You are on page 1of 26

TRƯỜNG ĐẠI HỌCC VĂN HIẾN

KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ




Vũ Thị Như Quỳnh

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

TÊN HỌC PHẦN:


PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Ngành chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

Mã số sinh viên: 030219


Giảng viên hướng dẫn: Trần Thanh Tú

TP.HỒ CHÍ MINH, Tháng 11 năm 2021


TRƯỜNG ĐÀI HỌC VĂN HIẾN
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ


Vũ Thị Như Quỳnh

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

TÊN HỌC PHẦN:


PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

TÊN TIỂU LUẬN:


VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY

Ngành chuyên ngành: Quản trị kinh doanh


Mã số sinh viên:030219
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thanh Tú

TP.HỒ CHÍ MINH, Tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC
Mở đầu.......................................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 :.............................................................................................................................................3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG.................................................................................................................3
1 Khái niệm văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống............................................................................3
1.1 Khái niệm giữ gìn phát huy truyền thống dân tộc...........................................................................5
1.2 Mối quan hệ giữa pháp luật với văn hóa và các hiện tượng khác trong việc giữ gìn, phát huy các
giá trị truyền thống.................................................................................................................................6
2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG....................................................................................................................................7
2.1. Pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống thành các mục tiêu chung của đời sống xã hội..............................................................7
CHƯƠNG 3 :.............................................................................................................................................9
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................9
3.1 Pháp luật phải thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những quan điểm, chủ trương về giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống..........................................................................................................9
3.2 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống phải được
thể hiện đồng bộ giữa các khâu xây dựng, giáo dục, thực hiện và bảo vệ pháp luật......................10
3.3 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống phải gắn
với thực hiện các mục tiêu quốc gia về văn hóa.................................................................................12
3.4 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống phải phù
hợp với đường lối chính trị, điều kiện kinh tế- xã hội, với truyền thống dân tộc và phải xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc về kinh nghiệm của quốc tế........................13
3.5 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống phải gắn
với bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam..........14
4. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................15
4.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đối với việc thực hiện các mục tiêu xây dựng nền
văn hóa Việt Nam................................................................................................................................15
4.2 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa.......................................................................15
4.3 Tăng cường công tác thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ gìn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống và chuyển tải nội dung, bảo đảm hiệu quả điều ước quốc tế về văn
hóa mà Việt Nam tham gia.................................................................................................................17
4.4 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về
văn hóa, kết hợp với việc tuyền truyền, phổ biến các giá trị văn hóa truyền thống nhằm nâng cao
ý thức giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong nhân dân...........................................17
Tiểu kết chương 4,5 :...............................................................................................................................18
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................20
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
hiện đại, giàu bản sắc dân tộc là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chính
sách này đòi hỏi phải có bước đi thích hợp với sự tham gia của nhiều phương tiện
và nhiều thiết chế khác nhau như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, nhà nước,
các tổ chức xã hội bằng những phương thức và biện pháp khác nhau. Trong hệ
thống các thiết chế thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật có vai trò quan trọng
trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống (GTVHTT) tốt đẹp
của dân tộc, nhằm bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu xây dựng và phát
triển nền văn hóa. Để phát huy được vai trò đó, hệ thống pháp luật phải đồng bộ,
hoàn chỉnh. Từ đó pháp luật mới tạo lập được cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến phù hợp các tiêu chuẩn, chuẩn mực
mới, hiện đại nhưng cũng vừa phát huy hết các giá trị văn hóa đặc sắc vốn có
nhằm đáp ứng yêu cầu giữ vững giá trị cốt lõi của dân tộc đồng thời tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Hệ thống pháp luật Việt Nam bước đầu đã thể
chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc; tạo được hành lang pháp lý cơ bản cho các
hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT góp phần giáo dục nâng cao ý thức cho con
người cũng như góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Tuy
nhiên, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT vẫn còn nhiều hạn
chế. Cụ thể, pháp luật chưa chưa kịp thời thể chế hóa các quan điểm, chủ trương
của Đảng về giữ gìn và phát huy các GTVHTT; chưa bảo đảm hành lang pháp lý
vững chắc cho các chủ thể trong các hoạt động giữ gìn, phát huy giá trị ấy. Pháp
luật chưa trở thành một công cụ bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát huy
những giá trị ấy dẫn đến những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu quốc gia
về văn hóa. Bên cạnh đó, pháp luật cũng chưa làm tốt vai trò giáo dục nâng cao ý
thức con người đối với việc giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền
thống trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến chính
sách xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc và
không phát huy được các GTVHTT trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, văn
hóa, xã hội. 2 Trên thực tế, ở một số địa phương hiện nay, có tình trạng lễ hội văn
hóa truyền thống được tổ chức tràn lan, gây lãng phí về thời gian và kinh phí, mất
trật từ an toàn xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, thậm chí, một số lễ hội bị
thương mại hóa. Việc lợi dụng các hoạt động văn hóa truyền thống nhằm trục lợi
và đáp ứng các lợi ích cục bộ ở các địa phương ngày càng phổ biến. Thực trạng
này đòi hỏi cần tăng cường vai trò của nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật nhằm phát huy và bảo đảm tính hiệu quả vai trò của pháp luật
trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Cần phải có lộ trình và bước đi thích
hợp để phát huy vai trò của pháp luật trong việc điều tiết các quan hệ xã hội bảo
đảm cho các hoạt động văn hóa ngày càng lành mạnh, phát huy tối đa các giá trị
văn hóa đặc sắc của dân tộc trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư. Qua
đó góp phần xây dựng xã hội văn hóa, văn minh, dân chủ và hiện đại. Trên bình
diện quốc tế, việc gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu hơn trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội đỏi hỏi pháp luật về văn
hóa trong điều kiện này phải tiên tiến, hiện đại bảo đảm sự tương thích với hệ
thống pháp luật các quốc gia khác, phù hợp với luật pháp quốc tế và nội dung của
các điều ước quốc tế có liên quan. Ngoài ra, pháp luật cũng phải bảo đảm giữ vững
các giá trị cốt lõi của văn hóa truyền thống đã làm nên cốt cách, bản sắc, tâm hồn
người Việt trong suốt chiều dài lịch sử mà trong quá trình phát triển cần phải giữ
vững. Trong điều kiện đó hệ thống pháp luật phải có vai trò chuyển tải nội dung,
bảo đảm củng cố, thực hiện các cam kết quốc tế về văn hóa mà Việt Nam tham
gia. Từ thực trạng và yêu cầu trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn vai trò của pháp luật về văn hóa nói chung và
vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói
riêng có tính cấp thiết. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam hiện
nay” làm Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến vai trò của pháp
luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, từ đó chỉ ra những vấn đề đã được nghiên cứu
và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT
ở Việt Nam. Cụ thể, phân tích làm rõ khái niệm, đặc trưng, nội dung, các yếu tố ảnh
hưởng đến vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam; đồng
thời, nghiên cứu kinh nghiệm về vai trò của pháp luật đối với giá trị truyền thống một
số quốc gia trên thế giới và rút ra giá trị tham khảo cho Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật để làm rõ những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến thực trạng vai trò của pháp luật trong
giữ gìn, phát huy GTVHTT.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn,
phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay
2. Phạm vi nghiên cứu
Là đề tài thuộc chuyên ngành lý luận về nhà nước và pháp luật, nên việc nghiên cứu
không đi vào nghiên cứu vai trò của một ngành luật cụ thể, mà luận án chỉ tài tập trung
nghiên cứu trong phạm vi: - Về nội dung: Thông qua nghiên cứu, phân tích hệ thống
pháp luật thực định có liên quan nhằm đánh giá vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát
huy GTVHTT ở Việt Nam, bao gồm cả các quy định pháp luật cụ thể và kết quả thực thi
các quy định đó đối thực tiễn một số nội dung trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt
Nam. - Về không gian: Để có dữ liệu phong phú và toàn diện, đề tài xác định phạm vi
nghiên cứu trên toàn quốc. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu thời gian từ năm 1986 đến
nay.
2.1 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống; quy nạp, diễn dịch, cụ thể: Ở Chương 1: Sử dụng
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp các tài liệu, công trình nghiên
cứu khoa học đã được công bố để khảo cứu các kết quả liên quan đến đề tài; từ đó chỉ ra
những vấn đề tiếp tục nghiên cứu của luận án. Ở Chương 2: Sử dụng phương pháp pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch để nghiên cứu, phân tích, luận giải
các khái niệm, phạm trù có tính lý luận về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
các GTVHTT.

CHƯƠNG 1 :

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN,


PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
1 Khái niệm văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống
Khái niệm văn hóa rất phức tạp và đa nghĩa, hiện nay đã có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa như: văn hóa là trình độ phát triển vật chất và tinh thần của loài người;
văn hóa là khái niệm có nội dung bao gồm khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn học, nghệ
thuật; văn hóa là khái niệm chỉ lối sống, nếp sống, đạo dức xã hội. Đã có rất nhiều nhà
Nhân học, Dân tộc học đã đưa ra vô số định nghĩa, mà cho đến nay cũng chưa thể nào
thống kê được. Có thể nói “văn hóa là cái mà khi nhắc đến, ai cũng có thể hình dung ra
được nó như thế nào nhưng lại không nói được chính xác nó là cái gì, có lẽ trong khoa
học xã hội và nhân văn chưa có khái niệm nào phức tạp như là khái niệm văn hóa. Năm
1988, khi phát động thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, ông Federico Mayor, Tổng giám
đốc UNESCO khi ấy đã đưa ra một định nghĩa có thể coi là định nghĩa của UNESCO cho
văn hóa như sau: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động mọi mặt của cuộc
sống con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua
hàng bao thế kỷ, nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối
sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”
Ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học thì văn hóa có
năm nghĩa: 1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử (ví dụ: kho tàng văn hóa dân tộc, văn hóa phương đông, nền
văn hóa cổ).
2. Những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thầnnói một
cách tổng quát (ví dụ: phát triển văn hóa; công tác văn hóa, văn nghệ).
3. Tri thức kiến thức khoa học (ví dụ: Văn hóa học, trình độ văn hóa). 25
4. Trình độ cao trong sinh hoạt văn hóa xã hội, biểu hiện của văn minh (ví dụ: Sống có
văn hóa, ăn nói thiếu văn hóa).
5. Nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở một tổng thể
những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau Ông cha ta trước đây hay
dùng khái niệm “văn hiến”, bao gồm các ý nghĩa: Xây dựng một quốc gia có điển chương
chế độ, kỹ cương sách vở, văn chương nghệ thuật với những anh hùng hào kiệt. Cùng với
sự tiếp biến văn hóa, thuật ngữ “văn hóa” đã dần xâm nhập vào đời sống xã hội và được
rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa quan tâm. Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng
định: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, học giả Đào Duy
Anh trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” thì cho rằng văn hóa là chung cho tất cả
các phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên nói tới cách sinh hoạt của con người tức
là văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan niệm văn hóa theo các quan điểm trên.
Trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942- 1943), lần đầu tiên Hồ Chí
Minh có nêu ra một định nghĩa về văn hóa như sau: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn Quan niệm trên về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thống kê các
yếu tố cơ bản của đời sống tinh thần của con người, mà còn làm rõ bản chất, chức năng
của văn hóa. Người đã coi văn hóa là đời sống tinh thần, là thuộc về kiến trúc thượng
tầng, để có sự phân biệt tương đối với các mặt khác của đời sống xã hội; văn hóa phải đi
tiên phong trong mọi nhiệm vụ bảo vệ và kiến thiết đất nước. Do đó, tại Hội nghị Văn
hóa toàn quốc vào tháng 11 năm 1946 Người khẳng định văn hóa phải soi đường cho
quốc dân đi.
Tuy nhiên, sự phân chia đó cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi “cái gọi là văn hóa vật
chất hay văn hóa vật thể thực ra là vật thể hóa các giá trị tinh thần” .Cho nên, không có
cái văn hóa thuần túy tinh thần nào mà lại không thấy qua một yếu tố vật chất để tồn tại
và biểu hiện được. Nói chung văn hóa là một hiện tượng xã hội có phạm vi biểu hiện rất
rộng. Vì thế theo GS. Đặng Xuân Kỳ khi tìm hiểu về lĩnh vực này khẳng định từ trước tới
nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa, chung quy lại có ba cách hiểu chính sau
đây: Thứ nhất, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất- đó là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của
mình trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc trưng của toàn bộ cuộc sống của
loài người.
Xây dựng văn hóa là xây dựng tất cả các mặt của đời sống xã hội và quan tâm đến trình
độ phát triển của con người. Thứ hai, văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp - đó là những giá
trị tinh thần, là đời sống tinh thần của xã hội, như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ
thuật… Như vậy, văn hóa chỉ là một mặt, chứ không phải là toàn bộ đời sống xã hội loài
người. Thứ ba, văn hóa còn được hiểu theo nghĩa hẹp nhất, thường dùng hàng ngày - đó
là trình độ học vấn của con người
Từ các phân tích trên, có thể nói hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa.
Các quan niệm đó được nghiên cứu bởi các ngành khoa học khác nhau nhưng có điểm
chung là đều khẳng định văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, văn hóa
bao hàm sự kết tinh của quá trình tiến hóa loài người. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án
khái niệm văn hóa được hiểu “là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu
vật chất và tinh thần của mình”. 28 Ngày nay, chúng ta đang xây dựng đất nước với một
hành trang văn hóa chủ yếu do xã hội truyền thống để lại, xã hội ấy đã tích lũy được
những giá trị văn hóa đạt tới đỉnh cao của xã hội văn minh nông nghiệp cổ truyền. Song
trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang đóng vai trò của lực
lượng sản xuất trực tiếp như hiện nay thì văn hóa càng đóng một vai trò quan trọng trong
việc đón nhận và sử dụng kịp thời những thành tựu khoa học công nghệ để xây dựng kinh
tế, văn hóa của đất nước trên nền tảng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
1.1 Khái niệm giữ gìn phát huy truyền thống dân tộc
Giữ gìn, phát huy GTVHTT là nội dung cốt lõi, yêu cầu bắt buộc trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay, đồng thời phải luôn gắn chặt với quá trình hội
nhập, tiếp nhận các giá trị của văn hóa đương đại. Qua đó, sẽ thúc đẩy thực hiện thành
công các mục tiêu về xây dựng, phát triển nền văn hóa và làm giàu đẹp thêm giá trị tốt
đẹp của văn hóa dân tộc.
Từ đó có thể khẳng định giữ gìn GTVHTT là việc lưu giữ lại, truyền lại, kế thừa lại
những yếu tố tích cực của văn hóa truyền thống để trở thành nền tảng, tiền đề cho xây
dựng và phát triển nền văn hóa mới tiên tiến, hiện đại. Như vậy, việc giữ gìn GTVHTT ở
đây không phải là quay về cái cũ, quá khứ mà là việc chắc lọc, có bổ sung và phát triển
các giá trị tích cực của văn hóa truyền thống, đồng thời loại bỏ các yếu tố lạc hậu, lỗi thời
không còn phù hợp.
Để giữ gìn các giá trị tốt đẹp đó cũng như phát huy tính tích cực của nó cần phải có sự
tham gia của nhiều thiết chế khác nhau trong hệ thống kiến trúc thượng tầng như văn hóa,
chính trị, pháp lý, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán....Trong hệ thống các thiết chế
đó, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu
xây dựng và phát triển nền văn hóa. Vì giữa pháp luật và văn hóa có mối quan hệ chặt
chẽ lẫn nhau, cho nên để sử dụng hiệu quả vai trò của pháp luật trong thực hiện mục tiêu
về giữ gìn, phát huy GTVHTT cần phải hiễu rõ mối quan hệ giữa pháp luật với văn hóa
với các hiện tượng khác để thấy được vị trí, vai trò, tầm quan trọng, sự cần thiết bảo đảm
vai trò của pháp luật đối với giá trị văn hóa truyền thống
1.2 Mối quan hệ giữa pháp luật với văn hóa và các hiện tượng khác trong việc giữ gìn,
phát huy các giá trị truyền thống
Pháp luật và văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của
mỗi quốc gia, là những công cụ nhà nước sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu đề ra
trong quá trình thực hiện chức năng quản lý. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh pháp
luật và văn hóa có mối quan hệ gắn bó, khăng khít và tương hỗ lẫn nhau.
Pháp luật và văn hóa đều là tổng hợp quy tắc, các chuẩn mực hành vi xử sự của các chủ
thể khác nhau khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội cụ thể, việc khẳng định giá trị các
quy tắc, chuẩn mực trên được thực hiện trong từng giai đoạn khác nhau. Những quy tắc,
chuẩn mực của văn hóa mang tính tự nguyện xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm của con
người đối với cộng đồng xã hội, ngoài phạm vi đã được chuẩn mực hóa, nó còn tồn tại
dưới nhiều dạng thức khác nhau. Do vậy nó sẽ hỗ trợ cho pháp luật những vấn đề, những
lĩnh vực mà pháp luật không thể hoặc chưa thể (vì các lý do khác nhau) điều chỉnh. Về
vấn đề này, các GTVHTT đóng vai trò quan trọng trong việc bỗ khuyết những hạn chế
của pháp luật đối với việc điều chỉnh hành vi con người trong các quan hệ xã hội. Những
quy tắc, chuẩn mực pháp luật thường mang tính phổ cập và là những chuẩn mực tối thiểu
cho mọi người phải thực hiện đồng thời nó được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của
nhà nước. Do đó, các GTVHTT một khi được nhà nước thể chế hóa thành các quy tắc,
chuẩn mực chung thì sẽ mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể khác nhau trong xã hội
có nghĩa vụ bảo vệ và phát huy. Sự tồn tại giữa pháp luật và văn hóa là song song nhau,
không phụ thuộc lẫn nhau mà cũng không loại trừ nhau, trái lại còn hỗ trợ và bổ sung cho
nhau phát huy hiệu quả hơn vì có cùng một mục đích là làm cho các quan hệ xã hội trật
tự hơn, tốt đẹp hơn và phát triển theo những định hướng đã được xác lập. Vì vậy, không
nên tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật hoặc bỏ qua hay đánh giá thấp các giá trị văn hóa
trong xây dựng và phát triển xã hội. Từ đó cho thấy một hệ thống pháp luật toàn diện,
đồng bộ, phù hợp và bảo đảm tính thống nhất là điều kiện tiên quyết để bảo đảm hiệu lực
thi hành cũng như phát huy tác dụng đối với việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT của
dân tộc. Ngược lại, nếu một hệ thống pháp luật trở nên lỗi thời, lạc hậu hoặc hiệu lực thi
hành kém hiệu quả rất khó để giữ gìn và phát huy các giá trị tích cực của văn hóa truyền
thống. Đồng thời, đó cũng là mãnh đất màu mỡ để các hiện tượng tiêu cực thuộc yếu tố
truyền thống trỗi dậy và thống lĩnh đời sống tinh thần của xã hội
Giữa pháp luật và văn hóa đều có điểm tương đồng - đều là yếu tố thuộc kiến trúc tượng
tầng, cho nên cùng chịu sự tác động của yếu tố chính trị và chịu sự quy định bởi các điều
kiện về kinh tế, xã hội trong quá trình tồn tại và phát triển. Do đó, một nền chính trị tốt
với một hệ quan điểm tiến bộ cùng với nền kinh tế phát triển và các điều kiện xã hội tốt
đẹp sẽ bảo đảm được một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đó cũng là điều kiện tiên quyết
cho hệ thống các giá trị văn hóa tốt đẹp hình thành và cùng với pháp luật xác lập nên hệ
thống các chuẩn mực điều chỉnh các quan hệ xã hội. Như vậy, mối quan hệ mật thiết giữa
pháp luật với văn hóa cho thấy văn hóavốn dĩ tồn tại trong mọi mặt của đời sống xã hội
nhưng vẫn cần tới pháp luật như là phương tiện bảo đảm hiệu quả để thể hiện nội dung,
mục đích, yêu cầu, phổ biến các giá trị của mình trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá
trị văn hóa phải trở thành nguyên tắc, mục tiêu của pháp luật khi đóng vai trò là quy tắc
chung, phổ biến cho cách xử sự của mọi thành viên khác nhau trong xã hội. Có thể khẳng
định rằng, những quan hệ giữa pháp luật và văn hóa được phân tích như trên là tiền đề cơ
bản để pháp luật thể hiện vai trò của mình trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam
hiện nay.

2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
2.1. Pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về giữ gìn, phát huy giá
trị văn hóa truyền thống thành các mục tiêu chung của đời sống xã hội
Pháp luật chuyển tải ý chí của giai cấp cầm quyền thành ý chí chung của toàn xã hội hay
nói cách khác đó là quá trình chuyển chủ trương, đường lối của giai cấp cầm quyền trở
thành quy tắc hành vi ứng xử của mọi người, mọi tổ chức trong xã hội. Vì vậy, pháp luật
luôn phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương
ấy thành các quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Do đó, việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện pháp luật
phải thấm nhuần các quan điểm thể hiện trong các đường lối, chính sách của Đảng. Trên
cơ sở quan điểm, đường lối đúng đắn về giữ gìn, phát GTVHTT, công tác xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật phải bảo đảm có sự kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm tăng sức đề kháng, chống văn hóa độc
hại, nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Vai trò của pháp luật
trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT chỉ có được khi thông qua hoạt động xây dựng
pháp luật, những quan điểm, đường lối về giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam của Đảng phải được thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật của nhà nước
với các quy phạm pháp luật cụ thể
Các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, các
giá trị mặt dù đã được lịch sử thẩm định, nhưng nếu một khi chúng không được pháp luật
quy phạm hóa thì nó chưa mang tính bắt buộc chung trong đời sống xã hội hiện đại. Bởi
vì trong thực tế đời sống xã hội, “có những hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức song
không vi phạm pháp luật và ngược lại, có những hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa
hẳn là vi phạm đạo đứcVì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là pháp luật ngày càng phải hoàn thiện
nhằm phát huy tốt vai trò trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; đồng thời, phải
đảm bảo hài giữa tinh thần của pháp luật với các GTVHTT, sao cho không làm mờ nhạt
vai trò của pháp luật nhưng vẫn phát huy tối đa các GTVHTT trong quá trình thực hiện
các mục tiêu về văn hóa, kinh tế, xã hội. Tổng thể các GTVHTT được thể hiện thông qua
một loạt các yếu tố về hình thức và nội dung của pháp luật, nhưng trong đó nổi bật là qua
hệ thống quyền và nghĩa vụ cụ thể trong những quan hệ pháp luật cụ thể và hệ thống chế
tài tương ứng với các loại trách nhiệm pháp lý. Do vậy, tính khách quan là điều kiện căn
bản để pháp luật gánh vác vai trò giữ gìn, phát huy GTVHTT, nếu không phù hợp với các
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của quốc gia trong những hoàn cảnh nhất
định, pháp luật sẽ trở thành công cụ quản lý kém hiệu quả, dẫn đến phá vở hệ giá trị văn
hóa tồn tại lâu dài của dân tộc. Điều đó đòi hỏi “pháp luật phải phản ánh chân thực khách
quan các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhưng không phải là một “dương bản” của
cuộc sống, mà trái lại là sự phản ánh tích cực và có giá trị phổ biến”
Xác định báo chí có vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát triển đất nước cũng như
trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân
tộc. Thông qua báo chí các GTVHTT của dân tộc có thể được phát hiện và giữ gìn, vun
đắp, tạo động lực cho sự phát triển, góp phần thúc đẩy sự hòa nhập của Việt Nam vào thế
giới bằng con đường văn hóa và chính báo chí sẽ làm cho thế giới hiểu hơn về giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam, con người Việt Nam. Luật báo chí năm 1989 và năm 2016
đều thể chế hóa chủ trương của Đảng về giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của
dân tộc, đó là: Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới
theo tôn chỉ, Mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế
- xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa
Xác định việc điều chỉnh các quan hệ nhằm thỏa mản nhu cầu vật chất và tinh thần hằng
ngày của con người- những quan hệ mà ở đó các GTVHTT dân tộc đã xuất hiện, được
bồi đắp, bảo vệ, giữ gìn và phát triển, do đó pháp luật phải thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và
giữ gìn, phát huy các giá trị đó. Thể hiện vai trò quan trọng đó của pháp luật trong đời
sống xã hội, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 quy định “hợp đồng dân sự được giao
kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, không trái với pháp luật và đạo đức xã hội”
[Điều 2]. Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và sau này được thay đổi bằng Bộ luật 2015; bộ
luật Lao động năm 2012 cũng thể chế hóa các quan điểm của Đảng về giữ gìn các giá trị
văn hóa truyền thống và được thể hiện ở chương “những nguyên tắc cơ bản”, trong đó có
nguyên tắc “tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp”.
Đạo luật ra đời cũng nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm
của nhân dân trong việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, đáp
ứng và thể chế hóa kịp thời các yêu cầu về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập. Sự ra đời của đạo luật cũng đánh dấu sự phát triển của pháp luật
nước ta trong vai trò thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam vừa hiện đại, vừa mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc.
Theo đó, đạo Luật không nằm ngoài mục đích xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
hiện đại nhưng giữ vững tính nhân đạo, nhân văn nhằm đưa các giá trị văn hóa Việt Nam
vào giáo dục và phát triển con người Việt Nam toàn diện về thể chất, tâm hồn và nhân
cách. Tại điều 12 Luật di sản văn hóa thể hiện nội dung trên: (1) Phát huy giá trị di sản
văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội; (2) Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; (3) Góp phần sáng tạo thêm những giá trị mới, làm giàu kho tàng di
sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế. Những quy định của Luật Di
sản văn hóa đã được xây dựng theo hướng cởi mở và sát với thực tiển, nhằm tạo hành
lang pháp lý thông thoáng và môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước,
đồng thời đạo luật cũng góp phần mở rộng giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế. Qua đó,
phát huy tối đa và làm đặc sắc thêm các GTVHTT của dân tộc.

CHƯƠNG 3 :

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG
GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1 Pháp luật phải thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những quan điểm, chủ trương về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc là nội dung cốt
lỗi của tiến trình phát triển đất nước, tại Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh tiếp tục
“phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc”, đây là
nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng thông qua được xác định nền văn hóa đó là một trong
tám đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Đảng ta, nó góp phần trực tiếp
tạo nên phẩm chất và giá trị của xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là, sẽ không có chủ nghĩa
xã hội nếu chúng ta không phát triển văn hóa, không giữ gìn và phát huy được những giá
trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.
Từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của nền văn hóa được xác định, pháp luật phải thể
hiện những xứ mệnh, trách nhiệm quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu quốc
gia về xây dựng và phát triển nền văn hóa. Theo đó, pháp luật phải làm cho mọi hoạt
động văn hóa nhằm hướng đến xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn 125 diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng
nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia
đình, cộng đồng và xã hội.
Phải nhìn nhận rằng, các GTVHTT không phải là cẩm nang, không phải chìa khóa vạn
năng để làm được nhiệm vụ lớn lao về phát triển đất nước trong thời đại mới. Do đó, phải
có sự tham gia của tất cả các loại hình thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần; của các loại hình
văn hóa, đặc biệt là những thành tựu của văn hóa hiện đại, nếu biết khai thác và phát huy
tốt các GTVHTT hoàn toàn có khả năng tham gia nuôi dưỡng và phát triển những phẩm
chất cao đẹp của con người Việt Nam đã được hun đúc qua lịch sử ngàn năm. Những giá
trị, chuẩn mực của văn hóa truyền thống đó phải trở thành phẩm chất của con người Việt
Nam trong thời kỳ mới, tất cả các loại hình văn hóa truyền thống, thông qua sự chọn lọc,
phát huy và biết cách truyền bá sinh động, đa dạng sẽ tham gia có hiệu quả vào các nhiệm
vụ trên

3.2 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống phải được thể hiện đồng bộ giữa các khâu xây dựng, giáo dục, thực hiện và
bảo vệ pháp luật
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và hiệu quả, có kế thừa và phát triển các giá
trị pháp lý của dân tộc là tiền đề vật chất thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Do đó, hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về văn hóa phải chú ý các GTVHTT, lấy đó làm mục tiêu và thước đo
chất lượng. Mặt khác, phải kết hợp hài hòa giữa GTVHTT với tính hiện đại trong việc
xây dựng các khung pháp lý. Làm được điều đó tức là pháp luật đã đạt được tính khách
quan, tính tôn trọng và tự giác thực hiện, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.
Do vậy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm giữ gìn, phát huy GTVHTT phải
trên cơ sở quan điểm phát triển toàn diện, hướng mọi hoạt động giữ gìn, phát huy
GTVHTT với việc xây dựng con người Việt Nam phát triển về thể chất, tâm hồn và trí
tuệ. Qua đó, tạo lập đồng bộ cơ sở pháp lý, bảo đảm tự do, dân chủ cho hoạt động sáng
tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá, huy động sự tham gia nhiều hơn, hiệu quả hơn của
xã hội vào việc bảo vệ, phát huy giá trị văn hoá dân tộc; ngăn chặn việc lưu hành các sản
phẩm văn hoá độc hại.
Như vậy, vấn đề không phải là làm được bao nhiêu luật mà điều quan trọng hơn là chất
lượng, tính hiệu quả, phù hợp với các chủ trương, chính sách và yêu cầu của xã hội đối
với các văn bản pháp luật. Vì vậy, những hạn chế, bất cập của pháp luật nếu không phát
hiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời sẽ cản trở việc phổ biến, tuyên truyền các GTVHTT
trong nhân dân, phát huy các giá trị đó trong việc hướng tới các giá trị xã hội bền vững và
ổn định. Mặt khác, nếu pháp luật không đảm bảo tính ổn định với những thay đổi, xáo
trộn liên tục, tùy tiện thì cũng không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện để bảo đảm
giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Do đó, các mục tiêu về việc xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam cũng không đạt được.
3.3 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống phải gắn với thực hiện các mục tiêu quốc gia về văn hóa
Trong thời đại ngày nay, văn hóa trở thành vấn đề mang tính toàn cầu và liên quan tới các
quyền của con người hơn bao giờ hết. Không thể có một GTVHTT được bảo tồn và phát
triển khi mà các quyền con người, các giá trị nhân bản của xã hội bị chà đạp, hạn chế; khi
mà con người đói nghèo hoặc không có nhiều cơ hội để phát triển. Như vậy, giữ gìn, phát
huy các GTVHTT phải đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người và chính sách xã
hội trong một nền kinh tế thị trường, chỉ trong điều kiện như thế GTVHTT mới phát huy
các giá trị của mình một cách hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cũng giống như các giá trị văn hóa cần phải giữ gìn và phát
triển, các quyền của con người cũng phải được bảo vệ bởi một chế độ pháp quyền mà ở
đó mọi hoạt động của cá nhân được bảo hộ bởi pháp luật, nhằm làm cho con người được
thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Đó là lý do gắn việc giữ gìn, phát huy
GTVHTT với việc bảo đảm các quyền con người như những mục tiêu của hoàn thiện và
nâng cao vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
Việc hoàn thiện pháp luật theo hướng bảo đảm các quyền con người và chính sách xã hội
hướng con người đến sự phát triển toàn diện đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm hiện
nay:
Thứ nhất, việc thể chế hóa các quyền con người phụ thuộc rất nhiều vào ý chí, lợi ích của
giai cấp cầm quyền, vào các điều kiện kinh tế- xã hội và truyền thống văn hóa của mỗi
quốc gia. Nhưng việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của con người là việc làm phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Điều đó còn xuất phát từ những ràng buộc của các công
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Vì vậy, việc rà soát
lại các quy định hiện hành nhằm điều chỉnh và bổ sung những nội dung, yêu cầu cập nhật
về quyền con người trong điều kiện mới là một đòi hỏi tất yếu của hoạt động hoàn thiện
pháp luật ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, không phải cứ mở rộng quyền con người, xây dựng các chính sách xã hội thì
mặc nhiên chúng ta đã giữ gìn, phát huy được các GTVHTT, vấn đề là ở chỗ tạo ra
những cơ sở thực tế và được bảo đảm bằng pháp luật để cho các quyền đó được thực hiện
Thứ ba, việc đảm bảo vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT còn đòi hỏi
phải sử dụng pháp luật như một phương tiện có hiệu quả để thực hiện các mục tiêu quốc
gia về văn hóa. Thực tiễn sự điều chỉnh của pháp luật đối với các chính sách văn hóa còn
nhiều hạn chế, bất cập, điều đó không những bộc lộ trong hệ thống pháp luật thực định
mà cả hoạt động thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể
3.4 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống phải phù hợp với đường lối chính trị, điều kiện kinh tế- xã hội, với truyền
thống dân tộc và phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn
lọc về kinh nghiệm của quốc tế
Trong mối quan hệ với chính trị thì “một đạo luật là một biện pháp chính trị, là chính trị”
cụ thể hơn pháp luật trong trường hợp này là sự cụ thể hóa đường lối của đảng về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc. Ở một
phương diện khác, pháp luật lại là công cụ tổ chức và thực hiện đường lối chính trị có
hiệu quả nhất. Chính sự phù hợp giữa pháp luật với đường lối của Đảng sẽ đặt ra những
đòi hỏi chính đáng cho cả hai phía, đó là: một mặt, pháp luật phải trở thành phương tiện
đắc lực cho việc thể chế hóa và thực thi kịp thời, chính xác chủ trương, đường lối của
Đảng về văn hóa, nhưng mặc khác, để có pháp luật đúng đắn, đáp ứng các yêu cầu về giữ
gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc thì trước hết, đường lối chính trị của Đảng về văn
hóa phải xuất phát từ những luận cứ khoa học, phù hợp với cuộc sống, với các giá trị văn
hóa của dân tộc, hợp lòng dân và có khả năng hội nhập vào xu thế của thời đại.
Học thuyết Mác- Lênin về pháp luật chỉ ra rằng pháp luật là ghi chép lại một cách tích
cực sự tồn tại và vận động của các quan hệ kinh tế. Do đó các giá trị văn hóa nếu được
giữ gìn, phát huy trong điều kiện hệ thống pháp luật cao hơn hoặc thấp hơn trình độ và
chính sách phát triển của một nền kinh tế, tất yếu sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực:
hoặc nó sẽ trở nên duy ý chí hoặc nó sẽ không được phát huy trong đời sống xã hội. Vì
vậy, để bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT trước tiên cần
phải có hệ thống pháp luật phù hợp với những điều kiện về kinh tế - xã hội trong những
giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, pháp luật không phải là bản sao các quan hệ kinh tế, mà
pháp luật phải có khả năng tiên liệu xu hướng vận động các quan hệ kinh tế, về những
tiền đề khách quan và chủ quan để từ đó tham gia vào việc hoạch định chính sách kinh tế
đúng đắn. Bên cạnh đó, pháp luật còn phải có vai trò đảm bảo sự kết hợp giữa các giá trị
văn hóa với tăng trưởng kinh tế bền vững. Đảng đã chỉ rõ: “Những thành tựu của cách
mạng khoa học- công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để
chúng ta tiếp thụ những thành quả trí tuệ của loài người, đồng thời cũng đặt ra những
thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc”
Tính độc đáo của mỗi nền pháp luật tuyệt nhiên không phải là lý do để chúng tồn tại biệt
lập với nhau. Giao thoa, hội nhập với các hệ thống pháp luật khác là phương cách để một
nền pháp luật tự nhận ra mình, để tích lũy và phát triển theo một định hướng. Trong xu
thế quốc tế hóa, giao lưu, tiếp biến là qui luật cơ bản của sự phát triển văn hóa, không
một nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối cổ xưa, thuần khiết và không bị ảnh hưởng
bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định văn hóa Việt
Nam là do ảnh hưởng của văn hóa phương Đông và phương Tây chung đúc lại. Thực
hiện chính sách mở cửa, hội nhập trên tất cả các lĩnh vực, do đó Việt Nam cần thiết tiếp
thu và chấp nhận tiếp biến giá trị tốt đẹp của văn hóa các quốc gia, dân tộc khác để phát
triển nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, không thể đứng ngoài xu thế chung của nhân loại,
muốn phát triển đất nước thì phải hội nhập, phải tiếp nhận những giá trị văn hóa, văn
minh của nhân loại, những tiền đề vật chất và tinh thần mà thời đại tạo ra.
3.5 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống phải gắn với
bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một quốc có sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo nhưng đoàn kết, thống nhất
trong các quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo nên “một bản sắc Việt 132 Nam” trước
cộng đồng thế giới, như Đảng đã khẳng định: “Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều
có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau,
làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ
vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em”
Vì thế chính sách, pháp luật về văn hóa đối với các dân tộc, tôn giáo là một bộ phận
không thể tách rời của chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, là một nội dung quan trọng
trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, nhằm bảo đảm vai trò giữ
gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế nhiều diễn biến phức tạp
như hiện nay, chính sách, pháp luật đó, một mặt phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng; tự do sáng tạo văn hóa, bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc
mình; mọi dân tộc, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; chống lợi dụng dân tộc, tôn
giáo vì những ý đồ xấu. Nhưng mặt khác, phải tôn trọng và khuyến khích các nhân tố tích
cực của các dân tộc, tôn giáo trong đời sống xã hội. Những ý tưởng về công bằng, bác ái,
hướng thiện trong mỗi tôn giáo tuy có sắc thái, mức độ khác nhau song cần được khuyến
khích vì chúng phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo lý và pháp luật của chúng ta
Để quán triệt quan điểm chỉ đạo và thực hiện tốt các phương hướng trên, đòi hỏi cần phải
có những giải pháp bảo đảm vai trò của pháp luật thích hợp nhằm tạo động lực thúc đẩy
cho sự phát triển, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng thành
công nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc
Tính đa dạng văn hóa đang trở thành một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa,
nhưng tính đa dạng văn hóa phải đi đôi với việc đảm bảo vai trò điều chỉnh của pháp luật
trong việc thực hiện các mục tiêu văn hóa mới đảm bảo phát triển văn hóa bền vững và
đúng hướng. Trái lại, nếu trong quá trình giao lưu, hội nhập giữa các vùng văn hóa hoặc
giữa văn hóa nước ta với văn hóa các nước trên thế giới, lại chỉ chú trọng trong tính đa
dạng mà không có ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị độc đáo của văn hóa dân tộc thì
đó sẽ là một nguy cơ phát triển không bền vững. Từ đó, chẳng những làm mất đi giá trị
văn hóa dân tộc mà còn làm cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
không đạt được mục tiêu mà Đảng đã đề ra, đó cũng là điều mà cả thế giới quan tâm và
chính UNESCO cũng đã cảnh báo.
4. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đối với việc thực hiện các mục tiêu xây
dựng nền văn hóa Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, đường lối lãnh đạo
của Đảng là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các văn bản pháp luật, với phương châm
là linh hồn của pháp luật và nó phải hóa thân vào pháp luật. Tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng không có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay nhà nước, làm phai mờ các chức
năng quản lý, điều hành của các cơ quan chức năng nhà nước, mà chính là tăng cường sự
lãnh đạo thông qua đường lối chung về mọi mặt của đời sống xã hội và đường lối về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam nói riêng.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không phải bằng cách đưa ra nhiều Chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng mà cần định hướng chung và các cấp ủy địa phương, cơ sở cần định hướng các
chuyên đề cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn về công tác văn hóa của từng địa
phương, từng vùng, miền khác nhau. Đồng thời, sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm
không gây cản trở cho các cơ quan chức năng thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của mình trong việc giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm pháp luật của các
tổ chức, cá nhân đối với GTVHTT. Có như vậy mới đảm bảo được nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa, tránh được tình trạng can thiệp của Đảng vào công tác xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật, bảo đảm được phương châm: “Mọi người sống và làm việc theo pháp
luật”. Ngoài ra, cần đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 32- CT/TW ngày 09 tháng 12 năm
2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân.
Không một cán bộ, đảng viên nào được phép đặt mình trên pháp luật, mọi hoạt động đều
trên cơ sở pháp luật. Về vấn đề này ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn mạnh:
“Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và
làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất
cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải bị xử lý”
4.2 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
Để bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT đạt hiệu quả thiết
thực, Nhà nước phải dựa trên những phương hướng, đường lối của Đảng về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đề
ra các biện pháp cụ thể, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh trong mỗi giai đoạn nhất
định. Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa các cấp đóng vai trò quan trọng trong xây
dựng kế hoạch, đề ra nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu văn hóa, bảo đảm hoàn thành các
mục về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Do đó, hệ thống các cơ quan phải
bảo đảm kiện toàn đồng bộ với các đơn vị quản lý và đơn vị sự nghiệp nhằm thực hiện
đồng bộ nghiên cứu, quản lý mọi mặt của đời sống văn hóa một cách có hiệu quả nhất.
Để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi các chủ thể quản lý phải:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, nghiên cứu GTVHTT của
dân tộc nhằm đề xuất luật hóa các giá trị văn hóa truyền thống, phát huy tối đa các giá trị
đó trong đời sống xã hội. Nghiên cứu giải pháp nhằm tạo ra sự hài hòa giữa văn hóa và
pháp luật trong quản lý góp phần vào thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Thứ hai, xây dựng và thực hiện các chương trình, chiến lược phát triển văn hóa phải chú
trọng các GTVHTT, coi đó là cội nguồn tạo ra những giá trị bất tận về văn hóa, làm nên
nền tảng tinh thần của xã hội. Do đó, cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo tồn và phát
huy các giá trị của di sản văn hóa theo quy định hiện hành như bảo vệ di sản văn hóa các
dân tộc thiểu số nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống tốt đẹp. Đồng
thời, ra sức tuyên truyền, bài trừ các hủ tục lạc hâu, mê tín dị đoan, kiên quyết xử lý
nghiêm những hành vi cố tình vi phạm.
Thứ ba, thực hiện tốt các nhiệm vụ được thể chế trong Luật Di sản văn hóa như sớm hoàn
thành cơ bản việc tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn hóa; tổ
chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình di sản văn hóa
phi vật thể; khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu
giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể.
Thứ tư, xây dựng cơ chế phối hợp trong việc thực hiện các mục tiêu chương trình, chiến
lược về văn hóa trong hoạt động quản lý nhà nước giữa ngành văn hóa với các ngành, các
cấp; giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm tăng
cường các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa, quảng bá hình ảnh, đất nước, con người,
văn hóa Việt Nam. Qua đó, cũng cố nguồn lực phát triển nền công nghiệp văn hóa góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội nhằm tạo nguồn nội lực ổn định thực
hiện các mục tiêu về giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Thứ năm, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, rà soát nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập
của các chính sách, pháp luật và chủ động tham mưu đề xuất các cấp có thẩm quyền điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Đồng thời, theo dõi và có ý kiến khi các
dự thảo chính sách, pháp luật điều chỉnh không phù hợp với các yều cầu, mục tiêu về xây
dựng và phát triển nền văn hóa cũng như gây ra những khó khăn cho các chủ thể trong
việc giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Thứ sáu, các cơ quan quản lý các cấp cần thực hiện tốt chính sách tôn vinh, đãi ngộ đối
với các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho việc bảo tồn và phát triển các
giá trị di sản văn hóa.
4.3 Tăng cường công tác thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống và chuyển tải nội dung, bảo đảm hiệu quả
điều ước quốc tế về văn hóa mà Việt Nam tham gia
Pháp luật là cơ sở, nền tảng để tiến hành mọi hoạt động quản lý nhà nước trong một
khuôn khổ nhất định và hiệu quả nhất, từ đó làm cho xã hội được ổn định, có trật tự hơn.
Muốn bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT cần tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này. Do đó, cần tăng cường thể chế
hóa quan điểm của Đảng thành pháp luật, tạo ra sự ràng buộc và động viên tối đa các chủ
thể văn hóa tham gia vào việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Phải thường xuyên rà soát,
đánh giá, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa bảo đảm đồng bộ,
tránh chồng chéo, trùng lắp và thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa. Phải xây dựng các
chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng hoàn hệ thống pháp
luật tạo hành lang pháp lý vững chắc về giữ gìn, phát huy GTVHTT. Trên cơ sở Nghị
quyết số 48/- NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020”, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan có thẩm quyền
cần tiến hành lập kế hoạch xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam mang tính chiến lược lâu dài. Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về văn hóa Việt Nam sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc củng cố, bổ sung,
đổi mới hệ thống pháp luật về giữ gìn và phát triển các GTVHTT ngày càng đầy đủ, đồng
bộ; thể chế kịp thời, đúng đắn đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa; tạo
tiền đề cơ sở cho việc đảm bảo vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT
hiện nay.
4.4 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật về văn hóa, kết hợp với việc tuyền truyền, phổ biến các giá trị văn hóa
truyền thống nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
trong nhân dân
Có thể nói mọi hoạt động của xã hội muốn thành công phải bắt đầu từ con người và vì
con người. Muốn giữ gìn, phát huy GTVHTT cần phải nâng cao ý thức người dân để họ ý
thức được trách nhiệm, vai trò quan trọng của chính họ trong sự nghiệp này. Do đó, cần
phải tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân
đối với GTVHTT trong đời sống xã hội, giúp cho người dân thấy được sự cần thiết và
tầm quan trọng của giá trị đó trong đời sống cộng đồng cũng như trong quá trình phát
triển. Giáo dục pháp luật là nội dung quan trọng trong việc bảo đảm vai trò của pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội, vì “công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật
là hoạt động có mục đích, tác động đến các chủ thể thông qua việc cung cấp một lượng tri
thức pháp lý cần thiết, nhằm nâng cao ý thức pháp luật, là cơ sở hình thành hành vi hợp
pháp của mỗi công dân”
Trước tiên, cần đặc biệt chú trọng giáo dục về ý thức tôn trọng lẽ phải, cái đúng, cái tốt
đẹp, tôn trọng các giá trị đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục được cộng đồng thừa
nhận trong các trường học, ở các bậc học; cần nêu cao gương tốt trong xã hội như lối ứng
xử nhân hậu, nhân văn, tương trợ giúp đở nhau trong cuộc sống; những ràng buộc pháp
luật phù hợp với những ràng buộc về mặt đạo đức xã hội.
Cần phối hợp với cơ quan giáo dục về chương trình giáo dục các giá trị văn hóa truyền
thống ở các cấp học hiện nay, nhất là đối với các bậc học phổ thông; việc giáo dục về ý
thức giữ gìn các GTVHTT phải được cải tiến về nội dung và phương pháp giảng dạy. Do
đó, để đạt được mục tiêu trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải phối hợp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc đưa các nội dung giáo dục GTVHTT vào trường học. Phải
coi các GTVHTT của dân tộc như là một nội dung của giáo dục- đào tạo. Tuy nhiên, bên
cạnh việc giáo dục các GTVHTT cần phải biết “gạn đục, khơi trong” để các thế hệ mai
sao thấy được các giá trị đích thực của văn hóa truyền thống trong việc xây dựng và phát
triển đất nước trong lịch sử và hiện tại. Đồng thời với thực hiện nhiệm vụ trên là kết hợp
giáo dục con người về các giá trị tích cực của cuộc sống hiện đại như tôn trọng pháp luật,
kỷ cương, kỷ luật, lao động cần cù nhưng biết sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật trong cuộc sống. Thực hiện được điều này sẽ có ý nghĩa giáo dục con người mới
trong tương lai văn minh, hiện đại, có kỷ luật, kỷ cương nhưng đồng thời cũng biết yêu
quí những giá trị tốt đẹp của dân tộc và có nhân cách tốt, có lối sống nhân văn, nhân
nghĩa. Như vậy sẽ có một lớp người có kỷ luật, kỷ cương, có ý thức cao trong việc giữ
gìn, phát huy các giá trị của văn hóa truyền thống nhưng đồng thời cũng biết xây dựng,
phát triển đất nước trên nền tảng các giá trị văn hóa đó.

Tiểu kết chương 4,5 :


Giữ gìn, phát huy được các GTVHTT không chỉ là nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng
nền văn hóa mà còn là bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, góp phần ổn
định chính trị, bảo đảm sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Các quan điểm chỉ đạo
nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT tập trung vào các
vấn đề: Pháp luật phải thể chế hóa kịp thời và đầy đủ những quan điểm, chủ trương của
Đảng về giữ gìn, phát huy GTVHTT; phải được thể hiện đồng bộ, hiệu quả giữa các khâu
xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật; phải gắn việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về
văn hóa; phải phù hợp với đường lối chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, với truyền thống
dân tộc và phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc về kinh nghiệm của
quốc tế; phải gắn với việc tạo lập tính thống nhất trong đa dạng của cộng đồng văn hóa
các dân tộc Việt Nam.
Giải pháp chủ yếu cho việc bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT trong thời gian tới cần đặt trọng tâm vào các vấn đề như: Nhóm giải pháp về
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, trong đó phải thực hiện các giải pháp là: (1) Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với đối với việc thực hiện các mục tiêu xây dựng nền văn hóa
Việt Nam; (2) Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Nhóm giải pháp đẩy
mạnh công tác xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý
vững chắc cho các chủ thể trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, theo đó cần thực hiện các
giải pháp: (1) Tăng cường công tác thể chế hóa nhằm bảo đảm kịp thời hiện thực hóa các
quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ gìn, phát huy GTVHTT và chuyển tải nội dung,
bảo đảm hiệu quả điều ước quốc tế về văn hóa mà Việt Nam tham gia; (2) Tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật; (3) Luật hóa các quy tắc đạo đức
nghề nghiệp; (4) Xây dựng và hoàn thiện các quy định nhằm tạo ra tính đồng bộ, thống
nhất và hiệu lực pháp lý của hệ thống văn bản pháp luật; (5) Kế thừa có chọn lọc các giá
trị pháp lý truyền thống tốt đẹp trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giữ gìn, phát
huy GTVHTT. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện và xử lý nghiêm minh những vi
phạm pháp luật về văn hóa, trong đó phải: (1) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về văn hóa, kết hợp với việc tuyền
truyền, phổ biến các GTVHTT nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy GTVHTT trong
nhân dân; (2) Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật
và xử lý nghiêm các vi phạm về trách nhiệm, nghĩa vụ giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn lực trong xây dựng và thực hiện các mục tiêu văn
hóa, trong đó chú ý: (i) Đẩy mạnh công tác xây dựng và và phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác giữ gìn, phát huy GTVHTT; (2) Tăng cường bảo đảm
nguồn lực tài chính.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu, đánh giá vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam
là vấn đề phức tạp ở cả phương diện lý luận và thực tiễn- sự phức tạp thể hiện ở ngay đối
tượng nghiên cứu của luận án, đó là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Việc nghiên
cứu các vấn đề thuộc nội dung của luận án nhằm thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của đề
tài luận án về cơ bản đã đạt được. Kết quả nghiên cứu trên các phương diện lý luận và
thực tiễn đời sống pháp lý ở nước ta đã được thể hiện ở các chương 2, chương 3 và qua
đó đã làm sáng tỏ các vấn đề sau:
Trong thời kỳ đổi mới đến nay nhận thức về văn hóa nói chung và văn hóa truyền thống
nói riêng đã có sự thay đổi rõ rệt, nhất là từ khi Nghị quyết Trung ương lần thứ năm
(khóa VIII) đề ra chiến lược “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Từ đó, vấn đề giữ gìn, phát huy GTVHTT cũng đã thu hút được
sự quan tâm của xã hội. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, vì có giữ được các GTVHTT và phát huy các giá trị đó trong công
cuộc kiến tạo xây dựng và phát triển đất nước thì đó sẽ là đóng góp rất quan trọng cho
chiến lược phát triển văn hóa mà Đảng đã đề ra trong thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ
nghĩa của đất nước. Giữ gìn, phát huy được GTVHTT không chỉ là nhằm thực hiện mục
tiêu xây dựng nền văn hóa mà còn là bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế,
góp phần ổn định chính trị, bảo đảm sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế.
Đây là một vấn đề lớn không thể giải quyết ngay được, mà đòi hỏi phải có một quá trình
với sự hỗ trợ của một hệ thống đồng bộ các phương tiện chính trị, pháp luật, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Lẽ tất nhiên pháp luật luôn được coi là phương tiện quan trọng và không thể
thay thế nhờ vào các hình thức, phạm vi, các thuộc tính của nó. Vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT được thể hiện trong hoạt động xây dựng pháp luật với
việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc bằng việc xác lập được một hệ
thống pháp luật đồng bộ và thống nhất, bảo đảm hiệu quả thực thi trên phạm vi toàn xã
hội. Từ đó GTVHTT được giữ gìn và phát huy thông qua việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể và thông qua ý thức pháp luật của nhân dân.
Huy động các yếu tố truyền thống để phát triển xã hội nhưng không đồng nhất với bảo
thủ trì trệ. Do đó, mọi hệ chính sách và chiến lược phát triển văn hóa phải bù đắp và chọn
lọc các yếu tố của truyền thống. Các chính sách về xây dựng và phát triển các yếu tố văn
hóa từ trong lòng sâu của xã hội phải thiết lập được sự đổi mới. Giữ gìn, phát huy
GTVHTT bằng cách kế thừa, tiếp thu có chọn lọc hệ giá trị truyền thống của dân tộc, của
nhân loại và xây dựng một hệ giá trị mới trên nền tảng truyền thống, đó là mục tiêu của
các chính sách và chiến lược văn hóa. Với những gì làm được, luận án hy vọng đóng góp
vào việc giải quyết những đòi hỏi cấp thiết về lý luận và thực tiễn nhằm bảo đảm vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đào Duy Anh (2006), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
2. Hải Anh (2013), "Hàn Quốc: các chính sách văn hóa ưu tiên phục hưng và hạnh phúc",
Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (4).
3. Vũ Hải Anh (2017), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người theo pháp luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Võ Mai Anh (2006), Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo
vệ rừng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
5. Augustus B. Ajibola (2013), "Khi cái vô hình gặp cái hữu hình: 10 năm thực hiện việc
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể: kinh nghiệm, bài học của Nigeria và định
hướng toàn cầu trong tương lai", Bài tham luận tại Hội Thảo quốc tế “10 năm thực hiện
Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO- Bài học kinh nghiệm và định
hướng tương lai”, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tổ chức tại thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam.
6. Đặng Văn Bài, 10 năm thực hiện công ước UNESCO 2003 ở Việt Nam: Thành tự và
những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, tại trang http://quydisan.org.vn [truy cập ngày
17/4/2017].
7. Ban Chỉ đạo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW (2015), Báo cáo tổng
kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà
Nội.
8. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiên trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Lê Bảo (2016), "Sức mạnh mềm của văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam",
Tạp chí Văn hóa học, (4).
10. Nguyễn Trần Bạt (2011), Văn hóa và con người, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
11. Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển bách khoa & Viện Văn hóa, Hà Nội.

12. Đỗ Văn Bích (1996), Đổi mới, hoàn thiện pháp luật trong phòng chống văn hóa độc hại và tệ nạn xã
hội ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ khoa học Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.

13. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

14. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

15. Trương Quốc Bình (2013), "Vận dụng những quan điểm của UNESCO vào việc hoạch định chính sách
và hệ thống pháp lý về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc
tế: 10 năm thực hiện Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và
định hướng tương lai, Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
16. Bộ Ngoại Giao (2015), Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở Việt
Nam, tại trang http://www.mofahcm.gov.vn [truy cập ngày 29/8/2018].

17. Bộ Văn hóa - Thông tin (2005), Báo cáo tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn
2001- 2005, kế hoạch năm 2006 và định hướng triển khai xây dựng và thực hiện chương trình giai đoạn
2006-2010, Hà Nội.

18. Bộ Văn hóa - Thông tin (2007), Đề án hỗ trợ phát triển văn hóa 16 dân tộc thiểu số có số dân dưới 5
ngàn người giai đoạn 2007- 2010, Hà Nội.

19. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Báo Nhân dân, Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Hội thảo khoa học quốc gia- Những giải pháp
tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Hà Nội.

20. Bộ Văn hóa, Thể thao Và Du lịch (2017), Đề án Hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình
đến năm 2021, định hướng đến 2026, Hà Nội.

21. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch (2018), Báo cáo về Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt
Nam vì sự phát triển bền vững, Tại Hội nghị Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát
triển bền vững, vào ngày 27/7/2018 tại Hà Nội.

22. C.Mác (1971), Sự khốn cùng của triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.

You might also like