You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP CÁ NHÂN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: Phân tích nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Làm rõ trách nhiệm của thanh niên, sinh
viên trong việc góp phần củng cố khối liên minh giai cấp, tầng lớp và xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân?

Họ và tên: Phạm Thị Minh Hồng

Mã sinh viên: 11212396

Lớp tín chỉ: Chủ nghĩa xã hội khoa học_18

Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Hào

Hà Nội, tháng 3 năm 2023


MỤC LỤC

A. LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 4

I. Khái niệm liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp và nguyên nhân dẫn
đến sự liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam 4

1. Khái niệm liên minh 4


2. Nguyên nhân liên minh giai cấp, tầng lớp ở VN 5
3. Tính tất yếu của liên minh giai cấp, tầng lớp 6

II. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH 7

1. Nội dung chính trị 7


2. Nội dung kinh tế 8
3. Nội dung văn hóa xã hội 10

B. TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN, SINH VIÊN TRONG VIỆC


GÓP PHẦN CỦNG CỐ KHỐI LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP VÀ
XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN 11

I. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên góp phần trong việc củng cố và
góp phần khối đại đoàn kết dân tộc - rèn luyện tư tưởng 11

II. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên góp phần trong việc củng cố và
góp phần khối đại đoàn kết dân tộc - rèn luyện đạo đức lối sống 12

MỞ ĐẦU

1. Tính tất yếu của liên minh

a. Xét từ góc độ chính trị


Trong một chế độ xã hội nhất định, chính cuộc đấu tranh giai cấp của các giai
cấp có lợi ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đúng
ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội
khác có những lợi ích phù hợp với mình để tập hợp lực lượng thực hiện những
nhu cầu và lợi ích chung. Đó là quy luật mang tính phổ biến và là động lực lớn
cho sự phát triển của các xã hội có giai cấp.Liên minh giai cấp, tầng lớp là
nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản.Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng lợi của cuộc
cách mạng XHCN cả trong giai đoạn giành chính quyền và giai đoạn xây dựng
xã hội mới.Thông qua liên minh này, tập hợp được lực lượng đông đảo phấn
đấu cho mục tiêu xây dựng thành công CNXH, là điều kiện để GCCN giữ vững
vai trò lãnh đạo XH.Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân, nông
dân và tầng lớp tri thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH:Mục tiêu của cách
mạng XHCN: giải phóng giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức Lợi
ích của GCCN, nông dân và tri thức, hướng tới Thống Nhất=> Liên Minh Khác
biệt

b. Xét từ góc độ kinh tế:


Yêu cầu khách quan của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Yêu
cầu xây dựng nền kinh tế quốc dân thống nhất bao gồm công nghiệp, nông
nghiệp,dịch vụ gắn bó chặt chẽ với nhau để thỏa mãn lợi ích kinh tế trước mắt
và lâu dài của các giai cấp và tầng lớp xã hội, đảm bảo giải phóng họ thoát khỏi
ách áp bức bóc lột, đói nghèo.
Quá trình thực hiện liên minh giai cấp, tầng lớp, đồng thời là quá trình liên tục
phát hiện ra mâu thuẫn và có giải pháp kịp thời, phù hợp để giải quyết mâu
thuẫn nhằm tạo sự đồng thuận và tạo động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời tăng cường khối liên minh ngày càng bền
chặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân.Giai cấp công
nhân đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển mối quan hệ liên minh giữa giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, từ đó tạo nên sự thống
nhất của cơ cấu xã hội - giai cấp trong suốt thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.

Bài viết sẽ hướng tới tìm hiểu và phân tích để tài: “Phân tích nội dung của liên
minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Làm
rõ trách nhiệm của thanh niên, sinh viên trong việc góp phần củng cố khối
liên minh giai cấp, tầng lớp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân?”.
Trong quá trình tìm hiểu đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, mong cô phụ
trách bộ môn có thể phản biện, xây dựng góp ý để bài tiểu luận đi đến đích đến
cuối cùng là xác lập tư tưởng đa chiều, đúng đắn và có thể áp dụng những lý
luận vào trong hành động thực tiễn, ý thức tư tưởng xã hội Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn !
NỘI DUNG

Khi tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn các phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân chống lại sự áp bức lột của giai cấp tư sản Châu Âu nhất là nước Anh
và Pháp giữa thế kỉ XIX, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra nhiều lý luận, nền
tảng định hướng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đi đến thắng lợi.
Trong đó lí luận về liên minh công- nông và tầng lớp lao động khác đã được các
ông khái quát thành vấn đề mang tính nguyên tắc. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ
ra rằng nhiều cuộc đấu tranh giai cấp công nhân ở các nước thất bại chủ yếu là
do giai cấp công nhân chưa lôi kéo được “người bạn đồng minh tự nhiên” của
mình là giai cấp nông dân vì vậy các cuộc cách mạng vô sản đã trở thành “bài
đơn ca ai điếu”.Trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin luôn chủ trương
vận dụng và thực hiện củng cố nguyên lí liên minh công- nông của C.Mác và
Ph. Ăngghen, và đã giành thắng lợi trong cuộc cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Và từ đó, V. I. Lênin đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối liên
minh công nông trong việc giữ vững thành quả của cách mạng

A. LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ


LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I. Khái niệm liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp và nguyên nhân dẫn
đến sự liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam

1. Khái niệm liên minh

- Là sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau... giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội
nhằm thực hiện nhu cầu và có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau. Khối
liên minh trong thời kỳ quá độ là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác và cụ thể ở Việt Nam là
liên minh công - nông - trí thức. Liên minh giai cấp là yêu cầu khách
quan của cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử trên cơ sở lợi ích giai cấp,
giai cấp này có thể liên minh với giai cấp khác vì mục tiêu chung. Trong
xã hội có áp bức bóc lột trước đây, họ đều bị chung địa vị là đều bị áp bức
bóc lột nặng nề, đều bị tước đoạt tư liệu sản xuất. Vì vậy, họ đều mong
muốn xóa bỏ áp bức bóc lột đó để xây dựng 1 xã hội không còn sự bất
công. Do đó, họ tạo thành liên minh giữa các tầng lớp giai cấp chặt chẽ vì
lợi ích cơ bản thống nhất với nhau. Và liên minh giai cấp trở thành vấn đề
chiến lược cơ bản.
- Trong trường hợp cụ thể, vì mục đích chung, có thể xảy ra liên minh giữa
các giai cấp, tầng lớp lợi ích cơ bản đối kháng. Tức là trong trường hợp
cụ thể, đôi khi cũng phải liên minh với các giai cấp có lợi ích cơ bản đối
kháng, ví dụ như trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống chế độ
phong kiến, để lật đổ chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã liên minh với
giai cấp nông dân, giai cấp vô sản. Ở đây giai cấp nông dân không phải
đấu tranh chống kẻ thù của mình mà là chống kẻ thù của kẻ thù mình- chế
độ phong kiến- giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, giai cấp tư sản
muốn duy trì chế độ bóc lột người, chế độ tư hữu còn giai cấp vô sản lại
có lợi ích cơ bản đối kháng là muốn xóa bỏ áp bức bóc lột bất công, xóa
bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân, chế độ tư hữu. Hai giai cấp này có lợi ích
cơ bản đối kháng nhưng do điều kiện hoàn cảnh chống lại phong kiến vì
vậy giai cấp tư sản đã từng liên minh với giai cấp vô sản.
2. Nguyên nhân liên minh giai cấp, tầng lớp ở VN
- Trước khi Đảng CSVN ra đời ngày 3-2-1930 với cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt được vị lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, Đảng ta cũng thực hiện vấn đề liên minh
giai cấp rất rộng rãi, không chỉ liên minh với các tầng lớp có lợi ích thống
nhất với nhau mà còn liên minh với các tầng lớp có lợi ích cơ bản đối
kháng với nhau. Bởi mục tiêu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam lúc
bấy giờ là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Và đặc biệt ở Việt
Nam là khối liên minh công- nông - trí thức là nền tảng của nhà nước của
khối đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên trong thời kì có thực dân đế quốc
đến xâm lược đô hộ nước ta, không chỉ có giai cấp công nhân, nông dân
bị bóc lột mà kể cả giai cấp tư sản, địa chủ phong kiến đều thuộc địa vị
làm nô lệ, vì vậy họ cũng mong muốn được giải phóng. Chính vì vậy
trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã khẳng định rằng chúng ta phải mở
rộng rộng rãi các khối liên minh, tuy nhiên chúng ta cần liên minh với
những địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần dân tộc và những bộ phận tư bản
dân tộc, còn đối với những bộ phận địa chủ phản cách mạng chạy theo đế
quốc thực dân và bộ phận tư sản mại bản thì chúng ta cần lật đổ, đạp đổ
chúng. Nhưng đây chỉ là vấn đề sách lược do bối cảnh lịch sử. Trong điều
kiện hiện nay, mục tiêu chung ở VN là dân giàu nước mạnh xã hội dân
chủ công bằng văn minh, hay nói gọi lại là chủ nghĩa xã hội. Chính vì
vậy, chúng ta cần phải liên minh giai cấp với các giai cấp, tầng lớp, phải
đoàn kết toàn thể dân tộc nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại
hóa hiện nay đặc biệt là liên minh với các tầng lớp có lợi ích cơ bản thống
nhất với nhau, đó là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ
trí thức nhưng phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua đội tiên phong là Đảng Cộng Sản.
3. Tính tất yếu của liên minh giai cấp, tầng lớp
- Xuất phát từ quan hệ tự nhiên gắn bó và sự thống nhất lợi ích cơ bản của giai
cấp, tầng lớp xã hội. Nên các liên minh giai cấp trong chủ nghĩa quá độ đều bắt
nguồn từ lợi ích, các giai cấp tầng lớp ngày càng xích lại gần nhau, có lợi ích
chung và có mục tiêu chung.
- Do sự gắn bó, thống nhất giữa sản xuất vật chất với khoa học kỹ thuật trong
điều kiện của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Vì vậy, các ngành kinh
tế lại càng không thể tách rời nhau giữa nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ khoa
học. Muốn phát triển được thì chúng phải gắn bó chặt chẽ lại với nhau.
- Lênin: “Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh
giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh
đạo và chính quyền nhà nước”.
Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự liên
kết, hợp tác, hỗ trợ nhau… giữa các giai cấp, tầng lớp nhằm thực hiện nhu cầu
và lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Giai cấp công nhân phải liên minh
với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác là một đòi hỏi tất yếu khách
quan vì:
Thứ nhất, trong CNTB tất cả các giai cấp và các tầng lớp lao động đều bị bóc
lột họ phải liên minh để chống lại kẻ thù chung là giai cấp tư sản.
Mác đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp nông dân là
“người bạn đồng minh tự nhiên” của giai cấp công nhân. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động để tạo thành “bài đồng ca” đảm bảo cho thắng lợi
của cuộc cách mạng này cả trong giai đoạn giành chính quyền và giai đoạn xây
dựng xã hội mới. Do vậy, nếu không có bài đồng ca này thì “bài đơn ca” ở các
quốc gia nông dân sẽ trở thành một bài ai điếu. từ thực tiễn cách mạng ở Pháp,
C.Mác chỉ ra rằng: “ Công nhân Pháp không thể tiến lên một bước nào và cũng
không thể sử dụng đến một sợi tóc của chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân
dân nằm giữa giai cấp vô sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản, nổi dậy
chống chế độ tư sản”. Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác
vào nước Nga, V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng: “Nếu không liên minh với nông dân
thì không thể có được chính quyền của giai cấp vô sản, không thể nghĩ được đến
việc duy trì chính quyền đó... Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì
khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ
được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”.
Thứ hai, trong CNXH, liên minh công – nông – trí thức thực chất là liên minh
giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Liên minh giai cấp, tầng lớp được hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan
của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ một nền sản xuất sang sản xuất hàng hóa lớn, phát triển công nghiệp,
dịch vụ và khoa học – công nghệ…Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát triển
được khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới phục vụ phát triển
sản xuất và tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Chính những biến
đổi trong cơ cấu kinh tế này đã và đang từng bước tăng cường khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp
nhân dân. Hay nói cách khác việc hình thành khối liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích
kinh tế của họ nên các chủ thể của các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ, khoa học và công nghệ tất yếu phải gắn bó, liên minh chặt chẽ với nhau để
cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế chung của mình.
Thứ ba, trong XH, GCCN và các tầng lớp lao động là lực lượng chính trị to lớn
để bảo vệ và xây dựng XH.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp lao động khác vừa là lực lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực
lượng chính trị - xã hội to lớn. Do đó, họ phải liên minh với nhau để cùng xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Nếu thực hiện tốt khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó
trước hết là với trí thức thì không những cơ sở kinh tế vững mạnh mà chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa cũng ngày càng được củng cố vững chắc.
II. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khối liên minh thực hiện ba nội dung
cơ bản.

1. Nội dung chính trị


Giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức liên minh với
nhau để tạo cơ sở chính trị - xã hội vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân,
tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm vượt qua mọi khó khăn thử thách, và đập tan
mọi âm mưu chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính
trị, là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc
giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản,
tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị
của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ
chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch,
chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản đã
chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với giai cấp tư sản đã thất bại nhưng
chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới- giai
cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới- xây dựng
toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình
thức mới- cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.
Liên minh công- nông- trí thức trên lĩnh vực chính trị cần thể hiện ở những
điểm sau đây:
- Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và
CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực
hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai tầng
mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân. Bởi vì,
chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân thì
mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công
nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
- Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên
minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH
thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh
đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa như một nguyên tắc về chính trị của liên
minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh công- nông- trí thức ở
nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt
trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền
tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ
chức và xây dựng CNXH.
- Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương
thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của
liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương
thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai
thực hiện “Quy Chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông thôn.

2. Nội dung kinh tế


CM XHCN, về thực chất là có tính chất KT, giành chính quyền chỉ là bước đầu,
nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế. Do đó, khi bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin chỉ rõ nội dung cơ bản nhất của thời kỳ này là:
chính trị đã chuyển trọng tâm sang lĩnh vực kinh tế. Các giai cấp và tầng lớp
phải cùng nhau hợp tác để thực hiện quyền sở hữu và sử dụng các TLSX chủ
yếu của XH, tài nguyên của đất nước để phục vị cho các giai tầng, cùng nhau
hợp tác trong quản lý và phân phối sản phẩm xã hội, cùng nhau hợp tác để
CNH, HĐH nhằm thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích kinh tế thiết thân của giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí và các tầng lớp khác trong xã hội, và
cuối cùng nhằm tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội.
- Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản nhất, quyết định nhất và là cơ sở kỹ
thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ
- Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp trí thức khác ở nước ta thực chất là sự hợp tác giữa họ,
đồng thời mở rộng việc hợp tác với các lực lượng khác, đặc biệt là các
doanh nhân… để xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa hiện đại. Nội
dung kinh tế xuyên suốt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Dưới góc độ kinh tế, xác định đúng tiềm lực kinh tế của công nhân, nông
dân, trí thức và toàn xã hội, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ
chức triển khai các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích
của các bên và tránh sự đầu tư không hiệu quả, lãng phí.
- Thực hiện giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa các ngành; các thành
phần kinh tế, vùng kinh tế; trong nước và thế giới,… để phát triển sản
xuất, nâng cao đời sống cho công, nông, trí thức và toàn xã hội. Chuyển
giao và ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong công,
nông nghiệp và dịch vụ, qua đó, gắn bó chặt chẽ công nhân, nông dân, trí
thức và các tầng lớp xã hội khác làm cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát
triển của quốc gia.
- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà
nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên
minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện qua các chính sách
như khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước,
Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với
nông dân, tạo điều kiện cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông
thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là một
lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.
- Việc đề ra và phấn đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng, tổ
chức triển khai các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích
của các bên và 4 tránh sự đầu tư không hiệu quả, lãng phí. Xác định đúng
cơ cấu kinh tế của cả nước, của ngành, địa phương, cơ sở sản xuất… từ
đó, các địa phương, cơ sở, vận dụng linh hoạt và phù hợp vào địa phương
mình, ngành mình để xác định cơ cấu kinh tế cho đúng. Tất cả nhằm gắn
kết chặt chẽ các lĩnh vực kinh tế cơ bản của quốc gia, qua đó gắn bó chặt
chẽ các giai cấp, tầng lớp công nhân, nông dân, trí thức và các lực lượng
khác trong xã hội làm cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, liên minh giai cấp, tầng lớp về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau... giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của chủ thể trong khối liên minh, đồng
thời tạo động lực thực hiện thắng lợi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

3. Nội dung văn hóa xã hội


Xây dựng khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng để có quan hệ hữu nghị, giúp đỡ
lẫn nhau, cùng nhau nâng cao trình độ văn hóa và nghề nghiệp, cùng nhau tham
gia quản lý mọi mặt của xã hội. Đặc biệt là cùng nhau xây một nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa, giá trị văn hóa
của nhân loại và thời đại.
Lưu ý: Để khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động xã hội trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa được vững chắc
cần đảm bảo những nguyên tắc sau đây:

- Nguyên tắc 1: Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Lênin cho rằng, thực hiện liên minh giữa GCCN với GCND và cá tầng
lớp lao động khác không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo. Các giai tầng
khác gắn với PTSX nhỏ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập nên
GCCN phải là GC lãnh đạo.

- Nguyên tắc 2: Tự nguyện


Tính tự nguyện đảm bảo cho khối liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội trong tiến trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa trở nên bền vững hơn. Để liên minh dựa trên cơ sở tự
nguyện cần phải giáo dục giác ngộ quần chúng NDLĐ, để họ hiểu và tự
nguyện liên minh với GCCN.

- Nguyên tắc 3: Kết hợp đúng đắn các lợi ích


GCCN và các GT khác có những lợi ích cơ bản là thống nhất vì dưới
CNTB họ đều bị bóc lột, đây là điều kiện thực hiện sự liên minh. Tuy
nhiên, các giai cấp và tầng lớp là những chủ thể kinh tế khác nhau nên
các GC và TL khác trong xã hội cũng có những lợi ích khác nhau. Do đó,
cần phải đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích của các giai cấp và tầng lớp
trong quá trình liên minh.
Tổ chức liên minh để các lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng nhau xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu
những tinh hoa, giá trị văn hóa của nhân loại và thời đại. Thực chất là sự đoàn
kết, hợp lực của công nhân, nông dân, tri thức nhằm xây dựng nền văn hóa mới
và con người mới XHCN. Đây là nội dung cơ bản lâu dài, tạo điều kiện cho liên
minh phát triển bền vững.

Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của
liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải
pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và
trí thức.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ
xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần
thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối
sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc
củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở
miền núi.Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu
hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy
hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết
cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại. Xây dựng các cơ sở giáo dục,
y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1 cách tương
xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng
xã hội chủ nghĩa và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền,
dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.

B. TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN, SINH VIÊN TRONG VIỆC


GÓP PHẦN CỦNG CỐ KHỐI LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP
VÀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN

I. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên góp phần trong việc củng cố
và góp phần khối đại đoàn kết dân tộc - rèn luyện đạo đức, tư tưởng

Có thể thấy việc sinh viên có trách nhiệm trong việc củng cố và góp phần
khối đại đoàn kết dân tộc là việc ý nghĩa hết sức to lớn trong công cuộc
xây dựng đất nước. Đây cũng được coi là tư tưởng cơ bản trong việc
chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, hình thành sức mạnh vững chắc, là một
vấn đề sống của cách mạng :

- Thứ nhất: ý thức luôn được rèn dũa, nâng cao đạo đức mỗi ngày:
thanh niên cần luôn đặt trách nhiệm và phẩm cách lên hàng đầu. Vì
đối với một Đảng viên, việc đặt trách nhiệm và phẩm cách sẽ quyết
định tất cả trong công trình phát triển đất nước ta. Luôn luôn trau
dồi phẩm chất tư cách, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và chính
quyền giao phó. Sống hết lòng hết sức vì dân và Đảng, đối xử hòa
đồng, tự nguyện phục vụ cho xã hội.
- Thứ hai: ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với công việc
nghề nghiệp của mình. Tôi sẽ luôn tham gia các hoạt động chuyên
môn của nhà trường cũng như và Ngành cần đang theo đuổi. Tôi
sẽ cố gắng hết sức trong việc học của mình, luôn luôn hoàn thành
bài tập và nhiệm vụ đã được giao trước đó. Sẽ cống hiến hết mình
cho nghề nghiệp của mình.
- Thứ ba : Trong tiềm thức mỗi người phải luôn in sâu về việc giữ
gìn đoàn kết cơ quan nhà nước cũng như cơ quan đơn vị. Luôn
khen thưởng những Đảng viên có thành tích xuất sắc trước công
chúng. Đề cao ý thức trách nhiệm công việc cũng như trong cuộc
sống.
- Thứ tư: ý thức tổ chức, kỷ luật, tự phê bình và phê bình theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh: Có ý thức coi trọng tự phê bình và
phê bình bản thân. Là người sinh viên, cần phải luôn cố gắng hết
sức mình trong mọi việc, nhất là trong công cuộc xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc. Luôn tự kiểm điểm bản thân trong mọi việc.
Thực hiện tốt nhiệm vụ của trường và Đảng đưa ra. Còn điều sai
sót, trong tương lai cần sẽ cố gắng hơn để góp phần xây dựng
Đảng ta.
- Thứ năm : Chúng ta phải luôn nâng cao ý thức cẩn trọng, chống
những luận điệu xuyên tạc về Đảng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh,
không ngừng nâng cao trình độ để thích ứng với điều kiện kèm
theo xã hội mới, vận dụng triệt để và linh động những nguyên tắc
của Người tùy theo vị trí của mình như tập trung chuyên sâu dân
chủ, kỷ luật nghiêm minh, tự giác trong việc làm cũng như trong
đời sống hội đồng

II. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên góp phần trong việc củng cố
và góp phần khối đại đoàn kết dân tộc - rèn luyện phẩm chất, lối sống

Noi gương phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của mỗi sinh
viên theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh:

- Thứ nhất: sống chính trực, trung thực, dám đứng lên làm chứng,
bảo vệ cho những điều đúng đắn, bảo vệ đường lối chính sách,
quan niệm của Đảng Cộng Sản. Luôn yêu thương người khó khăn
hơn mình, sống ngay thẳng, khiêm tốn trong mọi việc. Không đua
theo thành tích trước mắt, không giấu diếm, không bao che khuyết
điểm, không ngại đưa ra khuyết điểm của mình. Thẳng thắn, trung
thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ
người tốt, chân thành, nhã nhặn.
- Thứ hai : Đối với bản thân của mỗi người sinh viên phải tự đặt
mình và người khác trong một tổ chức. Làm việc gì cũng phải nghĩ
đến hậu quả và pháp luật. Đề cao ý thức của mỗi người trong công
cuộc xây dựng đất nước. Không chia bè chia phái, lôi kéo người
khác làm những việc trái pháp luật.
- Thứ ba : Đẩy mạnh việc tự học, tự tu dưỡng để nâng cao trình độ
của bản thân, tuyên truyền về đường lối chủ trương của Đảng pháp
lý của nhà nước. Chống những bộc lộ suy thoái và khủng hoảng về
phẩm chất đạo đức, luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Mỗi cá thể
cần có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức : Cần gương mẫu rèn
luyện phẩm chất tư cách, làm tròn những trách nhiệm được Đảng
và chính quyền sở tại phó thác. Có lối sống cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, hòa nhã với mọi người. Luôn tự rèn luyện và trau
dồi phẩm chất đạo đức, lối sống. Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết
trong tập thể, trong cơ quan đơn vị chức năng
- Thứ tư : Quá trình phát triển và hội nhập sâu rộng với thế giới
trong khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư đã lan
rộng đang đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao của đội ngũ trí thức:
“Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân
tộc, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có
đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”.
Mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân, trong đó có
công nhân, nông dân và trí thức, cần được khai thác và phát huy để
xây dựng và bảo vệ đất nước.

Là một sinh viên cần phải phấn đấu và trở nên gương mẫu trong các hoạt
động xã hội, vận dụng sáng tạo để góp phần cho đất nước ngày càng một
phát triển mạnh mẽ hơn. Luôn giữ vững lập trường của mình, dám nói lên
tiếng nói của mình. Giữ chuẩn mực đạo đức của ông cha ta từ xưa đến
nay. Noi gương theo chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.Và cũng như trong mọi
hành động và ý nghĩ, Sinh viên cần luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong
việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người.
Thêm vào đó với việc xây dựng Đảng, cần luôn cảnh giác với những thế
lực thù địch chống phá Việt Nam, bạo loạn lật đổ của các chủ nghĩa đế
quốc. Luôn trau dồi, học hỏi, học tập và rèn luyện theo tư tưởng của Hồ
Chí Minh về cách mạng Đảng cũng như về sự nghiệp của thanh niên Việt
Nam. Luôn trung thành tuyệt đối với Đảng và Nhà nước.

Trong xu thế toàn cầu hiện này, bản thân ta là một sinh viên thì phải có
trách nhiệm sáng suốt trong việc chọn lọc thông tin. Không để bản thân
sa lầy vào những hội phản động, lôi kéo lối sống thực dụng. Sinh viên
ngày nay phải tham gia vào các hoạt động tình nguyện giúp đỡ, tuyên
truyền ý thức tự giác, kỷ luật nhằm đẩy mạnh trong công tác xây dựng
Đảng ta. Không tự học suốt đời, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn
của mình.Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà
nước đến quần chúng nhân dân. Tìm biện pháp để phòng chống suy thoái
về phẩm chất đạo đức

KẾT LUẬN
Cơ cấu giai cấp -xã hội đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu xã hội và sự phát
triển của đất nước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các
giai cấp, tầng lớp xã hội biến đổi liên tục trong nội tại mỗi tầng lớp, giai cấp,
hoặc xuất hiện thêm các nhóm xã hội mới. Trong quá trình này cần phải có
những giải pháp sát thực, đồng bộ, tác động tích cực để các giai cấp, tầng liow
scos thể khẳng định vị trí xứng đáng và phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò của
mình trong cơ cấu xã hội và trong sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng xã
hội chủ nghĩa. Liên minh các giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội không chỉ mang lại nhiều lợi ích mà còn nâng cao khối đại đoàn
kết toàn dân. Do đó, mỗi cá nhân cần chấp hành tốt các chủ trương của Đảng và
nhà nước để nâng cao chất lượng cơ cấu xã hội -giai cấp của đất nước, từ đó góp
phần vào quá trình phát triển đất nước trong thời đại hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (2019),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng
3. Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
4. Vài suy nghĩ: Học tập, vận dụng tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
5. Về liên minh công - nông và xây dựng khối liên minh giai cấp ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay
6.

You might also like