You are on page 1of 22

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LIÊN MINH CHÍNH TRỊ GIỮA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TẦNG LỚP TRÍ THỨC TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI............................................2
1.1. Khái quát chung về liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.............................................2
1.1.1. Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội..............2
1.1.2. Nội dung của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội................................................................2
1.2. Nội dung liên minh chính trị giữa các giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội..........................................................................................3
1.2.1. Vị trí của liên minh chính trị.................................................................3
1.2.2. Cơ sở liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...............................................3
1.2.3. Biểu hiện liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...............................................4
1.2.4. Nguyên tắc của liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân, nông dân
và trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.....................................6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LIÊN MINH CHÍNH TRỊ GIỮA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM......................................................7
2.1. Tính tất yếu khách quan liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân,
nông dân và trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
............................................................................................................................7
2.2. Những kết quả đạt được trong liên minh chính trị của giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức ở Việt Nam..........................................................8
2.3. Những hạn chế còn tồn tại về liên minh chính trị giữa giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức ở Việt Nam........................................................10
2.4. Nguyên nhân hạn chế..............................................................................11
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CƠ BÁN TĂNG CƯỜNG VÀ CỦNG CỐ LIÊN
MINH CHÍNH TRỊ GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TẦNG
LỚP TRI THỨC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................................13
3.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức....................................13
3.2. Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá xã hội...................14
3.3. Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân................................................15
3.4. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở........................................................16
KẾT LUẬN............................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................19
MỞ ĐẦU
Trong xã hội có giai cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, giai cấp ở vị trí
trung tâm của thời đại muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó cần phải liên
minh với các giai tầng khác trong xã hội. Trải qua quá trình lăn lộn với thực tiễn
cách mạng, C.Mác và Ăngghen đã đúc kết ra nền tảng lý luận để cách mạng đi đến
thắng lợi và các ông đã chỉ ra liên minh giai cấp là vấn đề mang tính nguyên tắc.
Trong giải phóng dân tộc hay trong cách mạng xã hội chủ nghĩa liên minh giai cấp
là điều mà giai cấp công nhân cần phải thực hiện một cách triệt để nhằm lật đổ chủ
nghĩa đế quốc và giai cấp tư sản.
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam và trải qua những năm tháng đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và
trí thức là vấn đề có tính chiến lược của cách mạng. Nhất là khi Việt Nam quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến nhanh
chóng, phức tạp và khó lường. Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng đem lại nhiều thời cơ và không ít thách thức đối với nước ta.
Sự chống phá ngày càng quyết liệt của kẻ thù cũng là một mối đe doạ đối với sự
tồn vong của Đảng của chế độ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu
“phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa” [6, tr.111-112], thì cần phải có sức mạnh đoàn kết của toàn dân
tộc mà nòng cốt chính là liên minh công, nông, trí thức. Với tầm quan trọng của
liên minh công, nông, trí thức cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai, tác giả lựa
chọn chủ đề “Vấn đề liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp tri thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” để phân tích
làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp củng cố vững chắc khối liên minh
này trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LIÊN MINH CHÍNH TRỊ GIỮA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TẦNG LỚP TRÍ THỨC TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của các nhà mác xít “liên minh giai cấp là một hình thức
liên kết của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội nhằm mục tiêu chung là đấu tranh,
thủ tiêu bộ máy của giai cấp thống trị, thiết lập quyền thống trị của chế độ xã hội
mới phù hợp với lợi ích của giai cấp trung tâm hạt nhân của khối liên minh đó”.
C.Mác khẳng định “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì
dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của
nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng,
tức là giai cấp vô sản cách mạng” [2, tr.84-85].
Trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công, nông và tiếp tục khẳng
định để đảm bảo cho thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thì đó
là vấn đề mang tính nguyên tắc không thể chối chỏ. V.I.Lênin chỉ rõ: “… thực hiện
liên minh công nông là một việc khó, nhưng vô luận thế nào đó cũng là khối liên
minh vô địch duy nhất để chống lại bọn tư bản” [11, tr.340]; “Chuyên chính vô sản
là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên
phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp không phải vô sản
(tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)” [12, tr.452].
1.1.2. Nội dung của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Liên minh về kinh tế, trước hết là sự hợp tác để phát triển sản xuất, tăng
năng suất lao động và thu nhập, giải quyết thoả đáng mối quan hệ về lợi ích kinh tế
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đáp ứng yêu cầu
phát triển của mỗi giai tầng. Ngoài ra, còn biểu hiện ở chỗ giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức đều có quyền sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội và tài nguyên của đất nước, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, làm chủ quá
trình tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm.
Liên minh về chính trị, thể hiện trước hết ở việc công nhân, nông dân và trí
thức cùng nhau tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ chủ yếu để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, mang lại cuộc sống dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Liên minh về tư tưởng, văn hoá, được thể hiện giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức vừa là người trực tiếp sáng tạo, vừa là người được
hưởng thụ các giá trị văn hoá và thành quả lao động mà họ sáng tạo ra. Trên cơ sở
tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
1.2. Nội dung liên minh chính trị giữa các giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Vị trí của liên minh chính trị
Liên minh về chính trị có vị trí đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa, nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các nội dung của liên
minh. Liên minh về chính trị định hướng mục đích, nội dung cho liên minh về kinh
tế, quân sự, văn hoá - xã hội.
1.2.2. Cơ sở liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu và lợi ích cơ bản nhất của liên minh giữa giai
cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức có sự thống nhất với nhau và phù hợp
với lợi ích của cả dân tộc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi, chính
quyền nhà nước được chuyển vào tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trở thành người chủ
của xã hội mới. Vì vậy, liên minh về chính trị trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa
xã hội chính là khẳng định quyền làm chủ xã hội của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức trên cơ sở thống nhất về lợi ích, ý chí, phương hướng
và mục tiêu, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, tổ chức quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên
minh về chính trị chính là điều kiện đảm bảo cho hệ thống chính trị và chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa được giữ vững và phát huy.
Thứ hai, từ địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nhân, nông dân và trí thức là
lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội. tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
vì vậy dẫn đến sự xuất hiện của nhiều loại, ngành, lĩnh vực kinh tế khác nhau như
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Các lĩnh vực này gắn bó chặt chẽ, mật thiết với
nhau để hình thành nên nền kinh tế quốc dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vì sự liên kết chặt chẽ đó đặt ra yêu cầu
giai cấp công nhân, nông dân và tri thức phải liên minh chặt chẽ với nhau.
Thứ ba, liên minh công - nông - trí thức là những lực lượng to lớn trong xã
hội. Những nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về cơ bản đó là
những nước có số lượng công nhân, nông dân chiếm đại đa số, bên cạnh đó tri thức
cũng là một lực lượng tương đối lớn. Do đó, liên minh giữa công, nông, trí sẽ tạo
nên một lực lượng cách mạng to lớn để các Đảng Cộng sản thực hiện thắng lợi sứ
mạng xoá bỏ chế độ tư hữu về lực lượng sản xuất, xoá bỏ chế độ người bó lột người,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vầ cao hơn là chủ nghĩa cộng sản.
1.2.3. Biểu hiện liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân, nông dân và
trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Một là, cùng nhau đấu trang lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản. Trong
giai đoạn giải phóng dân tộc, công, nông, trí đã liên minh chặt chẽ để đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa giành độc lập dân tộc. Bước sang giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, mặc dù giai cấp tư sản có điểu chỉnh thích nghi nhưng bản chất của chúng
không thay đổi, thru đoạn bóc lột của tư sản ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn nhằm
đánh lừa dư luận. Bên cạnh đó, sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều
hình thức sở hữu sẽ dẫn đến tự phát đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, liên minh công
nhân, nông dân, trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm đánh đổ
hoàn toàn giai cấp tư sản, xoá bỏ hình thức sở tư nhân để hướng tới xây dựng xã hội
mới văn minh.
Hai là, cùng nhau xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức cùng nhau tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền
cách mạng, xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Điều này được thể hiện ở chỗ các
giai cấp và tầng lớp đó cử những đại biểu của mình tham gia vào các thiết chế
chính trị như nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội. Mặt khác, bằng các hình thức
dân chủ trực tiếp, gián tiếp họ có quyền tham gia vào các quyết định chính trị liên
quan đến vận mệnh của đất nước, bảo đảm cho các quyết định đó luôn luôn đúng
đắn, sáng tạo, phản ánh được nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động.
Ba là, cùng nhau bảo vệ Đảng, chế độ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Liên minh về chính trị còn thể hiện ở sức
mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách
mạng mà họ đã đạt được trong lịch sử. Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trước hết là
bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng đất nước. Việc bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa phải gắn liền với việc bảo vệ Đảng, Nhà nước và quyền làm chủ của nhân
dân lao động.
Bốn là, đấu tranh đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Cần
nhận thức một cách đúng đắn rằng, liên minh về mặt chính trị nhằm giữ vững vị trí
lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân với toàn khối liên minh và toàn xã hội,
tuyệt nhiên không phải chia quyền lãnh đạo cho giai cấp nông dân hoặc tầng lớp trí
thức. Mặt khác, liên minh về chính trị còn nhằm không ngừng cải tạo tư tưởng của
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, từng bước làm cho tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin trở thành chủ đạo trong giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và toàn xã
hội. Do đó, cần đập tan mọi âm mưu thủ đoạn, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản đối với khối liên minh và với toàn xã hội.
1.2.4. Nguyên tắc của liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Trong thời kỳ
quá độ, giai cấp công nhân là giai cấp trung tâm của thời đại. Do đó, liên minh về
mặt chính trị nhằm giữ vững vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội
tiền phong là Đảng Cộng sản với toàn khối liên minh và toàn xã hội, tuyệt nhiên
không phải chia quyền lãnh đạo cho giai cấp nông dân hoặc tầng lớp trí thức.
Thứ hai, trên cơ sở tự nguyện của các giai cấp, tầng lớp. V.I.Lênin đã nhiều
lần nhắc nhở những người cộng sản ở Nga là phải bằng những việc làm cụ thể để
cho giai cấp nông dân thấy rằng, đi với giai cấp vô sản có lợi hơn đi với giai cấp tư
sản, từ đó họ tự nguyện đi với giai cấp công nhân. Có thực hiện trên tinh thần tự
nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới có
thể bền vững, lâu dài.
Thứ ba, kết hợp đúng đắn lợi ích của các giai tầng. Giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức đoàn kết lại với nhau nhằm mục đích chung là chống lại giai cấp tư
sản, giành lại quyền lợi chính đáng cho bản thân họ. Do đó, xét đến cùng quan hệ
giữa 3 giai tầng trên đều liên quan đến lợi ích của mỗi bên, họ mưu cầu lợi ích kinh
tế, sự sống và thoát khỏi cảnh bần cùng. Vì vậy, để liên minh chính trị giữa các giai
tầng được bền vững bảo đảm cho cách mạng giành thắng lợi cần phải kết hợp đúng
đắn lợi ích của các giai tầng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ là một hình thức liên kết của các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội nhằm mục tiêu chung là đấu tranh, thủ tiêu bộ máy
thống trị của giai cấp tư sản. Trong liên minh đó, liên minh về chính trị là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt tất cả các nội dung của liên minh. Liên minh về chính trị định hướng
mục đích, nội dung cho liên minh về kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội. Đảng Cộng
sản phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc để đảm bảo liên minh chính trị giữa công
nhân, nông dân và trí thức được bền vững và phát triển.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LIÊN MINH CHÍNH TRỊ GIỮA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Tính tất yếu khách quan liên minh chính trị giữa giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Một là, củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân với đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam, cách mạng giải phóng dân tộc đã giành thắng lợi hoàn toàn. Đảng đã khẳng
định liên minh công, nông, trí dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong các yếu tố
dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa tư bản có điều chỉnh thích nghi để tồn tại nhưng bản chất của chúng
không thay đổi. Bọn phản động ra sức chống phá cách mạng, chống muốn xoá bỏ
Điều 4 Hiến pháp năm 2013, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do
đó, muốn thực hiện thắng lợi thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì cần phải giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng đối với liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng
lớp trí thức. Đó là nguyên tắc không thể thay đổi, nhằm củng cố vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, từ sự thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng của các giai tầng trong xã
hội. Giai cấp công nhân, nông dân và trí thức là những lực lượng chủ yếu trong xã
hội. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc và kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, họ bị bóc lột, đàn áp nặng nề nên luôn mong muốn giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp mình khỏi áp bức. Đây cũng chính là sợi dây
kết nối để công, nông, trí nhanh chóng liên minh lại với nhau đánh bại hai tên đế
quốc sừng sỏ nhất thế giới lúc bây giờ. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, công nhân, nông dân và trí thức vừa là chủ thể vừa là động lực của cách
mạng. Mục tiêu, lý tưởng chung của họ chính là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Hay nói một cách khác, mục tiêu của họ chính là hoà bình, độc lập, ấm no, tự
do, hạnh phúc...
Thứ ba, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để có
những thành quả của nước Việt Nam như hiện nay là mồ hôi, xương máu, nước
mắt của biết bao thế hệ cha ông đi trước. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của tất cả mọi người dân Việt
Nam. Yêu cầu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
hoà bình, bảo vệ những thành quả cách mạng mà chúng ta đã đạt được trong lịch
sử cũng đã gắn kết các giai tầng lại với nhau. Ngày nay, xây dựng và bảo vệ là quy
luật sinh tồn, quyết định đến vận mệnh của dân tộc Việt Nam, do đó công nhân,
nông dân và trí thức phải liên minh chặt chẽ để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
đó.
2.2. Những kết quả đạt được trong liên minh chính trị của giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức ở Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng ngày càng vững chắc. Tư tưởng về xây dựng khối liên minh công nhân,
nông dân và các tầng lớp lao động khác đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hình thành
từ rất sớm. Người luôn khẳng định cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi phải
có sự liên minh, đoàn kết của các giai tầng cùng chung mục tiêu, lý tưởng. Tư
tưởng này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ Đại hội Đảng và trở thành vấn đề
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đại đoàn kết
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực
to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nên tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức do Đảng lãnh đạo” [5, tr.158].
Dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước khối liên minh
ngày càng vững chắc. Cùng với đó, nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được xác lập vững chắc dẫn đến sự thống nhất về
chính trị và tinh thần ngày càng tăng trong đời sống xã hội. Nhờ vậy mà đã đứng
vừng trước những biển động của thế giới như sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, trước âm mưu phá hoại của kẻ thù, trước ảnh hưởng
của đại dịch Covid-19, dân tộc Việt Nam vẫn đứng vững và ngày càng phát triển
bền vững, có cơ đồ, vị thế, uy tín quốc tế ngày càng cao. Năm 2020, trong bối cảnh
đại dịch COVID-19 nền kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4% thì kinh
tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người đạt 2.800 USD,
đời sống nhân dân chuyển biến rõ rệt; Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các tổ
chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, trách nhiệm, trở thành Uỷ viên
không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, Chủ tịch ASEAN 2020...
Thứ hai, phát huy tốt vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai cấp công nhân có những bước phát triển tích cực,
mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu, đồng thời
chất lượng đội ngũ được nâng lên. Công nhân trở thành lực lượng sản xuất cơ bản,
là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế. Cùng với các giai cấp, giai tầng khác trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
giai cấp công nhân đã có đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết đại hội XIII đánh giá “Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016 - 2020
của khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 7,45% và của khu vực dịch vụ đạt
6,2%; tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ (bao gồm xây dựng) theo giá sản
xuất trong GDP tăng từ mức 82,6% năm 2015 lên 84,8% năm 2020”[7, tr.8].
Nông dân đã phát huy tốt vai trò chủ thể trong quá trình phát triển nông
nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Huy động và phát huy
mọi nguồn lực từ nông dân, nông thôn cùng với các nguồn lực khác để thực hiện
thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn
minh. Qua đó, góp phần phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân. Trong Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Đảng
đánh giá: “Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy
trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh
tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Việt Nam trở thành một trong
những nước có một số mặt hàng xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Trình độ, học
vấn của nông dân nước ta từng bước được nâng cao...” [8, tr.1]. Vì vậy, giai cấp nông
dân càng tin thêm vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, về
sức mạnh của khối liên minh công, nông, trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước trong tình hình mới. Đội ngũ trí thức ngày càng có trình độ
chuyên môn cao, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu ứng dụng, tạo ra nhiều sản
phẩm khoa học góp phần phát triển kinh tế xã hội và thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh. Các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Sự phát triển của đội ngũ trí
thức cũng đã góp phần làm tăng năng suất lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
năm 2022 đạt 26,2% năng suất lao động tăng 4,8% do trình độ của người lao động
được cải thiện. [] Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá
trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. []
Thứ ba, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh ảnh hướng tới liên minh
giai cấp công nhân, nông dân và trí thức. Trong quá đình lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ,
chính quyền các cấp, các tổ chức ban ngành đoàn thể ở đa số các địa phương đã
nhạy bén, kịp thời nắm bắt những vấn đề mâu thuẫn nảy sinh, nhất là mâu thuẫn về
lợi ích kinh tế giữa các lực lượng, các giai tầng để kịp thời giải quyết. Bên cạnh đó,
đã kiên quyết đấu tranh, xử lý những phần tử phản động tuyên truyền chống phá
khối liên minh, kích động chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ vậy, mà khối
liên minh ngày càng được củng cố vững chắc hơn.
2.3. Những hạn chế còn tồn tại về liên minh chính trị giữa giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức ở Việt Nam
Sự liên kết, liên minh chưa bền vững, ở một số nơi vẫn còn hình thức. Khối
liên minh ở một số địa phương còn mang tính hình thức không thực chất, còn chưa
chú trọng đến việc tăng cường khối liên minh ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông
thôn. Sự phát triển của các giai tầng vẫn còn có những hạn chế nhất định. Đời sống
của giai cấp công nhân ở một số địa phương, doanh nghiệp vẫn chưa được bảo đảm
tốt, tác phong lao động tự do, tuỳ tiện. Giai cấp nông dân vẫn còn mang nặng tư
tưởng tiểu nông, sự chuyển biến tư duy chưa được như kỳ vọng. Tầng lớp trí thức
vẫn còn bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hoá phương Tây, sự sáng tạo trong nghiên cứu
vẫn còn có hạn chế. Điều này đã làm cho sự củng cố liên minh ở một số địa
phương chưa vững chắc như kỳ vọng của Đảng và Nhà nước.
Một số địa phương thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về củng cố
khối liên minh còn chưa nghiêm túc. Các chính sách về đất đai, thuế, đền bù...
được thực hiện không triệt để, có nhiều vi phạm làm nảy sinh những bất đồng, mâu
thuẫn giữa các giai tầng. Một số cán bộ công chức năng lực cụ thể hoá quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước về liên minh công, nông, trí còn hạn chế, thực hiện
còn chưa nghiêm túc gây ra dư luận tiêu cực, làm cho nhân dân giảm sút niềm tin
vào Đảng và chế độ. Điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến khối liên minh.
Bên cạnh đó, nhận thức của một bộ phận tầng lớp trí thức về chính sách của
Đảng, Nhà nước về củng cố khối liên minh công, nông, trí chưa tốt. Sự chống phá
của các thế lực thù địch trong âm mưu, thủ đoạn diễn biến hoà bình, làm cho nhận
thức, tư tưởng của một bộ phận tầng lớp trí thức (những người thường xuyên tiếp
xúc với tri thức, văn hoá thế giới) bị ảnh hưởng, tiêm nhiễm. Vì vậy, họ đã nhìn
nhận đánh giá chưa đúng về vị trí, vai trò của liên minh công, nông, trí thức trong
sự nghiệp cách mạng, không tuân thủ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, gây khó khăn cho xây dựng khối liên minh bền, chặt.
2.4. Nguyên nhân hạn chế
Những hạn chế trên của khối liên minh, bắt nguồn từ một số nguyên nhân
sau:
Một là, nhận thức và tổ chức thực hiện chính sách liên minh công, nông, trí
thức của một số địa phương chưa tốt. Việc ở một số nơi khối liên minh công, nông,
trí chưa vững chắc và có địa phương thực hiện đường lối, chính sách về liên minh
chưa nghiêm túc, chủ yếu bắt nguồn từ nhận thức của đội ngũ cán bộ công chức
địa phương đó. Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc thì hoàn toàn đúng đắn, nhưng khi
xuống cấp cơ sở, trong quá trình tổ chức thực hiện thì lại chưa được nghiêm túc,
thậm chí ở một số nơi con sai lệch. Cán bộ địa phương xem nhẹ vị trí, vai trò của
khối liên minh, trình độ, năng lực còn hạn chế nên việc cụ thể đường lối, quan
điểm còn cứng nhắc, chưa phù hợp thực tiễn địa phương mình. Đây cũng là
nguyên nhân gây ra sự mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương và gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới liên minh công, nông, trí thức.
Hai là, chưa phát huy được vai trò của nhân dân với tư cách là chủ thể và
động lực của sự phát triển đất nước. Quan điểm của Đảng ta vẫn luôn là “lấy dân
làm gốc”, tuy nhiên ở một số địa phương cơ sở vẫn xảy ra tình trạng quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền, hạch sách nhân dân. Điều này dẫn đến các giai tầng không
phát huy được trí tuệ, sự sáng tạo, không thể hiện được vai trò của mình. Làm cho
nhân dân giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cũng
là nguyên nhân làm cho khối liên minh công, nông, trí thiếu đi sự bền vững.
Ba là, các thế lực thù địch thường xuyên chống phá xuyên tạc. Âm mưu của
các thế lực thù địch, phản động là xoá bỏ mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Chúng thực hiện thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, sử dụng các
biện pháp thâm độc, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng và kinh tế. Chúng lợi dũng kẽ
hở trong quá trình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước để chống phá, kích động chia rẽ, sử dụng lợi ích kinh tế để mua chuộc, lôi
kéo nhân dân... gây ra những vụ biểu tình, bạo loạn. Đây là nguyên nhân gây ảnh
hưởng lớn tới liên minh công, nông, trí thức ở nước ta. Đảng, Nhà nước và các tổ
chức cần chú ý, quan tâm loại bỏ triệt để, để củng cố liên minh giai cấp công nhân,
nông dân và trí thức.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thời kỳ khó khăn,
lâu dài và phức tạp. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của thời kỳ quá độ Đảng và
Nhà nước ta cần phải củng cố liên minh nói chúng và liên minh chính trị giữa giai
cấp công nhân, nông dân và trí thức nói riêng. Điều này là đòi hỏi khách quan từ
yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và củng
cố vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích
cực đã đạt được, thời gian qua việc củng cố liên minh chính trị giữa công, nông, trí
vẫn còn những hạn chế, bấp cập cần phải có giải pháp khắc phục.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CƠ BÁN TĂNG CƯỜNG VÀ CỦNG CỐ LIÊN
MINH CHÍNH TRỊ GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TẦNG LỚP
TRI THỨC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối
với liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức
Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong củng cố, phát triển
khối liên minh công, nông, trí thức. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước sẽ góp phần định hướng hoạt động cho cấp uỷ, chính quyền địa
phương, khắc phục hạn chế liên minh hình thức và việc thực hiện đường lối, chính
sách chưa đầy đủ đang tồn tại ở một số địa phương. mang
Phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã
hội. Đảng định hướng những vấn đề tính chiến lược, đề ra chủ trương, đường lối
củng cố, phát triển khối liên minh công nhân, nông dân trí thức. Đại hội XII của
Đảng chỉ rõ: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nên tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo” [5,
tr.158]. Tập trung củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở Đảng, trước hết ở các tổ chức cơ sở Đảng còn yếu kém. Phát huy dân
chủ, mở rộng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của các cấp ủy các sở Đảng.
Nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, làm
cho cán bộ trung thành tuyệt đối với lợi ích của nhân dân. Bảo đảm cơ cấu cán bộ
công chức cân đối, hài hoà giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức trong
Quốc hội, Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Đấu tranh chống lại các
hiện tượng chạy chức chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy bằng cấp... Kịp thời
thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, giảm sút uy tín trươc
nhân dân, vi phạm pháp luật, đòng thực hiện nghiêm minh công tác kỉ luật Đảng.
Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện ở việc: Mọi chính sách
của Nhà nước phải xuất phát và bảo đảm lợi ích hài hoà giữa giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức cũng như các tầng lớp khác trong xã hội. Đồng thời,
cần bảo đảm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân.
Nhà nước cần phải xác định đúng cơ cấu kinh tế chung của cả nước là
“công-nông nghiệp-dịch vụ”. Cơ cấu đó sẽ quyết định nội dung liên minh, là điều
kiện để các giai tầng hoạt động và phát triển liên minh. Phát triển đa dạng hoá các
hình thức hợp tác, liên kết giữa công nhân, nông dân và trí thức, giữa công nghiệp,
nông nghiệp, khoa học công nghệ và các ngành dịch vụ khác, giữa các thành phần
kinh tế, các vùng miền khác nhau trong cả nước.
3.2. Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá xã hội
Việc đổi mới hệ thống chính trị và thực hiện dân chủ hóa xã hội sẽ phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân về mọi mặt của đời sống chính trị. Tăng cường, củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh công, nông, trí thức vững chắc tạo cơ
sở chính trị cho thực hiện những nhiệm vụ cách mạng trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đảm bảo vững chắc chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân trong khối liên minh conga, nông, trí thức.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục tình trạng bao
biện, làm thay, buông lỏng lãnh đạo của Đảng với các cơ quan nhà nước. Đổi mới
công tác dân vận tuyên truyền của Đảng. Vận động nhân dân phát huy vai trò làm
chủ của mình, nhất là ở những vùng xâu vùng xa, khó khăn, vùng dân tộc thiểu số
cần được chú trọng hơn.
Đổi mới Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đổi mới hoạt động của các cơ quan Nhà nước “đổi
mới tổ chức, phương thức hoạt động của quốc hội đảm bảo cho quốc hội thực sự là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất…
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; phát huy đầy
đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội... Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công
bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” [6, tr.175-
177].
Đổi mới mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội theo
hướng dân chủ hóa, đồng thời tăng cường sự liên kết giữa các tổ chức chính trị xã
hội để đảm bảo hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả. Các đoàn thể nhân dân cần tiếp
tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp đoàn
kết nhân dân thực hiện dân chủ, đảm bảo thực sự là nơi đoàn kết, tập hợp của các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức quần
chúng đối với hoạt động của cả hệ thống chính trị.
3.3. Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân
Công nhân, nông dân và trí thức vừa là chủ thể vừa là động lực của quá trình
đổi mới toàn diện đất nước, công nghiệp hoá hiện đại hoá xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, trình độ dân trí, tính tự giác, sự giác ngộ chính
trị của họ có ý nghĩa vô cùng quan trọng góp phần làm thất bại âm mưu chống phá,
chia rẽ nội bộ của kẻ thù, quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Do vậy, nâng
cao trình độ dân trí cho nhân dân là giải pháp cơ bản để củng cố khối liên minh
công, nông, trí thức ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Để giai cấp công nhân hoàn thành
được sứ mệnh của mình cần phải nâng cao nhận th cho họ biết về vai trò, trách
nhiệm lãnh đạo của mình trong việc củng cố liên minh công - nông - trí thức. Đại
hội XIII đã chỉ rõ cần phải “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng
cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác
phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công
nhân” [6, tr.166]
Để nâng cao trình độ cho giai cấp công nhần cần phải giác ngộ giai cấp công
nhân, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức công dân, nâng cao trình độ
kiến thức, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo cho công nhân, hiểu
biết pháp luật, tác phong công nghiệp và kỉ luật lao động, lối sống lành mạnh cho
công nhân. Có tinh thần đoàn kết dân tộc luôn là lực lượng tiên phong trong nhiệm
vụ củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh công-nông-trí thức.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội. Do vậy việc giáo
dục nâng cao trình độ dân trí để giai cấp nông dân tự giác tham gia và củng cố khối
liên minh công, nông, trí thức là vấn đề có ý nghĩa to lớn và quan trọng. Giáo dục
giai cấp nông dân Việt Nam vững vàng về chính trị, tư tưởng và vững mạnh về tổ
chức thống nhất trong hành động. Giáo dục và nâng cao kiến thức về các mặt kinh
tế, chính trị, văn hoá xã hội, khoa học kĩ thuật, pháp luật, xây dựng nếp sống văn
hóa mới cho giai cấp nông dân trong môi trường nông thôn mới.
Trong thời kỳ khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, tầng lớp
trí thức có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước. Vì vậy, tập hợp đông
đảo lực lượng trí thức vào khối liên minh và phát huy vai trò của trí thức trong
nhiệm vụ củng cố khối liên minh công, nông, tri thức là một nhiệm vụ rất quan
trọng. Để thực hiện được nhiệm vụ đó phải nâng cao trình độ giác ngộ chính trị,
giáo dục tinh thần yêu nước, trình độ học vấn, tinh thần cống hiến cho tầng lớp trí
thức, tạo điều kiện cho họ phát huy tính tích cực sáng tạo năng động của mình.
Từ sự nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của giai cấp, tầng lớp mình trong
quá trình cách mạng, mà các giai tầng sẽ có thể phát huy hết tiềm năng của mình.
Đồng thời, họ sẽ có đủ cơ sở để vạch trần mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc chống
phá của kẻ thủ, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
3.4. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Thực hiện tốt các quy chế dân chủ cơ sở sẽ tạo được sự đồng thuận, nâng
cao niềm tin của toàn xã hội đối với Đảng và nhà nước, nhờ đó phát huy các nguồn
lực to lớn trong nhân dân, đóng góp cho xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thực hiện đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát và dân thụ hưởng”; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước hơn
nữa và xây dựng một hành lang pháp lí để tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Qua đó, sẽ tạo ra một môi trường chính trị rộng mở, công
khai minh bạch để tất cả tầng lớp nhân dân sinh hoạt chính trị, thực hiện vai trò
làm chủ của mình trong các vấn đề cụ thể ở địa phương và các nước. Là mắt khâu
cơ bản để đấu tranh hiệu quả đối với tình trạng tham nhũng, quan liêu cường quyền
của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đảm bảo cho mỗi giai cấp, tầng lớp được đóng
góp tiếng nói, được phát huy vai trò của mình và nâng cao khả năng tự đảm bảo
quyền lợi của mình trên cơ sở lợi ích chung của xã hội. Nhờ đó sẽ góp phần tăng
cường liên minh công nông trí thức và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng và nhà nước.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo củng cố liên minh công, nông, trí thức của
Đảng thời gian qua đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, do tac động của
nhiều nhân tố khối liên minh vẫn còn những hạn chế. Nhạy bén nắm bắt tình hình,
Đảng ta đã đưa ra nhiều chủ trương, giải pháp, định hướng nhằm tiếp tục củng cố
liên minh công, nông, trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Qua đó phát huy sức mạnh nội lực thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra.
KẾT LUẬN
Sau khi Công xã Pari thất bại, C.Mác đã rút ra bài học kinh nghiệm về sự
liên minh giữaa hai giai cấp đông đảo nhất trong xã hội là giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Từ đó, ông đã xây dựng nên lý luận về liên minh giữa giai cấp
công nhân, giai cấp công nhân và tầng lớp lao động khác. Lý luận này được Lênin
bổ sung phát triển và trở thành một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Hiện nay, Đảng ta đang kế thừa và phát huy những giá trị quý báu về
liên minh giữa giai cấp và đoàn kết xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự tương đồng về mục tiêu, lý tưởng, địa vị kinh tế, chính trị và lợi ích đã
kéo giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam đoàn kết lại với
nhau để thực hiện sự nghiệp cách mạng. Với tư cách là giai cấp trung tâm của thời
đại, có sứ mệnh lịch sử xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ chế độ tư hưu,
giải phóng giai cấp, con người và xây dựng xã hội mới văn mình, tiến bộ hơn, giai
cấp công nhân Việt Nam với đội tiền phong là Đảng Cộng sản cần phải có những
chủ trương và giải pháp để củng cố liên minh công, nông, trí thức. Đó là thay đổi
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với liên minh, đổi mới hệ thống chính trị và
thực hiện dân chủ hoá xã hội, nâng cao trình độ dân trí và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở... Khi thực hiện tốt những giải pháp đó sẽ liên minh công, nông, trí sẽ
trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy được sức mạnh nội
lực để giai cấp công nhân mới hoàn thành thắng lợi được sứ mệnh lịch sử của
mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*Nguồn tài liệu gốc
1. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2021), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
(Dành cho bậc đại học, chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7.
3. Lê Ngọc Diệp, 2021, Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về liên minh
giai cấp và sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở nước ta hiện nay, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội, tập 12.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2022, Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
9. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa
học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 2018, Giáo trình môn Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Nxb, Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
10. Hội đồng Lý luận Trung ương chỉ đạo biên soạn, 2002, Giáo trình Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Nxb, Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
11. V.I. Lênin, Toàn tập, (Tiếng Việt), 1978, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, tập 39.
12.V.I.Lênin, Toàn tập, 1977, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tập 38.
*Nguồn tài liệu từ Internet
1. ThS. LÊ TUẤN ANH, Tiềm năng phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam và
một số hàm ý chính sách, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tiem-nang-phat-
trien-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-va-mot-so-ham-y-chinh-sach-102900.htm, truy cập
ngày 10/01/2023
2. Báo điện tử đảng cộng sản việt nam, Công tác dư luận xã hội phải là nhịp cầu nối giữa ý Đảng, lòng
dân, https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/cong-tac-du-luan-xa-hoi-phai-la-nhip-cau-noi-giua-y-dang-long-
dan-655933.html,

3. TS Lê Quang Mạnh, Khẳng định vị thế và uy tín quốc tế của Việt


Nam, https://dangcongsan.vn/tieu-diem/khang-dinh-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-cua-
viet-nam-592373.html, truy cập ngày 10/01/2023
4. Nguyễn Minh Phong & Nguyễn Trần Minh Trí, Vị thế và cơ đồ kinh tế Việt Nam,
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?
dDocName=MOFUCM188702,

5. TS. Dương Thị Thanh Xuân, Về liên minh công nông và xây dựng khối liên
minh giai cấp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quan-triet-va-thuc-hien-nghi-quyet-ai-
hoi-xii-cua-ang/-/2018/41992/ve-lien-minh-cong---nong-va-xay-dung-khoi-lien-minh-
giai-cap-o-nuoc-ta-trong-giai-doan-hien-nay.aspx , truy cập ngày 10/01/2023
6. Đỗ Văn Tính, Giải pháp ổn định thị trường lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội,
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM280883,

You might also like