You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

---------------o0o---------------

Bài tập nhỏ

Chủ đề 3: Đường lối công nghiệp hóa

GVHD: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

Lớp: L05 Nhóm: 7

Họ và tên: MSSV:

Tạ Hoàng Nam 1813172

Chung Hữu Nhân 1710215

Hoàng Tấn Phát 1811137

Phạm Thanh Phong 2037031

Phạm Thiên Phú 1813545


Mục lục
1. Nội dung đường lối Công nghiệp hóa của Đảng trước đổi mới (năm 1960-
1986):............................................................................................................................ 3

1.1 Hoàn cảnh lịch sử:..............................................................................................3

1.2. Nội dung qua các kỳ Đại hội:.............................................................................3

1.3. Đánh giá, nhận xét tổng quát:............................................................................5

2. Nội dung đường lối Công nghiệp hóa của Đảng trong giai đoạn hiện nay:........6

2.1. Hoàn cảnh lịch sử:.............................................................................................6

2.2. Nội dung qua các kỳ Đại hội:.............................................................................6

2.3. Đánh giá, nhận xét tổng quát:..........................................................................19

3. So sánh điểm giống nhau và khác nhau trong đường lối Công nghiệp hóa của
Đảng thời kỳ trước đổi mới và từ đổi mới cho đến nay:........................................19

3.1. Giống nhau:......................................................................................................19

3.2. Khác nhau:.......................................................................................................20

4. Tài liệu tham khảo:...............................................................................................23

2
1. Nội dung đường lối Công nghiệp hóa của Đảng trước đổi mới (năm 1960-
1986):

1.1 Hoàn cảnh lịch sử:


Sau 5 năm thực hiện khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đại hội
đại hiểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) đã khẳng định: "... miền Bắc
nước ta cần phải tiến ngay vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, và có đủ điều kiện để bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội".

1.2. Nội dung qua các kỳ Đại hội:


1.2.1. Đại hội lần thứ III:
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc được xác
định tại Đại hội lần thứ III của Đảng là: "Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng
làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông
nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".
Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong
nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều. Thực hiện công nghiệp
hóa được 4 năm (1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền
Bắc. Đất nước phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc
vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực hiện
cách mạng giải phóng dân tộc.
Điểm xuất phát của Việt Nam khi bước vào thực hiện công nghiệp hóa rất thấp.
Năm 1960, công nghiệp chiếm tỷ trọng 18,2% và 7% lao động xã hội; tương ứng nông
nghiệp chiếm tỷ trọng 42,3% và 83%. Sản lượng lương thực/người dưới 300 kg;
GDP/người dưới 100 USD. Trong khi phân công lao động chưa phát triển và lao động
sản xuất còn ở trình độ thấp thì quan hệ sản xuất đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa
và quốc doanh hóa là chủ yếu ( đến năm 1960: 85,8% nông dân vào hợp tác xã; 100%
hộ tư sản được cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp). Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng lần thứ III xác định rõ mục tiêu cơ bản của

3
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân
đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
1.2.2. Đại hội lần thứ IV:
Ngày 30-4-1975, miền Nam được giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập,
thống nhất cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng (tháng 12-1976) đã đề ra đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa: "Đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước
thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa
phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong
một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất".
Những thay đổi trong chính sách công nghiệp hóa dù còn chưa thật rõ nét song
cũng đã tạo một sự thay đổi nhất định trong phát triển:
+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên
2627 cơ sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.
+ 1976 – 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với
năm 1976.
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn
viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan
liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp
trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn là sự biểu hiện của
tư tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên
giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
1.2.3. Đại hội lần thứ V:
Sau 5 năm thực hiện đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV
đề ra (1976 - 1981). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã
có sự điều chỉnh: “Cần lập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là

4
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra
sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp
nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý". . Đó là sự điều chỉnh đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm 1960 - 1985,
chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này.
Một vài thành tựu đạt được:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1981 là 2,3%, năm 1985 là 5,7%.
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp năm 1981 là 9,5%.
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp năm 1981 là 5,3%, năm 1985 là 3%.
+ Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%,
tiểu thủ công nghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc doanh
và công tư hợp doanh 56,5%.
+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2% năm 1980 lên 30% năm 985.
+ Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ
1976-1980 xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).
Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với trước.
Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xác định
“Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng
tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt khoát đó đã khiến cho
nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn
và khuyết điểm mới, tình hình kinh tế- xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không
những không ổn định được mà còn lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

1.3. Đánh giá, nhận xét tổng quát:


Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến hành công
nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về
phát triển công nghiệp nặng.
+ Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ
của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và

5
doanh nghiệp Nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa chủ yếu bằng cơ
chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.
+ Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

2. Nội dung đường lối Công nghiệp hóa của Đảng trong giai đoạn hiện nay:

2.1. Hoàn cảnh lịch sử:


2.1.1. Thế giới:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Các
nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến năm 1991, chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự
thế giới trên cơ cở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu tan rã, mở ra thời
kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
Dù những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế
chung của thế giới mới là hòa bình và hợp tác phát triển và toàn cầu hóa. Các nước đổi
mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Từ đây, sức mạnh kinh tế được
đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
2.1.2 Trong nước:
Việt Nam từ nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ XX tồn tại sự bao vây, chống phá
của các thế lực thù địch tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định. Bên cạnh đó, cuộc
khủng hoảng kinh tế ở nước ta vẫn đang tiếp diễn đòi hỏi phải có một sự thay đổi
mạnh mẽ về mọi mặt.

2.2. Nội dung qua các kỳ Đại hội:


2.2.1. Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986):
Báo cáo chính trị đề ra ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Về lương thực thực phẩm:

6
Nền nông nghiệp nhiệt đới nước ta chứa đựng những tiềm năng to lớn và có vị
trí cực kỳ quan trọng. Chính vì vậy, giải phóng năng lực sản xuất, trước hết và chủ
yếu là giải phóng năng lực sản xuất của hàng chục triệu lao động với hàng triệu héc-ta
đất đai trong nền nông nghiệp nhiệt đới.
Trong 5 năm 1986-1990, chúng ta tập trung cho mục tiêu số một là sản xuất
lương thực và thực phẩm, đồng thời ra sức mở mang cây công nghiệp, nhất là cây
công nghiệp ngắn ngày, đi liền với xây dựng đồng bộ công nghiệp chế biến, phát triển
mạnh các ngành nghề, gắn lao động với đất đai, rừng, biển, nhằm khai thác đến mức
cao nhất những tiềm năng đó.
Nhiệm vụ đặt ra là phải đạt cho được mục tiêu bảo đảm nhu cầu ăn của toàn xã
hội và bước đầu có dự trữ. Vấn đề lương thực phải được giải quyết một cách toàn
diện, từ sản xuất, chế biến đến phân phối và tiêu dùng, gắn việc bố trí cơ cấu lương
thực với việc cải tiến cơ cấu và nâng cao chất lượng bữa ăn phù hợp với đặc điểm
từng vùng. Phải dựa vào việc khai thác thế mạnh của từng địa phương đồng bằng,
trung du, miền núi, ven biển một cách hợp lý nhất, vừa tăng sản xuất lương thực tại
chỗ, vừa tạo ra các nguồn sản phẩm khác để trao đổi lấy lương thực, kể cả thông qua
xuất nhập khẩu. Gắn với việc giải quyết lương thực, nhất thiết phải giảm mạnh tỷ lệ
tăng dân số.
Nhấn mạnh cây lúa, nhưng tuyệt nhiên chúng ta không coi nhẹ màu. Mỗi vùng,
căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình, cần xây dựng một cơ cấu cây màu thích hợp,
bao gồm ngô, khoai lang, sắn, khoai tây và các cây có bột khác, trong đó chú trọng
cây ngô. Đi đôi với phát triển sản xuất, phải tổ chức tốt việc thu mua và chế biến,
dùng màu phổ biến trong cơ cấu bữa ăn.
Thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, cần được phát động thành phong trào quần
chúng rộng khắp, kết hợp với sự đầu tư đúng mức của Nhà nước.
Ngoài ra, nhà nước cần phải quan tâm đến các vấn đề như phân bón, sâu bệnh,
sức khéo, giống cây trồng, hệ thống bảo quản, chế biến thực phẩm, hệ thống cung ứng
vật tư và dịch vụ, sản xuất thực phẩm, rau đậu, cây ăn quả, khai thác thủy hải sản, phát
triển mạnh trồng cây công nghiệp, ưu tiên phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, xây
dựng và bảo vệ rừng, cải tạo một phần rừng tự nhiên thành rừng kinh tế.
Về hàng tiêu dùng:

7
Phát triển sản xuất hàng tiêu dùng là một chương trình lớn, không chỉ có ý
nghĩa cấp bách trước mắt, mà còn có ý nghĩa lâu dài và cơ bản. Đó là điều kiện để bảo
đảm các nhu cầu đời sống hằng ngày của nhân dân, giải quyết việc làm cho hàng triệu
người lao động, tạo nguồn tích luỹ và nguồn xuất khẩu quan trọng.
Chúng ta bằng mọi cách giải phóng năng lực nhiều tiềm năng chưa được khai
thác, nhất là lực lượng tiểu, thủ công nghiệp và các nguồn nguyên liệu trong nước để
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng trong các ngành, các thành phần kinh tế, với mọi
hình thức tổ chức, quy mô và trình độ kỹ thuật. Phải bảo đảm sản xuất nhiều loại hàng
tiêu dùng cho nhiều nhu cầu, đa dạng của xã hội, phù hợp với từng vùng, từng lứa
tuổi, không để thiếu những hàng tiêu dùng thông thường. Việc tăng sản lượng phải đi
liền với việc bảo đảm chất lượng, không ngừng đổi mới quy cách, bảo đảm kỹ thuật
và mỹ thuật của sản phẩm.
Ngoài ra, nhà nước cần xoá bỏ ngay những chính sách, chế độ đang gò bó lực
lượng này, bao gồm hợp tác xã, tổ sản xuất, kinh tế gia đình, cá thể, tư nhân. Trước
hết, phải dành một phần thích đáng nguyên liệu, năng lượng và tổ chức tốt việc cung
ứng đến cơ sở sản xuất; chuyển mạnh sang phương thức bán nguyên liệu, mua sản
phẩm theo hợp đồng. Giá gia công cần được sửa đổi để thật sự khuyến khích sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm và đổi mới mặt hàng; bảo đảm lương thực cho người
sản xuất, cải tiến chính sách thuế đối với tiểu, thủ công nghiệp theo hướng khuyến
khích các ngành, nghề cần phát triển. Đặc biệt khuyến khích và tạo mọi điều kiện để
phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, sử dụng và đãi ngộ tốt các nghệ
nhân, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế thừa, không để mai một những
ngành, nghề đã có từ lâu đời trong nhân dân.
Về xuất khẩu:
Xuất khẩu là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế
trong 5 năm, đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối
ngoại, xuất khẩu phải trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các ngành, các cấp;
trong thời gian tới, nhất thiết phải đạt được sự chuyển biến xứng đáng với tầm quan
trọng và khả năng thực tế của nó. Nhiệm vụ đặt ra là tăng nhanh khối lượng xuất khẩu,
đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu, khắc phục cung cách làm ăn ít hiệu quả, tình trạng
phân tán, lộn xộn, gây thiệt hại cả ở thị trường trong nước lẫn ngoài nước.

8
Trước hết, ta cần xây dựng một quy hoạch dài hạn và một kế hoạch cụ thể cho
từng thời kỳ về sản xuất các mặt hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, nhà nước cần tổ chức lại công tác xuất nhập khẩu một cách hợp
lý, nhất là đối với các mặt hàng và nhóm hàng quan trọng, giảm bớt các khâu trung
gian, khắc phục tệ cửa quyền, tuỳ tiện, xâm phạm lợi ích của người trực tiếp sản xuất
hàng xuất khẩu. Cơ sở làm hàng xuất khẩu phải được thông tin kịp thời về thị trường
và giá cả, được tiếp xúc với người tiêu thụ để kịp thời cải tiến mặt hàng, nâng cao quy
cách và chất lượng hàng hoá phù hợp với yêu cầu khách hàng.
Một vấn đề nữa là phải hoan nghênh những tổ chức kinh tế của nước ngoài
quan hệ trực tiếp với các tổ chức kinh tế Việt Nam để mở rộng quy mô hợp tác, thoả
mãn lợi ích của cả hai bên, theo chính sách và luật pháp của Nhà nước ta.

Ba chương trình này định hướng cho việc sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo
cơ cấu hợp lý, trước hết là bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư
nhằm khai thác có hiệu quả khả năng lao động, đất đai và cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện có.

Bảo đảm cho nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp thật sự là mặt trận
hàng đầu, được ưu tiên đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, về năng lượng, vật tư và lao
động kỹ thuật; tập trung trước hết cho những vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả kinh
tế cao. Bên cạnh đó, ta cần ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ
công nghiệp, đáp ứng cho được nhu cầu về hàng tiêu dùng thông thường, về chế biến
nông, lâm, thuỷ sản, tăng nhanh hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu
khác. Ngoài ra, nhà nước cần tiếp tục xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng và kết
cấu hạ tầng, trước hết là năng lượng và giao thông vận tải, phù hợp với điều kiện thực
tế, nhằm phục vụ thiết thực các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu
tiên, và chuẩn bị tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá trong chặng đường tiếp
theo.

2.2.2. Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991):

9
Đại hội Đảng tiếp tục đẩy mạnh ba chương trình kinh tế Đại hội VI đề ra. Quan
trọng nhất là từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế. Trước chỉ tập trung vai trò
nhà nước, bây giờ phải tập trung vào các thành phần khác như tư nhân, gia đình, nước
ngoài. Cuối cùng, ta cũng cần phải giải quyết vấn đề động lực.
2.2.3. Đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996):
Nhận định nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành. Từ đây, đại hội quyết định chuyển sang thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đó là tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới căn bản tổ chức và quản lý, nâng
cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo.
Cùng với đó, nhà nước phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Về kinh tế, ta tăng nhanh đầu tư phát triển toàn xã hội. Chú trọng tăng cả tích
luỹ và đầu tư trong nước thông qua ngân sách, cũng như của doanh nghiệp và nhân
dân. Trong đó cần giải quyết tốt quan hệ tích luỹ - tiêu dùng theo hướng cần kiệm để
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không tiêu dùng quá khả năng nền kinh tế cho phép;
tăng năng xuất và hiệu quả để vừa cải thiện được đời sống, vừa có tích luỹ ngày càng
nhiều cho đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, nhà nước phải ra sức chống thất thoát, lãng
phí, tham nhũng, huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước, đồng thời thu hút mạnh
các nguồn vốn bên ngoài để đưa tỉ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 lên
khoảng 30% GDP.
Phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là nhân tố
quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
  Để công nghiệp họa, hiện đại hóa xảy ra hợp lí, nhà nước cần xây dựng các
phương án cho tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xác định hệ thống
chính sách xã hội trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

10
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, ta cũng ngăn chặn tận gốc việc gây ô nhiễm
môi trường, trước hết là nước và không khí trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Hướng nhập khẩu là tập trung vào nguyên liệu, vật liệu, các loại thiết bị công
nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từng bước thay thế nhập khẩu
những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả ở trong nước.
Đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
2.2.4. Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001):
Đại hội nêu lên chủ chưởng đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa với phát
triển kinh tế tri thức.
Đó là tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công
nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ
và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực.
Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát
triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng
bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. 
Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; nền công nghiệp,
trong đó có công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp công nghệ
cao, công nghiệp quốc phòng; nền nông nghiệp hàng hoá lớn; các dịch vụ cơ bản; tiềm
lực khoa học và công nghệ. Trên cơ sở hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội, trước
mắt và lâu dài, nhà nước triển khai xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu
và xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng, cấp thiết, có điều
kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy nhanh tác dụng, đáp ứng yêu cầu phát
triển của các ngành kinh tế và quốc phòng, an ninh. 
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá
bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và

11
mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Tiếp tục cải thiện môi
trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Nội
lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp
để phát triển đất nước. 
Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo
hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và
điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động,
tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ
và về thu nhập trên một đơn vị diện tích; tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và
ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới. 
Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất
hoặc kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Khuyến khích sáng tác những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị theo các
chủ đề lớn về chiến tranh và cách mạng, về sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, về xã hội và con người Việt Nam.
2.2.5. Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006), XI (1/2001), XII:
Tiếp tục khẳng định và phát huy những nội dung của Đại hội Đảng lần IX,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức.
2.2.6. Đại hội Đảng lần thứ XIII:
Đại hội tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát
triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định
kinh tế vĩ mô.
Đó là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Cùng với đó, nhà nước xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát
triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm
nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Bên cạnh

12
đó, ta cần đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm
năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp,
tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới.
Trong bối cảnh dịch bệnh, nhà nước xây dựng và thực hiện các giải pháp chính
sách khắc phục tác động của dịch bệnh Covid-19, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế,
tận dụng hiệu quả các cơ hội mới cho phát triển đất nước. Nhà nước cũng cần tổ chức
thực hiện hiệu quả và thực chất các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế để đổi mới mô
hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức
cạnh tranh. Lĩnh vực kinh tế cần thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất
thông minh, các mô hình sản xuất kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử.
Thực hiện chuyển đổi số trong tất cả các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước.
Một vấn đề nữa là nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô. Đó là
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả các chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư, thị
trường, giá cả, thương mại và các chính sách khác để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã
hội. Tiếp nữa là tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, đổi mới toàn diện thể chế quản lý đầu tư công, thẩm định, đánh giá và
lựa chọn dự án đầu tư công, công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát
đối với đầu tư công, hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh hợp tác công - tư nhằm huy động
nguồn lực xã hội vào phát triển kết cấu hạ tầng và cung ứng dịch vụ công.
Nền tài chính quốc gia cần xây dựng và hoàn thiện; cơ cấu lại, tăng cường giám
sát và điều tiết thị trường tài chính. Rõ hơn nữa là nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động, năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế
tốt trong quản trị và hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo đảm phù hợp với điều
kiện thực tế của Việt Nam. Ngân sách nhà nước cơ cấu lại theo hướng bảo đảm nền tài
chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, bội chi
ngân sách nhà nước đến năm 2030 khoảng 3% GDP; đồng thời phải đặt trong tổng thể
cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, huy động, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhà
nước tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước, tăng tỷ lệ thu nội địa, tăng tích
lũy từ ngân sách nhà nước cho chi đầu tư phát triển; tăng sức chống chịu, bảo đảm an

13
toàn, an ninh tài chính quốc gia. Nợ công cần cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả sử dụng,
hạn chế tối đa cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay mới; đến năm 2030, nợ
chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP.
Thị trường tài chính tiếp tục rà soát, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động các,
chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu; quản lý chặt chẽ các tổ chức tham gia thị trường;
bảo đảm tính thanh khoản cao và an toàn hệ thống. Thị trường chứng khoán nâng cao
quy mô và hiệu quả hoạt động của để thực sự trở thành một kênh huy động vốn chủ
yếu của nền kinh tế. Bên cạnh đó, nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển
các quỹ hưu trí, bảo hiểm thiên tai, nông nghiệp.
Hệ thống luật, chính sách thuế, phí, lệ phí cần sửa đổi theo nguyên tắc thị
trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư.
Cơ sở thu mở rộng, bảo đảm tính công bằng, trung lập của chính sách thuế, đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ
các thủ tục nộp thuế, phí của người dân và doanh nghiệp. Thể chế cải cách về quyền
tài sản, tập trung vào các khâu đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, xử lý tài sản thế
chấp ngân hàng, thủ tục phá sản. Pháp luật cần hoàn thiện để huy động, phân bổ và sử
dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch và khắc phục tình
trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới các chính sách quản lý
đất đai để khuyến khích và tạo điều kiện tích tụ đất nông nghiệp, phát triển mạnh thị
trường quyền sử dụng đất, đổi mới và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất
nông nghiệp một cách linh hoạt hơn; bãi bỏ các giới hạn về đối tượng được nhận
chuyển nhượng đất nông nghiệp, tăng thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Đất
công cần công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng; tăng cường giám sát, quản lý
chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà
nước.
Về thống kê, nhà nước thực hiện chế độ kiểm toán, kế toán, thống kê phù hợp
với chuẩn mực quốc tế và nâng cao chất lượng công tác phân tích, dự báo phục vụ
quản lý, điều hành.
Chúng ta cũng đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đẩy
nhanh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc
tế, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế

14
nhà nước. Một vấn đề nữa là cần đẩy mạnh cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn; nâng
cao hiệu quả hoạt động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cách
thức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là các
biện pháp liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương
hiệu và giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa. Một việc nhỏ khác là hoàn
tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước. Tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái
vốn nhà nước tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng
quốc gia, địa phương, bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc
gia. đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp cần hình thành, có trình độ
cao, phẩm chất đạo đức tốt. Một số tập đoàn kinh tế nhà nước cần củng cố, phát triển
có quy mô lớn, thực hiện quyền tự chủ, nâng cao hiệu quả hoạt động, có năng lực
cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Cùng với đó, nhà nước đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế
tập thể, hợp tác xã gắn với phát huy vai trò làm chủ, tăng cường lợi ích của các thành
viên, nâng cao khả năng huy động nguồn lực.
Nhà nước hỗ trợ phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam
cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan
trọng trong phát triển kinh tế, xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa
công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Nhà nước cũng
khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực
mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, nước ta có ít
nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP
đạt 60 - 65%.
Chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài chuyển trọng điểm từ số lượng
sang chất lượng, có giá trị gia tăng cao, lấy hiệu quả và công nghệ sử dụng làm thước
đo chủ yếu, quan trọng nhất đi cùng với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Cùng
với đó là nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có
chọn lọc, ưu tiên thu hút các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ
cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có
tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ, hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước.

15
Nông nghiệp cần đẩy mạnh cơ cấu lại, khai thác và phát huy lợi thế nền nông
nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng
hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao. Hơn nữa là phát triển mạnh
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, đạt
tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm, đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất
trồng lúa, hằng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia; thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu
cầu thị trường; nâng cao khả năng chống chịu, thích ứng của nông nghiệp, nông
dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung, ổn định. Nhà nước cũng cần tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế
biến, thị trường, xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.
Chăn nuôi công nghiệp phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ cao, khuyến
khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường.
Nuôi trồng thủy sản phát triển cả trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công
nghiệp, quảng canh cải tiến, sinh thái; nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ, phát
triển đánh bắt đại dương. Nhà nước bên cạnh đó thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo
vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Về vấn đề rừng, nhà nước quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên
gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái; phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu
nguồn, rừng phòng hộ ven biển; chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu
quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước và làm
nguyên liệu chế biến xuất khẩu; tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi
giá trị lâm nghiệp.
Các hình thức tổ chức sản xuất đổi mới và phát triển phù hợp, hiệu quả; đẩy
mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu
thụ toàn cầu; phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích phát
triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác; nâng cao trình độ
nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ, phát triển mạnh nông
nghiệp công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng và quản trị ngành;
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp; tăng cường năng lực hội

16
nhập quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp
thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế.
Về công nghiệp, nhà nước xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững
mạnh; phát triển công nghiệp kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó chú
trọng phát triển theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng,
sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. Công nghiệp phấn đấu nâng tỷ trọng trong
GDP vào năm 2030 đạt trên 40%; giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình
quân đầu người đạt trên 2.000 USD. Công nghiệp tập trung cơ cấu lại theo hướng
nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, khai thác triệt để cơ
hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và lợi thế thương mại; đẩy mạnh
chuyển đổi số, phương thức sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp công nghiệp,
tăng khả năng kết nối, tiếp cận thông tin, dữ liệu để tăng cơ hội kinh doanh mới và
tăng khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực.
Cơ cấu nội ngành công nghiệp thúc đẩy chuyển dịch theo hướng tăng các
ngành công nghiệp có công nghệ, giá trị gia tăng cao và dịch chuyển lên các công
đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị của từng ngành công nghiệp; ban hành
các tiêu chuẩn công nghệ, kỹ thuật sản xuất theo hướng hiện đại; tập trung phát triển
một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của
nền kinh tế như công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, phân
bón, vật liệu...
Nhà nước ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ
mới, công nghệ cao: công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp điện tử - viễn
thông, công nghiệp sản xuất rô bốt, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển
từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm số, công nghiệp an toàn thông tin,
công nghiệp dược phẩm, sản xuất chế phẩm sinh học, công nghiệp môi trường, công
nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế
biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết
kiệm năng lượng, nguyên liệu; tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày, tập
trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao dựa trên quy trình sản xuất thông minh, tự
động hóa.

17
Công nghiệp quốc phòng, an ninh phát triển theo hướng lưỡng dụng, thực sự
trở thành một mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; nghiên cứu sản xuất vũ khí công
nghệ cao; tăng cường tiềm lực tận dụng và đẩy mạnh phát triển liên kết công nghiệp
quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh.
Về công nghệ, nhà nước phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ
thông tin, doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ
số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông
tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; tập trung sản xuất các thiết bị phục
vụ hệ thống 5G.
Về xây dựng, chúng ta nâng cao năng lực ngành xây dựng, bảo đảm đủ sức
thiết kế, thi công các công trình xây dựng hiện đại, phức tạp trong các lĩnh vực với
mọi quy mô và có khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường hoạt động ra nước ngoài.
Về dịch vụ, nhà nước đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng
công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh
thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục -
đào tạo, viễn thông và công nghệ thông tin, logistics và vận tải, phân phối... Áp dụng
chuẩn mực quốc tế cho các hoạt động kế toán, kiểm toán, ngân hàng thương mại...
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia, thúc đẩy
phát triển thương mại trong nước theo hướng hiện đại, tăng trưởng nhanh và bền
vững, gắn với nâng cao uy tín, chất lượng hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng
Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm; bảo vệ
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người sản xuất, phân phối và người tiêu dùng; đẩy
mạnh xuất khẩu, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, mở rộng và đa
dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường,
bảo đảm cân bằng cán cân xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ; có chính sách thương
mại phù hợp với hội nhập quốc tế; nghiên cứu các biện pháp phòng vệ thích hợp để
bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt
Nam tham gia. Ngành du lịch đẩy mạnh cơ cấu lại, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện
đại và phát triển đồng bộ, bền vững và hội nhập quốc tế; chú trọng liên kết giữa ngành
du lịch với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình thành nên các sản phẩm
du lịch để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cuối cùng, ta xây dựng,

18
phát triển và định vị thương hiệu du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo,
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đến năm 2030, khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam đạt 47 - 50 triệu lượt, du lịch đóng góp khoảng 14 - 15% GDP và nâng tỷ trọng
khu vực dịch vụ trong GDP lên trên 50%.

2.3. Đánh giá, nhận xét tổng quát:


Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng về cơ bản là đúng đắn khi
đất nước đã có một khoảng thời gian dài dính trong vũng bùn. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa cần có một cơ sở, có một quá trình vững chắc để tạo tiền đề phát triển, không
thể ngay lập tức từ một thái cực mà chuyển sang một thái cực khác ngay lập tực. Việc
thể chế hóa, tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được quan
tâm theo dõi. Sức sản xuất được giải phóng, các nguồn lực bên trong và bên ngoài
được khai thác, phát huy phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

3. So sánh điểm giống nhau và khác nhau trong đường lối Công nghiệp hóa của
Đảng thời kỳ trước đổi mới và từ đổi mới cho đến nay:

3.1. Giống nhau:


Một là, ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta Đảng ta luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là
một tất yếu, khách quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, điều này đã
được các nước tư bản thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa cũng được đề cập trong chủ
nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng thời, tình hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ
công, manh mún, lạc hậu…
Hai là, công nghiệp hoá đều nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất
xã hội từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động dùng máy móc, phương tiện kỹ
thuật là phổ biến, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở
đó, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

19
Ba là, từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất
ưu việt của chế độ mới, tạo ra hạ tầng cơ sở vững chắc cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bốn là, tiến hành công nghiệp hoá trước đây và hiện nay đều phải được thực
hiện theo hướng hiện đại hoá tuy có sự khác nhau về mức độ. Do sự phát triển rất
nhanh chóng của khoa học và công nghệ trong những thập kỷ gần đây, khái niệm hiện
đại hoá luôn luôn được bổ sung những nội dung mới với phạm vi bao quát nhiều mặt,
từ sản xuất, kinh doanh đến dịch vụ, quản lý…

3.2. Khác nhau:


3.2.1. Thời gian và bước đi thực hiện:
a. Trước đổi mới: 2 giai đoạn:
+ 1960 - 1975 tại miền Bắc
+ 1975 - 1985 trên cả nước.
+ Thời kỳ trước Đổi mới, Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, xây
dựng một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp hiện đại, trù liệu thời gian công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa mất khoảng 20 năm… (đại hội IV).
b. Sau đổi mới:
+ Sau 1985 trên cả nước (từ đại hội VI của Đảng).
+ Thời kỳ đổi mới, Đảng xác định: quá trình công nghiệp hóa phải được tiến
hành từng bước phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ chưa thể đẩy mạnh công
nghiệp hóa, mà là tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa ở chặng đường
tiếp theo (chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa từ Đại hội VIII – 1996), cơ cấu kinh
tế hợp lý với từng thời đoạn, con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước…
c. Kết luận:
Như vậy, đường lối công nghiệp hóa chuyển từ công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa với cách làm nóng vội, bỏ qua các bước đi trung gian cần thiết, đã chuyển sang
thực hiện công nghiệp hóa vừa có bước đi tuần tự, giai đoạn trước tạo tiền đề cho sự
phát triển của giai đoạn sau theo trật tự tuyến tính, vừa cho phép phát triển “rút ngắn”

20
trên cơ sở đi tắt, đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về khoa học và công nghệ
của thế giới.
3.2.2. Phương hướng:
a. Trước đổi mới:
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa theo cơ cấu kinh tế khép kín, nhất thiết phải
đi từ công nghiệp nặng.
Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, kết hợp chặt chẽ phát triển công
nghiệp với phát triển nông nghiệp, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với
việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ra sức phát triển công nghiệp trung ương,
đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản
đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh
tế xã hội.
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là
Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
b. Sau đổi mới:
Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Ở thời kỳ đổi mới, phải phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn
dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
c. Kết luận:
Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa
chọn mô hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình
đó là: quá trình tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc,
rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt

21
(lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, phải đi trước đón đầu,
hội nhập với thời đại).
Từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá để đưa nước ta
đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ cấu kinh tế công –
nông nghiệp và dịch vụ hiện đại. - Từ nền kinh tế “khép kín”, “hướng nội”, quan hệ
chỉ khép kín trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, chuyển sang thực hiện một nền kinh tế
mở đa dạng, đa phương phù hợp thông lệ quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp
với thay thế nhập khẩu.
3.2.3. Lợi thế và chủ lực thực hiện:
a. Trước đổi mới:
Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động,
tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là
Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để
thực hiện công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của
Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh.
b. Sau đổi mới:
Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là
nền tảng, là động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn
dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh
nghiệp tự hạch toán kinh tế.
c. Kết luận:
Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, để phát triển yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo.
Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối

22
về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng năng suất lao động, giảm
chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta,
muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy
mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ
nội sinh.

4. Tài liệu tham khảo:


* Tài liệu Internet:
1. Bảo Khê (2018), So sánh đường lối Công nghiệp hóa của nước ta ở hai thời
kì trước đổi mới (1960 – 1985) và sau đổi mới (sau 1986),
https://www.noron.vn/post/so-sanh-duong-loi-cong-nghiep-hoa-cua-nuoc-ta-o-hai-
thoi-ki-truoc-doi-moi-1960--1985-va-sau-doi-moi-sau-1986-f28md55ipug
2. Đại hội Đảng lần thứ IX (2015), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001
– 2010, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-ix/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2001-2010-1543
3. Đại hội Đảng lần thứ VI (2017), Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển
KT - XH trong 5 năm 1986 – 1990, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-
hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/phuong-huong-muc-tieu-chu-yeu-phat-
trien-kt-xh-trong-5-nam-1986-1990-1492
4. Đại hội Đảng lần thứ VIII (2017), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1996
– 2000, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-viii/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-1996-2000-1550
5. Đại hội Đảng lần thứ XI (2015), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011
– 2020, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-xi/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2011-2020-1527
6. Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2021-2030, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-

23
dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-10-nam-2021-
2030-3735
7. Loigiaihay.com (???), Đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
https://loigiaihay.com/duong-loi-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-
c125a20102.html
8. Tusachthuvien (???), Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam,
https://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/Đường_lối_công_nghiệp_hóa_của_Đảng_Cộ
ng_sản_Việt_Nam
9. ??? (2017), So sánh điểm giống nhau và khác nhau trong đường lối công
nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới và đường lối công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới,
https://thichhohap.com/duong-loi-cach-mang/sanh-diem-giong-nhau-va-khac-nhau-
trong-duong-loi-cong-nghiep-hoa-thoi-ky-truoc-doi-moi-va-duong-loi-cong-nghiep-
hoa-thoi-ky-doi-moi.html

24

You might also like