất nước ta hiện nay.
Đối với hàng xuất khẩu của EU, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay
khi hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế ( chiếm 64,5% kim ngạch xuất nhập
khẩu). tiếp đó sau 7 năm , 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1 % kim ngạch xuất
khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 10 năm , mức xóa bỏ thuế
quan là khoảng 98,3 % số dòng thuế ( chiếm 99,8 % kim ngạch xuất nhập khẩu). Đới
với khoảng 1,75 số dòng thuế còn lại của EU, ta áp dụng lộ trình xóa bỏ thuế nhập
khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết của WTO.
Thương mại dịch vụ và đầu tư
Cam kết của Việt Nam và EU về thương mại dịch vụ đầu tư nhằm tạo ra một
môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên. Cam
kết của Việt Nam có đi xa hơn cam kết trong WTO. Cam kết của EU cao hơn trong
cam kết trong WTO và tương đương với mức cam kết cao nhất của EU trong những
hiệp định FTA gần đây của EU.
Các lĩnh vực mà Việt Nam cam kết thuận lợi cho các nhà đầu tư EU gồm một
số dịch vụ chuyên môn, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông, dịch vụ vận tải, dich vụ
phân phối. Hai bên cũng đưa ra các cam kết về đối xử quốc gia trong lĩnh vực đầu tư,
đồng thời thảo luận về nội dung giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước .
Thương mại điện tử
Để phát triển thương mại điện tử giữa Việt Nam và EU, hai bên cam kết không
đánh thuế nhập khẩu đối với giao dịch điện tử. Hai bên cũng cam kết hợp tác thông
qua việc duy trì đối thoại về các vẫn đề quản lý được đặt ra trong thương mại điện tử
Thương mại và phát triển bền vững
Hai bên khẳng định cam kết theo đuổi phát triển bền vững, bao gồm phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Về vấn đề lao động, với tư cách là
thành viên của tổ chức lao động quốc tế ( ILO), hai bên cam kết tôn trọng, thức đẩy và
thực hiện tuyên bố 1998 của ILO về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao
động, bao gồm việc thúc đẩy phê chuẩn và thực thi có hiệu quả các công ước cơ bản
của ILO. Ngoài ra, hai bên cững nhất trí tăng cường hợp tác thông qua cơ chế chia sẻ
thông tin và kinh nghiệm về thúc đẩy việc phê chuẩn và thực thi các công ước về lao
động và môi trường trong một số lĩnh vực như biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học,
quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sàn,…

You might also like