You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

-------------------------------------------------------

BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Anh/Chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Sự vận dụng
của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới ở nước
ta hiện nay.

Họ và tên sinh viên : Vũ Như Quỳnh

MSV : 11225590

Lớp tín chỉ : Tư tưởng Hồ Chí Minh _ 16

Giảng viên : TS. Nguyễn Chí Thiện

Hà Nội, 2023
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................2
NỘI DUNG ............................................................................................................................................3
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................................3
I. Lý luận chung về đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Mac Lenin
..........................................................................................................................................................3
1. Khái niệm chung về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ......................................................3
2. Đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ...........................................................3
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.............................................................................................................................4
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ...............4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ................................................................................................................5
PHẦN II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH
PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .....................................................7
I. Nhận thức, quan điểm của Đảng về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ...........................................7
II. Thành tựu đạt được ......................................................................................................................9
1. Thành tựu chung của nền kinh tế ...........................................................................................9
2. Thành tựu của các thành phần kinh tế ................................................................................. 10
a. Khu vực kinh tế nhà nước ............................................................................................. 10
b. Khu vực kinh tế tư nhân ............................................................................................... 10
c. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã .............................................................................. 11
d. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ................................................................... 12
III. Hạn chế .................................................................................................................................... 12
1. Thành phần kinh tế nhà nước .............................................................................................. 12
2. Thành phần kinh tế tư nhân ................................................................................................. 13
3. Thành phần kinh tế tập thể, hợp tác xã................................................................................ 13
4. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .................................................................... 14
IV. Giải pháp đề xuất thúc đẩy phát triển ...................................................................................... 15
1. Thành phần kinh tế nhà nước .............................................................................................. 15
2. Thành phần kinh tế tư nhân ................................................................................................. 15
3. Thành phần kinh tế tập thể .................................................................................................. 16
4. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .................................................................... 17
KẾT LUẬN ......................................................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 20
MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta.
Trong đó, tư tưởng của Bác về kinh tế là một trong những nội dung vô cùng quan
trọng, được thể hiện trong quá trình Bác cùng Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, quản
lý sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nhất là trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc. Trong các nghiên cứu của mình, Bác đã nhiều lần nhấn mạnh vai trò then
chốt của phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Theo
Bác, mục đích của phát triển kinh tế là nâng cao đời sống nhân dân, cải tạo nền kinh tế
cũ và xây dựng nền kinh tế mới. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất đảm bảo tiến
bộ, công bằng xã hội. Ngoài ra, trong di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng cần
có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa để không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân’’. (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, tr.162)
Kế thừa, tiếp thu những tư tưởng của Người, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, cơ sở là phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến hiện tại, đất nước ta đã
có những bước phát triển mới, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội và luôn đạt
mức tăng trưởng khá cao. Những thành tựu trên đã khẳng định tính đúng đắn trong quan
điểm về kinh tế của Hồ Chí Minh nói chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần nói riêng.
Trong giai đoạn phát triển mới, việc tiếp tục nghiên cứu, phân tích tư tưởng nêu
trên của Người để nhìn nhận và đánh giá cách mà Đảng và Chính phủ ta đang vận dụng
vào công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước, từ đó hiểu rõ xu hướng vận động và phát
triển của kinh tế Việt Nam cũng như đề ra các giải pháp phát triển mạnh mẽ nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam càng có ý nghĩa quan
trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Với ý nghĩa đó, bài tiểu luận sẽ hướng tới tìm hiểu
và phân tích đề tài: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới của nước ta hiện nay.’’
NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Lý luận chung về đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của Mac Lenin
1. Khái niệm chung về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trên cơ sở học thuyết của C.Mac về phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa,
V.I.Lenin đã đưa ra học thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó bộ phận quan
trọng là là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lenin đã xác định rõ: “Thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện
từ xã hội cũ thành xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa…”. Lenin đã khẳng định điều
kiện trước hết để có thể thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phải thực hiện thành
công cách mạng vô sản và giai cấp vô sản phải giành được chính quyền.
Qua phân tích đặc điểm kinh tế của các quốc gia quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Lenin cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó có thể chia thành “quá
độ” của các nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Theo Người, những nước bỏ qua tư bản chủ nghĩa sẽ
gặp vô số khó khăn phức tạp, vì các quốc gia chưa có tiền đề vật chất của chủ nghĩa xã
hội, để xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu đặt ra phải có đường lối đúng đắn
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và chính quyền phải do nhân dân quản lý. Tránh
thái độ chủ quan, nóng vội, “đốt cháy giai đoạn”, tuân theo quy luật khách quan để đạt
được thắng lợi toàn diện trên mọi lĩnh vực.
2. Đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau với
sự thay đổi sâu sắc vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xã hội. Sự tồn tại của
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và lâu dài, có lợi cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Theo Lenin, mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội đã giành thắng lợi nhưng còn non
yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn khả năng khôi phục 1. Nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở
khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất với hình thức
tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân
phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai
trò là hình thức chủ đạo.

1
V.L.Lenin, Toàn tập, tập 39, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2005, tr 309-310
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Kế thừa và tiếp thu những quan điểm của C.Mac, V.I.Lenin về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới hệ giá trị cơ bản của chủ nghĩa xã
hội là “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mục đích cao nhất của chủ nghĩa xã hội là quyền
sống, hạnh phúc của dân, quyền tự do dân chủ và làm chủ, phát triển năng lực của mỗi
người. Tuy nhiên, nhận thức về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa của nước ta không chỉ dừng lại ở việc nhận thức bản chất, mục tiêu mà
quan trọng hơn phải có cách làm, bước đi phù hợp để biến chủ nghĩa xã hội từ khả năng
khách quan thành hiện thực chân thật trong đời sống của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam trải qua hình thái quá độ gián tiếp với đặc điểm
lớn nhất là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa’’.2 Trước hết, tiến lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phù hợp với khách quan lịch sử. Chế độ tư bản chủ
nghĩa bởi nó ra đời như một kiểu chế độ xã hội tất yếu từ cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến. Do vậy đương nhiên chủ nghĩa xã hội sẽ phủ định
chủ nghĩa tư bản về nguyên tắc trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản. Ngoài ra, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội chính là bỏ qua những mặt trái,
tiêu cực của chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam,
“tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiến từng bước, từ từ, không chủ quan.
Người đã đánh giá tính chất của thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến sâu sắc nhưng
phức tạp, lâu dài, khó khăn gian khổ. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là thời kỳ biến xã hội cũ thành xã hội mới - xã hội chưa từng có trong lịch sử. Đó là thời
kỳ dân tộc ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ; phải xóa bỏ giai
cấp bóc lột, phải biến một nước dốt nát thành một nước văn hóa cao và đời sống vui tươi
hạnh phúc. Nước ta trong điều kiện nền nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi ách thực
dân nên đó là công cuộc biến đổi sâu sắc nhất, khó khăn nhất, thậm chí còn khó khăn,
phức tạp hơn cả việc đánh giặc.3 Do đó, quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể
một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.4
Xây dựng chủ nghĩa xã hội do đó phải đấu tranh, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã
hội cũ, xây dựng các yếu tố mới rất toàn diện, trên mọi lĩnh vực đời sống. Trong lĩnh
vực chính trị cần xây dựng chế độ dân chủ bởi đó là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Theo

2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2011, tr.411
3
Hồ Chí Minh. Sđd, t.11, tr.91-92,405
4
Hồ Chí Minh. Sđd, t.10, tr.390,392
Bác, phải chống tất cả biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân đồng thời bồi dưỡng, giáo dục
để nhân dân có tri thức, năng lực làm chủ xã hội. Ngoài ra, trên lĩnh vực xã hội, mấu
chốt của chính là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào sự phát triển con người. Mấu
chốt của văn hoá là xây dựng con người có đạo đức cách mạng, con người mới XHCN
với đức - tài gắn bó hữu cơ với nhau, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, trung thành với
sự nghiệp cách mạng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Và trên lĩnh vực kinh tế,
trong bối cảnh nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật còn lạc hậu, Hồ Chí Minh
đã xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền kinh tế cũ,
xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Giữa cải tạo và xây
dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt lâu dài5, phải luôn gắn liền với quyền làm chủ
của nhân dân.6
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã xác định phát triển kinh tế là một trong những
trọng tâm xây dựng nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ
đầu thế kỷ 20, Bác đã nêu ra chủ trương thực hiện chính sách “Tân kinh tế” của Lenin,
cụ thể vào năm 1925, trong điều lệ của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (Tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay), Bác có viết: “Sau này thành lập chính
phủ Nhân dân và áp dụng nguyên tắc Tân kinh tế.” Thành lập Chính phủ nhân dân là
thực thi nền Dân chủ, áp dụng nguyên tắc Tân kinh tế là chủ trương xây dựng kinh tế
nhiều thành phần.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại các hình thức
sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của
sản xuất hàng hóa thời kỳ quá độ. Nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lenin để vận
dụng vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cơ cấu thành
phần kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1956-1954 tồn tại 6 thành phần kinh tế: i) Kinh
tế địa chủ phong kiến, ii) Kinh tế quốc doanh, iii) Hợp tác xã tiêu thụ và cung cấp, iv)
Kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ, v) Kinh tế tư bản của tư nhân, vi) Kinh
tế tư bản quốc gia.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Bắc vào năm 1954, đất nước ta bị chia cắt
thành hai miền, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như trình độ lao động còn thấp, chưa hoàn
thiện. Khi đó Bác phân tích nền kinh tế miền Bắc tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư
liệu sản xuất, và để tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa, cần xóa bỏ hình thức sở hữu không
xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền

5
Hồ Chí Minh. Sđd, t.12, tr.412
6
Hồ Chí Minh. Sđd, t.12, tr.376
kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.7 Đối với nước ta,
để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần trải qua giai đoạn dân chủ mới, vì nước ta xuất
phát từ nước nông nghiệp bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điểm xuất phát này cũng đã
quy định sự phức tạp của kết cấu các thành phần kinh tế. Do đó, Người đã xác định các
thành phần kinh tế thời kỳ này: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác
nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung nhân dân)
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội)
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội)
D- Tư bản của tư nhân
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh)
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế
ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản.”8
Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế trước và sau năm 1954 vừa có sự thống nhất, vừa
có sự thay đổi tất yếu:
- Nền kinh tế trong chế độ dân chủ mới không còn tồn tại thành phần kinh tế phong
kiến. Hình thức sở hữu phong kiến được xóa bỏ nhờ cải cách ruộng đất, dân cày
đã có ruộng. Sự thay đổi này càng khẳng định quan điểm đúng đắn của Bác: “Làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 9,
nghĩa là muốn xây dựng xã hội cộng sản thì phải hoàn thành cả hai nhiệm vụ:
giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất.
- Sự thay đổi trong vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế:
● Kinh tế quốc doanh: là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân, cần ưu tiên phát triển để tạo nền tảng cho chủ nghĩa xã hội và
thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế
quốc doanh đã có bước tiến mới, trở thành thành phần kinh tế đại diện cho
chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nền kinh tế, hơn hẳn so với trước đây chỉ có
tính chất chủ nghĩa xã hội.
● Các hợp tác xã: Bác khẳng định đây là hình thức sở hữu tập thể của nhân
dân lao động, Nhà nước cần khuyến khích hỗ trợ để phát triển. Và hợp tác
hóa nông nghiệp là khâu chính để thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã
hội.

7
Hồ Chí Minh. Sđd, t.12, tr.372
8
Hồ Chí Minh. Sđd, t.8, tr.293, 294
9
Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.12, tr.435
● Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ: Người cho rằng “Đối với
người làm thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến
cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc
tự nguyện.”10
● Tư bản của tư nhân: Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và của cải của họ, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi
cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước.
● Kinh tế tư bản nhà nước: Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp và những hình thức cải tạo khác.

Như vậy, những quan điểm trên đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta khi kế thừa cơ sở lý luận của V.I.Lenin. Những quan điểm này phù hợp với thực
tiễn đất nước về kinh tế, chính trị, lịch sử, xã hội cũng như phản ánh tính đặc thù của
nền kinh tế trong thời kỳ quá độ với các thành phần kinh tế phổ biến, thành phần kinh
tế quá độ đan xen. Những quan điểm đó cũng chính là cơ sở để Đảng và Chính phủ xây
dựng chính sách phát triển phù hợp về kinh tế xã hội thời kỳ đó cũng như thời kỳ đổi
mới ở nước ta hiện nay.

PHẦN II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Nhận thức, quan điểm của Đảng về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Đường lối xây dựng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh
đã huy động sức mạnh của toàn dân tộc với những quan điểm: Liên minh công nông tri
thức làm gốc cùng tiến vào thời kỳ mới của dân tộc; công tư đều phát triển, lấy kinh tế
Nhà nước làm chủ đạo; phân phối lợi ích hợp lý; tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh
để phát triển lực lượng sản xuất… Những quan điểm đó là cơ sở để Đảng có những nhận
thức và đưa ra các điều chỉnh về mục tiêu, phương thức thực hiện và phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới.
Trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta vẫn còn chưa thực sự thừa nhận nền kinh tế nhiều
thành phần, thực hiện cải cách các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa căn cứ
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Những sai lầm ấy đã dẫn đến cuộc khủng
hoảng kinh tế vào cuối những năm 70 - đầu những năm 80 thế kỷ XX. Trước tình hình
đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần là sự “trở lại” trong công
cuộc đổi mới của Đảng.

10
Hồ Chí Minh. Sđd, t.9, tr.589
Dấu mốc đáng nhớ nhất là tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - Đại hội đổi
mới, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế. Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các loại hình
sở hữu, phát triển nền kinh tế thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng coi
nền kinh tế nhiều thành phần là sự tồn tại tất yếu trong thời kỳ quá độ, cho phép khai
thác mọi tiềm lực của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể vào quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Với sự phát triển và vận động không ngừng của
thực tiễn, lý luận về phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được Đảng bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX,…
và đến nay là đại hội lần thứ XIII (2021). Tại đây, Đảng đã xác định cơ cấu kinh tế bao
gồm 4 thành phần: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.11
Đảng đã chỉ rõ vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế nêu trên như sau:
“Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ ổn
định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội,
khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước
được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ
bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực
then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường,
quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động
rộng lớn, với vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất
kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu
quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã,
hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà
pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân
mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham
gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.

11
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tập 1, tr.54-55
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc
dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý
hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.’’12
Như vậy, những quan điểm của Đảng về nền kinh tế nhiều thành phần qua mỗi
giai đoạn phát triển thời kỳ đổi mới luôn có sự điều chỉnh phù hợp với thực tiễn phát
triển của nền kinh tế. Đảng đã vận dụng sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để xây dựng đường lối phù hợp trong quản lý kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới, để
từ đó nước ta đã đạt được những thành tựu đột phá trong xây dựng và phát triển kinh tế.
II. Thành tựu đạt được
1. Thành tựu chung của nền kinh tế
Nhờ những quan điểm, nhận thức đúng đắn từ việc vận dụng những quan điểm
về nền kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh, trong suốt công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng đã đề ra những chính sách phù hợp, để giúp nền kinh tế nước ta có những
bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được đảm bảo ổn định.
Từ một nước nghèo, năm 1985 GDP nước ta chỉ đạt 14,08 tỷ USD thì đến năm
2022, theo Tổng cục thống kê Việt Nam, GDP của nước ta đã đạt 409 tỷ USD, và ước
tính năm 2023 đạt 469,62 tỷ USD theo IMF. Ngoài ra, những cải cách kinh tế phù hợp
từ năm 1986 cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam
từ nước có tỷ lệ nghèo cao (hơn 30% năm 2011) xuống chỉ còn 2, 23% năm 2021. Đặc
biệt, trong năm đại dịch Covid 19 diễn biến phức tạp (2019), nước ta là một trong số các
nước đạt tăng trưởng kinh tế dương (7,02%). Đó là minh chứng cho khả năng quản lý
và lãnh đạo của Đảng cũng như bộ máy chính quyền các địa phương.
Việt Nam là một trong những quốc gia hướng đến xuất khẩu nhiều nhất khu vực
ASEAN. Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong tháng 8 năm 2023, tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 32,27 tỷ USD, tăng 7,7% so với tháng trước và
trong cơ cấu xuất khẩu, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm
88,4%. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 6,52 tỷ USD với 32 mặt hàng
đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,8% tổng kim ngạch xuất khẩu,duy trì
chuỗi xuất siêu liên tục nhiều năm.
Trong thời kỳ đổi mới, không thể không kể đến thành công trên con đường công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Năm 1986 - năm đầu tiên của thời kỳ đổi mới, tỷ
trọng nông nghiệp nước ta vẫn còn cao với 38,1%, thì đến năm 2022, khu vực nông lâm
nghiệp thủy sản chiếm chỉ còn 11,88%, khu vực công nghiệp chiếm 38,26%, khu vực
dịch vụ chiếm 41,33% và thuế sản phẩm từ trợ cấp chiếm 8,53%.
Đạt được những thành tựu như ngày hôm nay chính là nhờ những quyết sách và
tư duy nhất quán của Đảng và Nhà nước. Đảng ta đã hình thành tư duy có tính chiến

12
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tập 1, tr.55
lược và lâu dài về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Tư duy đổi mới ấy đã giúp giải
phóng nền sản xuất bị kìm hãm trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây.
Ngoài ra, Đảng còn xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của
toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước phải có chính sách để khơi dậy, phát huy các nguồn
lực của nhân dân, của mọi thành phần kinh tế, đồng thời huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực từ bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Thành tựu của các thành phần kinh tế
Qua hơn 35 năm đổi mới, các thành phần trong nền kinh tế đều chuyển mình,
phát huy tính hiệu quả, thể hiện sự đúng đắn trong chủ trương vận dụng thực hiện nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta.
a. Khu vực kinh tế nhà nước
Vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước ngày càng được củng cố. Nhà nước
sử dụng các nguồn lực của mình cùng các công cụ chính sách để định hướng và điều
phối nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Hệ
thống doanh nghiệp nhà nước qua nhiều lần chuyển đổi ngày càng hoàn thiện và đóng
góp vào những thành tựu của thời kỳ đổi mới. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp Nhà
nước đứng vững trên thị trường, là cánh chim đầu đàn dẫn dắt lan toàn khu vực doanh
nghiệp khác, nắm các ngành kinh tế then chốt và đóng góp khoản lớn cho ngân sách nhà
nước. Tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước không chiếm tỷ trọng lớn, chỉ chiếm 0,7%
trong số các doanh nghiệp cả nước nhưng đóng góp tới 7% tài sản, 10% tổng vốn và
30% GDP và các đóng góp khác góp phần đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng - an ninh
nước ta. Một số doanh nghiệp nhà nước tiêu biểu như Tập đoàn Viễn thông Quân đội
Viettel, Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN, … là những cái tên không chỉ đang lớn mạnh
trong nước mà còn tiềm năng vươn ra thế giới.
b. Khu vực kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
khu vực kinh tế tư nhân sau hơn 35 năm đổi mới đã phát triển mạnh mẽ lan rộng khắp
cả nước, có đóng góp quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế, giảm tình trạng thất
nghiệp nhờ huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, giúp cải thiện đời
sống nhân dân, đóng góp ngân sách nhà nước và giữ vững ổn định an ninh chính trị cho
nước ta.
Qua hơn 35 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân luôn duy trì tốc độ tăng trưởng
khá, chiếm tỷ trọng khoảng 40% GDP, thu hút hơn 80% lực lượng lao động của nền
kinh tế. Đặc biệt, kinh tế tư nhân đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng trong đại hội khóa
XI “lực lượng chủ lực, xung kích trong sự nghiệp phát triển kinh tế’’, góp phần nâng
cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế, hình thành thương hiệu có tính cạnh
tranh trong khu vực và quốc tế. Những thương hiệu nổi bật như Sungroup, Vingroup,
Thaco đã góp phần tạo vị thế cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước, ảnh hưởng đến
chuỗi cung ứng toàn cầu.
Không chỉ có vai trò và những thành tựu về mặt kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân
còn ngày càng nâng cao vị thế của mình trong lĩnh vực chính trị, xã hội. Bởi hiện nay,
các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề kinh tế đều được Quốc hội, Chính phủ yêu
cầu cần có các ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp tư nhân thông qua Phòng Công nghiệp
và Thương mại Việt Nam (VCCI).
Các doanh nghiệp tư nhân ngày càng tạo nên những chuỗi giá trị mới bằng việc
tích cực tham gia vào các ngành, lĩnh vực mà trước đó doanh nghiệp Việt Nam còn chưa
dám thử sức, điển hình nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Điển hình là Tập đoàn Sun
Group, tập đoàn tư nhân đã tham gia xây dựng sân bay Vân Đồn - sân bay tư nhân đầu
tiên tại Việt Nam với số vốn đầu tư lên đến 7.463 tỷ đồng và chỉ mất khoảng 2 năm xây
dựng. Không chỉ ở Quảng Ninh, mà tại Hải Phòng - vùng đất cảng ngày càng được
chuyển mình với các dự án, nhà máy sản xuất của tập đoàn Vingroup. Cát Hải - Hải
Phòng là nơi đặt nhà máy sản xuất ô tô thương hiệu Việt đầu tiên - Vinfast với vốn đầu
tư gần 4,2 tỷ USD. Nổi bật không chỉ ở các dự án hạ tầng và ô tô với số vốn lớn, ngành
hàng không cũng mang đậm dấu ấn của các doanh nghiệp tư nhân. Vietjet Air là điển
hình, nổi tiếng trên thị trường thế giới với các hợp đồng mua máy bay với trị giá chục
tỷ USD; góp phần định vị ngành hàng không đồng thời vươn lên trở thành hãng hàng
không lớn trong nước cũng như Đông Nam Á.
c. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã
Kinh tế tập thể, hợp tác xã là thành phần kinh tế có vai trò to lớn, ý nghĩa toàn
diện về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Khu vực này đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, tăng kim ngạch xuất khẩu, cơ cấu lại
nền kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tạo thêm việc làm, xóa đói, giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, nhất là địa bàn dân tộc thiểu số
và miền núi; góp phần phát triển kinh tế bền vững. Chính vì vậy, khu vực kinh tế tập thể
ngày từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân, nâng cao
nhận thức của xã hội và bộ máy quản lý đối với các hợp tác xã kiểu mới.
Trải qua quá trình phát triển, đặc biệt sau ảnh hưởng của hai năm đại dịch covid,
đến nay, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã đã phục hồi và góp phần ổn định nền kinh
tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2020, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã đã
đóng góp trực tiếp vào GDP 4,8%, gián tiếp hơn 30%. Đến cuối năm 2021 đã có 27.400
hợp tác xã, tăng 41% so với năm 2013, tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Những
thành tựu ấy đã góp phần mạnh mẽ vào việc chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, công
cuộc xóa đói giảm nghèo, ổn định kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, hợp tác xã chính là hạt
nhân quan trọng góp phần phát triển vào kinh tế - xã hội bền vững.
d. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 8 tháng đầu năm 2023 đạt gần 18,15 tỷ USD,
tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước trong đó vốn đầu tư trực tiếp ước tính gần 13,1 tỷ
USD. Ngoài ra, trong năm 2022, kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI ước tính đạt 276,76
tỷ USD, bù đắp 30,7 tỷ USD nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước, góp phần
giúp nước ta chuyển từ nước nhập siêu sang xuất siêu với thặng dư thương mại đạt kỷ
lục. Thành tựu này góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, tạo động lực thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh, giúp nước ra trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế
giới với các mặt hàng điển hình như: dệt may, da giày, gạo…
Không chỉ vậy, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần giải quyết việc
làm, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và đem lại mức thu nhập ổn định cho người
lao động. Tỷ lệ thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đang hoạt động chiếm 31,62% năm 2015 và tăng lên 38,31% vào năm 2020; tương
đương với mức bình quân 7,5 triệu đồng/tháng năm 2015 và tăng lên mức 10,52 triệu
đồng/tháng vào năm 2020.
Qua các dự án đầu tư nước ngoài, nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định
trong việc tiếp nhận công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất trong nước. Việt
Nam đã sản xuất được nhiều sản phẩm mới mà trước đây chưa có, các ngành tiếp thu
công nghệ tiên tiến trên thế giới như ngân hàng, giao thông, …; hạn chế nhập khẩu nhiều
loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực như dầu khí, vật liệu xây dựng, điện tử gia dụng,
phương tiện giao thông. Trong lĩnh vực công nghệ cao, việc thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài vào ba khu công nghệ cao quốc gia ngày càng có những bước tiến mạnh mẽ, trong
đó Khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh sau 15 năm thành lập, đã có khoảng
130 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 7 tỷ USD, với sự hiện diện của những tập
đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng
lớn như Intel, Microsoft, Nidec, Sanofi, Nipro, Samsung…
III. Hạn chế
1. Thành phần kinh tế nhà nước
Bên cạnh những thành tựu nổi bật, thành phần kinh tế nhà nước cũng còn một số
những hạn chế nhất định. Việc cơ cấu, đổi mới, thoái vốn còn chậm. Năng suất lao động,
hiệu quả kinh doanh, quy mô hoạt động, tiềm lực tài chính, năng lực quản trị, trình độ
công nghệ và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, chưa tương xứng với nguồn lực rất lớn
đang nắm giữ và sự hỗ trợ, ưu tiên của Nhà nước dành cho doanh nghiệp nhà nước.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, tài chính gặp
nhiều khó khăn, bên bờ vực phá sản, gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản của Nhà
nước. Ước tính chỉ có khoảng 78% số doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có lãi.
Ngoài ra, quyền tự chủ của các doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế so với doanh
nghiệp ngoài nhà nước bởi bị ràng buộc các chính sách, quy định pháp luật và các cơ
chế quản lý, vốn… Việc phân cấp, phân quyền, trách nhiệm còn thiếu sự rõ ràng và minh
bạch. Khi quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước không được bảo đảm và phát huy,
doanh nghiệp nhà nước sẽ gặp khó khăn trong quá trình hoạt động, năng lực đổi mới
sáng tạo, tính quyết đoán của doanh nghiệp cũng bị hạn chế.
2. Thành phần kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân tuy phát triển và đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên tốc
độ tăng trưởng của thành phần này đang có xu hướng giảm, chưa đáp ứng được vai trò
của mình. Hiện nay khu vực kinh tế này vẫn còn một số tồn tại và hạn chế cần được giải
quyết.
Trước hết, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, nhiều quy định còn chưa rõ ràng,
đầy đủ, thiếu nhất quán và chồng chéo. Mặc dù môi trường kinh doanh ở nước ta đã
được cải thiện nhiều trong thời gian qua nhưng vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho khu
vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân còn bị đối xử
chưa công bằng so với các doanh nghiệp khác. Một số chính sách quy định chưa đề cập
đến doanh nghiệp tư nhân trong khi có đề cập đến các doanh nghiệp nhà nước.
Năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân còn khá thấp. Mặc dù có sự đa
dạng của các lực lượng lao động, nhưng thành phần tham gia chủ yếu là các doanh
nghiệp nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình, sử dụng nhiều lao động, nên năng
suất lao động chưa cao, năng lực sản xuất còn hạn chế, thiếu vốn để đầu tư cũng như
ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Năng lực cạnh tranh của khu vực này cũng
còn hạn chế. Do quy mô nhỏ nên nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đủ năng lực cạnh
tranh với các doanh nghiệp trên thế giới về mặt xuất khẩu, do đó giảm xuất khẩu sang
thị trường nước ngoài. Đồng thời, năng lực quản trị và hội nhập kinh tế quốc tế còn
nhiều hạn chế cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân.
Vấn đề thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh là trở ngại lớn nhất
đối với các doanh nghiệp tư nhân. Việc giải quyết những rào cản về thủ tục hành chính
là điều bắt buộc, nhưng để doanh nghiệp có thể thực sự phát triển, thì vấn đề thị trường,
đầu ra và hình thành nơi trao đổi buôn bán, hình thành trục liên kết... giúp các doanh
nghiệp phát triển đột phá là vô cùng quan trọng.
3. Thành phần kinh tế tập thể, hợp tác xã
Bên cạnh các kết quả đạt được, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã vẫn còn hạn
chế, bất cập. Tốc độ tăng trưởng còn thấp so với các khu vực kinh tế khác, tỷ lệ đóng
góp vào GDP chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng
khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã chỉ bằng khoảng một nửa tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế. Hơn thế, kinh tế tập thể đóng góp của vào GDP cả nước giảm liên tục từ 8%
năm 2001 xuống còn 3,6% năm 2020.
Phần lớn tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã có quy mô nhỏ, phát triển không
đồng đều giữa các vùng, miền, giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Số lượng
hợp tác xã tuy tăng, nhưng số lượng thành viên có xu hướng giảm. Sự liên kết, hợp tác
giữa các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã với nhau và với các loại hình kinh tế khác
còn yếu. Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể còn một số bất cập; sự phối hợp
hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội còn thiếu chặt
chẽ, chưa hiệu quả.
4. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Bất cập trước hết là việc góp vốn bằng công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài
đã gây nên tình trạng thừa công nghệ lạc hậu, nhưng thiếu công nghệ hiện đại. Trên thực
tế, mức độ hiện đại và cập nhật các công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam rất thấp.
Nhiều máy móc, công nghệ được nhập vào Việt Nam không phải là công nghệ mới, mà
đều đã cũ, và lao động Việt Nam chỉ phụ trách công đoạn đơn giản.
Việt Nam còn đang đối mặt với những thách thức về ô nhiễm môi trường từ các
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Do chuyển giao công nghệ lạc hậu, nước ta
trở thành một “bãi thải công nghệ, máy móc thiết bị cũ và lạc hậu’’ do các nhà đầu tư
nước ngoài mang vào. Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp lại không tự giác tuân thủ quy
định về bảo vệ môi trường, có đến 70% doanh nghiệp FDI xả thải vượt quy chuẩn. Qua
đó còn phản ánh bất cập trong tổ chức quản lý cũng như cơ sở pháp lý lỏng lẻo của nước
ta đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là doanh nghiệp FDI còn
có hiện tượng chuyển giá. Các doanh nghiệp này lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý
nhà nước để thực hiện việc chuyển giá “lỗ công ty con, lãi công ty mẹ”, gian lận thương
mại, trốn thuế, lợi dụng độc quyền đẩy giá cao… gây thất thoát ngân sách nhà nước
cũng như ảnh hưởng đến khâu quản lý khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài của
nước ta.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, nhờ vận dụng sáng tạo quan điểm về
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo nhà nước
ta đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, đưa Việt Nam nâng cao vị thế trên trường quốc
tế. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế tồn tại trong các thành phần kinh tế, cần có các
chính sách cũng như giải pháp phù hợp để khắc phục.
IV. Giải pháp đề xuất thúc đẩy phát triển
1. Thành phần kinh tế nhà nước
Để giữ vững vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, cũng như khắc phục các hạn chế nêu trên, trước hết cần tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách để kinh tế nhà nước thực sự vận hành theo cơ chế thị trường, làm tốt vai
trò chủ đạo của nền kinh tế. Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong từng doanh
nghiệp để huy động tốt các nguồn lực cả trong và ngoài nước rất quan trọng, cần có cơ
chế để thực hiện góp phần cải thiện hạn chế. Cần xác định và đảm bảo mối quan hệ hài
hòa giữa nhà nước - thị trường - xã hội. Các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo
cơ chế thị trường, tự chịu trách nhiệm kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng với các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Về Nhà nước, cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm
của mình, có sự minh bạch tách biệt giữa nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ chính trị
xã hội và luôn đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, cần chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước. Để có thể thực hiện mục tiêu đó, mỗi doanh nghiệp cần tăng
cường quy mô, tạo tiềm lực tài chính lành mạnh, nâng cao trình độ công nghệ và năng
lực đổi mới sáng tạo. Ngoài ra phía Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan cần xử lý dứt
điểm các tập đoàn kinh tế, công ty nhà nước, dự án kém hiệu quả, thua lỗ của doanh
nghiệp nhà nước.
Thứ ba, hiệu quả quản lý doanh nghiệp nhà nước cần được tăng cường. Những
giải pháp có thể xem xét như rà soát hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý vốn;
nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát chặt chẽ quyền lực, xử lý nghiêm những
hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí.
Thứ tư, phát triển kinh tế nhà nước cần đi đôi với tăng cường sức mạnh ANQP.
Bởi một đất nước ổn định về chính trị, quốc phòng sẽ là điều kiện để phát triển kinh tế
- xã hội. Đồng thời đối với các công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, ngoài nhiệm vụ kinh
tế cần tham gia và nâng cao vai trò trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bảo vệ Tổ quốc giờ đây không còn bó hẹp trong phạm vi quân sự, quốc phòng mà mở
rộng trên toàn lĩnh vực, trong đó có kinh tế. Phát triển kinh tế nhà nước chính là cơ sở
tăng cường quốc phòng, an ninh.
2. Thành phần kinh tế tư nhân
Để kinh tế tư nhân phát triển, thể hiện tốt vai trò “động lực quan trọng của nền
kinh tế”, cần có những giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều kiện cho khu
vực này phát huy thế mạnh cũng như tiềm năng của mình.
Trước hết, cần tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi để phát triển kinh tế tư
nhân nhằm khuyến khích tăng cường đầu tư, kinh doanh bền vững. Nhà nước cần ổn
định nền kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng cường các cơ chế, chính sách khuyến
khích thành lập doanh nghiệp tư nhân phù hợp với chiến lược phát triển qua từng thời
kỳ như chính sách giảm thuế, hoạt động tư vấn doanh nghiệp, pháp luật… Để mở rộng
khả năng tham gia thị trường của khu vực kinh tế tư nhân cũng như thúc đẩy cạnh tranh
bình đẳng, Nhà nước cần khuyến khích phát triển mạnh mẽ, thông suốt, đồng bộ các thị
trường, thúc đẩy tính tự chủ và có biện pháp bảo vệ thị trường trong nước. Kinh tế tư
nhân cũng cần điều kiện để tiếp cận nhiều hơn với đất đai, tài nguyên một cách minh
bạch, bình đẳng, khai thác các cơ hội hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, cần xác
định đúng vị trí các doanh nghiệp tư nhân là “đầu tàu” qua việc định hướng chính sách,
chọn lọc và phát triển đội ngũ lớn mạnh, phát triển thành phần kinh tế tư nhân của Chính
phủ.
Ngoài ra, việc hỗ trợ thành phần kinh tế tư nhân, nhất là các doanh nghiệp tư
nhân khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh,
khai thác triệt để cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là một trong những biện
pháp đề xuất. Tuy khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 40% GDP nhưng các doanh
nghiệp tư nhân chỉ đang đóng góp gần 8% GDP. Do đó, Nhà nước cần khuyến khích hỗ
trợ các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao
công nghệ. Hoàn thiện và đảm bảo hệ thống pháp luật cũng như việc thực thi về sở hữu
trí tuệ, các chính sách thuế, hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn, kết nối doanh nghiệp với quỹ đầu
tư. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển các khu công nghệ cao, tăng cường hợp tác trong nước
và quốc tế trong nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ. Và để khuyến khích tinh
thần kinh doanh khởi nghiệp đi liền đổi mới sáng tạo, Nhà nước và các địa phương nên
đẩy mạnh phổ biến, giáo dục kiến thức kinh doanh; đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ doanh
nhân có trình độ chuyên môn cũng như năng lực quản lý tốt.
Cuối cùng, là nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước. Nhà nước cần thực
hiện phân bổ nguồn lực phát triển hiệu quả, đảm bảo kinh tế tư nhân được tiếp cận bình
đẳng các nguồn lực phát triển như các khu vực kinh tế khác. Xây dựng đội ngũ quản lý
nhà nước phải có tư tưởng chính trị mẫu mực, trình độ chuyên môn cao. Các công tác
thanh tra, giám sát cần tăng cường để có thể kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần
đơn giản các thủ tục hành chính, tổ chức thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách,
nhằm nâng cao chất lượng phát triển của các doanh nghiệp tư nhân.
3. Thành phần kinh tế tập thể
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của kinh tế tập thể có sự khác biệt với cách thức
tổ chức trong doanh nghiệp, do vậy, trước hết cần phổ biến, nâng cao nhận thức của
người dân cũng như hệ thống chính trị về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể trong nền kinh
tế. Tại các nước đi lên quá độ xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, ký ức về sự thất bại của
kinh tế tập thể trong nền kinh tế tập trung bao cấp vẫn còn đó, nên sức hấp dẫn của kinh
tế tập thể là không lớn. Sự phát triển hiện nay của các hợp tác xã vẫn chủ yếu đang theo
hướng hoạt động vì lợi nhuận. Điều này tạo ra sự nhận thức sai lầm về kinh tế tập thể
và hợp tác xã như một hình thức tổ chức khác của doanh nghiệp để tìm kiếm lợi nhuận.
Bởi nguyên tắc của hợp tác xã là phân chia không theo vốn góp, nên nhiều người có thể
cảm thấy lúng túng khi tham gia hợp tác xã, rằng bản thân góp vốn nhiều nhưng lại được
chia lợi nhuận như người góp vốn ít. Do đó việc đầy mạnh công tác vận động, tuyên
truyền về bản chất, vị trí của hợp tác xã là điều rất quan trọng. Kinh tế tập thể với nhiều
hình thức tổ chức đa dạng, kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh của từng thành viên.
Tổ chức tuyên truyền, tập huấn chính sách, pháp luật, hỗ trợ cho cán bộ quản trị, thành
viên hợp tác xã; các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể tăng cường các hội thảo, tọa đàm,
hội nghị liên kết, hội chợ kết hợp truyền thông…
Thứ hai, triển khai hiệu quả các giải pháp hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể. Tiếp
tục thực hiện các chính sách về phát triển kinh tế tập thể, tái cơ cấu ngành nông nghiệp,
tháo gỡ những khó khăn về đất đai, thuế, tín dụng cho hợp tác xã. Không ngừng củng
cố bộ máy, tổ chức hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể; tiến hành sáp nhập hoặc
cần thiết phải giải thể các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả. Chính quyền nên xây
dựng các phương án giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn đọng, bao gồm: Nợ tồn đọng
kéo dài, các vấn đề liên quan đến tài sản đặc biệt là đất đai; đồng thời khuyến khích
thành lập các hợp tác xã theo ngành nghề, đẩy mạnh liên kết hợp tác giữa các hợp tác
xã với doanh nghiệp, hợp tác xã với nông dân.
Thứ ba, cần hoàn thiện các chính sách pháp lý cũng như tăng cường công tác lãnh
đạo, quản lý của các cấp và tổ chức. Rà soát, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
và tổ chức hiệu quả các cơ chế, chiến lược, quy hoạch để kinh tế tập thể phát triển đúng
định hướng và vai trò của mình. Ngoài ra, tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ
cho cán bộ, người lao động trong hợp tác xã trên cơ sở đổi mới phương thức lao động.
Đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng để có thể thực
hiện hiệu quả chương trình, dự án.
4. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Để thu hút được những nhà đầu tư chất lượng, tạo làn sóng đầu tư mới cho khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đòi hỏi cần có những giải pháp phù hợp để khắc
phục các hạn chế còn gặp phải.
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung các chính sách về thu hút đầu tư nước ngoài phù
hợp với xu hướng trên thế giới cũng như phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của nước ta. Đổi mới chính sách đầu tư nhằm thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư
cho phát triển ngành, đón đầu các xu hướng đầu tư, dịch chuyển đầu tư trong lĩnh vực
công nghiệp, đặc biệt là các chuỗi cung ứng hàng công nghiệp trên thế giới và ở khu
vực. Chính sách ưu đãi đầu tư cần sửa đổi, bổ sung để thích nghi với những định hướng
FDI của các tập đoàn xuyên quốc gia và sự cạnh tranh trong khu vực. Những ưu đãi như
ưu đãi thuế, tiền thuê đất... cần được điều chỉnh cho phù hợp với từng ngành, lĩnh vực
và trình độ phát triển của vùng, địa phương. Các cơ chế cần được xây dựng với sự
khuyến khích, ưu đãi thỏa đáng để tăng liên kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong
nước trong các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút như công nghiệp nền tảng; chuyển giao công
nghệ và quản trị cho doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng các quy chuẩn, định mức cụ thể trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài. Trước hết là xác định cụ thể danh mục ngành, lĩnh vực cần có sự thu hút đầu tư
nước ngoài, qua đó xây dựng các tiêu chuẩn về quy mô, mức độ, trình độ dự án đầu tư
để nâng cao hiệu quả nguồn vốn và đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo
định hướng đã đề ra. Bên cạnh đó, cần xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như một bộ
lọc nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi
trường, có năng lực, khả năng chống chịu sức ép từ bên ngoài để đảm bảo có được các
dòng vốn ổn định, ít chịu tác động bởi các cú sốc; ban hành các tiêu chuẩn để hạn chế,
ngăn chặn các dự án kém chất lượng từ đó có được các dự án đầu tư thực chất, có sức
lan tỏa và hiệu quả kinh tế cao.
Thứ ba, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thông qua tích lũy vốn và
đầu tư cơ sở hạ tầng, nguồn lực. Xây dựng kết cấu hạ tầng là nhân tố quyết định cải thiện
môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh giúp giải phóng sức sản xuất của các thành
phần kinh tế, tạo điều kiện liên kết vùng và khu vực, thu hút mạnh mẽ các nguồn lực cả
bên trong và bên ngoài cho đầu tư.
Thứ tư, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với
doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô
lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Hiện nay, các chủ
trương, chính sách đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chỉ tập trung vào việc
khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển ở Việt Nam, mà chưa chú ý
đến cơ chế, chính sách để thực hiện sự liên kết, hợp tác giữa kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài với kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân trong nước. Vì đang thiếu sự liên kết, hợp
tác, nên sự giám sát lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế còn lỏng lẻo là nguyên nhân
góp phần dẫn đến những hạn chế, tồn tại trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
ở nước ta hiện nay, như việc sử dụng lao động là người nước ngoài, hiện tượng chuyển
giá, hay hiện tượng biến Việt Nam thành công xưởng gia công cho các chủ đầu tư nước
ngoài... Do vậy, việc thiết lập mối quan hệ liên kết, hợp tác giữa kinh tế nhà nước và
kinh tế tư nhân với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay là vô cùng tất
yếu.
KẾT LUẬN
Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan điểm vô cùng đúng đắn về cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên
cơ sở kế thừa, phát triển sáng tạo những giá trị của chủ nghĩa Mac - Lenin, Người đã
nhận thức được từng thành phần đặc thù và vai trò, vị trí của chúng trong công cuộc xây
dựng xã hội mới và phát triển nền kinh tế.
Thực tiễn luôn vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới nhưng những
nội dung tư tưởng của Người vẫn giữ nguyên giá trị, và đã được Đảng ta đưa ra sự phân
loại cũng như các chính sách phát triển hợp lý cho từng thành phần kinh tế. Qua các kỳ
Đại hội,đến nay, Đảng đã xác định được bốn thành phần trong nền kinh tế, bao gồm:
kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Những Nghị quyết, chính sách phát triển cho từng thành phần kinh tế đã mang lại những
hiệu quả tích cực cho cả nền kinh tế nói chung và từng khu vực nói riêng. Tuy nhiên,
không thể phủ nhận rằng còn có những hạn chế nhất định cần phải khắc phục để đạt
được các mục tiêu dài hạn được đề ra trong tương lai. Những vấn đề này yêu cầu cần có
các giải pháp hiệu quả để có thể giải quyết một cách tối ưu.
Là một trong những người thuộc thế hệ sinh viên đang học tập, bồi dưỡng tri thức
khoa học, tư tưởng trong sáng của chủ nghĩa Mac - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc
biệt với khối ngành chuyên ngành kinh tế, em nhận thấy được tầm quan trọng của việc
tìm hiểu cơ cấu kinh tế trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân, và vai trò trọng trách
của những thế hệ tương lai trong việc học tập, tiếp thu và phát huy tư tưởng trong sáng
vĩ đại của Hồ Chủ tịch để phát triển đất nước, tiến tới chủ nghĩa xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.L.Lenin, Toàn tập, t.39, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2005, tr
309-310
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.12, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2011, tr.411
3. Hồ Chí Minh. Sđd, t.11, tr.91-92, 405
4. Hồ Chí Minh. Sđd, t.10, tr.390, 392
5. Hồ Chí Minh. Sđd, t.12, tr.412, 376, 372
6. Hồ Chí Minh. Sđd, t.8, tr.293, 294
7. Hồ Chí Minh. Sđd, t.9, tr.589
8. Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.12, tr.435
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự
thật, tập 1, tr.54-55
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự
thật, tập 1, tr.55
11. Kinh tế nhiều thành phần: Phát huy sức mạnh toàn bộ lực lượng, 2021, Tạp chí
Tuyên giáo.
12. Hồng Hạnh (2022), Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đạt nhiều thành tựu,
Báo Đầu tư.
13. Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt Nam giai đoạn 2016 -
2022 và khuyến nghị chính sách, 2023, Tạp chí Ngân hàng.
14. Nguyễn Hữu Nghĩa (2021), Để khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân khẳng
định vai trò trong nền kinh tế, Tạp chí Tài Chính.
15. Khu vực kinh tế tư nhân: Thực trạng và giải pháp, 2021, Tạp chí Kinh tế và Dự
báo.

You might also like