You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN THƯƠNG MẠI & KTQT


***

BÀI TẬP LỚN


HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh
giai cấp và sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

Họ và tên sinh viên: ĐÀO CHÂU ANH


Mã SV: 11219565
Lớp: LSIC 63

Hà Nội, tháng 4/2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 3
I. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ CÁC TẦNG LỚP LAO ĐỘNG XÃ
HỘI KHÁC 3
1. Tính tất yếu của liên minh giai cấp 3
2. Cơ sở khách quan 3
3. Nội dung liên minh giai cấp 4
4. Các nguyên tắc của liên minh giai cấp 6
II. QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TẠI VIỆT NAM 7
1. Các nội dung đã áp dụng 7
2. Thành tựu đạt được 8
3. Hạn chế còn tồn tại 10
4. Giải pháp khắc phục hạn chế và bài học lâu dài 12
PHẦN KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19

1
LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận về giai cấp và liên minh giai cấp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là một
trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin gắn liền với việc xây dựng chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, hệ thống lý luận về giai
cấp và liên minh giai cấp trong xã hội đã được Đảng ta thực hiện nhất quán, là cơ sở to
lớn để đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay được bổ sung, phát
triển và xây dựng. sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một cuộc đấu tranh gian khổ, ngoan cường, khó khăn để đem lại tự do, bình đẳng cho
nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ, nhân dân Việt Nam đã kiên cường
bảo vệ Tổ quốc, từng bước xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu đẹp,
sánh vai cùng bạn bè trên thế giới. Để có được thành quả to lớn này, dân tộc ta đã trải qua
bao gian khổ, mất mát, hy sinh, mỗi người dân là một chiến sĩ đoàn kết thống nhất trên
một mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự nghiệp đấu tranh của cả dân tộc. Mắc và
Ăng-ghen đã thảo luận về liên minh giai cấp và kết luận rằng các cuộc cách mạng tiếp
theo chỉ có thể giành được thắng lợi nếu giai cấp nông dân ủng hộ các cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản.

Ngày nay, trước những biến động phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, sự
phát triển quanh co của lịch sử, nhất là từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ
và ở Đông Âu, phong trào cách mạng thế giới đi vào thoái trào, chủ nghĩa tư bản tạm thời
thắng thế. Trong bối cảnh đó, Nhận thức đúng đắn về liên minh giai cấp không chỉ có ý
nghĩa lý luận sâu sắc mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với
bất kỳ Đảng Cộng sản nào nói chung và Đảng Cộng sản Trung Quốc nói riêng. Xuất phát
từ thực tế cấp thiết đó, với vốn kiến ​thức tiếp thu được, cùng với sự hướng dẫn tận tình
của giảng viên: Nguyễn Văn Thuân, em đã mạnh dạn tìm hiểu đề tài: “Quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai cấp và sự vận dụng của Đảng trong quá trình
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay”.

Do thời gian và trình độ có hạn nên các vấn đề em trình bày không tránh khỏi
nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đánh giá, nhận xét của thầy để bài tiểu luận
của em hoàn chỉnh hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

2
PHẦN NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ LIÊN MINH GIAI
CẤP CÔNG NHÂN VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ CÁC TẦNG LỚP LAO
ĐỘNG XÃ HỘI KHÁC

1. Tính tất yếu của liên minh giai cấp

Qua thực tiễn của Cách mạng châu Âu, đặc biệt là Cách mạng Pháp, Mác đã đi
đến kết luận rằng cuộc đấu tranh giành quyền lực của giai cấp công nhân không thể thắng
lợi nếu không có sự ủng hộ của giai cấp nông dân.

C.Mác đã chỉ ra rằng: "Công nhân Pháp không thể tiến lên được một bước nào và
cũng không thể dụng đến một sợi tóc của chế độ tư sản trước khi đông đảo nhân dân nằm
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức là nông dân và giai cấp tư sản, nổi dậy chống
chế độ tư sản".

Vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công nhân - nông dân của Mác và
Ph.Ăngghen vào thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I. Lenin thường xuyên chủ
trương và thực hiện việc tăng cường liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là một trong những nguyên nhân quan
trọng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười.

Từ đó, V.I Lenin đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Cụ thể: "Chuyên chính vô
sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong
của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu
tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)".

Lenin cho rằng giai cấp công nhân không thể duy trì quyền lực nhà nước nếu
không liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. "Nguyên
tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân
để giai câp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước".

Mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải là duy trì giai cấp
và đối kháng giai cấp, duy trì nhà nước mà là tiến tới xây dựng một xã hội không giai cấp
và không quốc tịch. Điều này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở xây dựng khối liên
minh vững chắc giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
khác.

2. Cơ sở khách quan

3
Xây dụng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa có những cơ sở khách quan chủ
yếu sau đây:

Một là, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
nhiều tầng lớp lao động khác đều là những người lao đông, đều bị áp bức bóc lột.

Hai là, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế quốc dân là một thể
thống nhất của nhiều ngành, nghề,v.v. mà ở đó công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành
sản xuất chính của xã hội. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ giữa công nhân và nông
dân thì hai ngành kinh tế này cũng như các ngành, nghề khác không thể phát triển được.
Công nghệ tạo ra sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và các ngành nghề khác. Nông
nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho toàn xã hội, tạo ra nông sản phục vụ
cho công nghiệp. V.I.Lênin khẳng định: "Công xưởng xã hội hóa sẽ cung ấp sản phẩm
của mình cho nông dân và nông dân sẽ cung cấp lại lúa mì. Đó là hình thức tồn tại duy
nhất có thể được của xã hội xã hội chủ nghĩa, là hình thức duy nhất để vây dựng chủ
nghĩa xã hội".

Ba là, về mặt chính trị - xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác là lực lượng chính trị to1ớn trong xây dựng và bảo vệ chính quvền nhà
nước, xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Như vậy, giai cấp nông dân và nhiều tầng lớp lao
động khác đã trở thành những người bạn "tự nhiên”, tất yếu của giai cấp công nhân.

3. Nội dung liên minh giai cấp

3.1 Liên minh về chính trị

Liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành lấy chính
quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác là cùng nhau tham gia vào chính quyền nhà nước từ cơ sở đến
trung ương, cùng nhau bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và mọi thành quả cách mạng, làm
cho nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh.

Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác không phải là sự dung hòa lập trường tư tưởng giữa công nhân
với nông dân và các tầng lớp lao động khác, mà phải trên lập trường chính trị của giai cấp
công nhân.

4
Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
khác trở thành cơ sở vững chắc cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành nòng cốt trong
mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện khối liên minh rộng rãi với các tầng lớp lao động
khác.

3.2 Liên minh về kinh tế

Liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác là một nội dung đặc biệt quan trọng. Theo V.I.Lênin, nội dung chủ yếu
của sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền là liên minh về quân sự, nhưng khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì trọng tâm là liên minh.

Thực hiện liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải kết hợp đúng đắn lợi ích giữa hai giai
cấp. Hoạt động kinh tế phải vừa bảo đảm lợi ích của nhà nước, của xã hội, đồng thời phải
thường xuyên quan tâm tới lợi ích của giai cấp nông dân. Nếu kết hợp đúng đắn các lợi
ích kinh tế của các giai cấp trong xã hội, thì liên minh trở thành một động lực to lớn thúc
đẩy xã hội phát triển, ngược lại nó trở thành lực cản đối với sự phát triển của xã hội.

Muốn thực hiện được sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân, đảng của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên
quan tâm tới xây dựng một hệ thống chính sách phù hợp đối với nông dân, nông nghiệp
và nông thôn.

V.I.Lênin cũng cho rằng, thông qua sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân về kinh tế, từng bước đưa nông dân đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
bằng cách từng bước đưa họ vào con đường xã hội với những bước đi phù hợp.

Khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin không chỉ
quan tâm tới xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, mà
ông còn quan tâm với xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với tầng lớp trí
thức. V.I.Lênin cho rằng, nếu không quan tâm tới điều đó thì không thể xây dựng được
một nền sản xuất công nghiệp hiện đại và không thể đứng vững được trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản. Người cũng nhấn mạnh: "Trước sự liên minh của các đại
biểu khoa học giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tôi nào đứng vững
được".

3.3 Liên minh về tư tưởng – văn hóa

5
Nội dung tư tưởng - văn hóa của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động khác là một nội dung quan trọng trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Điều đó được lý giải bởi các lý do sau đây:

Một là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên một nên sản xuất công-nghiệp hiện
đại. Những người mù chữ, những người có trình độ tư tưởng - văn hóa thấp không thể tạo
ra được một xã hội như vậy. Vì vậy công nhân, nông dân và những người lao động khác
phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ tư tưởng - văn hóa.

Hai là, chủ nghĩa xã hội với mong muốn xây dựng một xã hội nhân văn, nhân đạo,
quan hệ giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc khác là quan hệ hữu
nghị. tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó chỉ có thể có được trên cơ sở một nền văn hóa
phát triển của nhân dân.

Ba là, chủ nghĩa xã hội tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân lao động tham gia
quan lý kinh tế, quản lý xã hội, quan lý nhà nước. Nhân dân muốn thực hiện được công
việc quản lý của mình cần phải có trình độ tư tưởng - văn hóa, phải hiểu biết chính sách,
pháp luật.

Theo V.I.Lênin, cuộc đấu tranh khắc phục những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, trì trệ,
thói quan liêu cửa quyền là một công việc khó khăn, vì "kẻ thù ở ngay trong chúng ta
là chủ nghĩa tư bản vô chính phủ và việc trao đổi hàng hóa một cách vô chính phủ" - đây
là kẻ thù giấu mặt, chúng ta khó nhận ra và phải trải qua một thời kỳ lâu dài, "... không
thể thực hiện nhanh được như nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ quân sự".

4. Các nguyên tắc của liên minh giai cấp

Muốn xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
cần phải bảo đảm những nguyên tắc sau đây:

Phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân,

V.I.Lênin cho rằng, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này mà phải đi theo
đường lối của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản
xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, chỉ có đi theo hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin khẳng định: "... chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có thế giải phóng
quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội".

6
Phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện

V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản ở Nga là phải bằng những
việc làm cụ thể để cho giai cấp nông dân thấy rằng, đi với giai cấp vô sản có lợi hơn đi
với giai cấp tư sản, từ đó họ tự nguyện đi với giai cấp công nhân. Có thực hiện trên tinh
thần tự nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới có
thể bền vững, lâu dài.

Kết hợp đúng đắn các lợi ích.

Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có những lợi ích cơ bản là thống nhất,
bởi vì họ đểu là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ nghĩa tư bản. Sự thống
nhất lợi ích này tạo điều kiện thực hiện sự liên minh giữa họ. Song, giữa giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân là những chủ thể kinh tế khác nhau. Giai cấp công nhân đại
diện cho phương thức sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp nông dân gắn với chế
độ tư hữu nhỏ. Mà chế độ tư hữu nhỏ thì mâu thuẫn với phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy cần phải quan tâm giải
quyết mâu thuẫn này, phải thường xuyên phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh và giải
quyết kịp thời, phải chú ý tới những lợi ích thiết thực của nông dân. Sau nội chiến ở Nga,
V.I.Lênin đã áp dụng Chính sách kinh tế mới (NEP), thay chính sách trưng thu lương
thực thừa bằng chính sách thuế lương thực. Nhà nước quy định nghĩa vụ đóng thuế lương
thực cho nông dân. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế, người nông dân có thế tự do trao
đổi phần lương thực thừa. Điều đó đã phát huy được tính tích cực của ngừơi nông dân, đã
nhanh chóng đưa nước Nga thoát khỏi những khó khăn sau thời kỳ nội chiến. V.I.Lênin
cho rằng: "Chúng ta phải để cho nông dân, với tư cách là người sản xuất nhỏ, có được
một phạm vi tự do khá lớn. Không nâng cao kinh tế nông dân, chúng ta không thể giải
quyết được tình hình lương thực"; cần phải có những nhượng bộ nhất định đối với nông
dân.

II. QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TẠI VIỆT NAM

1. Các nội dung đã áp dụng

Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đại đoàn kết là vấn
đề có ý nghĩa sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ đường lối chiến lược của
cách mạng. Truyền thống đó đã được hun đúc và tôi luyện qua hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước, được thử thách qua cuộc đấu tranh với thiên nhiên và các cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc.

7
Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là sự đoàn
kết, hợp lực, hợp tác, liên kết,v.v. của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh; đồng
thời góp phần thực hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

Thực tiễn đấu tranh lâu dài đã chứng minh liên minh công, nông, trí là nền tảng
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đây là cơ sở để tạo ra sức mạnh quyết định, bền
vững trong kháng chiến cũng như kiến quốc, phát huy hiệu lực cao trên mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, thể hiện tập trung sức sống, sức vươn lên của dân tộc. Sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ không trở thành hiện thực, nếu không có nền nông
nghiệp phát triển ổn định, vững chắc làm cơ sở, và điều đó không thể tách rời vai trò của
giai cấp nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một thách
thức đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết chuyên đề về vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, tiêu biểu là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 đã chỉ rõ:
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước” Cùng
với liên minh công nông là nòng cốt của cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng, đánh giá cao
vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng cũng như trong quá trình
đổi mới, xây dựng đất nước.

Vì lẽ đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh tới việc cần tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa
các đoàn thể chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp để xây dựng, củng cố, nâng cao mối
quan hệ liên minh công nhân - nông dân - trí thức trong liên doanh sản xuất, kinh doanh
nông nghiệp, cũng như trong các vấn đề chính trị, văn hóa xã hội.

2. Thành tựu đạt được

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công,
chiến thắng. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.

Vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề những năm sau khi đất nước thống
nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng mặt trận dân tộc, tăng

8
cường đoàn kết toàn dân tộc và phát huy mạnh mẽ vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc để đưa đất nước tiến lên.

Chỉ thị số 17-CT/TW của Đảng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển
của Mặt trận, đề cao vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc, có ý nghĩa thiết thực đối với
việc tạo ra sức mạnh nội sinh để đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng và củng
cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã
hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng; tạo điều kiện, tiền đề để phá bỏ bao vây, cấm vận,
tiến tới bình thường hóa quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và
biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động viên
Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi
đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội kịp thời có chính sách, pháp luật đúng đắn, phù
hợp với mọi lực lượng nhân dân tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần
động viên Nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, năng động, hăng hái tham gia các phong
trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp mở
rộng quan hệ hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng và cả hệ thống
chính trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức đồng
lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt qua đại dịch
Covid-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây
dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng đã không ngừng đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn
giáo phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động Nhân dân
tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội...

Những kết quả đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thể của Việt Nam trên trường quốc tế, thắt

9
chặt mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt Nam - Trung Quốc trong
giai đoạn phát triển mới, cao hơn, sâu sắc hơn.

Đánh giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những
năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về
vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực
quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn,
thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển
nhanh và bền vững đất nước”.

Những thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư
tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì
một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

3. Hạn chế còn tồn tại

Về Kinh tế - Xã hội,

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, từ những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội đã nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra diện mạo mới cho cả nông thôn,
thành thị, chúng ta vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như: kinh tế
phục hồi chậm, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế; biến đổi
khí hậu, hạn hán khắc nghiệt trong những năm gần đây; tệ nạn xã hội; tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được
khắc phục một cách triệt để; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa có dấu hiệu
giảm vẫn còn diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với những thủ đoạn ngày
càng tinh vi. Tham nhũng, lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai, tín dụng, ngân hàng,
quản lý vốn và tài sản … đã gây thiệt hại lớn về kinh tế, dư luận xã hội rất bất bình; các
thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, âm mưu phá hoại từ bên
trong, làm cho quá trình “tự diễn biến” diễn ra nhanh hơn, tình trạng khiếu kiện vượt cấp
có sự tác động của tổ chức “Hội dân oan” do bọn phản động tự lập ra để lôi kéo nhân dân

10
vào mưu đồ của chúng để chống lại Đảng và Nhà nước ta; các chiêu bài dân chủ, nhân
quyền để chống phá sự nghiệp cách mạng và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của
nhân dân ta.

Về Chính trị,

Vấn đề biên giới và tranh chấp chủ quyền biển đảo, nhất là trên biển Đông còn
nhiều phức tạp và căng thẳng, đe dọa đến hòa bình và việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam. Từ những vấn đề thực tiễn nêu trên, chúng ta phải tăng cường sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc để chống lại những khuyết tật đã làm cản trở con đường
đi lên xây dựng của chủ nghĩa xã hội của nước ta và việc thực hiện vấn đề đoàn kết dân
tộc chắc chắn sẽ góp phần cho sự nghiệp cách mạng đi đến thành công.      

Thực tế cho thấy, hiện nay các thế lực thù địch, phản động ngày càng quyết liệt
hơn với các âm mưu thâm độc và tinh vi hơn trong phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Bởi chúng nhận thấy rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, muốn phá hoại
cách mạng Việt Nam thì phải làm tan rã sức mạnh to lớn đó. Theo đó, âm mưu, thủ đoạn
gây chia rẽ hiện nay của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên
tạc, bôi đen thành tựu thực hiện đường lối, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc ở
nước ta. Chúng “té nước theo mưa”, thổi phồng hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo,
quản lý của các cấp chính quyền để gây hoài nghi, phân tán nhân tâm, mất lòng tin của
nhân dân vào sự nghiệp cách mạng đất nước.

Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề xã hội bức xúc, những khó khăn trong đời
sống nhân dân để kích động chống đối, hình thành những điểm nóng gây chia rẽ từ bên
trong. Chúng lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm lăng và làm “biến dạng” các giá trị văn
hóa truyền thống; tạo dựng “ngọn cờ”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền, các vấn đề lịch sử... để kích động, chia rẽ đoàn kết giữa các tầng lớp nhân
dân; giữa các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; thúc đẩy hình
thành các “khu tự trị”, “nhà nước tự trị”...

Đáng chú ý, chúng tập trung vào phá hoại mối đoàn kết giữa nhân dân với Đảng,
Nhà nước; nhân dân với các cấp chính quyền và lực lượng vũ trang; mối quan hệ giữa
quân đội và công an... Cùng với chống phá trên các địa bàn chiến lược như Tây Nguyên,
Tây Bắc, Tây Nam Bộ hiện nay, chúng đẩy mạnh chống phá gây chia rẽ, mất đoàn kết ở
các khu công nghiệp, trung tâm kinh tế, chính trị các địa phương. Internet, mạng xã hội
đã và đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng với những thủ đoạn mới
rất tinh vi, xảo quyệt để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

11
Nhìn lại 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử đất nước đã đạt được là nền tảng vững chắc củng cố niềm tin,
đồng thuận xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, những thách
thức đặt ra hiện nay cũng rất lớn, Đảng ta chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ”.

Bên cạnh đó, là những vấn đề nảy sinh tất yếu trong quá trình phát triển cần phải
tiếp tục nhận thức và giải quyết, như: Phân hóa giàu-nghèo; chênh lệch phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế giữa các vùng miền; sự xuống cấp về một số mặt của văn
hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát
triển của đất nước chưa hài hòa và những vấn đề lịch sử để lại... Đại hội XIII đánh giá,
trong Đảng và hệ thống chính trị, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”; bệnh lãng phí, vô cảm, quan liêu, mất dân chủ...
gây bức xúc xã hội và làm suy giảm vai trò hạt nhân đoàn kết của Đảng trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Âm mưu chia rẽ từ bên ngoài và những thách thức bên trong có
quan hệ chặt chẽ, làm suy giảm sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc của cách mạng
nước ta.

4. Giải pháp khắc phục hạn chế và bài học lâu dài

4.1 Vai trò của Đảng.

Đảng ta là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để phòng chống sự chia rẽ,
bảo vệ và phát huy sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết, phải phát huy sức mạnh của
các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”:

- Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược xuyên suốt quá trình cách mạng
Việt Nam, có vai trò quyết định thành công của cách mạng.

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc vì lợi ích của Nhân dân, lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Đúng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn
lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc... để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của
Tổ quốc, ta cần đoàn kết để xây dựng nước nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

Trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán xác định đoàn kết là giá
trị cốt lõi trong kho tàng truyền thống quý báu của dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc là

12
đường lối chiến lược, là cội nguộn sức mạnh, là động lực chủ yếu mang đến thành công
cho cách mạng Việt Nam. Đây cũng là giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền
tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho chiến lược đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam
đi tới thắng lợi.

Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc “là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân
tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc” .
[7]

- Lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng và do Đảng Cộng sản
lãnh đạo

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc muốn mở rộng và phát triển thì cần phải có một
hình thức tổ chức, đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đoàn kết mọi người dân Việt Nam yêu nước,
không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nam nữ, lứa tuổi… nhưng
không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát mà là một khối đoàn kết chặt chẽ,
có tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc là lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và coi đó là một nguyên tắc có ý nghĩa như là một quy luật để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất
yếu vì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin mới đánh
giá đúng vai trò, sức mạnh của nhân dân Việt Nam trong lịch sử.

- Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải theo nguyên tắc đảm bảo
lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động;
đồng thời quan tâm đến quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân.

Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc - thực hiện đại đoàn kết trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích cao
nhất của quốc gia - dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Trước đây, trong
thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc thì lợi ích tối thượng chung là giải phóng dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Nếu không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc thì quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Bước vào

13
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ
giữa giai cấp và dân tộc, giữa củng cố miền Bắc và giải phóng miền Nam; giữa cải thiện
đời sống của nhân dân lao động với việc xóa bỏ giai cấp địa chủ và cải tạo đối với giai
cấp tư sản dân tộc. Trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp lúc đó, để khối đại đoàn kết toàn
dân được tăng cường, mặt trận dân tộc thống nhất phải được mở rộng, Đảng đã nêu
nguyên tắc tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, giàu mạnh, coi đó là mẫu
số chung để thực hiện đoàn kết dân tộc.

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn
đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa Ý Đảng - Lòng Dân; giữa mục tiêu
cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng
của đông đảo các tầng lớp nhân dân.

- Phát huy vai trò, sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc.

Đảng cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây
là đường lối chiến lược tạo nên sức mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đảng luôn ra sức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở mọi cấp và mọi lĩnh vực. Mọi hoạt động của hệ thống
chính trị, của cán bộ, dân quân, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân
dân.Trong đó, vai trò, trách nhiệm chính trị cơ bản của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường; tập
hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua ái quốc. Giữ vai trò giám sát,
phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên, tích
cực tham gia xây dựng đảng và Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế
trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng lòng của nhân dân trong và ngoài nước
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định lại câu hỏi cơ bản: lấy dân làm gốc, phát huy
sức dân, sức dân, thực hiện sức mạnh đoàn kết toàn dân; lấy Liên minh Công nhân và Trí
thức

14
do Đảng Cộng sản lãnh đạo làm cơ sở; canh cánh lợi ích cao nhất của tổ quốc, dân tộc,
lợi ích cơ bản của nhân dân lao động; tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc với tư cách là mặt
trận dân tộc thống nhất; Lấy tuyên truyền, giáo dục, quốc phòng, thuyết phục làm phương
thức hoạt động chủ yếu.

4.2 Đối với toàn dân tộc Việt Nam

- Sức mạnh nội sinh và bài học thịnh suy, thành bại từ lịch sử

Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu và giá trị
văn hóa cốt lõi; là sức mạnh vô địch trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước,
chiến thắng thiên tai, địch họa, định bờ cõi, xưng nền văn hiến, nêu cao độc lập, tự chủ.
Đây là sức mạnh nội sinh có tính chủ đạo xuyên suốt, bền vững của dân tộc trong suốt
chiều dài lịch sử.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chân lý:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”.

Đó là chân lý về sức mạnh vô địch của đoàn kết và phát triển truyền thống đoàn
kết của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Sức mạnh của nhân dân khi kết thành một khối là sức mạnh vô địch. Và chính lịch
sử mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước đã chứng minh điều đó.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên
định đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp và phát huy khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội là thắng lợi của lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài học kinh
nghiệm lớn là mục tiêu, tôn chỉ, lợi ích của Đảng luôn gắn với mục tiêu, lợi ích của dân
tộc, nhân dân và Tổ quốc Việt Nam. Đảng đoàn kết là nòng cốt của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.

Thế giới ngày nay phản ánh sâu sắc sự cạnh tranh gay gắt, tranh giành lẫn nhau
giữa các cường quốc.Xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bất ổn chính trị ở
nhiều nơi và ngày nay tình hình chiến sự ở Ukraina diễn biến phức tạp ... các nước lớn và
sự chia rẽ, mâu thuẫn và chia rẽ từ bên trong. Vì vậy, ngăn chặn sự chia rẽ, bảo vệ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc cũng chính là bảo vệ hòa bình và sự phát triển bền vững của đất
nước ta trước những “cú sốc lớn, diễn biến rất nhanh, phức tạp khó lường” trong thế giới
ngày nay.
15
- Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất
nước.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát: “... phấn đấu đến
giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chỉ có thể được hiện thực hóa
bằng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, Đảng
ta xác định: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong
xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải
thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Tiếp tục nắm vững và xử lý
tốt mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường”. Đây là cơ sở để nhận thức và giải quyết tốt vấn đề có
tính nguyên tắc của phát triển và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
hiện nay.

Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng, để phòng chống chia rẽ, bảo vệ và phát
huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục thấu triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về
đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đẩy nhanh đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền,
tăng cường sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng. Thường
xuyên nắm chắc, dự báo đúng, giải quyết chính xác những vấn đề tư tưởng, những mâu
thuẫn, bức xúc của xã hội hiện nay. Tích cực, chủ động thông tin, phổ biến ra bên ngoài,
làm rõ đường lối, chính sách của Đảng ta và những thành tựu đại đoàn kết toàn dân tộc.
Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống cao đẹp của dân tộc làm nền tảng tinh thần vững chắc của khối đại đoàn kết toàn
dân trong thời kỳ mới.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị

Những cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm minh.
nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng và chính quyền; đặc biệt coi trọng việc vun đắp, giữ
gìn sự đoàn kết thống nhất trong đảng và trong hệ thống chính trị. Thường xuyên củng
cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.

16
Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân.

Thực hiện đầy đủ, đầy đủ phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”, thực hiện dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất
là trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó nâng cao vai trò, trách
nhiệm chính trị trung tâm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp và vận động quần chúng tăng cường các
phong trào.

Bốn là, nâng cao ý thức cảnh giác, thường xuyên nhận diện, đấu tranh hiệu
quả với các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực
thù địch, phản động.

Có giải pháp, biện pháp vững chắc để nâng cao hiệu quả đấu tranh, giữ vững trận
địa tư tưởng của đảng viên trên mặt trận không gian mạng nóng bỏng hiện nay. Chủ
động, nhạy bén, xảo quyệt vạch trần bản chất phản động, âm mưu đen tối của các thế lực
thù địch, phản động; chiến thắng và phát huy tình cảm cách mạng, niềm tin của nhân dân
vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không ngừng hoàn
thiện đường lối, chính sách, pháp luật về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.

Bám sát thực tiễn phát triển của đất nước, phản ứng nhanh nhạy, thuyết phục
những vấn đề lý luận và thực tiễn mới nảy sinh; đưa ra những luận cứ, luận cứ khoa học
bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.

17
PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam hơn 90 năm, Đảng ta đã vận dụng và phát
triển một cách sáng tạo những tư tưởng của Lê-nin về giai cấp và liên minh giai cấp. Sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy trên cơ sở liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã góp phần làm nên những thắng lợi
to lớn: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tiêu diệt chế độ thực dân phong
kiến, lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã dẫn dắt dân tộc ta bước vào kỷ
nguyên độc lập, tự do; Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, mà đỉnh
cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thành tựu sự nghiệp. Nó đã giành được
trận thắng lớn, có tầm quan trọng lịch sử sau gần 35 năm đổi mới. Thực tiễn liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở Việt Nam cùng với
thực tế trên thế giới (cả thành công và thất bại) là bằng chứng hùng hồn cho tư tưởng của
Lê-nin về liên minh. nhân vật cách mạng. Để tiếp tục lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa
xã hội và phấn đấu trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa
thế kỷ XXI, Đảng ta phải tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Lê-nin về giai cấp và liên minh giai cấp trong điều
kiện mới, nhất là tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế
số... Đồng thời, đảng phải không ngừng nâng cao khả năng lãnh đạo tôn giáo và chỉ đạo,
tổ chức thực hiện tốt của liên minh năm giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
giới trí thức ”.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chiên, T. L. (2021, 8 3). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong
công tác phòng, chống dịch Covid-19. Retrieved from Trang thông tin điện tử:
Đảng bộ tỉnh Bình Định:
https://binhdinh.dcs.vn/hoc-tap-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/-/view-co
ntent/60081/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc-trong-cong-t
ac-phong-chong-dich-covid-19

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức
mạnh nhân dân xây dựng CNXH từ năm 1975 đến nay. (2022, 1 16). Retrieved
from Trang Thông tin Điện tử Hội đồng lý luận Trung ương:
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/dang-cong-san-viet-nam-lanh-dao-xay-dung
-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc-phat-huy-suc-manh-nhan-dan-xay-dung-cnxh-tu-
nam-1975-den-nay--%E2%80%8B.html

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc. (2006). Hà Nội: Chính trị
quốc gia Sự thật.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc. (2021). Hà Nội: Chính trị
quốc gia Sự thật.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. (n.d.). Hà Nội.

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. (2021). Chính trị quốc gia sự thật.

Hồ Chí Minh: Toàn tập. (2011). Hà Nội: Chính trị quốc gia Sự thật.

19

You might also like