You are on page 1of 17

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................................2


NỘI DUNG ...................................................................................................................................................3
1. TÍNH TẤT YẾU CỦA LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN VỚI CÔNG DÂN VÀ TRI THỨC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .................................................................3
1.1. Chủ nghĩa Mác-lênin về tính tất yếu của liên minh trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội ..........3
1.2. Tính tất yếu của liên minh trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...............................4
1.3. Tính tất yếu của liên minh giai cấp trong cách mạng vô sản.....................................................5
2. NỘI DUNG CƠ BẢN ...............................................................................................................................5
2.1. Nội dung chính trị .........................................................................................................................6
2.2 Nội dung kinh tế của liên minh: ....................................................................................................6
2.3. Nội dung văn hóa xã hội của liên minh .......................................................................................9
2.4. Thuận lợi và khó khăn ................................................................................................................10
3. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ LIÊN MINH CÔNG NHÂN NÔNG
DÂN VỚI TRI THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM ..............................10
4. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG LIÊN MINH
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI NÔNG DÂN VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG GIAI ĐOẠN
CÁCH MẠNG HIỆN NAY ........................................................................................................................12
4.1.1. Liên minh giai cấp phải dựa trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích giữa các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội ............................................................................................................12
4.1.2. Liên minh giai cấp phải được thể hiện ở đường lối cách mang của Đảng và ở các chính
sách của Nhà nước..............................................................................................................................12
4.1.3. Xây dựng các lực lượng cơ bản của khối liên minh chiến lược là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của liên minh giai cấp ......................................................................................................13
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm củng cố liên minh giai cấp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay........................................................................................................................................................13
4.2.1. Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. ..............................................................................13
4.2.2. Phát triển nông nghiệp và nông thôn, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh ...................13
4.2.3. Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức mới vững mạnh toàn diện........................................14
4.2.4. Đổi mới các hình thức liên kết kinh tế giữa công nhân - nông dân - tri thức ........................14
4.2.5. Phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc trên cơ sở khối liên minh công - nông - trí thức ....14
4.3. Tóm lại..........................................................................................................................................15
TỔNG KẾT.................................................................................................................................................16

1
LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua rất nhiều khó
khăn, gian khổ nhưng đã đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng và vẻ vang. Đó là
cuộc đấu tranh đầy khó khăn nhưng kiên trì và bền bỉ. Một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng là liên minh công – nông - trí thức tạo nên sức mạnh vô địch, là
bản lĩnh, trí tuệ và sự dũng cảm phi thường của con người Việt Nam.
Không chỉ góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, liên
minh công – nông - trí thức trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa chủ nghĩa xã hội tiếp tục
được Đảng và Nhà nước ta khẳng định là một yếu tố tất yếu, một yêu cầu khách quan để
giai cấp công nhân giữ vững vai trò lãnh đạo, giai cấp nông dân được giải phóng và sự phát
triển của tầng lớp tri thức.
Vậy nên trong đề tài nghiên cứu “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh công nhân nông dân với trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” chúng tôi muốn tìm hiểu về những
nội dung cơ bản của liên minh giữa công nhân với nông dân và tri thức trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, tìm ra những thuận lợi và khó khăn đồng thời chúng tôi xin đề ra một
số những biện pháp để tăng cường đoàn kết khối liên minh liên minh công – nông - trí thức
tạo động lực phát triển đất nước.

2
NỘI DUNG
1. TÍNH TẤT YẾU CỦA LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN VỚI CÔNG DÂN VÀ
TRI THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Chủ nghĩa Mác-lênin về tính tất yếu của liên minh trong xây dựng Chủ nghĩa
xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã bị thất
bại, tổn thất, chủ yếu là vì không tổ chức liên minh với “người bạn đồng minh tự nhiên”
của mình là nông dân. Do vậy, các cuộc cách mạng vô sản đã trở thành những “bài đơn ca
ai điếu”.
V.I.Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công – nông và các tầng lớp
lao động khác của C.Mác và Ph.Ăngghen trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao
– chủ nghĩa đế quốc, đã tổ chức thành liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (năm 1917).
V.I.Lênin khẳng định rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên
minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo
những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức…)”.
Hơn nữa V.I.Lênin còn nhấn mạnh vấn đề liên minh như một nguyên tắc cao nhất
của chuyên chính vô sản: “Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh
giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và
chính quyền nhà nước”.
Nhưng vai trò lãnh đạo đó chỉ được giữ vững và được thực hiện có kết quả tốt khi
lãnh đạo và tổ chức tốt liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác với tư cách là
nền tảng của nhà nước chuyên chính vô sản. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của chuyên
chính vô sản, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản vì lợi ích của toàn thể
nhân dân. Nhưng đại đa số nhân dân lại nằm trong giai cấp công nhân, nông dân và các
tầng lớp lao động khác.
Đó là tính tất yếu của liên minh về mặt chính trị- xã hội khi bước vào giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức là khi cách mạng chuyển sang giai
đoạn mới, thì cùng với tính tất yếu chính trị - xã hội, tính tất yếu của liên minh xét về mặt
kinh tế lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất, quyết định cuối cùng cho sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội (cho dù tất yếu về chính trị vẫn là nhân tố dẫn dắt, hàng đầu).
V.I. Lênin đã đặc biệt lưu ý một nội dung cơ bản nhất của bước chuyển từ giai đoạn
cách mạng giành chính quyền sang “thời đại chuyên chính vô sản” là chính trị đã chuyển
trọng tâm sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, đấu tranh giai cấp cũng với nội dung và hình
thức mới. Dưới góc độ liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà xem xét thì tất yếu kinh tế ở một nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa
xã hội, cần nhận rõ mấy điểm cơ bản sau đây:
- Tất yếu phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công
nghệ trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.

3
- Từ một nước nông nghiệp đi lên, thì tất yếu trước tiên phải đặc biệt chú trọng nông
nghiệp để cho nông nghiệp thực sự trở thành cơ sở để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; từng bước hình thành nền công nghiệp hiện đại có khả năng cải tạo toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Cần thoả mãn những lợi ích kinh tế thiết thân trước mắt cho công
nông thì mới tiến tới thực hiện lợi ích kinh tế lâu dài, cơ bản nhất của toàn xã hội, tức là
hình thành những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Nông nghiệp, công nghiệp và nhiều lĩnh vực kinh tế đời sống, phải gắn liền với sự
phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ ngày càng hiện đại thì mới có thể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Có chính quyền rồi, nếu không giải quyết vấn đề kinh tế trong liên minh thì bản
thân công nhân, nhất là nông dân và đại đa số nhân dân dù đã thoát khỏi ách nô lệ, áp bức,
bóc lột... nhưng không thể thoát khỏi đói nghèo, bệnh tật, mù chữ... Những nội dung kinh
tế và văn hoá xã hội của liên minh, khi được thực hiện tốt, chính là giải quyết một cách cơ
bản những vấn đề đặt ra đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2. Tính tất yếu của liên minh trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vận dụng đúng đắn và sáng tạo những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về tính tất yếu của liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác vào hoàn cảnh Việt
Nam, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã cụ thể hoá thành quan điểm và tổ chức
“liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức”, cùng toàn thể dân tộc ta tiến hành
thắng lợi cách mạng Việt Nam qua tất cả các giai đoạn cách mạng. Chính cương Đảng Lao
động Việt Nam tại Đại hội lần thứ hai (tháng 2-1951) chỉ rõ: “Chính quyền của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ của nhân dân... lấy liên minh công nhân,
nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước, đặc biệt là từ công cuộc
đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng đặc biệt coi trọng việc thực hiện liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo với ý nghĩa
là nền tảng của Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001)
chẳng những vẫn tiếp tục khẳng định tính tất yếu của liên minh công- nông - trí thức trong
sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà còn đặc biệt coi trọng
vấn đề này khi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”.
Như vậy, tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức ở Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những luận điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh công - nông và các tầng lớp lao động khác vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Và quan điểm, đường lối và chủ trương của Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh công - nông - trí thức là nhất quán từ khi Đảng
ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay và luôn luôn được thực hiện, kiểm nghiệm qua
thực tiễn và phát triển phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của thời
đại.
4
1.3. Tính tất yếu của liên minh giai cấp trong cách mạng vô sản
Tính tất yếu của liên minh giai cấp trong cách mạng vô sản được thể hiện cả trong
đấu tranh giành chính quyền và trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản phải liên minh với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động khác thì cách mạng vô sản mới có thể giành được thắng
lợi, nếu không thì bài “đơn ca” của giai cấp vô sản sẽ trở thành “bài ai điếu”. Giai cấp công
nhân không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng tất cả quần chúng lao
động. Mặt khác, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác không thể thoát khỏi ách
áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, phong kiến nếu không đi theo và trở thành bạn đoạt mua
giai cấp vô sản.
Khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền thì liên minh giai cấp vẫn là một tất
yếu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, giai cấp vô sản vẫn tiếp tục cần phải có lực lượng to lớn để
vừa chiến thắng mọi sự phản kháng, chống phá của kẻ địch, vừa cải tạo, xây dựng và phát
triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội mới, giải quyết căn bản nhiệm vụ của cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và phức tạp đối với giai
cấp vô sản. Vì vậy, chỉ có liên minh với nông dân và trí thức, giai cấp vô sản mới có đủ cả
điều kiện vật chất và tinh thần để vượt qua mọi khó khăn thử thách. Đồng thời, cũng chỉ có
sự liên minh này mới làm cho nông dân và trí thức phát huy vai trò làm chủ của họ trong
việc kiến tạo xã hội mới, và nhờ vậy, mới có thể thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa.

2. NỘI DUNG CƠ BẢN


Nguyên tắc cơ bản - chung nhất của liên minh là “kết hợp đúng đắn các lợi ích” (về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội) của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức và của toàn xã hội - với tư cách là những chủ thể lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất của việc “kết hợp đúng đắn các lợi ích” của
các chủ thể nêu trên là quá trình phát hiện và giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn (dù
không đối kháng) giữa các nhu cầu, lợi ích thường nảy sinh trên nhiều lĩnh vực. Phát hiện
và giải quyết kịp thời và đúng đắn các mâu thuẫn đó sẽ tạo ra tổng hợp động lực căn bản
nhất cho sự củng cố, phát triển liên minh; ổn định và phát triển toàn xã hội. Nếu không
thường xuyên phát hiện đúng và giải quyết tốt các mâu thuẫn đó thì sẽ làm giảm hoặc triệt
tiêu các động lực, có thể dẫn đến rạn nứt, tan vỡ liên minh, khủng hoảng và rối loạn xã hội.
Đặc biệt là đối với nông dân chiếm đại đa số ở những nước nông nghiệp, bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì nguy cơ lớn nhất như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, là:
Nông dân có thể kiểm nghiệm những lợi ích thiết thân hàng ngày, nếu không được đáp ứng
một cách công bằng và rõ rệt, họ sẽ mất lòng tin vào giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản
và chủ nghĩa xã hội . Họ sẽ đi theo “những mạch kinh tế ngầm” với tư thương và tư sản,
kết quả là chúng ta sẽ mất một cơ sở kinh tế.
Từ những vấn đề chung nêu trên, chúng ta phân tích nội dung liên minh trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với thực tiễn ở Việt Nam.

5
2.1. Nội dung chính trị
Một là, mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, trí thức và của cả dân tộc ta là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó, khi thực hiện liên minh lại không
thể là sự dung hoà lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân với tư tưởng của
nông dân và trí thức vì Chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích một cách khoa học rằng, khi
chưa giác ngộ cách mạng vô sản thì tư tưởng chính trị của nông dân, của trí thức còn phụ
thuộc vào hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư bản. Do vậy mà không bao giờ nông dân và trí
thức có thể tự giải phóng khỏi các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, cho dù họ có nguyện vọng
được giải phóng. Vì thế, một nội dung rất cơ bản về chính trị - tư tưởng của liên minh công
– nông – trí thức, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa là liên minh phải
trên lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân thì mới thực hiện được nhu cầu,
lợi ích chính trị cơ bản của cả công nhân, nông dân, tri thức.
Hai là, khối liên minh chiến lược này phải do đảng của giai cấp công nhân Đảng
Mác – Lênin lãnh đạo, thì mới có đường lối, chủ trương... đúng đắn để thực hiện liên minh,
thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Do
đó, Đảng Cộng sản, từ Trung ương đến cơ sở, thường xuyên có yêu cầu khách quan là phải
vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo liên minh và lãnh đạo xã hội. Nội
dung này còn có ý nghĩa như một nguyên tắc về chính trị của liên minh.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên minh công – nông – trí thức ở nước
ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc; đồng thời là
nền tảng cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngày càng được củng cố vững mạnh để hoàn thành
tốt chức năng – nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ Tổ quốc và quản lý, tổ chức xây dựng xã hội
mới – xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chính trị của liên minh công nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị
trên phạm vi cả nước theo hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dưới góc độ của
liên minh, cần cụ thể hoá việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của
các tổ chức chính trị trong giai cấp công nhân ở các xí nghiệp công nghiệp..., trong giai cấp
nông dân ở cơ sở nông thôn và trong các tổ chức của trí thức ở các cơ quan khoa học và
công nghệ... Dưới góc độ liên minh thì sự phân biệt cụ thể trên đây chỉ mang tính tương
đối, bởi vì các hoạt động chính trị của công nhân nông dân, trí thức không thể là “chính trị
đơn thuần chính trị suông”, mà bao giờ cũng gắn với các hoạt động sản xuất, kinh tế, khoa
học công nghệ, văn hoá, xã hội ... và trong sự hợp tác, giao lưu bằng những hình thức nhất
định. Nội dung chính trị cấp thiết hiện nay là triển khai thực hiện “quy chế dân chủ ở cơ
sở” (xã, phường, cơ quan, xí nghiệp ...) nhất là ở cơ sở nông thôn, khắc phục những biểu
hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí thực hiện các quyền dân chủ của nông dân - một lực
lượng xã hội quan trọng to lớn nhất hiện nay ở nước ta (gần 80 % dân số và gần 70 % lực
lượng lao động cả nước).
2.2 Nội dung kinh tế của liên minh
Là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vật chất - kỹ thuật của liên minh trong
thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đã “chuyển
6
trọng tâm sang lĩnh vự kinh tế” như VI Lênin đã chỉ rõ, cho nên nội dung kinh tế của liên
minh phải biểu hiện qua sự “kết hợp các lợi ích kinh tế” của công nhân, nông dân, trí thức
và của nhà nước (đại diện toàn xã hội). Vấn đề mà ở giai đoạn cách mạng trước chưa đặt ra
một cách trực tiếp.
Quá trình kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế lại xuất phát từ các nhu cầu kinh tế
của mọi chủ thể lợi ích. Trong mỗi điều kiện lịch sử cụ thể, công nhân. nông dân, trí thức
và toàn xã hội có những nhu cầu kinh tế nhất định, thể hiện ra trên thị trường và quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh. Mọi chủ thể lợi ích đều ý thức về những nhu cầu kinh tế để
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế nhằm thỏa mãn các nhu
cầu kinh tế đó, tức là đặt được những lợi ích kinh tế. Chính vì vậy mà những lợi ích kinh tế
mới trở thành động lực nội tại thôi thúc mọi chủ thể lợi ích trong các hoạt động sản xuất
kinh doanh và giao lưu kinh tế... Nội dung kinh tế của liên minh dựa trên nguyên tắc “kết
hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế” là nằm trong những vấn đề có tính quy luật chung đó của
các mối quan hệ và hoạt động kinh tế.
Từ mấy vấn đề chung nhất nêu trên, nội dung kinh tế của liên minh được cụ thể hoá
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
1. Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác
quốc tế; từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công
nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội trong những điều kiện và thời đoạn cụ thể. Nếu
xác định không đúng những vấn đề nêu trên sẽ là một trong những nhân tố đầu tiên làm sai
lệch hoạt động lãnh đạo, quản lý kinh tế, không thể định hướng đúng cho việc đầu tư hợp
lý và có hiệu quả gây lãng phí lớn, vừa không thể ổn định phát triển sản xuất và vừa không
thể thoả mãn đúng mức các nhu cầu kinh tế cho cả công nhân, nông dân, trí thức lẫn cho
toàn xã hội. Ngay trong cơ cấu kinh tế chung của cả nước mà Đảng ta đã xác định là “công
nông nghiệp - dịch vụ” cũng đã thể hiện rõ nội dung kinh tế của liên minh công nông trí
thức trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là, chẳng những các ngành kinh tế cơ bản gắn bó
với nhau trong một cơ cấu kinh tế thống nhất, mà còn là môi trường, là điều kiện hoạt động
để gắn bó công, nông, trí thức ngay trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và
dịch vụ, trong đó quan trọng nhất là khoa học và công nghệ ngày càng tác động trực tiếp
vào cả công nghiệp lẫn nông nghiệp; vào mọi mặt của kinh tế và đời sống xã hội khi mà
nước ta hội nhập quốc tế, “từng bước phát triển kinh tế tri thức”, phù hợp với điều kiện Việt
Nam. Từ cơ cấu kinh tế cả nước đó mà mỗi ngành mỗi địa phương và cơ sở cụ thể hóa
thành cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp mang tính khả thi.
2. Trên cơ sở xác định đúng cơ cấu kinh tế, các nhu cầu kinh tế mà phát triển và đa
dạng hoá các hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu kinh tế (trong sản xuất kinh doanh lần
lưu thông phân phối) giữa công nhân, nông dân, trí thức giữ công nghiệp, nông nghiệp,
khoa học công nghệ và các dịch vụ khác; giữa thành thị và nông thôn; giữa miền xuôi và
miền núi, giữa các vùng, các miền đất nước, giữa các thành phần kinh tế, giữa nước ta và
các nước khác...
Hiện nay và trong suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp đi lên thì bước đầu, nước ta tập trung vào
phương hướng mà Đại hội VIII của Đảng đã đề ra là “Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với
7
công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ
tầng kinh tế, trước hết ở những khẩu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở phát triển”.
Trong liên minh công nông - trí thức ở nước ta ngoài giai cấp nông dân chiếm đại
bộ phận về số lượng, nông thôn nước ta vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khơi dậy, vừa
còn rất nhiều khó khăn, thiệt thòi. Vì vậy, một mặt phải khuyến khích và tạo điều kiện cho
nông dân – hộ gia đình kinh tế tự chủ, ngày càng chủ động hơn trong việc hợp tác, liên kết
với nhau và với công nhân, trí thức, với đô thị với kinh tế nhà nước và với các thành phần
kinh tế..., mặt khác điều quan trọng thiết thực hơn là Nhà nước, công nhân, trí thức, công
nghiệp và đô thị cần thực sự “đến với nông dân, nông nghiệp, nông thôn” để hướng dẫn
giúp đỡ, hợp tác mà “cải thiện kinh tế nông dân”, như VI Lênin đã chỉ dẫn, đồng thời cũng
là mở rộng địa bàn thị trường để phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ và kinh tế nhà
nước... trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Có như vậy, qua sự hợp tác, giao lưu kinh tế của liên minh thì công, nông, trí thức
mới ngày càng “xích lại gần nhau” nhờ quá trình xã hội hóa sản xuất và kinh tế.
3. Từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngay trong quá trình
thực hiện liên minh, bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu và sử dụng các tư liệu sản
xuất, trên cơ sở công hữu hoá những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đa dạng hóa, đổi mới các
hình thức hợp tác kinh tế, các loại hình hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, nhất là
các dịch vụ kinh tế ở nông thôn nhằm đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, kinh tế
miền núi, kinh tế công nghiệp, kinh tế nhà nước, khoa học và công nghệ trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó cũng chính là việc tiếp tục phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa - trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong
toàn bộ nên kinh tế quốc dân. Những nội dung trên đây là sự vận dụng đúng đắn và sáng
tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về hợp tác hóa, nhất là đối với nông nghiệp, nông
dân và nông thôn rằng: “Chế độ hợp tác xã... là con đường dễ tiếp thu nhất đối với nông
dân” và “nông dân khi thấy có lợi cho họ, họ sẽ tìm cách mau chóng tham gia hợp tác xã...”;
nhưng “phải cho chế độ hợp tác xã hưởng một số nhưng đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân
hàng”.
Buông lỏng, coi nhẹ vấn đề hợp tác hoá, cải tạo quan hệ sản xuất hoặc theo quan
điểm tư nhân hoá, hoặc “cải tạo” một cách tuỳ tiện, hình thức bề ngoài, còn xuất kém phát
triển, đời sống của nhân dân không được nâng cao... thì đều là chệch hướng xã hội chủ
nghĩa ngay khi thực hiện liên minh; thăm chí làm tan vỡ liên minh, rối loạn xã hội.
Nhằm thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích kinh tế thiết thân của giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp khác trong xã hội.
Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức ở nước ta thực chất là sự hợp tác giữa họ, đồng thời mở rộng liên kết hợp tác với
các lực lượng khác, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân… để xây dựng nền kinh tế mới xã hội
chủ nghĩa hiện đại. Nhiệm vụ và cũng là nội dung kinh tế xuyên suốt của thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là:

8
Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh và chú trọng công nghiệp hóa – hiện đại
hóa, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình
độ khoa học công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tham gia có hiệu quả
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế
thị trường định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Dưới góc độ kinh tế, xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công
nhân, nông dân, trí thức và toàn xã hội, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ chức
triển khai các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích của các bên và tránh sự
đầu tư không hiệu quả, lãng phí. Xác định đúng cơ cấu kinh tế từ đó các địa phương, cơ sở
vận dụng linh hoạt và phù hợp vào địa phương mình, ngành mình để xác định cơ cấu kinh
tế cho đúng.
Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp – nông
nghiệp – khoa học và công nghệ dịch vụ…; giữa các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế,
giữa trong nước và quốc tế… để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho
công nhân, nông dân, tri thức và toàn xã hội. Chuyển giao và ứng dụng khoa học – kĩ thuật
và công nghệ hiện đại nhằm gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực kinh tế cơ bản của quốc gia, qua
đó gắn bó chặt chẽ công nhân, nông dân, trí thức và các lực lượng khác trong xã hội làm cơ
sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển của quốc gia.
2.3. Nội dung văn hóa xã hội của liên minh
Tất cả những nội dung chính trị và nội dung kinh tế của liên minh trên đây, suy cho
cùng cũng là để thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần của công
nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Mục đích cuối cùng của Đảng cộng sản, của
nhân dân, của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Phương hướng chủ đạo trực tiếp cho nội dung xã hội của liên minh biểu hiện ở những
nội dung sau:
- Công nhân, nông dân, tri thức trong liên minh phải vừa là chủ thể của các hoạt
động sáng tạo về mọi mặt, vừa là chủ thể có quyền hưởng thụ một cách công bằng tất cả
các thành quả của Liên minh hay toàn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung .
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị của liên minh là tạo nhiều việc
làm có hiệu quả thiết thực nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo cho nông dân, công dân, tri
thức – đặc biệt là trong quá trình tổ chức và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những mục tiêu đó nhằm khắc phục nguyên phân dẫn đến khủng
hoảng, đỗ vỡ chế độ xã hội khi người lao động trở thành “gánh nặng xã hội”. Trở thành một
nguyên nhân có thể dẫn đến khủng hoảng, đỗ vỡ chế độ xã hội.
- Việc đổi mới và thực hiện tốt các “chính sách xã hội”- đền ơn, đáp nghĩa; hỗ trợ xã
hội trong nông dân, công nhân, trí thức...là nội dung xã hội cấp thiết mang ý nghĩa giáo dục
truyền thống, đạo lí, lối sống... cho thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí, xóa mù chữ, học hỏi kiến thức về khoa học công nghệ, nhận thức
về chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội...Gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chống
quan liêu, tham nhũng, tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu,... Bản thân tầng lớp trí thức và giai
cấp công nhân, nông dân cũng cần thường xuyên nâng cao tầm trí tuệ của mình trong nghiên
9
cứu khoa học, ứng dụng vào sản xuất và đời sống với trình độ ngày càng cao, ngang tầm
thời đại.
- Khi thực hiện liên minh gắn với các nội dung về kinh tế, kỹ thuật, phát triển công
nghiệp, khoa học công nghệ và đô thị phải luôn gắn với quy hoạch phát triển công nghiệp
nông thôn, đô thị hóa,... làm giảm khoảng cách giữa công nhân, nông dân, tri thức của các
vùng, miền, dân tộc với nhau. Đạt được mục tiêu của định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.4. Thuận lợi và khó khăn
*Thuận lợi
Vì nước ta xây bắt đầu xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội ở một xuất phát thấp nên
việc kết hợp, liên minh với nhau là điều tất yếu giữa 3 tầng lớp cơ bản: công nhân, nông
dân, trí thức và tầng lớp lao động.
Liên minh giữa 3 giai cấp công nhân- nông dân- trí thức ở nước ta có nhiều thuận
lợi tạo ra tiền đề cho sự phát triển đất nước. Giai cấp công nhân tuy ra đời muộn hơn nhưng
đã sớm nắm bắt được đường lối cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chính bản
thân giai cấp công nhân, họ cũng xuất phát từ giai cấp nông dân nên họ có sự gắn kết chặt
chẽ với giai cấp nông dân. Trong khi đó, số lượng giai cấp nông dân nước ta chiếm ưu thế.
*Khó khăn
Tuy nhiên sự liên minh giữa công- nông- trí thức còn gặp phải rất nhiều khó khăn.
Do sự du nhập tư bản phương Tây nên có sự phân tầng về trình độ văn hoá, chuyên môn,
giác ngộ chính trị giữa các giai cấp. Tầng lớp nông dân tuy đông nhưng lại tồn tại nhiều tàn
tích nặng nề của tư tưởng phong kiến, sản xuất nhỏ lẻ. Công nhân xuất thân từ nông dân
nên còn nhiều hạn chế trong tác phong lao động. Tầng lớp trí thức Việt Nam lại có tư tưởng
“quan văn- phò chính thống” điều đó cũng có nghĩa là giai cấp này thích được chính quyền
trọng dụng. Sự chênh lệch lớn giữa ba giai cấp do kinh tế chưa phát triển là một khó khăn
lớn đối với liên minh công- nông- trí thức.
3. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ LIÊN MINH CÔNG
NHÂN NÔNG DÂN VỚI TRI THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở
VIỆT NAM
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi nước ta bước vào xây dựng chế độ chủ nghĩa xã
hội đã có những chuyển biến quan trọng về vị thế của các giai cấp công nhân, nông dân và
đội ngũ trí thức. Công nhân là người chủ tập thể của các xí nghiệp, là giai cấp lãnh đạo
nước nhà. Nông dân không còn là nô lệ của địa chủ, không còn phải mơ ước có một “miếng
đất cắm dùi” như giai đoạn trước. Nông dân là người chủ tập thể của hợp tác xã và là người
bạn trung thành nhất của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trí thức ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công - nông và cùng
công - nông ra sức xây dựng xã hội mới.
Người khẳng định, chủ nghĩa xã hội là một xã hội có nền kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp hiện đại, có nền văn hoá, khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Chính sự gắn bó khách quan
giữa công nghiệp và nông nghiệp trong một nền kinh tế thống nhất với sự phát triển của
văn hoá, khoa học - kỹ thuật là tiền đề khách quan tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa các giai
cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong quá trình phát triển.

10
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính là cơ sở vững chắc của liên minh giai cấp công
nhân và nông dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: công nghiệp và nông nghiệp là hai chân
của nền kinh tế. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân
dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản
(như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy móc. Công nghiệp phải phát triển mạnh để
cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp
máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần
dần máy cấy, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông
nghiệp mới phát triển. Cho nên “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và
cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng
đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công - nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây
dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”. Người nhấn mạnh, liên minh là phải giúp
đỡ nhau thực sự, chứ không phải chỉ liên minh cửa miệng.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân không chỉ cần liên minh với
nông dân, mà còn phải liên minh với đội ngũ trí thức, vì sự nghiệp phát triển kinh tế, văn
hoá và khoa học- kỹ thuật. “Cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức (chúng ta quen
gọi là lao động trí óc). Ví dụ: cần có thầy thuốc để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân; cần
có thầy giáo để dạy văn hoá và đào tạo cán bộ; cần có kỹ sư để xây dựng kinh tế, v.v.. Vì
lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có vai
trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí thức cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một
khối”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở khách quan của mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa
trí thức với toàn thể nhân dân lao động. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, khoa học là tài sản
chung của toàn dân. Bởi vậy, đội ngũ trí thức phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật
của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh thi đua sản
xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Có như vậy nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân
dân mới được cải thiện về mọi mặt. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của đội ngũ trí thức. Đội ngũ
trí thức “phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hoá và khoa học, kỹ thuật; phải
góp tài, góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và
công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh
và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”.
Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức là yếu tố nội tại trong kết cấu xã hội-
giai cấp của chủ nghĩa xã hội. Xu hướng hợp tác giữa các giai cấp và tầng lớp đó dựa trên
những cơ sở khách quan, không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của riêng giai cấp công
nhân mà của cả nông dân, trí thức và do đòi hỏi của sự nghiệp phát triển công nghiệp hiện
đại, nông nghiệp hiện đại và sự phát triển văn hóa, khoa học, công nghệ tiên tiến.
Trong khối liên minh, Hồ Chí Minh xác định: giai cấp công nhân là giai cấp lãnh
đạo, thông qua chính đảng của mình đề ra đường lối cách mạng, chủ trương nhằm hoàn
thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa hội. Bằng hành động
và các chính sách thực tiễn, Đảng của giai cấp công nhân giác ngộ, thu hút giai cấp mình
và mọi tầng lớp lao động, trước hết là nông dân và trí thức về phía mình trong toàn bộ tiến
trình cách mạng, đặc biệt là trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.

11
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ
lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi giai
cấp và tầng lớptrong cách mạng vàxã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên
minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường
khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá
trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thành nhân tố
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công – nông - trí thức được Đảng ta quán triệt
sâu sắc trong các chặng đường cách mạng. Trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định rõ:
“Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
4. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG
LIÊN MINH GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI NÔNG DÂN VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY
4.1. Một số điểm định hướng nhằm tăng cường khỏi liên minh giai cấp công
nhân với nông dân và trí thức trong tình hình hiện nay
4.1.1. Liên minh giai cấp phải dựa trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi
ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Để củng cố, phát triển và mở rộng liên minh giai cấp phải tính đến lợi ích thiết thực
của các giai cấp, giải quyết hài hoà mối quan hệ biện chứng lợi ích giữa các giai cấp, đặt
các quan hệ ấy trong mối quan hệ biện chứng với lợi ích cơ bản, lâu đài của toàn dân tộc
để tạo nên hệ thống động lực, thúc đẩy cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc phát triển
và giành thắng lợi. Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh rằng, nếu chỉ biết khai thác,
huy động sức dân mà không biết “khoan thư sức dân” thì không thể tập hợp được rộng rãi
và chặt chẽ quán chúng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thậm chí điều đó còn là cơ hội để
cho các thế lực thù địch tạo cớ xuyên tạc, bóp méo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, gây
mất ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh v.v... Vì vậy, vấn đề lợi ích giai cấp
luôn phải là cơ sở để củng cố, thắt chặt khối liên minh.
4.1.2. Liên minh giai cấp phải được thể hiện ở đường lối cách mang của Đảng và
ở các chính sách của Nhà nước
Sự lãnh đạo, tổ chức của Đảng và Nhà nước thể hiện bản chất giai cấp của khối liên
minh giai cấp trong thời đại mới. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp là mục tiêu của giai cấp công nhân và cũng là mục
tiêu của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội ta. Ngày nay, Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền.
Vì vậy, chỉ khi được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, khối liên minh giai
cấp mới được tổ chức chặt chế và do đó mới khai thác, phát huy được tối đa sức mạnh của
các giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng nghèo đói, xây dựng thành công xã
hội mới.
12
4.1.3. Xây dựng các lực lượng cơ bản của khối liên minh chiến lược là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của liên minh giai cấp
Lực lượng cơ bản của khối liên chiến lược trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Các lực lượng này phải
thực sự trở thành những lực lượng tiên tiến trên mọi mặt đời sống xã hội. Điều đó đòi hỏi
phải chú trọng xây dựng các giai cấp và tầng lớp này cả về số lượng, chất lượng, cả về
chính trị, tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ. Phải kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng và
phát triển từng giai cấp, tầng lớp với việc xây dựng tinh thần đoàn kết giữa các lực lượng
của liên minh. Quá trình xây dựng này phải nhằm phát huy nội lực của mỗi giai cấp, tầng
lớp, đồng thời, phải tạo ra môi trường thuận lợi về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa để từng
bước xây dựng các giai cấp, tầng lớp này xứng đáng là lực lượng nòng cốt của cả xã hội
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm củng cố liên minh giai cấp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
4.2.1. Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh.
Để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, trước hết phải xây dựng Đảng của giai
cấp công nhân vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đây là điều kiện tiên quyết
để giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhìn trong khối liên minh công - nông - trí
thức.
Xây dựng đội ngũ công nhân phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng xứng
đáng là giai cấp lãnh đạo là một trong những nội dung trọng yếu để xây dựng liên minh giai
cấp ở nước ta hiện nay. Đội ngũ công nhân đòi hỏi phải được xây dựng toàn diện về chính
trị, tư tưởng, chuyên môn, tay nghề, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết. Kết hợp chặt
chẽ giữa việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần với việc bảo vệ những quyền lợi chính
đáng của công nhân. Tăng cường, nâng cao công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ lãnh
đạo, phát triển đảng viên mới trong công nhân tăng thành phần công nhân trong đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp, các ngành
Phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái trong giai cấp công nhân, đoàn
kết công nhân trong các thành phần kinh tế. Xây dựng tinh thần đoàn kết trong sản xuất,
trong đời sống, trong cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu, chống áp bức bất công,
trong việc xảy dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4.2.2. Phát triển nông nghiệp và nông thôn, xây dựng giai cấp nông dân vững
mạnh
Đối với nước ta phát triển nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay chính là
tập trung vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần phải hướng tới một nền nông nghiệp sản xuất
hàng hoá đa dạng, trên cơ sở phát huy lợi thế, đáp ứng kịp thời các yêu cầu trong nước và
hướng mạnh vào xuất khẩu. Mặt khác, phải ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn, khai thác được nguồn nguyên - vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động và yêu
cầu ít vốn, thu hồi và quay vòng nhanh nguồn vốn.

13
Phát triển kinh tế đi đôi với giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp nông dân, tuyệt
đối không được coi nhẹ vấn đề này. Giáo dục chính trị, tư tưởng cho nặng dần phải chọn
lựa các nội dung, hình thức phù hợp với trình độ dân trí, điều kiện lao động, lập quần, tâm
lý, truyền thống của nông dân. Đóng thời, kiên quyết đấu tranh bài trừ các hủ tục và tập
quán lạc hậu, phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở đi đôi với việc duy trì nghiêm minh kỹ
cương phép nước, kiên quyết bài trừ tham nhũng, ức hiếp và vi phạm quyền dân chủ của
quần chúng nhân dân, tạo ra những chuyển biến căn bản và mạnh mẽ ở nông thôn.
4.2.3. Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức mới vững mạnh toàn diện
Chính sách xây dựng đội ngũ trí thức phải góp phần làm cho trí thức ngày càng gắn
bó chặt chẽ với quá trình phát triển công nghiệp và nông nghiệp, công nhân và nông dân.
Đây là yêu cầu cấp bách của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng, Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho giáo dục và khoa học, công nghệ. Nội
dung giáo dục đào tạo phải phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ. Nhà nước cần có những biện pháp để thiết lập kỷ cương trong giáo dục, đẩy lùi các
tệ nạn xã hội trong trường học.
Việc nghiên cứu khoa học - công nghệ phải xuất phát từ thực tiễn đời sống và sản
xuất. Cần phải phát triển thị trường khoa học, phát huy dân chủ để tri thức được chủ động,
tự do tự tưởng trong việc đề xuất các quan điểm theo chủ kiến của họ trên cơ sở giữ vững
nguyên tác không làm phương hại tới lợi ích quốc gia, không trái với chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước. Các chính sách phải khắc phục tự tưởng “cân bằng” trong đãi ngộ
trí thức, phải có các hình thức để đào tạo và khuyến khích nhân tài.
4.2.4. Đổi mới các hình thức liên kết kinh tế giữa công nhân - nông dân - tri thức
Để củng cố khối liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, đòi hỏi phải có các hình thức liên kết kinh tế giữa công - nông - trí thức nhằm gắn
kết họ lại với nhau. Trong giai đoạn hiện nay cần chú trọng những hình thức cơ bản sau:
- Xây dựng, phát triển các hiệp hội.
- Đa dạng hoả các hình thức bản sản phẩm giữa công - nông - trí thức.
- Mở rộng, nâng cao lượng và hiệu quả hoạt động khuyến nông, khoa học, kỹ thuật,
công nghệ phục vụ sản xuất.
- Tri thức hoi giai cấp công nhân, công nhân hóa tri thức và từng bước công nhân
hóa, trí thức hóa nong dân.
4.2.5. Phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc trên cơ sở khối liên minh công -
nông - trí thức
Để đoàn kết dân tộc, trước hết phải phát huy vai trò to lớn của mặt trận Tổ quốc
trong tình hình mới. Mục tiêu, nội dung, mục đích, tôn chỉ hoạt động của mặt trận phải trên
cơ sở giải quyết hài hoà lợi ích dân tộc và giai cấp, không được coi nhẹ hay tuyệt đối hóa
giai cấp, tổ chức thành viên nào trong mặt trận, quyền lợi của mặt trận là quyền lợi chung
của toàn xã hội.

14
Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn
nhau trong quá trình phát triển. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đi đòi với
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vùng dân tộc thiểu số.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng của công dân, chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc: chống tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc cực đoan hẹp hòi, hoặc tự tỉ, mặc cảm dân tộc.
4.3. Tóm lại
Việc củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc dựa trên nền tăng khối liên minh
công - nông - trí thức là đòi hỏi khách quan cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Muốn củng cố, phát triển khỏi liên minh công - nông - trí thức trước hết phải
có quan điểm đúng đắn trong việc giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp. Đảng
và Nhà nước phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của các giải cấp bằng các chủ trương,
chính sách cụ thể và biến các chủ trương, đường lối thành hiện thực. Xây dựng liên minh
chiến lược công - nòng - trí thức thực chất là quá trình xây dựng từng nhân tố của liên minh
cả về số lượng và chất lượng: đồng thời phải thật chặt tình đoàn kết công - nông - trí thức
ngày càng bền chặt, góp phần liên kết cả dân tộc thành một khối thông nhất ý chí và hành
động, tạo nên sức mạnh tổng hợp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.

15
TỔNG KẾT
Liên minh giai cấp là yêu cầu khách quan của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch
sử. Trên cơ sở lợi ích, giai cấp này có thể liên minh với giai cấp khác để đấu tranh vì mục
tiêu chung. Sự liên minh giai cấp có thể chỉ là sách lược mang tính chất tình thế, tạm thời:
những cũng có thể là một liên minh chiến lược dựa trên những lợi ích căn bản, lâu dài trong
suốt cả một thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong cách mạng vô sản liên minh giai cấp là một tất yếu khách quan, mang tính
quy luật. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách mạng vô sản
cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là liên minh chiến lược, do giai cấp công nhân
lãnh đạo thông qua chính đảng của mình. Trong quá trình đấu tranh giành chính quyền, nội
dung chính trị - quân sự của liên minh nổi lên hàng đầu, nhưng trong hòa bình xây dựng xã
hội mới thì phải liên minh toàn diện. Trong đó liên minh kinh tế là đặc biệt quan trọng nó
làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ khác của liên minh.
Trong quá trình tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh đã vận dụng đúng đắn sáng tạo
lý luận về giai cấp của chủ nghĩa Mác Lê-nin vào điều kiện đặc thù của Việt Nam. Tư tưởng
cơ bản của Hồ Chí Minh về liên minh giai cấp trong cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo là: liên minh công nông là nền tảng của khối đoàn kết toàn dân tộc;
liên minh tất cả các giai cấp bị áp bức bóc lột và nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý
để chống áp bức bất công. Tư tưởng về liên minh giai cấp của Hồ Chí Minh đã được thể
hiện trong các chủ trương đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, không những
trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà cả trong giai đoạn hòa bình xây
dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Do điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như hiện nay, liên minh giai cấp trong cách mạng Việt Nam
ngoài yếu tố cơ bản là lợi ích còn chịu sự tác động của các nhân tố khác. Đó là truyền thống
đoàn kết dân tộc, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ và
tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ.
Dưới tác động của những yếu tố nêu trên. liên minh giai cấp ở Việt Nam có những
nét đặc thù nổi bật như: mục tiêu của liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH là
độc lập dân tộc và CNXH; Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự tiếp
tục và mở rộng liên minh giai cấp từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; liên
minh chiến lược giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên CNXH là hạt nhân của đại đoàn kết dân tộc; nhiệm vụ cơ bản của
liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là tập trung lực lượng để
đưa Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia phát triển.
Để có thể thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề
tăng cường khối liên minh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết. Phương hướng
tăng cường liên minh giai cấp công - nông - trí thức phải xuất phát từ yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Xây dựng liên minh giai cấp công - nông - trí thức phải được thể hiện
qua các đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đảng, Nhà nước là đại diện của giai
cấp công nhân, là chủ thể của quá trình xây dựng liên minh giai cấp. Trong điều kiện Đảng

16
cầm quyền thì vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc
xây dựng và củng cố khối liên minh công - nông - trí thức.
Từ thực tiễn xây dựng liên minh giai cấp đặt ra hàng loạt các giải pháp nhằm củng
cố phát triển khối liên minh giai cấp trong giai đoạn cách mạng mới: Xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh; Phát triển nông nghiệp và nông thôn, xây dựng giai cấp nông dân
vững mạnh; Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức mới vững mạnh toàn điện. Đổi mới các
hình thức liên kết kinh tế công - nông - trí thức; Phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc
trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức.
Làm tốt được các giải pháp trên đây sẽ góp phần củng cố và tăng cường khối liên
minh công -nông - trí thức ở nước ta hiện nay, làm cơ sở cho khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đưa đất nước phát triển theo con đường Xã hội chủ nghĩa.
Liên minh giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp trí thức là nòng cốt của khối
đại đoàn kết dân tộc, là chỗ dựa chủ yếu của Đảng và Nhà nước. Đó không phải là ý muốn
chủ quan mà là một tất yếu khách quan do điều kiện lịch sử kinh tế xã hội quy định và cho
phép làm điều đó cũng như do yêu cầu cách mạng đòi hỏi phải làm như vậy. Muốn cho khối
liên minh đó ngày càng phát huy được tác dụng mạnh mẽ, thì Đảng và Nhà nước phải kịp
thời ban hành và thực thi các chính sách nhằm tăng cường sự thống nhất về lợi ích giữa các
giai cấp, đồng thời phải coi trọng lãnh đạo xây dựng các tổ chức của nó, làm cho các tổ
chức đó thực sự là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Tìm hiểu về liên minh giai cấp, về những nội dung, nguyên tắc về liên minh là một
vấn đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận thức
đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội. Mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng
cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hoá của
mình, giúp cho sự phát triển của từng giai cấp cũng như sự phát triển của xã hội. Mặt khác,
sự vận dụng quan điểm về liên minh giai cấp là một nội dung quan trọng đối với giai cấp
công nhân nên nó rất cần được xã hội và nhất là Đảng Cộng sản chú trọng, tạo điều kiện
hoàn thành một cách tốt nhất trong công cuộc xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc.

17

You might also like