You are on page 1of 39

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Trường Đại Học Kiến Trúc Đà Nẵng


Khoa Kinh Tế

---  ---

ĐỀ TÀI: NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ


CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC Ở VIỆT
NAM TỪ KHI ĐỔI MỚI (1986) ĐẾN NAY

Môn học : Chủ Nghĩa Xã Hội


Giảng viên : Đào Văn Thanh
Lớp học phần : 20QT1
Tên thành viên : Nguyễn Văn Lợi (L)
Phạm Ngọc Huyền Trang (V)
Trần Thị Nguyệt Trang
Nguyễn Ngọc Anh Tú
Nguyễn Đình Tú
Lương Uyên Nhi
Nguyễn Thị Linh
Võ Đăng Khoa
Ngô Thị Xuân Hoa

Niên khóa: 2022-2023

1
MỤC LỤC
I. Giới thiệu tổng quan................................................................................................................1
1.1 Lịch sử và đặc điểm chủ nghĩa xã hội hiện thực..............................................................1
1.2 Sơ lược về những thành tựu và khó khăn.........................................................................1
II. Kinh tế....................................................................................................................................2
2.1 Thành tựu.........................................................................................................................2
2.2 Những hạn chế...............................................................................................................19
III. Giáo dục..............................................................................................................................20
3.1 Thành tựu.......................................................................................................................20
3.2 Những hạn chế...............................................................................................................26
IV. Đối ngoại, hợp tác quốc tế..................................................................................................29
4.1 Hội nhập quốc tế, vì thế ngày nâng cao.........................................................................29
4.1.1 Thành tựu................................................................................................................29
4.1.2 Hạn chế...................................................................................................................29
4.2 Phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao hiện tại.....................................................29
4.2.1 Thành tựu................................................................................................................29
4.2.2 Hạn chế...................................................................................................................30
V. Chính trị và pháp luật...........................................................................................................30
5.1 Thành tựu.......................................................................................................................30
5.2 Hạn chế...........................................................................................................................30
VI. Thành tựu và hạn chế Văn hóa-xã hội................................................................................31
6.1 Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa xã hội................................................31
6.1.1 Thành tựu................................................................................................................31
6.1.2 Hạn chế...................................................................................................................31
6.2 Xây dựng giá trị văn hóa con người Việt Nam..............................................................31
6.2.1 Thành tựu................................................................................................................31
6.2.2 Hạn chế...................................................................................................................32
6.3 Thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư.........................32
6.4 Vấn đề bất bình đẳng giữa các vùng miền, mối quan hệ giá trị văn hóa dân tộc, bảo vệ
quyền con người và quyền tự do công dân...........................................................................33
VII. Tổng kết.............................................................................................................................33
7.1 Những triển vọng và định hướng phát triển của CNXH ở Việt Nam trong tương lai....33
7.2 Một số yếu tố thuận lợi và bất lợi cho sự phát triển CNXH ở Việt Nam.......................34
7.3 Những định hướng và biện pháp thể chế hiện thực hóa mục tiêu và tầm nhìn của
CNXH...................................................................................................................................35

1
2
I. Giới thiệu tổng quan
1.1 Lịch sử và đặc điểm chủ nghĩa xã hội hiện thực
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời từ sau thắng lợi của cuộc Cách mạng XHCN
Tháng Mười Nga (1917), sau năm 1945, đã trở thành hệ thống XHCN thế giới.

Chủ nghĩa xã hội hiện thực có những đặc điểm chung như: xây dựng trên nền tảng
tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung; coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; đề cao vai trò lịch sử của nhân
dân lao động.

Chủ nghĩa xã hội hiện thực là một trào lưu nghệ thuật nổi bật trong thế kỷ XX,
mang tính chất của chủ nghĩa xã hội và miêu tả cuộc sống trong qua trình phát triển
cách mạng. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam là một phần của quá trình đổi mới
và đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, dựa trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.2 Sơ lược về những thành tựu và khó khăn


Sau khi tổ chức Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1986, Việt Nam
đã bắt đầu thực hiện chính sách Đổi mới nhằm cải cách kinh tế - xã hội theo hướng thị
trường định hướng XHCN. Chính sách Đổi mới được coi là một bước ngoặt lịch sử
trong quá trình xây dựng XHCN của Việt Nam.

Trong kinh tế, Việt Nam đã tiến hành các biện pháp để giải phóng các nguồn lực
sản xuất, khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, mở rộng quan hệ kinh
tế - thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã thực hiện các
kế hoạch kinh tế 5 - 10 (1986 - 2000) để phục hồi và phát triển kinh tế sau suy thoái.

Về xã hội, thực hiện các biện pháp để xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học và công
nghệ để xây dựng con người XHCN.

Về chính trị, Việt Nam đã tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp 1992 để
thay thế Hiến pháp 1980, Quy định về cơ cấu tổ chức và quyền lực của Nhà nước,
quyền và nghĩa vụ của công dân, và vai trò của Đảng.

1
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam cũng gặp phải những thách thức và
khó khăn như:

- Nền kinh tế vẫn còn yếu kém, không bền vững, phụ thuộc nhiều vào yếu tố bên
ngoài.

- Chất lượng đời sống nhân dân còn chênh lệch giữa các vùng miền, giữa thành thị
và nông thôn.

- Các vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an sinh xã hội
ngày càng nghiêm trọng.

- Đảng Cộng sản Việt Nam cũng phải đối mặt với những nguy cơ suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống và lối làm việc của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

- Tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp, các thế lực chống đối chủ nghĩa xã
hội không ngừng âm mưu phá hoại.

Những thành tựu và hạn chế về những lĩnh vực cụ thể như kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, giáo dục… sẽ được phân tích rõ nét ở những nội dung tiếp theo.

II. Kinh tế
2.1 Thành tựu
2.1.1 Quy mô nên kinh tế tăng nhanh, tăng trưởng mạnh mẽ

Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có
những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã
đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân
7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất
khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng
trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ
thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan
trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý

2
mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải
phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.

Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền
kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì
trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các
chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm;
tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với
giai đoạn 1986 - 1990. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương
đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo
dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết
để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”.

Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của
kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng
chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và
thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách
khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình
quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%;
công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% (4). “Nếu tính cả
giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm
1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”.

Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc
triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 -
2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm
trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông
nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%.
Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ
đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng
(tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu
3
nhập thấp (500 USD). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1
triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm
2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt
hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự
ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế
của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn
thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất lượng lao động,
khoa học và công nghệ;…

Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và
quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm
nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5
năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt
cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch
đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên
31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ
USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần
so với năm 2000.

Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn
kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong
khu vực.

Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới
nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm
2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).

4
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức
tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây
là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng
3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng
năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5%
GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua
mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ
170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên
236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt
gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD .

Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong
đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng
và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng
cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở
rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới,
công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức
tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm
(2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.

2.1.2 Đẩy mạnh và phát triển theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (Năm 1986): Tại Đại hội VI, sau khi đúc kết
những kinh nghiệm của một số nền kinh tế trên thế giới, chúng ta đã đề ra và thực hiện
từng bước việc đổi mới các chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế và
tổng kết các thử nghiệm trong thực tế. Có thể coi giai đoạn 1986-1990 là giai đoạn
"khởi động" cho một sự phát triển kinh tế mạnh mẽ sau này. Đại hội đã thông qua
đường lối đổi mới toàn diện và xác định: “Mục tiêu tổng quát của những năm còn lại
của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường tiếp theo”.

5
Đặc biệt Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường đầu tiên là phải thực hiện 03 chương trình lương thực, thực
phẩm (1); hàng tiêu dùng (2) và hàng xuất khẩu (3) trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau.
Phát triển lương thực thực phẩm và hàng tiêu dung là nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu
cho đời sống nhân dân và góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển hàng xuất khẩu
là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo nguồn thu
ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất. Xác định thứ tự ưu tiên đó
đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài để phát
triển kinh tế-xã hội.

Điểm nổi bật chính của Đại hội VI, chính là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình
chiến lược CNH, chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng
mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp
dụng phổ biến và khá thành công tại một số quốc gia Châu Á thời điểm đó.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991): Đảng ta tiếp tục có những nhận
thức mới, toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đại hội
đề cập đến lĩnh vực Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời
sống và hợp tác quốc tế; đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến
lược chung cả nước. Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế
đã có những bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với
nhiều năm trước.

Đại hội VII cũng đã có những bước đột phá mới về công nghiệp hóa. Lần đầu tiên,
phạm trù “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (CNH, HĐH) được xác định chính thức
trong Văn kiện của Đảng. Trong điều kiện phát triển mới, CNH ở nước ta phải gắn liền
với hiện đại hóa, bởi lẽ: trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nếu
nước ta không tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa sẽ tụt hậu ngày càng xa
hơn so với trình độ phát triển chung của thế giới.

Tiếp nối những kết quả từ những năm trước, Đại hội VII đã thông qua “Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội nước ta đến năm 2000”. Tại Hội nghị Trung ương
7 khóa VII (7/1994) đã ra Nghị quyết "Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm

6
2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công
nhân trong giai đoạn mới". Nghị quyết đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ chế, chính
sách cụ thể thúc đẩy phát triển công nghiệp, đẩy mạnh công tác khoa học công nghệ
phục vụ sản xuất.

Đáng chú ý, cũng tại Hội nghị này, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã
được quan niệm, đó là “Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học,
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996): Tổng kết sau 10 năm đổi mới, Đại
hội Đảng VIII đã nhận định: Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đại hội cũng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta đến năm 2020: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh”.

Trên cơ sở đó, Đại hội đã xác định mục tiêu đến năm 2000 và năm 2020. Đại hội
VIII đã bổ sung, phát triển thành 06 quan điểm lớn chỉ đạo quá trình CNH, HĐH.
Những quan điểm tổng quát này cho thấy rõ hơn: Mô hình Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của nước ta là sự kết hợp giữa chiến lược CNH thay thế nhập khẩu và hướng về
xuất khẩu, trong đó nhấn mạnh yêu cầu hướng mạnh về xuất khẩu, coi thị trường bên
ngoài là một yếu tố giữ vị trí đặc biệt quan trọng cho sự phát triển.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001): Đại hội diễn ra trong bối cảnh loài
người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, nước ta đứng trước những thời
cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn.

7
Đại hội đã đánh giá tổng kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi
mới và 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm
của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược
phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.

Chủ đề của Đại hội được xác định là "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI (2001-2010) là
"Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp". Chủ đề Đại hội và chủ đề
của Chiến lược được quyết định tại Đại hội đã thể hiện nhiệm vụ trung tâm của giai
đoạn phát triển mới là “đẩy mạnh CNH, HĐH”.

Để tạo nền tảng cho nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, ngành công nghiệp đã được định hướng phấn đấu phát triển với nhịp độ cao,
có hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới
hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp.

Xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, và hiệu quả một
số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí, luyện kim (thép, alumin,
nhôm, kim loại quý hiếm...), cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản... Phát triển mạnh công
nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Phát triển một
số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (Năm 2006): Đại hội X cũng đã tiếp tục bổ sung
và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa, đó là: Con đường
công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.
Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát
triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện
tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước,
tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.

Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước,
chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn

8
công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn
lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH.

Đại hội cũng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 05 năm 2006-
2010 với mục tiêu tổng quát là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước
chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn
hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020... Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu
vực và trên trường quốc tế”.

Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phát triển nhanh và có hiệu quả
các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trong
một nền kinh tế mở, hướng ngoại.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2010): Đại hội đã tổng kết thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 và đưa ra nhận định, đó là: Nước
ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng
kém phát triển; vị thế của đất nước đã được nâng lên một tầm cao mới trên trường
quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề mới, quan trọng cho việc đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.

Đại hội cũng đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó: “Từ nay đến giữa thế
kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 với
mục tiêu tổng quát là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

9
nghiệp theo hướng hiện đại;… vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

Định hướng phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng
và sức cạnh tranh. Trong đó cần cơ cấu lại sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế -
kỹ thuật, vùng và giá trị mới. Tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị
nội địa trong sản phẩm. Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất,
công nghiệp quốc phòng. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản
phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các ngành
công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin và
truyền thông, công nghiệp dược... Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ. Chú trọng phát
triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái
tạo và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu.
Từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (Năm 2016): Đại hội XII đã kiểm điểm việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; tổng kết, nhìn lại 30 năm đổi mới để rút ra những bài
học kinh nghiệm cho thời gian phát triển tới.

Đại hội cũng đã chỉ rõ việc đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện, dẫn đến một số chỉ
tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt được theo kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục
tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại không đạt được. Đại hội cũng đã thông qua mục tiêu tổng quát của giai đoạn
2016-2020, đó là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại… chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.

Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết đưa ra, đó là: “Đến năm 2030, Việt Nam phấn
đấu hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 03 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công
nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu

10
vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công
nghiệp phát triển hiện đại”.

Điểm nổi bật của Nghị quyết, đó là tiếp tục hoàn thiện về tư duy trong quan điểm
chỉ đạo: “Nhận thức đầy đủ, tôn trọng, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, phù hợp với các Điều kiện phát triển của đất nước, phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kiên quyết chống mọi biểu hiện duy ý chí,
quan liêu, bao cấp trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách công nghiệp quốc gia;
bám sát, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển công nghiệp và kinh nghiệm công
nghiệp hóa của thế giới”.

2.1.3 Nền kinh tế nước nhà phát triển bền vững như thế nào

Ổn định kinh tế vĩ mô

Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức
tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%. Giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng
GDP đạt 7%. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với sự điều hành quyết liệt và
quyết tâm cao của Chính phủ, Việt Nam đã từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, biểu hiện ở việc tốc độ tăng GDP bình quân giai
đoạn 2016-2019 đạt mức 6,8%, đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5% đến 7% của
kế hoạch 5 năm 2016-2020. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của
dịch Covid-19 nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng gần 3%, là một trong những nước
hiếm hoi có tăng trưởng dương trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế
được mở rộng đáng kể, GDP đạt khoảng 262 tỷ USD vào năm 2019, tăng 18 lần so với
năm đầu đổi mới, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.800 USD/người và
thuộc các nước có mức thu nhập trung bình trên thế giới. Chất lượng tăng trưởng được
nâng cao, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm
giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân
5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30 đến 35%).

Kinh tế vĩ mô cơ bản được giữ ổn định, các thị trường vận hành thông suốt tạo điều
kiện cho người dân và doanh nghiệp (DN) tập trung sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ lạm
phát dần được kiểm soát từ mức ba chữ số những năm đầu của thời kỳ đổi mới xuống
mức mục tiêu 4% trong suốt giai đoạn 2016 - 2020. Các thị trường vốn và tiền tệ có

11
bước phát triển mạnh mẽ, hoạt động thông suốt và dần ổn định hơn. Tín dụng tăng
trưởng tốt, là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế tới các hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Thị trường ngoại tệ được quản lý linh hoạt, tình trạng đô-la hóa giảm dần qua
các năm, quỹ dự trữ ngoại hối tăng cao, niềm tin của người dân vào đồng nội tệ được
củng cố vững chắc.

Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực và phù hợp hơn với mô hình tăng
trưởng kinh tế. Nền kinh tế dịch chuyển theo hướng hiện đại, tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, trở thành động lực tăng trưởng chính, trong khi tỷ trọng
ngành nông nghiệp giảm xuống. Không chỉ cơ cấu kinh tế thay đổi mà cơ cấu nội
ngành cũng dịch chuyển phù hợp trình độ phát triển của nền kinh tế.

Giảm nghèo và cải thiện thu nhập

Trong ba thập kỷ vừa qua, xoá đói giảm nghèo luôn là lĩnh vực đạt được nhiều
thành công ấn tượng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Cùng với phát
triển kinh tế cao là hàng loạt các chính sách giảm nghèo được triển khai đồng bộ ở tất
cả các cấp với nguồn kinh phí huy động từ Chính phủ, cộng đồng và các tổ chức xã hội
quốc tế đã cải thiện đáng kể diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng miền trong cả nước.

Quyết tâm vươn lên thoát khỏi đói nghèo không chỉ là ý chí của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương mà đã trở thành suy nghĩ của từng hộ nghèo. Tỷ lệ nghèo trên
đầu người (tính theo chi tiêu thu nhập) đã giảm mạnh từ 57% năm 1990 xuống còn
13,5% năm 2014.

Năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ
(MDGs) về về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, về đích trước 10
năm so với thời hạn (năm 2015).

Nói về thành tựu giảm nghèo của Việt Nam, ông Ngô Trường Thi, Chánh văn
phòng giảm nghèo (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) cho biết, mặc dù trong năm
2018 cũng như ba năm trở lại đây Việt Nam đang phải đương đầu với rất nhiều khó
khăn và thách thức, về cả về kinh tế, xã hội, thiên tai lũ lụt nhưng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quan tâm của Quốc hội, Chính phủ và sự nỗ lực của toàn xã hội, kết quả
giảm nghèo tiếp tục giữ vững.

12
Mở rộng thương mại và đầu tư

Nội địa: Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình thị trường và
thương mại của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan
trọng, góp phần tạo nên sự chuyển biến sâu sắc về thị trường trong nước và nước
ngoài.

Xuất phát điểm là tỉnh miền núi gặp nhiều khó khăn; đặc biệt là khi chuyển dịch nền
kinh tế phổ biến mang tính tự nhiên, tự cấp, tự túc, tập trung quan liêu bao cấp nặng nề
sang nền kinh tế thị trường; nhưng được sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã
đề ra những cơ chế chính sách thích hợp, vân dụng vào điều kiện cụ thể của địa
phương, phát huy những thế mạnh của tỉnh nên hoạt động thương mại phát triển khá.
Trong thời kỳ bao cấp, hệ thống và mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, các trạm thu
mua cấp huyện và các cửa hàng của Hợp tác xã mua bán cùng với hệ thống chợ trải
khắp trên các địa bàn…Bước sang thời kỳ đổi mới mô hình của thương nghiệp quốc
doanh và các cửa hàng Hợp tác xã mua bán tại các huyện không còn phù hợp, toàn bộ
các công ty cấp huyện đều phải sắp xếp lại và trở thành cửa hàng trực thuộc công ty
tỉnh, toàn bộ hệ thống các trạm thu mua của Công ty Xuất nhập khẩu tỉnh cũng giải
thể, hệ thống Ban Quản lý Hợp tác xã mua bán tỉnh đến các ban của huyện cũng giải
thể, các cửa hàng Hợp tác xã cũng chuyển sang hình thức thích hợp.

Thương mại nội địa phát triển phong phú và đa dạng, tổng mức lưu chuyển hàng
hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ qua các năm đều tăng khá. Cụ thể là:

+ Năm 1995: 480 tỷ đồng;

+ Năm 2000: 1.015 tỷ đồng;

+ Năm 2005: 2.571 tỷ đồng;

+ Năm 2010: 7.532 tỷ đồng;

+ Năm 2015: 13.700 tỷ đồng;

+ Năm 2020: 20.078 tỷ đồng.

Thực hiện tốt cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Hệ
thống phân phối bán lẻ tương đối đa dạng, cơ bản cung ứng đầy đủ, kịp thời các mặt

13
hàng thiết yếu cho đời sống và sản xuất, kinh doanh, kể cả ở khu vực nông thôn. Tại
thành phố Lạng Sơn, một số huyện và một số khu vực cửa khẩu đã và đang hình thành,
phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị, bến bãi, nhà hàng, khách sạn,... Toàn tỉnh
hiện có 83 chợ, 03 siêu thị hạng 3 và 02 trung tâm thương mại. Một số chợ ở khu vực
nông thôn được đầu tư xây mới, nâng cấp, mở rộng. Giai đoạn 2011-2019 vốn đầu tư
cải tạo nâng cấp chợ, xây mới chợ, trung tâm thương mại là 1.544 tỷ đồng trong đó
vốn từ ngân sách là 19 tỷ đồng, vốn xã hội hóa là 1.525 tỷ đồng. Công tác xúc tiến
thương mại được chú trọng, thường xuyên tổ chức các hoạt động hội chợ, triển lãm,
hội nghị xúc tiến thương mại, khảo sát thị trường nước ngoài, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp giao lưu, quảng bá thương hiệu sản phẩm, thực hiện liên doanh, liên kết
sản xuất, kinh doanh và mở rộng thị trường.

Tăng cường việc làm và phát triển kỹ năng

Trong 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo, đất
nước ta, dân tộc ta đã thu được những thành tựu to lớn. Nền kinh tế đã thoát ra khỏi
tình trạng khủng hoảng triền miên để bước vào một thời kỳ mới- thời kỳ phát triển
toàn diện và tăng trưởng liên tục với tốc độ cao. Trong lĩnh vực lao động cũng đạt đợc
kết quả khả quan. Chỉ tính 6 tháng đầu năm 2000, ở khu vực Nhà nớc có 3420,6 nghìn
lao động, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trớc, trong đó trung ương quản lý 1419,7
nghìn người (tăng 0,6%)

Hàng năm, Nhà nước ta bảo đảm bảo được từ 1-1,4 triệu việc làm mới mỗi năm.
Riêng năm 2000 đã tạo được việc làm mới cho gần 1,4 triệu lao động; đào tạo nghề
cho 840.000 người, năm 2001 tạo được hơn 1,4 triệu lao động. Kết quả sơ bộ của cuộc
điều tra lao động việc làm năm 2000 cho thấy, tổng số lao động từ 13 tuổi trở lên của
nớc ta là 38.883.000 ngời, trong đó có 20037 nghìn nam, chiếm 51,5% và 18846 nghìn
nữ, chiếm 48,5%. Riêng lực lợng lao động trong độ tuổi lao động là 36.169.000 ngời,
chiếm 93,0% tổng số lao động từ 13 tuổi trở lên.

Chuyên môn, học vấn của các nhóm lao động

Giữa vấn đề thiếu việc làm, thất nghiệp với trình độ chuyên môn, học vấn của ngời
lao động có mối quan hệ hết sức khăng khít. Theo số liệu thống kê, hiển nhiên là
những lao động không có chuyên môn kỹ thuật, trình độ kỹ thuật còn thấp kém có tỷ lệ

14
thất nghiệp cao nhất và ngày càng tăng. Ngợc lại, tỷ lệ thất nghiệp trong số những lao
động có trình độ chuyên môn và kỹ thuật ngày càng giảm, nhất là ở những ngời có
trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng
những ngời tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học là hầu hết đều có việc làm
hoặc đợc bảo đảm về quyền lao động. Bởi vì, trong những năm qua, việc đào tạo ồ ạt
những ông "cử" trong các ngành không phải là khoa học tự nhiên và kỹ thuật (nh kinh
tế, luật,...) chạy theo thị hiếu nhất thời và thiếu cơ sở thực tế của nhu cầu xã hội. Hàng
năm, riêng những ngành khoa học này đã tuyển hàng trăm nghìn sinh viên vào học và
mỗi năm có hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp, trong khi đó nhu của xã hội đối với
đối tợng này chỉ chiếm từ 10-15% trong số đó. Ngợc lại với tình cảnh đó là mỗi năm
chỉ có khoảng 40-50% (so với nhu cầu của thực tế) sinh viên theo học những ngành
đợc coi là "trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra đời sống vật chất" (các trờng
trung học chuyên nghiệp, cao đẳng kỹ thuật, công nghệ,...); trong khi đó, nhu cầu của
xã hội lại cần tới hàng chục ngàn những công nhân, những chuyên gia kỹ thuật, những
kỹ s,… có trình độ chuyên môn vững vàng và chuyên sâu. Hàng năm, hệ thống giáo
dục và đào tạo của Việt Nam chỉ đào tạo đợc 500.000 lao động, đáp ứng đợc 20% nhu
cầu của sự phát triển.

Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của người lao động

Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thiếu việc làm hay thất
nghiệp là trình độ chuyên môn, kỹ thuật của ngời lao động còn thấp và cha đáp ứng
đợc yêu cầu của thực tiễn. Hiện nay, nớc ta rất thiếu một đội ngũ cán bộ có trình độ
quản lý kinh doanh giỏi và đội ngũ thợ lành nghề bậc cao- một điều kiện quan trọng để
thu hút vốn đầu t nớc ngoài góp phần giải quyết vấn đề thiếu việc làm và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Thực trạng này đặc biệt nghiêm trọng trong khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh. Theo số liệu điều tra năm 1995, gần 90% dân số tham gia hoạt động kinh tế
làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh, nhng số có trình độ chuyên môn kỹ thuật
chỉ chiếm 10% trong tổng số những người có chuyên môn kỹ thuật.

2.1.4 Định hướng chiến lược và lựa chọn chính sách xã hội cho tương lại phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay

15
Hoàn thiện thể chế và cải cách pháp luật

Sau chặng đường một phần ba thế kỷ đổi mới kể từ năm 1986, hệ thống pháp luật
Việt Nam đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn đó những
khiếm khuyết của hệ thống pháp luật, như tính thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn,
thiếu ổn định và tính khả thi chưa cao. Trong bối cảnh chúng ta đang thực hiện tổng
kết 02 nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết 48 về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020 và Nghị quyết 49 về
cải cách tư pháp, cần có những đánh giá tổng quát về thực trạng hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay, từ đó thấy được những thành quả cũng như xác định những mục
tiêu, định hướng mang tính chiến lược cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong giai đoạn mới.

Phát triển kinh tế bền vững và bao trùm

Phát triển bền vững là phát triển ngày hôm nay không làm tổn hại đến phát triển
trong tương lai. Phát triển bền vững là phát triển bảo đảm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hòa giữa phát triển kinh tế bền vững với phát triển xã hội bền vững và bảo vệ môi
trường bền vững.

Phát triển kinh tế bền vững, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh
tế làm cơ sở thúc đẩy và gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường sống,
khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, chủ động ứng phó và thích
ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Phát triển bền vững đã bao hàm sự phát triển sáng tạo; đổi mới sáng tạo không
ngừng, đặc biệt là đổi mới sáng tạo công nghệ, trong bối cảnh cách mạng khoa học -
công nghệ, nhất là cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển mạnh mẽ là cơ sở, là
điều kiện, là tiền đề để phát triển bền vững hơn.

Phát triển bền vững, sáng tạo, nhưng bao trùm, bao trùm tất cả mọi người dân trong
xã hội, không ai bị "bỏ rơi" phía sau; bất cứ người dân nào cũng được quan tâm để

16
phát triển toàn diện. Con người là mục tiêu, là động lực, là nguồn lực cho phát triển
bền vững, sáng tạo, bao trùm.

Phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược phát
triển của đất nước, vì mục tiêu con người, dựa vào con người, do con người, trong đó
phát triển kinh tế nhanh và bền vững giữ vị trí trung tâm, là mệnh lệnh, là phương sách
duy nhất để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm cả kinh tế, xã hội, môi trường, trên cơ sở
gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa phát triển kinh tế bền vững với phát triển văn hóa, xã hội
bền vững, bao trùm lên tất cả mọi người, không để ai bị tụt lại phía sau, đồng thời gắn
chặt chẽ với phát triển môi trường bền vững. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn
chặt chẽ, hài hòa, hợp lý với tiến bộ, công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ vững chắc môi trường.

Phát triển kinh tế bền vững, phát triển xã hội bền vững gắn chặt với xây dựng môi
trường sống tự nhiên hài hòa, tốt lành, thân thiện với con người; giảm thiểu các tác
động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường; quản lý, khai thác hợp lý và sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là các nguồn tài nguyên
không tái tạo được; từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế các-bon
thấp; phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo vệ môi
trường cho thế hệ hôm nay và cho thế hệ mai sau; chủ động phòng, chống, hạn chế tác
hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước
biển dâng; phát triển kinh tế, phát triển xã hội thích ứng với biến đổi khí hậu…

Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra
hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm, là cơ sở để phát triển nhanh,
phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm. Phát
triển nhanh và bền vững, sáng tạo, bao trùm phải luôn gắn chặt với nhau trong quy
hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phải
đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã hội, tăng cường
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững, sáng tạo, bao trùm.

17
Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại
hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở
ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Qua hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và hơn 35 năm thực hiện đường lối
đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước
ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng
trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành,
phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được
những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của Nhân
dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không
ngừng gia tăng. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng,
Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng
viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.

- Những thành tựu sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà
cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sin động
khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta. Đến nay, Việt Nam trở
thành điểm hẹn của hòa bình, là đất nước có vị thế để sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy
của tất cả các nước. Từ một đất nước bị bao vây cấm vận từ bên ngoài và khủng hoảng
kinh tế - xã hội bên trong, sau hơn 35 năm đổi mới, nước ta có quan hệ hữu nghị hợp
tác với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 17 nước đối tác chiến lược và 13
nước đối tác toàn diện; có quan hệ kinh tế với hơn 230 nền kinh tế đã ký 15 hiệp định
thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới... Quan hệ đối ngoại được
18
mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Việt Nam có tầm ảnh hưởng và có uy tín lớn
với bạn bè quốc tế. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín
quốc tế như ngày nay.

- Năm 2022, trước bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức lớn, bất ngờ xuất hiện,
tác động xấu, nhiều mặt và ảnh hưởng nặng nề không chỉ đối với nước ta mà còn đối
với toàn thế giới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước
nồng nàn, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, đoàn kết, năng động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu
đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, với nhiều dấu ấn nổi bật: Vừa
tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá
hiện hành đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 US so với
năm 2021. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 8,02% so với năm
trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022. Trong đó, khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, đóng góp 5,11% vào tốc độ tăng tổng giá trị tang
thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%, đóng góp
38,24%; khu vực dịch vụ tăng 9,99%, đóng góp 56,65%. Về cơ cấu nền kinh tế năm
2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,88%; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 38,26%; khu vực dịch vụ chiếm 41,33%; thuế sản phẩm trừ
trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53%.

- Tính chung cả năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5
tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%; nhập khẩu tăng
8,4%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2022 ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD. Kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 371,85 tỷ đồng, tăng 10,6% so với năm trước; nhóm
hàng công nghiệp chế biến chiếm 89%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 360,65 tỷ
USD, tăng 8,4% so với năm trước; nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,5% tỷ trọng
bằng năm trước. Thị trường Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với
kim ngạch đạt 109,1 tỷ USD và Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt
Nam với kim ngạch đạt 119,3 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt 12,9 tỷ USD,
tăng 145,2% so với năm trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ đạt 25,5 tỷ USD tăng
23,6% so với năm trước.

19
Những kết quả đạt được là sản phẩm kết tinh từ truyền thống, văn hóa, văn hiến
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; là thành quả lãnh đạo sáng suốt
của Đảng ta trong suốt 93 năm qua.

2.2 Những hạn chế


Trong gần 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt
nam cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc chưa cụ thể.

Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát
triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt
trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh
tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa
đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ
và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cầu và thực
tế nguồn lực được huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh
tế chưa cao. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp.

Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều bất cập. Số văn bản luật
ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy dân chủ chưa đi liền
với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng.

Đưa ra những tư tưởng xa lạ về xây dựng CNXH ở thời kỳ quá độ trong một
nước và sự gia tăng đấu tranh giai cấp, trấn áp trong xã hội; chủ trương kế hoạch hóa
tập trung, công hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, phân phối trực
tiếp bằng hiện vật,... Từ sai lầm trong nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ dẫn đến
những sai lầm trong tổ chức thực tiễn; chủ quan, nóng vội, bỏ qua tính quy luật trong
giải quyết các vấn đề đặt ra về kinh tế, xã hội, con người; không lường hết những khó

20
khăn, phức tạp và nguy hiểm sự chống phá của kẻ thù từ bên ngoài. Sai lầm ấy trước
hết được thể hiện trong chính sách hợp tác hóa nông nghiệp bằng mọi giá, bất chấp
điều kiện thực tế và lợi ích của người nông dân.

III. Giáo dục


3.1 Thành tựu
3.1.1 Một số nội dung đổi mới giáo dục
- Năm 1986, mục tiêu đổi mới giáo dục là hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học cho trẻ
em, phổ cập trung học cơ sở ở những nơi có điều kiện và từng bước mở rộng giáo dục
phổ thông trung học bằng nhiều hình thức. Năm 1991, trong Báo cáo chính trị, giáo
dục và đào tạo vẫn được xác định là một trong năm vấn đề cơ bản của chính sách xã
hội, nhưng không còn nói đến phổ cập giáo dục, không nói đến mở rộng cơ hội đến
trường, mà chuyển sang tập trung vào đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Từ năm 2014 nhìn lại có thể thấy việc chuyển
trọng tâm chính sách giáo dục sang ưu tiên chất lượng vào đầu những năm 1990 là quá
sớm bởi vì vào năm 1993 tỷ lệ đi học đúng tuổi giáo dục phổ thông còn rất thấp: tiểu
học mới đạt 78%, trung học cơ sở 36% và trung học phổ thông là 11%. Trên thực tế,
đến năm 2000 Việt Nam mới thực hiện được mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học.
- Từ năm 1996 đến năm 2011, trong Báo cáo chính trị, chính sách xã hội không còn
tập trung vào giải quyết vấn đề giáo dục nữa, mà vấn đề giáo dục được tách ra khỏi
chính sách xã hội và được phát triển thành nội dung của chính sách chuyên về giáo dục
- đào tạo. Năm 2006, chính sách xã hội được xác định là “bảo đảm cung ứng dịch vụ
công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo” và chăm
sóc, bảo vệ trẻ em vẫn luôn được đặt ra trong tất cả các Báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng.
- Bàn về mục tiêu phát triển đất nước, Báo cáo chính trị năm 1996 xác định mục tiêu
đến năm 2000 phổ cập giáo dục tiểu học. Đến năm 2001, khi trình bày chính sách về
giáo dục và đào tạo, Báo cáo chính trị Đại hội IX đặt ra mục tiêu củng cố thành tựu
phổ cập giáo dục tiểu học và đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Mười năm sau đó, khi bàn về phổ cập giáo dục, Báo cáo chính trị năm 2006 xác định
một cách chung chung là bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng phổ cập giáo dục, nhưng
không nêu rõ phổ cập giáo dục trung học cơ sở hay phổ cập giáo dục trung học phổ
thông.
21
- Báo cáo chính trị năm 2011 khi đánh giá thành tựu giáo dục đã ghi nhận rõ là “Đến
năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở”,
nhưng lại không tiếp tục đặt ra mục tiêu phổ cập giáo dục trung học phổ thông và mở
rộng quy mô, tăng tỷ lệ đi học đúng tuổi các cấp, bậc giáo dục - đào tạo, nhất là giáo
dục cao đẳng, đại học. Báo cáo chính trị năm 2011 đề ra chủ trương đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm mục tiêu cơ bản, chủ yếu là phát triển và nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo, chứ không phải phổ cập giáo dục trung học phổ thông
và cũng không nhằm mở rộng cơ hội đến trường cao đẳng, đại học. Năm 2013 chủ
trương này được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013
trong đó đề ra mục tiêu cụ thể phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ
tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương
- Một nghiên cứu cho biết, đến năm 2014 Việt Nam có 144 văn bản chính sách hiện
hành về an sinh xã hội bao quát các lĩnh vực từ tạo việc làm, giảm nghèo, bảo hiểm xã
hội, hỗ trợ các đối tượng khó khăn và hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ cơ bản tối thiểu gồm
giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin cho người nghèo. Trong số 144 văn bản chính sách an
sinh xã hội này có 29 văn bản chính sách về hỗ trợ giáo dục tối thiểu, chiếm 20%, chỉ
đứng thứ hai về số lượng văn bản sau vị trí thứ nhất thuộc về nhóm chính sách tạo việc
làm nâng cao thu nhập cho người lao động với 33 văn bản chiếm gần 24%.
- Cải cách gần đây nhất vào năm 2013, được đánh giá có tính toàn diện, triệt để bằng
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013, trên tinh thần “đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
3.1.2 Phổ cập giáo dục
Như vậy về mặt chính sách, có thể thấy các mốc thời gian quan trọng về giáo dục như
sau:
- Năm 1986 đặt ra mục tiêu toàn diện là hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục tiểu học,
phổ cập trung học cơ sở ở nơi có điều kiện và từng bước mở rộng giáo dục phổ thông
trung học;
- Năm 1996 đặt mục tiêu đến năm 2000 phổ cập giáo dục tiểu học;
- Năm 2001 đặt mục tiêu củng cố thành tựu phổ cập giáo dục tiểu học và đẩy nhanh
tiến độ phổ cập trung học cơ sở;
- Năm 2006 đặt mục tiêu chung là phổ cập giáo dục;
22
- Năm 2010 được ghi nhận là đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở;
- Năm 2011 chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
- Năm 2013 ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo.
Hiện giáo dục Việt Nam tiếp tục có nhiều thành tựu nổi bật. Trong đó, sau 10
năm thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (2010 - 2020), số trường
mầm non tăng hơn 2.600 trường. Mỗi xã phường đều có ít nhất 1 trường mầm non
công lập. Số trẻ đến trường tăng hơn 1,5 triệu em so với năm học 2010 - 2011. Tỷ lệ
trẻ 5 tuổi hoàn thành chương trình giáo dục mầm non đạt 99,9%. Về cấp tiểu học,
63/63 tỉnh thành đều đạt chất lượng phổ cập mức độ 2, trong đó 4 địa phương đạt mức
độ 3. Cả 63/63 tỉnh thành đều đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS cấp độ 1, một số địa
phương đạt mức độ 2 và 3.
Năm học 2020 - 2021, cả nước có hơn 5 triệu trẻ mầm non, hơn 8,8 triệu học sinh
tiểu học, hơn 5,9 triệu học sinh THCS, hơn 2,7 triệu học sinh THPT; tổng số phòng
học là 593.808 phòng (tăng 3.504 phòng so với năm học trước), trong đó phòng học
kiên cố chiếm 70,5%. Riêng bậc THPT, cả nước có có 2.543 trường (tăng 144 trường),
59.686 lớp; trong số này có 45,33% số trường đạt chuẩn quốc gia và 40,22% số trường
đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục; có 135.875 giáo viên, tỷ lệ giáo viên đạt
chuẩn và trên chuẩn là 99,78% (tăng 2,8% so với năm học trước).
Chất lượng giáo dục còn được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Việt Nam hiện được
xếp vào tốp 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới, theo báo cáo “Tăng
trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển công bằng ở Đông Á – Thái Bình
Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới. Hay trong các Chương trình đánh giá học
sinh quốc tế, lứa tuổi 15 (PISA), học sinh nước ta đều đạt kết quả ấn tượng, vượt qua
mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Các đội tuyển
Olympic quốc tế đều đạt thứ hạng cao. Chẳng hạn năm 2019, với 15 huy chương vàng,
14 huy chương bạc, 7 huy chương đồng, Đoàn Học sinh Việt Nam nằm ở tốp đầu tại
kỳ thi Olympic Toán học và khoa học quốc tế; với thành tích này, Việt Nam tiến 13
bậc so với kỳ thi lần thứ 59 năm 2018.
Ở bậc đại học, tính đến cuối năm 2020, 7 trường đại học được công nhận bởi tổ chức
đánh giá, kiểm định quốc tế (HCERES, AUN-QA). 195 chương trình đào tạo của 32
trường được đánh giá, công nhận theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Năm 2018, lần
23
đầu tiên trong lịch sử, hai đại học của Việt Nam, là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại
học Quốc gia TPHCM, lọt vào danh sách 1.000 trường hàng đầu thế giới của Tổ chức
Quacquarelli Symonds (Anh). Mặt khác, tự chủ đại học đã tạo nên đột phá khi nhiều
ngành, lĩnh vực đào tạo đứng trong tốp 500 thế giới. Việt Nam cũng đứng thứ 49 thế
giới về số lượng báo khoa học công bố trên các ấn phẩm quốc tế có uy tín. Cả nước
hiện có 172 trường đại học công lập, 65 trường ngoài công lập, với gần 1,7 triệu sinh
viên.
Thành tựu về giáo dục đã góp phần quan trọng vào việc chất lượng nguồn nhân lực.
Như năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ ở 40% thì đến năm 2020 đã tăng lên
64%; trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6% lên
24,5%. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc ngành giáo dục ngày 31/10/2020, Phó Thủ
tướng Vũ Đức Đam nhận định: “Chúng ta đã vượt lên khó khăn, vượt lên chính mình
và ngành giáo dục đào tạo đã có tiến bộ toàn diện, nhiều mặt, rõ ràng và vững chắc”.
Các năm 2020 và 2021 đánh dấu bước chuyển đổi linh hoạt của hệ thống giáo dục
Việt Nam trong giai đoạn dịch bệnh. Với chủ trương “tạm dừng đến trường, không
ngừng việc học”, các cấp bậc học (trừ mầm non) đã chuyển sang hình thức dạy học
trực tuyến qua internet và truyền hình, đây là lần đầu tiên việc dạy học trực tuyến được
triển khai trên quy mô cả nước. Báo cáo PISA của OECD công bố ngày 29/9/2020,
đánh giá: “Việc học trực tuyến để phòng chống Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm
khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác”. Đây là nhận định xác đáng khi
Việt Nam có gần 80% học sinh, sinh viên học trực tuyến, cao hơn mức trung bình
67,15% của các nước OECD, xếp thứ 17/200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong 76 năm qua, Đại hội XIII của Đảng đã
định hướng phát triển giáo dục Việt Nam cho thời kỳ tới, trong đó có một số điểm nổi
bật như: thay vì chỉ nhấn mạnh vào “phát triển nhanh giáo dục và đào tạo” như trước
đây, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đề cập trực tiếp việc
“phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng
cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”. Phương hướng
“giáo dục là quốc sách hàng đầu” được xác định theo hướng mới: “Xây dựng đồng bộ
thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất
nước”. Không chỉ vậy, giáo dục Việt Nam còn hướng đến sự phát triển đột phá và
24
nâng cao chất: “Có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư
phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới”…
3.1.3 Cơ hội đi học đúng tuổi và bất bình đẳng xã hội trong giáo dục

Đi học đúng tuổi là một tiêu chí cơ bản, quan trọng phản ánh trình độ phát triển giáo
dục của cá nhân và cộng đồng xã hội. Trên thế giới, tỷ lệ đi học đúng tuổi được sử
dụng để đánh giá các thành tựu và sự tiến bộ trong quản lý giáo dục, phát triển giáo
dục quốc dân và phát triển bền vững. Việc phân tích số liệu về tỷ lệ đi học đúng tuổi
các cấp bậc giáo dục cho biết một số vấn đề phân hóa xã hội và bất bình đẳng giáo dục
cần được giải quyết để bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển bền
vững của đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các kết quả điều tra cho biết cơ hội đến trường đã được mở rộng, nhưng chưa được
phân bổ bình đẳng cho các nhóm trong độ tuổi đến trường từ tiểu học đến trung học
phổ thông và nhất là cao đẳng, đại học. Cơ sở pháp luật của việc mở rộng cơ hội đi học
đúng tuổi tiểu học là Luật Phổ cập giáo dục tiểu học được Quốc hội thông qua năm
1991 trong đó quy định rõ Nhà nước thực hiện chính sách phổ cập giáo dục tiểu học
bắt buộc từ lớp 1 đến hết lớp 5 đối với tất cả trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 14
tuổi. Nhờ thực hiện luật và chính sách phổ cập giáo dục tiểu học nên gần 10 năm sau,
đến năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, nhưng với các mức
độ khác nhau giữa các địa phương. Đến năm 2009, kết quả tổng điều tra dân số và nhà
ở Việt Nam cho biết vẫn còn những tỉnh như Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, Sơn La
đạt tỷ lệ đi học đúng tuổi tiểu học của nữ từ 80 - 83% trong khi có những tỉnh như Hải
Dương, Nam Định, Thái Bình, Đà Nẵng, Bắc Ninh tỷ lệ này đạt trên 98%. Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2009 cho biết, Việt Nam đã đạt được bình đẳng giới trong
giáo dục, nhưng tỷ lệ đi học đúng tuổi giảm dần từ tiểu học gần 96% xuống còn gần
10% ở bậc đại học. Sự phân hóa xã hội và bất bình đẳng xã hội ở các cấp, bậc giáo dục
giữa thành thị và nông thôn giữa các dân tộc và nhất là giữa các nhóm hộ gia đình giàu
và nhóm gia đình nghèo tăng lên mạnh từ trung học cơ sở lên đại học. Xét riêng tỷ lệ
đi học đúng tuổi đại học: ở thành thị (23,3%) nhiều gấp hơn 7 lần so với nông thôn
(3%), tỷ lệ của người Kinh (11,1%) nhiều gấp 55 lần so với người H’Mông (0,2%), tỷ
lệ của nhóm người giàu (26,3%) nhiều hơn 87 lần so với người nghèo (0,3%). Do vậy,
nếu ngân sách nhà nước bao cấp cho đại học, ví dụ bao cấp một gói kinh phí 437 tỷ

25
đồng thì sinh viên thuộc gia đình có mức sống trung bình, nghèo và rất nghèo được
hưởng 68 tỷ đồng và sinh viên gia đình khá giả và giàu hưởng 369 tỷ đồng, tức là 60%
hộ gia đình trung bình, nghèo và rất nghèo được hưởng gần 16% số tiền bao cấp và
40% gia đình khá giả và giàu hưởng hơn 84% số tiền bao cấp còn lại. Về mặt chính
sách, điều này có nghĩa là cần phải tăng bao cấp cho giáo dục mầm non và giáo dục
phổ thông gồm cả tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, đồng thời giảm
bao cấp cho giáo dục đại học nhằm mở rộng cơ hội đến trường và đảm bảo công bằng
xã hội trong giáo dục - đào tạo.
Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2012 cho biết: tỷ lệ đi học đúng tuổi tiểu
học tăng từ 89,3% năm 2006 lên 92,4% vào năm 2012. Năm 2010 tất cả các tỉnh,
thành phố đều được ghi nhận là đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở, nhưng với tỷ lệ
đi học đúng tuổi trung học cơ sở là 81,3%. Hai năm sau, tỷ lệ này chỉ tăng rất ít và đạt
81,4% vào năm 2012. Điều này có nghĩa là đến năm 2012 vẫn còn gần 19% trẻ em
chưa đến trường trung học cơ sở đúng độ tuổi và gần 40% không đến trường đúng độ
tuổi trung học phổ thông và 80% không học cao đẳng, đại học. Không có sự bất bình
đẳng đáng kể về tỷ lệ đi học đúng tuổi tiểu học giữa thành thị và nông thôn. Nhưng sự
khác biệt giữa thành thị và nông thôn tăng lên ở độ tuổi đến trường trung học cơ sở và
thể hiện đặc biệt rõ ở độ tuổi trung học phổ thông: năm 2014 tỷ lệ đi học đúng tuổi
trung học phổ thông ở thành thị là hơn 73% trong khi ở nông thôn là hơn 59%. Mức độ
bất bình đẳng về cơ hội đến trường trung học phổ thông giảm rất chậm chạp từ 16 đơn
vị phần trăm năm 2006 xuống còn 11 đơn vị phần trăm vào năm 2014.
3.2 Những hạn chế
Chất lượng và hiệu quả giáo dục nói chung còn thấp

Nhìn chung chất lượng giáo dục còn thấp. Chất lượng giáo dục thấp và không
đồng đều giữa các vùng, miền; do hậu quả thời gian dài chúng ta quan tâm đến phát
triển số lượng nhiều hơn chất lượng. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên
thông, mất cân đối giữa các cấp học, ngành học, cơ cấu, trình độ, ngành nghề, vùng,
miền. Việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống, về truyền thống văn hoá, lịch sử dân
tộc, về Đảng, về quyền lợi và nghĩa vụ công dân cho học sinh, sinh viên chưa được
chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp; giáo dục phổ thông mới chỉ quan tâm
nhiều đến "dạy chữ", chưa quan tâm đúng mức đến "dạy người", kỹ năng sống và "dạy
nghề" cho thanh thiếu niên. Chất lượng nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất.
26
Nhà trường chưa quan tâm đúng mức hoặc chưa có biện pháp hữu hiệu giáo dục trách
nhiệm người công dân, người lao động chân chính cho học sinh, sinh viên. Chất lượng
giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực
trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội.
Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng,
giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học chậm đổi
mới; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng
giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương
mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp.

Cơ cấu đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa hợp lý, đầu tư cho các bậc học
chưa tương xứng

Theo số liệu báo cáo chi ngân sách cho giáo dục giữa các bậc học có sự chưa
tương xứng: Chi tiêu dành cho dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học, giáo dục
thường xuyên chiếm 30% tổng chi cho giáo dục. Trong đó, chi cho đào tạo cao đẳng
và đại học chiếm trên 12%. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng
tạo, kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng những kiến thực được học vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn, thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết cho hội nhập, khả năng thích
ứng với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế.

Quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, đội ngũ giáo viên vừa yếu vừa
thiếu và không đồng bộ, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới.

Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém và là nguyên nhân chủ yếu của
nhiều yếu kém khác. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới
trên các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý
giáo dục còn thấp. Công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu;
thiếu nhạy bén trong việc tham mưu với Ðảng và các cơ quan quản lý nhà nước về
những vấn đề phức tạp mới nảy sinh; thiếu những quyết sách đồng bộ, hợp lý ở tầm vĩ
mô để thúc đẩy phát triển giáo dục; một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý
chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội. Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Những

27
tác động mặt trái của cơ chế thị trường và những khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng
nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo dục.

Quản lý giáo dục yếu kém cả trong xây dựng thể chế, chỉ đạo điều hành, kiểm
tra giám sát và xử lí vi phạm. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự
đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ
quản lý giáo dục còn thấp. Còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo
dục và các cơ quan chủ quản, giữa quản lý giáo dục và đào tạo theo ngành và theo lãnh
thổ. Việc tổ chức khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục còn nhiều bất cập và để
xảy ra nhiều sai phạm.

Người thầy đóng vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo, nhưng
thực tế khi quy mô học sinh, sinh viên tăng nhanh đã gây nên sự bất cập giữa quy mô
phát triển giáo dục với đội ngũ giáo viên, nhất là ở bậc mầm non và bậc đại học.

Có hiện tượng vừa thiếu, vừa thừa giáo viên do không có sự đồng bộ về loại
hình. Rất nhiều địa phương có tổng biên chế giáo viên đủ, thậm chí thừa, nhưng lại
thiếu những loại hình giáo viên như ngoại ngữ, âm nhạc, kỹ thuật. Sự hẫng hụt về giáo
viên trình độ cao ở các trường đại học ngày càng gia tăng, tuổi trung bình của giáo
viên cao.

Phương pháp giảng dạy chưa được cải tiến, phổ biến vẫn là lối dạy thầy truyền
đạt, trò tiếp thu thụ động. Điều đó diễn ra không chỉ ở giáo dục phổ thông mà ngay cả
ở đại học và sau đại học.

Cơ sở vật chất trường lớp còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nội dung
giáo dục còn thiếu thiết thực.

Nhìn tổng thể các ngành có thể khẳng định cơ sở vật chất của ngành giáo dục
vẫn còn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trang thiết bị, phòng thí nghiệp phục vụ
giảng dạy và học tập còn thiếu thốn, tình trạng dạy chay còn phổ biến. Số lượng máy
tính còn ít, ở các vùng khó khăn, nhiều học sinh không có đủ sách giáo khoa.

28
Điều kiện phục vụ việc dạy và học của các trường học còn kém, rất ít trường
đạt chuẩn so với yêu cầu của một nhà trường. Cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu
đảm bảo chất lượng đào tạo còn nhiều bức xúc và cần có chương trình mục tiêu đầu tư
để giải quyết.

Chương trình giáo dục còn nặng nề, chưa bám sát yêu cầu của cuộc sống năng
động. Nhiều phần trong chương trình đào tạo đại học và chuyên nghiệp đã lạc hậu.
Phương tiện giảng dạy, thí nghiệm, thực tập, nghiên cứu thiếu thốn và cũ kỹ. Chương
trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá; nhà trường
chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa chú trọng phát huy
tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên; thi cử còn nặng nề, tốn kém,
một số tỉnh thành còn để xảy ra sai phạm trong các kỳ thi cấp quốc gia, điển hình là sai
phạm về gian lận khâu chấm thi tại kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2018 tại Hà Giang,
Hòa Bình, Sơn La. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở nhiều nơi chưa ổn định.

IV. Đối ngoại, hợp tác quốc tế


4.1 Hội nhập quốc tế, vì thế ngày nâng cao
4.1.1 Thành tựu
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đã phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là
bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa binh, độc lập, dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

4.1.2 Hạn chế


Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù hợp nên Việt
Nam dã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa
học- công nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm quốc tế, văn minh của nhân loại… để
phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất, xây dựng đất nước. Trong những năm đổi
mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để
tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa
phương như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước
ngoài (FDI,ODA), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập
khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-

29
công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 170 nước ( trong đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15
nước), quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định
thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập
quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt nam ngày
càng được nâng lên.

4.2 Phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao hiện tại
4.2.1 Thành tựu
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng theo yêu cầu
nền kinh tế thị trường hiện đại. Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn việc tuân thủ các quy
luật của kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường như thế nào để bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa ? Vai trò của thị trường đến đâu trong việc phân bổ tài nguyên, phân bổ các
nguồn lực trong điều kiện hội nhập quốc tế.
4.2.2 Hạn chế

Cần tiếp tục nghiên cứu vai tro của kinh tế Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp
nhà nước, những giải pháp để kinh tế nhà nước thực sự đóng góp vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân; những giải pháp củng cố và phát triển kinh tế tập thể. Nhà nước
cần đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách nhất là thể chế pháp luật để bảo đảm sự bình
đăng thực sự của kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, phát huy mạnh mẽ
hơn vai trò động lực của kinh tế tư nhân.

V. Chính trị và pháp luật


5.1 Thành tựu
1. Ổn định chính trị: Việt Nam đã duy trì một môi trường chính trị ổn định trong thời
gian từ 1986 đến nay. Ðiều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và
xã hội, cùng với sự ổn định và an ninh trong quốc gia.

2. Ða đảng hóa hợp pháp: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã tiến hành đa đảng hóa và cho
phép tồn tại các đảng chính trị khác nhau trong hệ thống chính trị. Hiện nay, Ðảng
Cộng sản Việt Nam vẫn đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, nhưng sự đa đảng hóa đã tạo ra
sự đa dạng và sự cạnh tranh trong chính trị.

30
3. Phát triển pháp luật: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đưa ra nhiều luật pháp mới và
cải cách pháp luật nhằm tạo ra một cơ sở pháp lý mạnh mẽ để hỗ trợ phát triển kinh tế
và xã hội.

Các lĩnh vực như đầu tư, thương mại, lao động, và tài chính đã được điều chỉnh
để thu hút vốn đầu tư và thúc đẩy hoạt động kinh doanh.

5.2 Hạn chế


1. Hạn chế về tự do ngôn luận: Mặc dù đã có một số cải tiến trong việc tự do ngôn
luận, nhưng Việt Nam vẫn đối mặt với hạn chế nghiêm ngặt trong việc tự do ngôn luận
và tự do báo chí. Các biện pháp kiểm soát thông tin và việc truy cứu các nhà báo vẫn
diễn ra, hạn chế quyền tự do ngôn luận và quyền biểu đạt ý kiến của công dân.

2. Thiếu sự minh bạch và trách nhiệm: Một số vấn đề liên quan đến tham nhũng, biển
thủ tài sản công, và quản lý kinh tế vẫn tồn tại. Thiếu sự minh

VI. Thành tựu và hạn chế Văn hóa-xã hội


6.1 Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa xã hội
6.1.1 Thành tựu
Hơn 30 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết
có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh
tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của nhân dân.
GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam
năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới,
nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168
USD/người/năm, nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu
nhập trung bình (thấp).
6.1.2 Hạn chế
Nước ta còn cùng kiệt và kém phát triển, chúng ta lại chưa thực hiện tốt trong
tiết kiệm sản xuất, tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển: Đến nay nước ta vẫn còn
là một trong những nước cùng kiệt nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng
suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu,

31
nợ nần nhiều... việc sư dụng nguồn lưc còn phân tán, kém hiệu quả, chưa kiên quyết
tập trung cho các công trình, dự án kinh tế- xã hội cấp thiết.
6.2 Xây dựng giá trị văn hóa con người Việt Nam
6.2.1 Thành tựu
Phần lớn, đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, số hộ có thu nhập
trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ cùng kiệt giảm. Mỗi năm tăng thêm một triệu
lao động có việc làm, nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp, xây dựng mới
cả nông thôn và thành thị.
Trình độ dân trí, mưc hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng cao như : sư
nghiệp, giáo dục, ytế, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa nghệ thuật thể dục
thể thao, thông tin đại chúng... được phát triển và tiến bộ. Người lao động ngày càng
phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, tăng thu nhập cho cá nhân
và cho cộng đồng xã hội. Các chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với những người có
công với nước cũng được toàn dân hưởng ứng. Lòng tin của người dân đối với chế độ,
tiền đồ của đất nước, đối với Đảng và Nhà nước được nâng lên.
6.2.2 Hạn chế

Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chư a ngăn chặn đuợc. Tiêu cưc
trong bộ máy Nhà nước, Đảng và đoàn thể trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là
trên lĩnh vực nhà đất, XDCB, hợp tác đầu tư , thuế, xuất nhập khẩu và cả trong hoạt
động của nhiều cơ quan thi hành pháp luật, nghiêm trọng kéo dài sự phân hóa giàu
cùng kiệt giữa các vùng, giưa thành thị - nông thôn và các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
Chất lượng giáo dục-đào tạo, ytế ở nhiều nơi còn thấp. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô
nhiễm môi trường sinh thái, hủy hoại tài nguyên ngày càng tăng.

6.3 Thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư
Chúng ta đã xác định cơ bản hoàn thành những nhiệm vụ của chặng đường đầu
và đang bước vào chặng đường tiếp theo đó là công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Công
nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ, thông qua thưc hiện đường lối
công nghiệp hóa CNXH mới được xây dựng một cách bền vũng.
Đất nước ta đi lên CNXH tư ở nền tảng nền kinh tế thấp kém, khuynh hướng
phát triển TBCN trong thời kì quá độ lên CNXH không thể không phát sinh. Chính vì
vậy, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn ra như một yếu tố khách quan.

32
Công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa thành công sẽ hạn chế cao khuynh
hướng độc lập dân tộc đi vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Với đường lối công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đúng đắn, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta sẽ tiến lên nhưng bước
quan trọng trên con đường xây dựng nước ta thành một nước XHCN, thưc hiện được
mục tiêu : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Hạn chế

Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện
chưa nghiêm: công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch xây
dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính chậm đổi mới, cải cách,
lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc. Quản lý nhà nước đối với các hoạt
động khoa học – công nghệ, bảo vệ tài nguyên và môi trường chưa tốt

6.4 Vấn đề bất bình đẳng giữa các vùng miền, mối quan hệ giá trị văn hóa dân
tộc, bảo vệ quyền con người và quyền tự do công dân
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc
gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn
theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì
tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực,
thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm
2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một
nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp
quốc đã đề ra. Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh
nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà
Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo
nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.

Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình
trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt
chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm
2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ
người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3%
năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học
chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu
33
sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo
học.

VII. Tổng kết


7.1 Những triển vọng và định hướng phát triển của CNXH ở Việt Nam trong
tương lai.
Trong tương lai, Việt Nam mong muốn sẽ đạt được một số thành tựu trong lĩnh
vực CNXH, bao gồm: sự tăng cường năng lực quốc phòng, mở rộng hợp tác quốc
phòng với các quốc gia khác, và gia tăng khả năng tự vệ của đất nước...Cần tiếp tục nỗ
lực để củng cố chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân để đạt
được mục tiêu đem lại hạnh phúc và sự tiến bộ cho nhân dân.

Phải có sự phát triển lý luận, làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH của riêng
Việt Nam, vừa phản ánh những giá trị phổ quát của CNXH, vừa phản ánh những đặc
điểm đặc thù của Việt Nam được thể hiện bằng những đặc trưng riêng biệt.

Cho rằng cần có các đặc trưng và phương hướng xây dựng XHCN cần có ở
Việt Nam là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức;bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,công
nghiệp hoá XHCN

Ngoài ra, với việc trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, Việt Nam hy
vọng sẽ có thể đóng góp nhiều hơn cho hòa bình và phát triển của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, cũng cần phải thận trọng trong việc giữ gìn an ninh, tránh các đe dọa an
ninh mới mà CNXH hiện đại đang đối mặt, bảo vệ những giá trị văn hóa và tôn giáo
của dân tộc.Do đó,CNXH cần được xây dựng theo moo hình phù hợp.

7.2 Một số yếu tố thuận lợi và bất lợi cho sự phát triển CNXH ở Việt Nam
Thuận lợi:

+ Vị trí địa lý chiến lược của Việt Nam.

+ Tiềm năng tài nguyên và con người.

+ Sự đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước

34
+ Sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội tại Việt Nam.

+ Sự ủng hộ của các đối tác quốc tế và địa phương trong việc phát triển CNXH ở Việt
Nam.

+ Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động

Bất lợi:

+ Sự cạnh tranh với các quốc gia lớn trong khu vực và trên thế giới.

+ Những thách thức về an ninh cibernetic, khủng bố và tội phạm chuyên nghiệp.

+ Nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức.

+ Các thế lực chống đối, xuyên tạc, phá hoại CNXH còn hoạt động

+ Nhận thức về CNXH còn có nhiều sai lầm, mơ hồ

+ Hiện tượng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, Đảng
viên và nhân dân.

7.3 Những định hướng và biện pháp thể chế hiện thực hóa mục tiêu và tầm nhìn
của CNXH.
- Để hiện thực hóa mục tiêu và tầm nhìn của CNXH, Việt Nam có thể đưa ra những
định hướng và biện pháp thể chế sau:

+ Xác định rõ mục tiêu tối thượng của tổ chức, bao gồm sứ mệnh (lí do tồn tại) và tầm
nhìn (hình ảnh mong muốn).

+ Xây dựng các mục tiêu chi tiết và cụ thể theo các chu kỳ thời gian khác nhau ,sử
dụng các công cụ quản trị mục tiêu như KPI (chỉ số hiệu quả) và OKR (mục tiêu và kết
quả chính)

+ Tăng cường đào tạo và nghiên cứu khoa học để nâng cao năng lực quốc phòng và an
ninh của đất nước.

+ Tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh với các quốc gia khác trong khu vực và
trên thế giới.

35
+ Đầu tư vào việc phát triển công nghiệp quốc phòng để nâng cao khả năng sản xuất
và sửa chữa vũ khí và trang thiết bị quân sự.

+ Nâng cao năng lực chiến tranh điện tử và an ninh mạng để đối phó với những đe dọa
an ninh cibernetic.

+ Tiếp tục cải thiện các vấn đề liên quan đến nhân quyền và tự do ngôn luận để phát
triển một xã hội dân chủ và hiện đại.

- Ngoài ra, để đạt được những mục tiêu này, cần phải có một hệ thống quản lý và thực
hành hiệu quả, đồng thời đảm bảo sự liên kết, không lệch, phù hợp giữa các chính sách
và cơ chế quản lý, đồng thời rõ ràng, minh bạch, nắm bắt sự vận hành của cơ quan đơn
vị và đất nước.

36

You might also like