You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

---------***---------

TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI LIÊN MINH


CÔNG NHÂN – NÔNG DÂN – TRÍ THỨC TRONG THỜI KÌ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhóm: 05
Lớp: TRI116(1+2/2/2021.VJCC58)
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tố Uyên

Hà Nội – 25/05/2021
1
DANH SÁCH SINH VIÊN

STT

(DS Họ và tên MSSV Công việc đảm nhận

Lớp)
04 Nguyễn Quốc Anh 1915520503 Trình bày
05 Vũ Thị Lan Anh 1915520504 Giải pháp
22 Lê Duy Hoàn 1915520705 Mở đầu, Tính tất yếu và vai

trò
52 Bùi Khánh Phương 1915520519 Đặc điểm, Nội dung
53 Đào Thu Phương 1915520027 Mở đầu, Tính tất yếu và vai

trò
55 Hoàng Minh Phương 1915520521 Giải pháp
58 Nguyễn Thị Phương 1915520028 Nội dung
63 Trần Như Quỳnh 1915520032 Đặc điểm, nội dung
77 Trịnh Thị Thu Trang 1915520040 Đặc điểm, nội dung
78 Trần Phùng Trung 1915520718 Kết luận và tổng hợp tài liệu

2
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1.1 Tính tất yếu và vai trò của liên minh công - nông - trí thức trong thời kì quá độ
lên CNXH ở Việt Nam
1.2 Nội dung liên minh công - nông - trí thức trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
1.2.1 Nội dung chính trị
1.2.2 Nội dung kinh tế
1.2.3 Nội dung Văn hoá - Xã hội
II. Liên minh công - nông - trí thức ở Việt Nam hiện nay
2.1 Đặc điểm của công - nông- trí thức
2.2 Nội dung liên minh công nông trí thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trên
lĩnh vực kinh tế 
2.3 Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh công- nông - trí thức trong
khối đại đoàn kết dân tộc 
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
Lời nói đầu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, dân tộc Việt Nam vẫn đang từng bước xây dựng
một nhà nước xã hội chủ nghĩa phát triển, sánh vai cùng bạn bè năm châu. Để có được
thành quả đó, không thể không kể đến sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, mà nổi bật là sự ra
đời của liên minh công - nông - trí thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. 
Sự ra đời  của  khối  liên  minh  công - nông - trí thức  là một  tất yếu  trong  cách  mạng 
xã hội  chủ nghĩa.  Chủ nghĩa  Mác - Lênin đã chỉ ra rõ ràng rằng: “Trong một số nước
nông nghiệp đại đa số dân chúng là nông  dân  thì vấn đề giai  cấp  công  nhân  liên  minh   
với  họ là điều tất yếu. Nguyên tắc cao nhất của cách mạng là duy trì khối liên minh giữa 
giai  cấp  vô sản  và nông  dân để giai  cấp  vô sản  có thể giữ được vai trò lãnh đạo và
chính quyền nhà nước.”
Không  chỉ công  cuộc  bảo  vệ Tổ quốc  mà trong  quá trình  xây dựng đất nước, khối liên
minh công -nông - trí thức cũng là nhu cầu cần thiết để gắn kết ba lĩnh vực: công nghiệp,
nông nghiệp, khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước.
Đặc biệt, vào thời kỳ hiện nay, khi đất nước vẫn đang trên con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết
của khối liên minh công - nông - trí thức là vô cùng cấp thiết và quan trọng.
Vì vậy, chúng em nghiên cứu đề tài “Phát huy sức mạnh của khối liên minh giữa công
nhân - nông dân - trí thức trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay” nhằm hiểu rõ thực trạng, đặc điểm của khối liên minh này trong giai đoạn hiện nay,
từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của khối liên minh công - nông
-trí, tạo động lực phát triển kinh tế cho nước nhà.
Chúng em cảm ơn cô Nguyễn Thị Tố Uyên đã giúp đỡ và góp ý trong suốt quá trình
nghiên cứu. Bài tiểu luận của chúng em còn nhiều sai sót, chúng em mong cô và các bạn
sẽ góp ý để chúng em cải thiện bài tốt hơn.

4
NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Tính tất yếu và vai trò của liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo ra
những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nghiệp khó
khăn, lâu dài và phức tạp, đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân
lao động, mà trước hết là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Thậm
chí, hiện nay các thế lực thù địch tìm mọi cách lôi kéo quần chúng nhân dân nhằm làm
rạn nứt khối liên minh và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phá hoại sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức là lực lượng cơ bản đóng vai trò quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Khi sản xuất càng phát triển hiện đại thì giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
càng cần gắn bó chặt chẽ với đội ngũ trí thức để tạo thành nền tảng vững chắc của chế độ
và là cơ sở chính trị - xã hội bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với toàn xã hội
và khối liên minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi nước ta bước vào xây dựng chế độ Xã hội chủ nghĩa đã
có những chuyển biến quan trọng về vị thế của các giai cấp công nhân, nông dân và đội
ngũ trí thức. Công nhân là người chủ tập thể của các xí nghiệp, là giai cấp lãnh đạo nước
nhà. Nông dân không còn là nô lệ của địa chủ, không còn phải mơ ước có một “miếng đất
cắm dùi” như thời xưa. Nông dân là người chủ tập thể của hợp tác xã có là người bạn
trung thành nhất của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trí
thức ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công - nông và cùng công-
nông ra sức xây dựng xã hội mới. Người khẳng định, Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có
nền kinh tế công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có nền văn hoá, khoa học-kỹ thuật tiên
tiến. Chính sự gắn bó khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp trong một nền kinh tế

5
thống nhất với sự phát triển của văn hoá, khoa học - kỹ thuật là tiền đề khách quan tạo
nên sự gắn bó mật thiết giữa các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong
quá trình phát triển.

Nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa chính là cơ sở vững chắc của liên minh giai cấp công nhân
và nông dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của
nền kinh tế. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân;
cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như
lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy móc. Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung
cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy
bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần dần
máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông
nghiệp mới phát triển. Cho nên, “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và
cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh
chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công-nông để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”. Người nhấn mạnh, liên minh là
phải giúp đỡ nhau thực sự, chứ không phải chỉ liên minh cửa miệng. Trong xây dựng Chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân không chỉ cần liên minh với nông dân, mà còn phải liên
minh với đội ngũ trí thức, vì sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá và khoa học - kỹ thuật.
“Cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức (chúng ta quen gọi là lao động trí óc). Thí
dụ: cần có thầy thuốc để săn sóc sức khỏe cho nhân dân; cần có thầy giáo để dạy văn hoá
và đào tạo cán bộ; cần có kỹ sư để xây dựng kinh tế, v.v… Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách
mạng, trong sự nghiệp xây dựng Xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có vai trò quan trọng và
vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối. 

Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức là yếu tố nội tại trong kết cấu xã hội - giai
cấp của Chủ nghĩa xã hội. Xu hướng hợp tác giữa các giai cấp và tầng lớp đó dựa trên
những cơ sở khách quan, không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của riêng giai cấp công
nhân mà của cả nông dân, trí thức và do đòi hỏi của sự nghiệp phát triển công nghiệp hiện

6
đại, nông nghiệp hiện đại và sự phát triển văn hóa, khoa học, công nghệ tiên tiến. Hiện
nay, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn tồn tại các thành phần kinh
tế dựa trên các hình thức sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường. nếu giai cấp công nhân
không khéo tổ chức, không lôi kéo, lãnh đạo được toàn dân, nhất là giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức tin tưởng, ủng hộ và tham gia tích cực vào đường lối cách mạng của Đảng
thì sẽ không có cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc để tiến hành xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức
là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn
nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp
và tầng lớp trong cách mạng và xã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên
minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường
khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá
trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thành nhân tố
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công - nông - trí thức được Đảng ta quán triệt sâu sắc
trong các chặng đường cách mạng. Trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định rõ: “Đại
đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam;
là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

1.2 Nội dung liên minh công - nông - trí thức trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
1.2.1 Nội dung chính trị của liên minh
Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ
trí thức và của cả dân tộc ta là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhưng đạt được mục

7
tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó thì giá trị tư tưởng cực hiện liên minh lại không thể dung
hòa lập trường chính trị của ba giai tầng mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của
giai cấp công nhân. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng thì mới thực hiện
được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp công nhân, nông dân, trí
thức và của dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Khối liên minh chiến lược này do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo thì mới có đường
lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương tới cơ
sở phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo
xã hội là vấn đề có ý nghĩa như một nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên minh công nông trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho
liên minh chính trị rộng lớn nhất là mặt trận tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đồng thời là nền tảng cho nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng
cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống
chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về
nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong giai cấp công
nhân, nông dân, trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện
“quy chế dân chủ cơ sở”, nhất là ở khu vực nông thôn.

1.2.2 Nội dung kinh tế của liên minh


Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc
của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế liên minh ở nước ta trong thời kỳ
quá độ được cụ thể hóa ở các điểm sau đây:

Phải xác định thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và sự hợp tác quốc tế, từ đó mà
xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, tri

8
thức và của toàn thể xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là: “Công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “từng
bước phát triển kinh tế tri thức, từ đó mà tăng cường liên minh công - nông - trí thức”.

Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết,
giao lưu…trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức, giữa
các lĩnh vực công nghiệp - nông nghiệp - khoa học công nghệ và dịch vụ khác, giữa các
địa bàn, vùng miền dân cư trong cả nước; giữa nước ta và nước khác.

Từng bước hình thành quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện liên
minh. Việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa
dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại,
dịch vụ ở nông thôn. Trong quá trình hình thành quan hệ sản xuất phải trên cơ sở công
hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, vùng
kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước
có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với
nông dân thể hiện qua chính sách khuyến nông. Các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh
tế nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình đối với nông dân, tạo
điều kiện cho liên minh phát triển nông nghiệp và nông thôn, không chỉ là một ngành kinh
tế, một khu vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội. 

Đối với tri thức, nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên
quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách về phát triển khoa học công nghệ, giáo
dục và đào tạo, bảo vệ quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… hướng
các hoạt động của tri thức vào việc phục vụ công - nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời
sống toàn xã hội.

9
1.2.3 Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh
Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.

Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo
nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói,
giảm nghèo cho nông dân, công nhân và tri thức.

Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công
nhân, nông dân, tri thức cũng là nội dung xã hội cần thiết; đồng thời nội dung này còn
mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lí, lối sống…cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.

Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt, tập trung vào việc củng cố xóa
mù chữ đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về cao học công nghệ,
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu các
biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.

Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch nông thôn, đô
thị hóa công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại.
Xây dựng các cơ sở giáo dục, văn hóa, y tế, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng
một cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn. Có như vậy nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của
định hướng xã hội chủ nghĩa và mới làm cho công - nông - trí thức cũng như các vùng,
các miền, các dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.

II. LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Đặc điểm của công – nông – trí thức

10
2.1.1 Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
Thứ nhất, sau 35 năm đổi mới, với vai trò là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả
về số lượng và chất lượng, có mặt trong tất cả các ngành, nghề, các thành phần kinh tế.
Hàm lượng lao động có trình độ cao, tay nghề cao gia tăng một cách đáng kể. Cụ thể:
tổng số lao động trong các doanh nghiệp đạt khoảng 16,5 triệu người, chiếm 30% trong số
54,67 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước. Trong đó, cơ cấu lao động tập trung
chủ yếu ở khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, với 62% thuộc doanh nghiệp tư nhân trong
nước, 30% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và chỉ 8% thuộc
doanh nghiệp nhà nước. Về trình độ chuyên môn, lực lượng lao động đã qua đào tạo có
văn bằng, chứng chỉ chiếm 22,37% (trong đó, lao động có trình độ đại học trở lên chiếm
10,82 %; cao đẳng chiếm 3,82%; trung cấp chiếm 4,65% và sơ cấp chiếm 3,08% (số liệu
Tổng cục Thống kê, quý II/ 2019).

Thứ hai, giai cấp công nhất mang nghị lực cách mạng, tính triệt để cách mạng cao trong
đó tính đoàn kết luôn được giữ vững. Cụ thể, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong
nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm
cho lợi ích giai cấp và lợi dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực
cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội. Giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam, lại có Đảng lãnh đạo nên
luôn giữ được sự đoàn kết thống nhất và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình.

Thứ ba, giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng thông qua vai trò của Đảng. Nghị quyết
20-NQ/TW của BCH Trung Ương Đảng khóa X “về tiếp tục xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” xác định rõ:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc. Đảng lãnh đạo cách mạng, trên cơ sở lý luận của giai cấp công nhân là chủ
nghĩa Mác-Lênin, hướng tới thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xét trên bình diện chung, sự phát triển của

11
giai cấp công nhân nước ta đang có sự đan xen, chuyển dịch giữa các giai tầng. Nhiều
người vừa là chủ có tài sản, nắm tư liệu sản xuất, vừa vẫn đi làm thuê, làm công hưởng
lương. Với nhóm cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, khi
đã là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì về nguyên tắc mang bản chất giai cấp công
nhân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam đang có nhiều lợi thế lớn để phát triển cả về lượng
và chất với tỷ trọng chiếm khoảng 30% lực lượng lao động của cả nước, số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp. V.I.Lênin đã khẳng định “Chất lượng của giai cấp vô sản
trong phong trào lịch sử thì vô cùng lớn hơn số lượng của giai cấp ấy trong toàn bộ dân
cư”. Đặc biệt, những đòi hỏi về năng suất lao động, lợi thế cạnh tranh đặt ra khi Việt Nam
tham gia sâu rộng vào thị trường lao động quốc tế, thông qua các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới cũng cho thấy lực lượng lao động công nghiệp Việt Nam đã thực sự được
ghi nhận và được coi là thị trường lao động giàu tiềm năng để phát triển các lĩnh vực sản
xuất có hàm lượng công nghệ cao. Cụ thể là làn sóng dịch chuyển đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài vào Việt Nam (đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19) của các hãng công nghệ lớn
của thế giới, có mức độ thâm dụng lao động cao như Samsung, Apple, Panasonic…

Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của lao động nước ta còn yếu; tâm lực, thể lực, trí lực của
công nhân đáp ứng chưa cao yêu cầu của nền sản xuất hiện đại; tỷ lệ lao động qua đào tạo
còn thấp (35% lực lượng lao động vẫn là lao động giản đơn); thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và
kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; khả năng tìm kiếm và tự dịch chuyển việc làm của
công nhân còn thấp; tình trạng thiếu việc làm gia tăng, tiền lương, thu nhập thấp; tình
trạng đình công, ngừng việc tập thể của công nhân, nhất là công nhân trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất trong cả nước ngày càng phức tạp.

2.1.2 Đặc điểm của giai cấp nông dân Việt Nam

12
Thứ nhất, nông dân Việt Nam là những người lao động trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp. Bằng năng lực tư duy và tri thức kinh nghiệm sản xuất chủ yếu gắn với một phương
thức sản xuất đặc thù, nông dân trực tiếp lao động sản xuất trên các lĩnh vực: trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp,... tạo ra khối lượng của cải lương thực thực phẩm nuôi
sống con người, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp và hàng xuất khẩu.

Thứ hai, nông dân Việt Nam là lực lượng chiếm số đông trong cơ cấu dân số của cả nước,
có sự gắn bó lâu đời với cội nguồn dân tộc, với địa bàn nông thôn. Trong tiến trình dựng
nước, giữ nước và phát triển đất nước, với lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất,
kiên cường, nông dân đã có vai trò to lớn. Ngày nay trong công cuộc đổi mới, vai trò nông
dân càng được khẳng định và phát huy.

Thứ ba, nông dân Việt Nam có nhiều ưu điểm như cần cù trong lao động, tinh thần yêu
nước và tính cố kết cộng đồng bền chặt. Từ khi có Đảng, giai cấp nông dân luôn sát cánh
cùng các giai tầng trong khối liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng ta về nông dân và vai trò của nông dân, có thể thấy giai cấp nông dân Việt Nam là
một lực lượng đông đảo, bao gồm những người lao động cá thể, tiểu chủ trong lĩnh vực
nông nghiệp với loại hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ của gia đình (đơn vị kinh tế tự
chủ) là chủ yếu, đang chuyển biến mạnh mẽ cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Là cơ sở và là lực lượng quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, xây dựng nông thôn mới, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo
vệ môi trường sinh thái của đất nước.

Tuy nhiên, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn có những mặt hạn chế. Giai cấp nông dân là
những người tư hữu nhỏ, tuy nhiên tư hữu của nông dân không đồng nhất với tư hữu của
giai cấp bóc lột. Do phương thức sản xuất phân tán nên nông dân không có sự liên kết

13
chặt chẽ cả về kinh tế, tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng độc
lập mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Nên nông
dân không thể tự mình giải phóng mình. Muốn được giải phóng, nông dân phải tham gia
vào khối liên minh và chịu sự lãnh đạo của giai cấp nông dân. 

2.1.3 Đặc điểm của tầng lớp trí thức:


Thứ nhất, trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt của một bộ phận lao động trí óc, phức
tạp và sáng tạo. Sản phẩm lao động trực tiếp của họ là những tri thức khoa học, những giá
trị về tinh thần, được tạo ra trong quá trình nghiên cứu, sáng tạo, phát minh, giảng dạy,
quản lý có tác dụng định hướng cho nhận thức và hành động thực tiễn trên mọi lĩnh vực.
Đây chính là thái độ tích cực của tầng lớp xã hội này đối với tri thức và các vấn đề được
xã hội đặt ra. Bằng cách đó, họ thể hiện tính tích cực xã hội của mình không chỉ bằng việc
tạo ra kiến thức mới, mà bằng cả ý thức trách nhiệm, bằng việc tạo ra tư duy, tư tưởng,
củng cố và phát triển hệ giá trị xã hội - nền tảng tinh thần cho xã hội vận động và phát
triển. Họ là tầng lớp trí tuệ của xã hội, lao động trí tuệ, nên phải có trách nhiệm xã hội,
phải có sáng tạo như là điều kiện tất yếu. Sáng tạo có trong nhiều hình thái lao động,
nhưng ở tầng lớp trí thức thì sáng tạo là sáng tạo trí tuệ, tạo ra tri thức, giá trị cho xã hội

Thứ hai, trí thức là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu trong lĩnh vực công
việc của mình. Các sản phẩm do trí thức tạo ra được áp dụng vào mọi mặt của đời sống xã
hội, nhất là trong sản xuất làm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Ngày nay, cách
mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã và đang trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp thì Trí thức ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa
xã hội và hội nhập khu vực, quốc tế. 

Thứ ba, trí thức là những người truyền bá và áp dụng tri thức vào thực tiễn.  Họ nắm giữ,
có vai trò chuyển giao kiến thức cho những người khác và thế hệ khác, họ chỉ ra cách lưu
giữ, chuyển giao và phương thức vận dụng, phát triển các kiến thức ấy trong những điều
kiện và phạm vi xác định. Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, việc sáng tạo ra

14
kiến thức vẫn rất quan trọng như trước đây, nhưng việc chỉ ra và chuyển giao phương
thức sử dụng kiến thức, sử dụng công nghệ trở nên có vai trò nổi bật trong nội dung cấu
thành đặc trưng của giới trí thức hiện đại. Đây là một đặc trưng rất quan trọng, thể hiện
lao động chuyên môn, trí tuệ sáng tạo, chuyên nghiệp. Thiếu nó, xã hội sẽ không phát
triển nhanh được, thế hệ sau không thể tiếp thu các thành tựu trí tuệ của các thế hệ trước,
không thể đứng trên vai thế hệ trước để phát triển.

Hội nghị Trung ương 7 khóa X, về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” khẳng định đội ngũ trí thức là lực lượng nòng
cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, là nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của
mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.

2.2 Nội dung liên minh công – nông – trí thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
trong lĩnh vực kinh tế
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp. Hiê ̣n nay, vấn đề liên minh công nông
đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ
trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục
khẳng định phải “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”, để lực lượng
này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.  

Đảng ta xác định, liên minh là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Khi chưa có
chính quyền, liên minh để giành chính quyền. Khi đã có chính quyền, liên minh là nguyên
tắc cao nhất của chuyên chính vô sản để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo
và chính quyền nhà nước. Hiện nay, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
còn tồn tại các thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu, vận hành theo cơ chế thị
trường. nếu giai cấp công nhân không khéo tổ chức, không lôi kéo, lãnh đạo được toàn
dân, nhất là giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tin tưởng, ủng hộ và tham gia tích cực

15
vào đường lối cách mạng của Đảng thì sẽ không có cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc để
tiến hành xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển hết
sức nhanh chóng. Điều đó đòi hỏi phát triển mạnh mẽ kinh tế công nhân, và nông nghiệp,
mở rộng giao lưu hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, bảo đảm lợi ích của nông dân,
từng bước đưa nông dân lao động vào những hợp tác xã sản xuất từ thấp đến cao theo
định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm đời sống vật chất và nâng cao trình độ văn hóa,
khoa học kỹ thuật, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho công nhân, đó là những phương
hướng và nội dung cơ bản để duy trì và củng cố khối liên minh công-nông-trí thức.
 
Về kinh tế, từ đại hội VI, việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo
điều kiện cho mọi tầng lớp, giai cấp có cơ hội khả năng phát triển sáng tạo, làm giàu một
cách chính đáng. Điều đó đã giải quyết được lợi ích kinh tế của mỗi giai cấp đồng thời kết
hợp lợi ích kinh tế của các giai cấp công-nông-tri thức để đảm bảo cơ sở cho khối liên
minh vững chắc… Thể hiện ở chỗ ngày càng có nhiều hình thức hợp tác liên kết, giao lưu
và trong sản xuất và lưu thông giữa công – nông - tri thức trong nhiều lĩnh vực như công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học kĩ thuật hình thành các mô hình, các tổ chức liên
kết giữa các giai cấp và tầng lớp và với cả nhà nước. Chẳng hạn mô hình liên kết 6 nhà
trong nông nghiệp:  “nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà nông - nhà băng -
nhà phân phối” đã góp phần phát huy sức mạnh của khối liên minh công – nông - tri thức
trong nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước.

Viê ̣c thực hiê ̣n các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiê ̣p, khuyến khích và trợ
giúp nông dân trong tiến trình thực hiê ̣n nghị quyết các đại hô ̣i đảng đã phát huy tác dụng,
bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi: “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hô ̣i được tăng cường;
bô ̣ mă ̣t nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vâ ̣t chất và tinh thần của dân cư ở hầu
hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiê ̣n. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn.
Hê ̣ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát

16
huy. An ninh chính trị, trâ ̣t tự an toàn xã hô ̣i được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp
nông dân ngày càng được nâng cao”. Tuy nhiên, nông dân chưa được hưởng lợi tương
xứng với đóng góp cho sự phát triển đất nước. Các biện pháp kinh tế - kỹ thuật dù đã phát
huy tác dụng, nhưng sự chuyển biến tư duy của người nông dân vẫn chưa được như kỳ
vọng. Tâm lý tiểu nông còn khá nặng nề trong nông dân và trong cả những giai cấp, tầng
lớp khác…

Cùng với quá trình đổi mới, quá trình công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa đất nước, “giai cấp
công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng
về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bô ̣ phâ ̣n công
nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đô ̣i
tiền phong là Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam... Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hô ̣i của
đất nước, viê ̣c làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiê ̣n”. Tuy
nhiên, vấn đề phát triển giai cấp công nhân ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn nhiều
bất cập. Trình độ học vấn có xu hướng tăng, nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì vẫn chưa theo kịp. Đặc biệt, chúng ta
đang thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi. Đời sống
vật chất và tinh thần của công nhân nhiều nơi chưa được bảo đảm, kỷ luật lao động chưa
nghiêm, tác phong tự do tùy tiện. Quyền lợi hợp pháp của công nhân ở nhiều đơn vị bị vi
phạm, như trả lương không đúng hợp đồng, nợ bảo hiểm, bảo hộ lao động không bảo
đảm... Tình hình đó kéo theo sự giác ngộ giai cấp, ý thức chính trị cũng phai nhạt, nhất là
đối với bộ phận công nhân trong khu vực doanh nghiê ̣p có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI).

Trong tiến trình đổi mới “Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị... để tạo đô ̣ng lực
thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đô ̣i ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiê ̣n các chính
sách... sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức;... đãi ngô ̣, tôn vinh trí
thức... tạo điều kiê ̣n thuâ ̣n lợi để đô ̣i ngũ trí thức và các hô ̣i của trí thức hoạt đô ̣ng, phát
triển”. Tuy nhiên “đô ̣i ngũ trí thức nước ta còn bô ̣c lô ̣ nhiều hạn chế và yếu kém... Nhìn

17
chung, hoạt đô ̣ng nghiên cứu khoa học chưa xuất phát và gắn bó mâ ̣t thiết với thực tiễn
sản xuất, kinh doanh và đời sống”.

Với quan điểm đúng đắn về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng khối liên
minh công – nông - tri thức, nhiều thành quả đã tạo nên sự ổn định về phát triển đất nước:
 
Năm 2019, nước ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,02%/năm, thuộc
nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. GDP bình quân đầu người đạt 1.168
USD. Môi trường sống và làm việc có nhiều chuyển biến rõ nét; tình trạng xử lý nước
thải, khí thải, ô nhiễm môi trường và hoạt động quan trắc môi trường được quan tâm và
đầu tư có hiệu quả. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở
rộng.

Năm 2020 được xem là một năm của những khó khăn và thách thức lớn đối với kinh tế
thế giới nói chung, trong đó có Việt Nam. Kinh tế thế giới được dự báo suy thoái nghiêm
trọng nhất trong lịch sử, tăng trưởng của các nền kinh tế lớn đều giảm sâu do ảnh hưởng
tiêu cực của dịch Covid-19. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng với tốc
độ tăng GDP ước tính đạt 2,91%. Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng
một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu và sản lượng tôm năm 2020 tăng khá đã
đưa tốc độ tăng của khu vực này đạt 2,68%, cao hơn năm 2019 (2,01%). Đối mặt với tình
hình dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi, biến đổi khí hậu, thẻ vàng EC trong khai thác
thủy sản chưa được gỡ bỏ, đặc biệt là dịch Covid-19 nhưng khu vực này đã gặt hái được
kết quả tăng trưởng khả quan với nỗ lực vượt bậc thông qua các giải pháp chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, mùa vụ. Trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực công
nghiệp và xây dựng đạt tốc độ tăng cao nhất với 3,98%, đóng góp 1,62 điểm phần trăm
vào mức tăng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt
dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%. Đối với khu vực dịch vụ, tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 1,2% trong 6 tháng đầu năm
2020 so với cùng kỳ năm trước, nhưng sau đó đã phục hồi rõ rệt với tốc độ tăng 6 tháng

18
cuối năm đạt 6,2%, đưa lĩnh vực thương mại trong nước cả năm tăng 2,6%. Một điểm
sáng trong bức tranh kinh tế năm 2020 không thể không nhắc đến đó là xuất khẩu vượt
khó trong tình hình dịch bệnh, duy trì tăng trưởng dương; xuất siêu hàng hóa đạt mức cao
kỷ lục (19,1 tỷ USD) và cán cân thương mại duy trì xuất siêu 5 năm liên tiếp (Kim ngạch
xuất siêu hàng hóa các năm trong giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: 1,6 tỷ USD; 1,9 tỷ
USD; 6,5 tỷ USD; 10,9 tỷ USD; 19,1 tỷ USD). Việc ký kết các Hiệp định thương mại tự
do đã mang lại những tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là Hiệp định
Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Điều này phản ánh năng lực sản xuất
trong nước tăng trưởng cao, môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh được tạo thuận lợi
và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu. Đây
là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế khu vực EU suy giảm nghiêm trọng và tiếp
tục đối mặt với dịch Covid-19 diễn biến phức tạp.

Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Trong ứng phó
đại dịch Covid-19, Đảng, Nhà nước kiên định mục tiêu bảo vệ quyền con người, bảo hộ
công dân, bảo đảm sức khỏe và tính mạng của nhân dân với những chủ trương, quyết sách
mạnh mẽ, nhân văn, thể hiện tính ưu việt của xã hội ta. Trong chín tháng đầu năm 2020
đã có 31,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 do bị
mất việc, bị giảm giờ làm, giảm thu nhập…, trong số đó có 68,9% số người bị giảm thu
nhập. Trong bối cảnh dịch bệnh, kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, Chính phủ đã triển khai
nhiều biện pháp bảo đảm an sinh xã hội, như triển khai gói hỗ trợ người dân gặp khó khăn
do đại dịch Covid-19, gần 800 nghìn người được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Tính đến ngày 16-9-2020, nước ta đã tổ chức hơn 130 chuyến bay đưa hơn 35 nghìn công
dân Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn từ hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ về nước an
toàn. 

Tuy nhiên khối liên minh này ở một số địa phương còn mang tính hình thức không thực
chất, còn chưa chú trọng đến việc tăng cường khối liên minh ở những vùng sâu, vùng xa,
vùng nông thôn. Đồng thời ở một số địa phương việc thực hiện các chính sách của Nhà

19
nước còn chưa nghiêm túc, còn nhiều tiêu cực đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, đền bù,
thuế… nên nảy sinh một số điểm nóng tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị
xã hội ảnh hưởng tới mất quan hệ của nhân dân các Nhà nước và trong khối liên minh
công - nông - trí thức. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và môi trường, trong những năm
gần đây có đến 98% đơn thư, khiếu nại đều liên quan đến đất đai.

Ngoài ra do nhận thức của một số bộ phận người dân, đặc biệt là một bộ phận trí thức còn
lệch lạc về các chính sách của Đảng và Nhà nước nên đã bị các thế lực chính trị phản
động lợi dụng, lôi kéo đề gây mất trật tự an ninh xã hội, gây mất đoàn kết trong các tầng
lớp. Đôi khi cũng xảy ra những xung đột về lợi ích kinh tế giữa những người nông dân
sản xuất với các doanh nghiệp chế biến, thu mua xuất khẩu hay xung đột giữa người công
nhân với chủ lao động dẫn đến những bất ổn xã hội. Các chính sách giải quyết lợi ích cho
một bộ phận trí thức có trình độ, có khả năng đóng góp lớn cho đất nước còn chưa phù
hợp nên không thu hút được nguồn nhân lực trình độ cao này. Một bộ phận công nhân
chưa ý thức được lợi ích, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH, có nơi còn
gây khó khăn cho việc giải phóng mặt bằng trong việc xây dựng các công trình giao
thông, thủy lợi, điện hoặc các khu công nghiệp.

Ở Việt Nam hiện nay, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo ra
những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nghiệp khó
khăn, lâu dài và phức tạp, đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân
lao động, mà trước hết là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Liên
minh công - nông - trí là lực lượng cơ bản đóng vai trò quan trọng về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Khi sản xuất càng phát triển hiện đại thì giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân càng cần gắn bó chặt chẽ với đội ngũ trí thức để tạo thành nền tảng vững chắc
của chế độ và là cơ sở chính trị - xã hội bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
toàn xã hội và khối liên minh.

20
2.3 Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh công- nông - trí thức trong
khối đại đoàn kết dân tộc 
2.3.1 Hoàn cảnh
Trong quá trình biến đổi, nhiều vấn đề mới nảy sinh, đó là xã hội, giai cấp, tầng lớp, dân
cư đang trong quá trình phân hóa. Giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn, giữa
lao động trong khu công nghiệp và lao động lành nghề trong công nghiệp, ứng dụng công
nghệ cao, khoảng cách giữa thu nhập và mức hưởng của người đương chức và người nghỉ
hưu ngày càng lớn. Các nước nghèo đã có một tác động to lớn đến sự đoàn kết dân tộc.
Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến trại đại đoàn kết.

Thực tiễn đấu tranh lâu dài đã chứng minh liên minh công, nông, trí là nền tảng của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đây là cơ sở để tạo ra sức mạnh quyết định, bền vững trong
kháng chiến cũng như kiến quốc, phát huy hiệu lực cao trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
thể hiện tập trung sức sống, sức vươn lên của dân tộc.

2.3.2 Định hướng giải pháp chung


Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người đứng đầu và cả hệ
thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.
Thứ hai, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn
viên, hội viên và các giai tầng, các giới trong toàn dân tộc.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đa dạng hóa các hình
thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.
Thứ tư, tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối hợp giữa
chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm
công tác dân vận. 
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.

21
2.3.3 Giải pháp cụ thể với từng giai cấp
Một là, tiếp tục nâng cao đời sống vâ ̣t chất và tinh thần của các bô ̣ phâ ̣n trong khối liên minh
công - nông - trí thức.
Với giai cấp công nhân, đào tạo đội ngũ công nhân vững về tri thức nghề nghiệp, thành thạo kỹ
năng và thái độ lao động chuyên nghiệp, tích cực. Đây vừa là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa là đòi hỏi của quá trình hợp tác, phân công lao động và các
hiệp định thương mại khu vực, quốc tế. Gắn đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển các
ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu vực,
quốc tế, giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm nghề nghiệp và tác phong công
nghiệp.

Quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động. Có quy
định bảo đảm công bằng về tiền lương trong các thành phần kinh tế, bảo đảm giá trị tiền lương
thực tế để đủ cho cuộc sống của người lao động cùng con cái họ. Cải thiện môi trường lao động,
bảo hộ lao động, chăm lo sức khỏe thể chất và tinh thần của người công nhân, nhất là xây dựng
các thiết chế văn hóa, điều kiện nhà ở... tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng cường quản
lý, giám sát việc thực thi pháp luật, nhất là Luật Lao động, Luật Bảo hiểm, Luật Thuế thu nhập cá
nhân,... bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động; giải quyết các tranh chấp
lao động trên cơ sở luật pháp quốc gia và quốc tế... để “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của công nhân’’

Đối với giai cấp nông dân, khẩn trương hoàn thiện cơ chế liên kết kinh tế trong việc sản xuất, bảo
quản, chế biến, tiêu thụ hàng nông sản. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam đồng thời
với việc bảo vệ thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ. Các chính sách hợp tác, hỗ trợ, cung ứng
dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được thực
hiện đồng bộ, tích cực... bên cạnh các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cộng đồng. Nhà
nước thống nhất quản lý và điều hành hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông dân, nông
thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn nhà”. Có cơ chế, chính sách và cả cơ chế giám sát để hệ
thống vận hành một cách hiệu quả, bền vững, tạo cơ sở gắn kết các chủ thể lợi ích và các chủ thể
trong liên kết, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học
nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều
kiện thuâ ̣n lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao
22
động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện,
nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực
hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp”

Với tầng lớp trí thức, thực hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ phù hợp, nhất
là đội ngũ nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp, hình thành đội ngũ chuyên gia chiến
lược của đất nước đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư. Quan
tâm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến
của thời đại. Tạo cơ chế phù hợp để các nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng được phổ biến rộng
rãi, thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với các
sản phẩm đó. Quan trọng hơn, “Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên
cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống
hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức.
Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”.

Hai là, phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong sự nghiê ̣p xây dựng và bảo vê ̣ Tổ quốc
Đối với giai cấp công nhân, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, giác ngộ giai cấp, ý
chí tự lực, tự cường, tinh thần dân tộc. Trước mắt cần nâng cao sự hiểu biết về chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến lao động,
việc làm, chính sách xã hội, những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị trường lao động, quan
hệ lao động, hợp tác và cạnh tranh, hội nhập quốc tế theo cam kết của các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới, những vấn đề về sở hữu trí tuệ, phá sản, bảo hiểm. Bồi dưỡng tinh thần và ý chí
lao động, thái độ đối với sức ép cạnh tranh trong thị trường lao động, các kỹ năng giải quyết quan
hệ lao động, đặc biệt là lao động gắn với yếu tố nước ngoài, trong khu vực FDI.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp trong các
loại hình doanh nghiê ̣p. Đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn, hướng về cơ sở, nắm bắt kịp
thời, thường xuyên nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân và đấu
tranh, bảo vệ lợi ích của họ. Đội ngũ cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân
phải thường xuyên nâng cao về trình độ, khoa học, công nghệ, pháp luật, ngoại ngữ, tin học… đủ
sức tham gia có hiệu quả vào quá trình tập hợp, thu hút quần chúng công nhân, tổ chức hoạt động
cũng như bảo vệ lợi ích người lao động, cả trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế; phương
23
pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt, theo kịp với những thay đổi về lao
động, việc làm của giai cấp công nhân trong tình hình mới.

Đối với giai cấp nông dân, phải đặt vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho nông dân lên
hàng đầu. Nội dung giáo dục không chỉ giới hạn ở vấn đề chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công
nghệ mới, mà sâu xa hơn là nền tảng tri thức, văn hóa, tư duy, nếp nghĩ, thói quen của nông dân.
Khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ trong tư duy của nông dân, thúc đẩy nông dân tiếp cận với cái
mới, khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng chuyên nghiệp, văn minh trong sản xuất, kinh doanh
và tổ chức đời sống.

Ổn định và từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân và cư dân nông
thôn, khắc phục tình trạng “ly hương”, giảm sức ép về lao động mùa vụ ở các khu đô thị lớn cũng
như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn và thành thị, xây dựng nhà nông chuyên nghiệp với các
mô hình hợp tác, liên kết phong phú, đa dạng. Điều này vừa góp phần phát triển nông nghiê ̣p,
nông thôn, xây dựng nông thôn mới; vừa góp phần hạn chế những vấn đề xã hô ̣i có thể nảy sinh
do sức ép về dân cư và các sinh hoạt khác.

Đối với đội ngũ trí thức, cần tạo điều kiện, môi trường dân chủ hơn nữa cho lao động sáng tạo
của trí thức. Tạo điều kiện tối đa cho sự khai mở sáng tạo về tri thức, học thuật, văn hóa lắng
nghe; cũng như tôn trọng sự khác biệt trong đối thoại, phản biện của trí thức. Đầu tư cơ sở vật
chất, kỹ thuật phù hợp với nhu cầu nghiên cứu, khảo nghiệm, thực nghiệm, trao đổi học thuật và
phát triển tri thức, để thực sự “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ
quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”.

Ba là, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới khối liên minh.
Liên minh giai cấp bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu, lợi ích của chính bản thân các
chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên
tắc mang tính quy luật trong việc xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức là phải xác định
đúng các nhu cầu, phát hiện kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh của công nhân, nông dân, trí thức
trong từng giai đoạn cụ thể; trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội từ đó có
giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh giữa các

24
giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và phát triển xã
hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

III. KẾT LUẬN


Qua đề tài “Phát huy sức mạnh của khối liên minh giữa công nhân - nông dân - trí thức
trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” thì ta đã nắm bắt được
tính tất yếu và sự quan trọng trong vai trò của liên minh công- nông- trí thức trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Trong thời điểm hiện nay ở Việt Nam, thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã cải thiện, biến đổi cách mạng mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội rồi tạo tiền đề phát triển cho chủ nghĩa xã hội mà trong đó sự lãnh đạo
cảu Đảng Cộng sản phải được đảm bảo cho khối liên minh và toàn xã hội. Phân tích kĩ
càng từng giai cấp thì có được những giải pháp phát huy, gia tăng sức mạnh của liên minh
công-nông-trí thức cho từng riêng giai cấp và cả toàn thể nói chung. Dù đề ra được những
phương pháp như vậy nhưng sự hoàn thiện để phát huy sức mạnh không thể đạt được từ
mỗi đề đài này được, cho nên ta cần những phương hướng tiếp cận với những đối tượng
liên hệ cùng liên mình để có cách nhìn mới đối với các phương án mới có thể được đưa
ra.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.437
- Http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn/
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2016, tr. 36
- Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới năm 2020 ngày 13/10/2020 của IMF
- https://nhandan.com.vn/dang-va-cuoc-song/bao-dam-an-sinh-xa-hoi-va-phuc-loi-xa-hoi-
vi-hanh-phuc-am-no-cua-nhan-dan-624532/
- http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn/khoa-ly-luan-mac-lenin-tu-tuong-ho-chi-minh/vai-
tro-cua-lien-minh-giua-giai-cap-cong-nhan-voi-giai-cap-nong-dan-va-doi-ngu-tri-thuc-
trong-khoi-dai-doan-ket-dan-toc-o-nuoc-ta-hien-nay.html
- https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/phat-huy-vai-tro-cua-tri-
thuc-bo-phan-quan-trong-cua-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-o-nuoc-ta-trong-giai-doan-
hien-nay-41
- http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/vi-the-giai-cap-cong-nhan-viet-nam-mot-so-van-de-
dat-ra-ve-nhan-thuc-trong-boi-canh-moi-37951.html
- http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3476-vai-tro-dac-diem-giai-cap-
cong-nhan-viet-nam-trong-thoi-ky-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc.html
- http://truongchinhtri.daknong.gov.vn/nhung-ket-qua-dat-duoc-ve-lien-minh-cong-nong-
tri-thuc-trong-cong-cuoc-doi-moi-o-viet-nam-hien-nay/

26
- https://tapchicongsan.org.vn/quan-triet-va-thuc-hien-nghi-quyet-ai-hoi-xii-cua-
ang/-/2018/41992/ve-lien-minh-cong---nong-va-xay-dung-khoi-lien-minh-giai-cap-o-
nuoc-ta-trong-giai-doan-hien-nay.aspx
- https://moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/gioi-thieu-nqtw4/cung-co-phat-trien-khoi-dai-doan-
ket-toan-dan-toc-hien-nay-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-44095.html
- https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/phat-huy-suc-manh-toan-dan-toc-tren-nen-tang-
lien-minh-cong-nhan-nong-dan-tri-thuc-587154

27

You might also like