You are on page 1of 34

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI


KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH
------------------------

BÀI THẢO LUẬN


HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI 3
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG
GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên : Phạm Thị Hương


Mã lớp HP : 2212HCMI0121
Nhóm : 08

Hà Nam , 2022
Danh sách thành viên nhóm 08
STT MSV Họ và tên Lớp HC Chức vụ

75 21D110207 Lò Thanh Như K57B3KS Thành viên

76 21D110168 Vũ Thị Hồng Nhung K57B2KS Thành viên

77 21D110014 Lê Thu Phương K57B2KS Thành viên

78 21D110169 Trần Thị Phương K57B2KS Thành viên

79 21D110208 Nguyễn Kim Phượng K57B3KS Thành viên

80 21D110209 Trần Văn Quang K57B3KS Nhóm trưởng

81 21D110171 Lưu Thị Quỳnh K57B2KS Thành viên

Nguyễn Thị Diễm


82 21D110210 K57B3KS Thành viên
Quỳnh

83 21D110015 Nguyễn Xuân Quỳnh K57B3KS Thành viên

84 21D110172 Nguyễn Thị Hà Thanh K57B2KS Thành viên

85 21D110173 Nguyễn Minh Thành K57B2KS Thành viên


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN.....................................................................................................................1


LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................................4
CHƯƠNG 1: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.......................................................................................4
I. KHÁI NIỆM CHUNG..............................................................................................4
1. Khái niêm gia đình..................................................................................................4
2. Khái niệm thời kỳ quá độ lên CNXH....................................................................4
II. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (QUY MÔ, KẾT CẤU CỦA GIA ĐÌNH).....................4
1. Biến đổi trong quy mô, kết cấu............................................................................4
2. Biến đổi trong thực hiện chức năng của gia đình...............................................5
3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình.............................................................8
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC
TRONG GIA ĐÌNH ĐỔI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN
NAY....................................................................................................................................10
I. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH
(NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TẠI GIA ĐÌNH)
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................................10
1. Yếu tố kinh tế.......................................................................................................10
2. Yếu tố chính trị....................................................................................................11
3. Yếu tố văn hoá.....................................................................................................11
4. Yếu tố pháp luật..................................................................................................13
II. NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG
GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY. 13
1. Đối với nhà nước.................................................................................................13
2. Đối với cộng đồng................................................................................................14
3. Đối với gia đình...................................................................................................15
4. Đối với cá nhân....................................................................................................16
III. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC
TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY.....................................................................................................................18
1. Đối với nhà nước.................................................................................................18
2. Đối với cộng đồng..................................................................................................18
3. Đối với gia đình......................................................................................................19
4. Đối với cá nhân......................................................................................................20
IV. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ...................................................20
V. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐIỀU CHỈNH SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC
NĂNG GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ
HỘI TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI..........................................................................22
1. Phương hướng.......................................................................................................22
2. Giải pháp................................................................................................................26
PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................29
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, Nhóm 8-chúng em xin gửi lời cảm ơn đến Trường Đại học Thương
Mại vì đã đưa học phần "Chủ nghĩa xã hội khoa học" vào chương trình học của sinh viên.
Sau một thời gian học tập lý thuyết, cùng với quá trình nghiên cứu tài liệu, nhóm 8 đã
hoàn thành bài tiểu luận cuối kỳ học phần "Chủ nghĩa xã hội khoa học".

Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên Phạm Thị Hương.
Nhờ những bài giảng tâm huyết của cô, nhóm chúng em đã có cơ hội tìm hiểu về sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu
hiện khoa học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân
và đặc biệt là những đặc điểm, tính tất yếu của thời kì quá độ lên CNXH, từ đó áp dụng
vào bài tiểu luận cuối kỳ của mình.

Trong suốt các buổi học, chúng em đã rất cố gắng trau dồi thêm kiến thức để hoàn
thành tốt nhất bài tiểu luận này. Tuy nhiên, do năng lực và trải nghiệm thực tế của chúng
em còn hạn chế, nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em kính mong có giúp
đỡ, góp ý để bài tập cuối kỳ của nhóm 8 chúng em được hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!!!

1|2 9
LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình không chỉ là “tế bào" tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội.
Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát
triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình được tiếp nhận, phát triển
góp phần xây dựng, tô thăm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân tộc.Đại hội XI, Đảng
ta đã khẳng định : “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có
ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có trí thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn
hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”.

Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có một
môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội.
Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, có trách nhiệm
nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích Cùng với
nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ", tạo ra lực lượng
lao động tương lai chất lượng cao. Gia định chính là “đơn vị xã hội" đầu tiên cung cấp lực
lượng lao động cho xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến lao động trí
óc... đều được sinh ra, nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.

Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội mà còn là môi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục tiếp sống, hình thành nhân cách con trẻ. Gia đình là nơi giữ
gìn, vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam đã hình thành trong quá trình lịch sử dụng nước, giữ nước. Đó là lòng yêu
nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiểu nghĩa, hiếu học,
cần cù, sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách...

Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà thực chất là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh nghiệp vụ và quản lý kinh tế xã hội. Và cùng với sự phát triển
về các mặt khác của xã hội, các vấn đề mới cũng đã nảy sinh, trong đó vấn đề gia đình
với nhiều biến đổi phức tạp, bên cạnh những biến đổi tích cực thì gia đình Việt Nam ngày

2|2 9
nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mang tính tiêu cực do chịu sự chi phối lớn từ nền
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước.

Chính vì vậy, Nhóm 8 chúng em chọn đề tài “Sự biến đổi của gia đình Việt Nam
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” làm cơ sở lý luận chính cho bài thảo luận này.Hơn
nữa, trong bối cảnh Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước, Gia đình Việt Nam sẽ trải
qua nhiều khó khăn, thử thách trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đặc biệt là việc
giáo dục trong gia đình là điều tất yếu, quan trọng đối với gia đình Việt Nam. Vậy xuất
phát từ bối cảnh đó đặt ra những câu hỏi: Những biến đổi chức năng giáo dục trong gia
đình đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay gặp những mặt ưu điểm và hạn
chế gì? Nguyên nhân của những han chế là gì? Và Chúng ta cần đưa ra những phương
hướng và giải pháp như thế nào để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong xã hội
hiện nay?.

Để có thể hiểu rõ hơn về Đề tài 3 mà Nhóm 8 chúng em lựa chọn làm bài thảo luận,
thì chúng ta hãy cùng lắng nghe, và tìm hiểu về đề tài qua bài trình bầy và thuyết trình của
nhóm chúng em .

Mọi sự góp ý của giảng viên và các bạn cho bài thảo luận của nhóm em là cơ hội
cho nhóm em có thể hoàn thành chỉnh chu bài thảo luận của nhóm mình một cách xuất sắc
nhất!

Nhóm thực hiện


Nhóm 08

3|2 9
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM CHUNG
1. Khái niêm gia đình
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch sử của loài
người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người bắt đầu tư tổ chức cuộc sống như một
cộng đồng độc lập cũng là lúc các mô hình cộng đồng nhỏ - hình thức sơ khai của gia
đình ra đời. Như vậy, gia đình chính là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt tập hợp
những người gắn bó với nhau trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc đo
quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ các thành viên trong
gia đình või nhau.

Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn
nhân và gia đình (Điều 8. Giải thích từ ngữ ): “Gia đình là tập hợp những người gắn bó
với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh
các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo qui định của Luật này”.
2. Khái niệm thời kỳ quá độ lên CNXH
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ các biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn
diện từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội XHCN. Nó diễn ra trong toàn bộ nền các lĩnh
vực của đời sống xã hội, tạo ra các tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết để hình thành một
xã hội mới mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội XHCN từng bước được thực
hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào xây
dựng cơ sở chất kỹ thuật và kết thúc khi đã xây dựng xong về cơ bản cơ sở vật chất- kỹ
thuật của xã hộ.
II. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (QUY MÔ, KẾT CẤU CỦA GIA ĐÌNH)
1. Biến đổi trong quy mô, kết cấu
Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại. Trong quá

4|2 9
trình này, sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái mới là
một tất yếu. Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ | biến ở
các đô thị và cả ở nông thôn - thay thế cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ
đạo trước đây.

Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành
viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn tại đến ba
bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô gia đình | hiện đại đã
ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ cùng sống
chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biệt còn có
số ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt nhân quy mô
nhỏ.

Quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều
kiện của thời đại mới đặt ra. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư
của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia
đình truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích
cực, thay đổi chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ thống xã hội, làm cho xã hội
trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.

Tất nhiên, quá trình biến đổi đó cũng gây những phản chức năng như tạo ra sự
ngăn cách không gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở lực trong việc
gìn giữ tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Xã hội ngày càng
phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của riêng mình với mục đích kiếm thêm
thu nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vì vậy mà ngày càng ít đi. Con người dường
như rơi vào vòng xoáy của đồng tiền và vị thế xã hội mà vô tình đánh mất đi tình cảm gia
đình. Các thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau và giao tiếp với nhau hơn, làm cho mối
quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo...
2. Biến đổi trong thực hiện chức năng của gia đình
a) Chức năng tái sản xuất ra con người

Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng có của
gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy trì nòi giống,

5|2 9
nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức lao động
cho xã hội.

Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của
chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng
của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân cư... và nhiều yếu tố khác liên
quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ phát triển kinh tế, xã hội... Vì vậy sinh đẻ của
mỗi gia đình khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà còn là một nội dung quan trọng của
mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách
có kế hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là mục
tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.

b) Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển mang
tính bước ngoặt: Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa. Thứ hai, từ đơn
vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc gia
thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường
toàn cầu.

Hiện nay, kinh tế gia đình đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm hàng hóa,
kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong việc chuyển sang sản xuất kinh
doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu.

Gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.

Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của
gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng
hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống
vật chất và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để
tạo ra một môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng
thời để duy trì sở thích, sắc thái riêng của mỗi người.

6|2 9
c) Chức năng giáo dục (Xã hội hóa)

Chức năng giáo dục của gia đình là chức năng xã hội quan trọng của gia đình nhằm
tạo ra người con hiếu thảo, người công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường học
đầu tiên, cha mẹ là những người thầy cô giáo đầu tiên trong cuộc đời môi con người. Do
đó nội dung của giáo dục gia đình cũng phải toàn diện bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm,
đạo đức, lối sống, ý thức cộng đồng, cách cư xử… Dưới góc độ luật học, khái niệm chức
năng giáo dục của gia đình có thể hiểu là nhiệm vụ, vai trò của gia đình thông qua việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các thành viên nhằm hoàn thiện nhân cách, năng lực của
mỗi cá nhân là thành viên của gia đình.

Từ khái niệm chức năng giáo dục của gia đình, ta thấy những đặc điểm về mặt chủ
thể, cách thức, mục tiêu hướng tới việc thực hiện chức năng này…

o Thứ nhất, về mặt chủ thể thực hiện chức năng giáo dục của gia đình là các cá
nhân có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, đó thường là những người sống
chung một mái nhà và việc tạo dựng gia đình dựa trên các căn cứ pháp lý.
o Thứ hai, mục tiêu của việc thực hiện chức năng giáo dục trong gia đình nhằm
định hướng, nâng cao nhận thức về mặt đạo đức, lối sống mà không nhấn mạnh tới các
kiến thức văn hóa như giáo dục tại nhà trường.
o Thứ ba, chức năng giáo dục của gia đình không chỉ giới hạn trong việc cha mẹ
bảo ban, dạy dỗ con về hành vi ứng xử, đạo đức mà còn được thể hiện qua sự chỉ bảo,
hướng dẫn học tập và đặc biệt là tạo điều kiện cho con thực hiện quyền học tập của mình.
Do đó, con cái cũng có nghĩa vụ góp phần thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.

 Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ - thế hệ
tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì sự
trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa.

d) Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí, duy trì tình cảm.

Nhờ vào quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nên thành viên gia đình có tình
yêu thương và ý thức, trách nhiệm với nhau. Chính vì vậy, gia đình là nơi để mỗi được
chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, được thỏa mãn nhu cầu tình cảm, cân bằng tâm lý,
giải tỏa ức chế... từ các quan hệ xã hội.

7|2 9
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu mến,
ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan, truyền lại
cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính, vâng lời cha mẹ,
vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau... Ở đó, mỗi người cảm nhận được
sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc giường... đến những quan hệ họ
hàng thân thiết.

Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ và có
sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó sẻ tạo nên
sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong gia đình, dòng họ,
thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình thành trong làng xóm,
trong xã hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước, con người

 Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình
cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành
viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của
mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về
mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người. Với việc duy trì
tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển
của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có
nguy cơ bị phá vỡ.
3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình
Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại, toàn cầu
hóa….khiến các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như:

o quan hệ vợ chồng - gia đình lỏng lẻo;


o gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình,
o quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân,
o chung sống không kết hôn.

Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cô đơn, trẻ em sống
ích kỷ, bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục.

8|2 9
 Từ đó, dẫn tới hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, kiểu gia
đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ gia đình đơn thân, độc
thân, kết hôn đồng tính, sinh con ngoài giá thú…Ngoài ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại
(công việc căng thẳng, không ổn định, di chuyển nhiều…)cũng khiến cho hôn nhân trở
nên khó khăn với nhiều người trong xã hội.

Gia đình truyền thống Gia đình hiện nay

Người chồng là trụ cột của gia đình - Người chồng làm chủ gia đình

- Người vợ làm chủ gia đình


Mô hình
- Cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia
đình

Người chồng là người chủ sở hữu tài Người chủ gia đình được quan
sản của gia đình, người quyết định niệm là người có những phẩm chất,
các công việc quan trọng của gia năng lực và đóng góp vượt trội
Đặc điểm đình Người chủ gia đình phải là người
kiếm ra nhiều tiền cho thấy một đòi
hỏi mới về phẩm chất của người
lãnh đạo gia đình

9|2 9
CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC
TRONG GIA ĐÌNH ĐỔI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY
I. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH
(NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TẠI GIA ĐÌNH)
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Yếu tố kinh tế

Sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử luôn có những tác động
tới các yếu tố xã hội khác. Đối với việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, có thể
thấy sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn hiện nay và giai đoạn phong kiến khi trình độ kinh
tế-xã hội có sự khác biệt đáng kể. Nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho mỗi cá nhân,
mỗi gia đình có điều kiện tích lũy, làm giàu và tự do đầu tư vào các hoạt động theo nhu
cầu. Nhờ đó chức năng giáo dục của gia đình được cải thiện đáng kể. Trong gia đình con
trai và con gái đều được tới trường học tập và được chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho
việc thực hiện giáo dục tại gia đình.

Tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời đặt ra cho sự phát triển giáo dục những yêu
cầu mới như:

- Phải gắn hoạt động của giáo dục với nhu cầu thị trường lao động của các cơ sở kinh
tế nhà nước, tập thể và tư nhân (đào tạo có địa chỉ hoặc theo nhu cầu trực tiếp của xã hội).
Hiện nay ở VN, nhiều trường đào tạo không phải trên cơ sở nhu cầu xã hôi mà là trên cơ
sở nhu cầu và tâm lý người học, phần nhiều trong đó là chạy theo những ngành "mốt".

- Giáo dục phải đón đầu được khuynh hướng kinh tế để đào tạo các ngành nghề mới
phù hợp với xu hướng phát triển của công nghệ và đời sống.

Khi nền kinh tế bị suy thoái, thu nhập của dân cư giảm sút, điều kiện sinh hoạt
xuống cấp, việc làm và các yếu tố thiết yếu khác của người dân gặp khó khăn thì giáo dục
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực, hậu quả có thể là số lượng học sinh và quy mô cũng như các
loại hình trường lớp cũng bị thu hẹp, số người bỏ học và mù chữ tăng lên... chính điều đó
lại ảnh hưởng tiêu cực trở lại đối với tăng trưởng kinh tế.

10 | 2 9
2. Yếu tố chính trị
Về mặt chính trị, sự ổn định của môi trường chính trị là một yếu tố góp phần phát
triển mọi mặt của xã hội. Khi môi trường sống có trật tự, ổn định thì việc thực hiện các
chức năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục sẽ được đầu tư hơn về mặt thời
gian, công sức, qua đó sẽ thu được những hiệu quả như mong đợi. Ngược lại, khi tình
hình chính trị bất ổn, môi trường sinh hoạt không ổn định thì tâm lý, thời gian đều bị chi
phối và việc tập trung cho bất cứ một hoạt động cụ thể nào là điều không dễ dàng.
3. Yếu tố văn hoá
Về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, sự tác động của phong tục, tập quán có những
ảnh hưởng nhất định đối với đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội cũng như của mỗi
thành viên trong gia đình. Trong thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng
Nho giáo nên trong gia đình, sự giáo dục thường được thực hiện bởi người đàn ông –
người giữ vai trò gia trưởng. Điều này đã hạn chế sự hiểu biết của mỗi cá nhân đối với các
vấn đề xã hội bên ngoài gia đình. Ngày nay, với việc tăng cường quyền bình đẳng giới,
trong gia đình và ngoài xã hội người phụ nữ được tôn trọng và được trao quyền nhiều
hơn, cả trong giáo dục con cái. Nội dung giáo dục đối với các con không chỉ dừng ở các
quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ gia đình mà còn bao gồm cả cách ứng xử ngoài xã hội,
các kiến thức chung về xã hội, khoa học…

Nếu như trước kia, bố mẹ luôn là người có tiếng nói rất quan trọng, thể hiện rất rõ
quyền uy đối với con cái, con cái chỉ biết nghe và chịu sự chi phối rất rõ nét thì ngày nay,
con cái đã được đối thoại với cha mẹ, được trao đổi, thảo luận nhiều vấn đề trong cuộc
sống. Con cái có thể nói lên những nguyện vọng, những chính kiến riêng của mình. Cha
mẹ không chỉ đơn thuần là những người bề trên dạy bảo con cái mà hơn thế, trong rất
nhiều gia đình, đặc biệt là những gia đình thành thị và trí thức, cha mẹ còn là những người
bạn sẵn sàng chia sẻ tâm tư, tình cảm với con cái.

Quan niệm về con cái cũng khác trước. Trước đây, người ta thường nghĩ đông con
là có phúc nên việc có nhiều con là bình thường. Nhưng ngày nay, xu thế các ông bố bà
mẹ chỉ muốn sinh ít, số lượng con chủ yếu là một hoặc hai con. Chủ yếu họ đánh giá cao
sự nuôi dạy con cái thế nào cho tốt chứ không phải số lượng thành viên trong gia đình.

11 | 2 9
Quan niệm về hôn nhân trong gia đình truyền thống cũng khác với gia đình hiện
đại. Trước đây, sự chi phối của cha mẹ trong hôn nhân của con cái rất lớn. Có nhiều gia
đình bố mẹ có vai trò quyết định đến việc chọn bạn đời cho con. Giờ đây, thanh niên có
sự chủ động chọn bạn đời cho mình. Họ được chủ động tìm hiểu và quyết định hôn nhân.
Vấn đề môn đăng hộ đối không còn theo quan niệm nặng nề như trước đây nữa. Chủ yếu,
thanh niên tự chọn bạn đời cho mình theo những tiêu chí riêng như hợp nhau về lối sống,
quan niệm, nhận thức, tâm sinh lý...

Văn hóa gia đình còn thể hiện rõ nét trong vai trò của người phụ nữ trong gia đình.
Sự thay đổi này là do sự bình đẳng giới hiện nay mang lại. Người phụ nữ hiện nay được
chủ động trong công việc xã hội và nuôi dạy con cái hơn trước đây. Trước đây, người phụ
nữ luôn chỉ là người đóng vai trò chính trong việc nội trợ và nuôi dạy con cái, ít có quyền
quyết định những vấn đề lớn trong gia đình. Ngày nay, người phụ nữ đã tham gia cả vào
hoạt động kinh tế trong gia đình. Đa số trong các gia đình, người đàn ông vẫn được coi là
người chủ trong gia đình, nhưng hiện nay cũng xuất hiện nhiều bà mẹ đóng vai trò tay
hòm chìa khoá, làm chủ gia đình. Họ có tiếng nói nhất định trong gia đình, kể cả những
vấn đề quan trọng nhất như việc lo công ăn việc làm, cưới xin cho con cái. Điều này
chứng tỏ nhận thức của xã hội về người phụ nữ nói chung đã thay đổi.

Quan niệm về con trai cũng dần dần thay đổi. Nếu như trước kia, việc có con trai là
nhân tố quan trọng trong gia đình, nhiều gia đình quan niệm phải nhất thiết có con trai.
Ngày nay, quan niệm này đã bắt đầu có sự thay đổi. Con gái cũng được đánh giá cao
trong gia đình. Nhiều gia đình khi phân chia tài sản vẫn chia đều cho con cái không phân
biệt trai gái. Tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng dần giảm nhẹ, nhiều người cho rằng vấn
đề ở đây là việc con cái trưởng thành ra sao chứ không phải việc con trai hay con gái.

Những giá trị truyền thống quý báu của gia đình Việt Nam truyền thống vẫn được
bảo tồn và phát huy: trách nhiệm và sự hy sinh vô tận của cha mẹ và con cái,con cái hiếu
thảo với cha mẹ,con cháu kính trọng và biết ơn ông bà cha mẹ,tổ tiên… Đồng thời gia
đình Việt Nam cũng tiếp thu nhiều tinh hoa,giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại như: tôn
trọng tự do cá nhân, tôn trọng quan niệm và sự lựa chọn mỗi người,bình đẳng nam nữ
trong nghĩa vụ và trách nhiệm, bình đẳng trong thừa kế, không phân biệt đối xử giữa con
trai và con gái. Đó chính là đặc trưng của gia đình truyền thống được phát huy, gia đình

12 | 2 9
Việt Nam hiện nay đang được củng cố và xây dựng theo phương hướng hiện đại, dân chủ,
bình đẳng, tự do, tiến bộ. Trong bối cảnh hiện nay,gia đình Việt Nam đã biến đổi 1 cách
toàn diện: quy mô gia đình ở Việt Nam đang ngày càng thu nhỏ. Sự giao thoa giữa nhiều
nền văn hoá khác nhau đã tác động tới nếp sống gia đình Việt Nam. Những mô hình gia
đình nhiều thế hệ theo kiểu"tứ đại đồng đường",có khi tới chục người cùng sống chung
trong 1 ngôi nhà đang dần được thay thế bằng gia đình ít người, thường chỉ thấy có 2 thế
hệ cha mẹ con cái hay có thể đến thế hệ thứ ba,rất hiếm thấy gia đình có 4-5 thế hệ cùng
chung sống
4. Yếu tố pháp luật
Việc pháp luật ghi nhận trách nhiệm giáo dục con cái là của cha mẹ và quyền lợi
của trẻ em trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của
gia đình. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục…cho thấy mối quan hệ giữa gia đình và pháp luật
về việc giáo dục mỗi cá nhân – công dân. Nói cách khác, việc thực hiện các quy định của
pháp luật về giáo dục trong gia đình cũng chính là một trong các cách nhằm thực hiện
chức năng giáo dục của gia đình. Cụ thể:

+ Ngày 28/6 hàng năm được chọn là "Ngày gia đình Việt Nam",nhằm nhắc nhở
mỗi thành viên của gia đình và toàn xã hội nêu cao trách nhiệm xây dựng gia đình no
ấm,bình đẳng,tiến bộ,hạnh phúc,phát triển bền vững.

+ Các bộ luật liên quan đến gia đình được ban hành như: luật hôn nhân và gia
đình(ban hành năm 2000), luật bình đẳng giới(năm 2007), luật phòng chống bạo lực gia
đình(2008), pháp lệnh dân số(ban hành 2003), luật người cao tuổi (2009)...nhằm điều
chỉnh và hỗ trợ sự phát triển của gia đình.

+ Ngày 29/5/2012,"chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020,và tầm
nhìn 2030" được thủ tướng chính phủ phê duyệt

+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra
mục tiêu:"xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh"

13 | 2 9
II. NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC
TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Đối với nhà nước
a) Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Giáo dục trong gia đình ngày nay giúp nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách
nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình,
ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; trong đó, hằng năm, trung bình giảm
từ 10 - 15% hộ gia đình có bạo lực gia đình... Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống
tốt đẹp của gia đình Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong
xã hội phát triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia
đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ; cách giáo dục
gia đình hiện đại đúng, tạo ảnh hưởng tích cực đến việc phát triển nhân cách, định hướng
lối sống của con trẻ, thiết thực phòng, chống tệ nạn tội phạm, tệ nạn xã hội, lối sống tích
cực, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
b) Tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Khi một trong các yếu tố có sự thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của một hoặc một
số yếu tố khác. Sự biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình kéo theo sự biến đổi trong
đời sống, lối sống, phong tục… cách giáo dục gia đình hiện đại đúng, tạo ảnh hưởng tích
cực đến việc phát triển nhân cách, định hướng lối sống của con trẻ, thiết thực phòng,
chống tệ nạn tội phạm, tệ nạn xã hội, lối sống tích cực, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2. Đối với cộng đồng
a) Góp phần xây dựng xã hội tiến bộ, hạnh phúc, văn minh
Ở thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia
đình, sự giáo dục thường được thực hiện bởi người đàn ông – người giữ vai trò gia
trưởng. Điều này đã hạn chế sự hiểu biết của mỗi cá nhân đối với các vấn đề xã hội bên
ngoài gia đình. Ngày nay, với việc tăng cường quyền bình đẳng giới, trong gia đình và
ngoài xã hội người phụ nữ được tôn trọng và được trao quyền nhiều hơn, cả trong giáo
dục con cái. Nội dung giáo dục đối với các con không chỉ dừng ở các quy tắc, chuẩn mực

14 | 2 9
trong quan hệ gia đình mà còn bao gồm cả cách ứng xử ngoài xã hội, các kiến thức chung
về xã hội, khoa học…Trong thời kì đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước như hiện nay, việc giảm bạo lực gia đình, có lối sống đúng đắn, tích
cực… đã góp một phần không nhỏ trong việc xây dựng một xã hội tiến bộ, hạnh phúc,
văn minh
b) Nâng cao tinh thần ý thức trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật, đảm bảo
an toàn an ninh xã hội
Việc pháp luật ghi nhận trách nhiệm giáo dục con cái là của cha mẹ và quyền lợi
của trẻ em trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của
gia đình. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục…cho thấy mối quan hệ giữa gia đình và pháp luật.
Nói cách khác, việc thực hiện các quy định của pháp luật về giáo dục trong gia đình cũng
chính là một trong các cách nhằm thực hiện chức năng giáo dục của gia đình. Không chỉ
vậy, thế hệ trẻ được giáo dục trong gia đình thực hiện tốt các quy định của pháp luật tạo
cho trẻ ý thức tinh thần trách nhiệm cần tuân thủ theo các quy định của pháp luật góp
phần đảm bảo an toàn an ninh xã hội.
3. Đối với gia đình
a) Đảm bảo sự cân bằng tâm lí thỏa mãn nhu cầu tình cảm

Trong nhịp sống hối hả hiện nay, rất nhiều người chỉ mải chạy theo tiến độ công
việc mà quên mất thời gian dành cho con cái và gia đình. Cái cốt lõi đích thực của hai chữ
“gia đình” là giúp con người ta được giải tỏa căng thẳng, được nghỉ ngơi và tổ chức sinh
hoạt quây quần bên nhau. Chính lúc này vai trò giáo dục con trẻ được đẩy lên cao nhất.
Chỉ khi cha mẹ chịu bỏ công sức và dành thời gian cho con, họ mới thấu hiểu được hết
những giai đoạn phát triển của con cần thiết sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ chúng đến
nhường nào. Giáo dục, hay nói cách khác chính là một sợ dây gắn kết cha mẹ với những
đứa con của mình. Về phía cha mẹ, họ sẽ nhận thấy cuộc sống ồn ào ngoài kia chỉ đem lại
những áp lực, mệt mỏi, nhưng khi ở bên con cái của mình và dạy dỗ chúng nên người, họ
dường như tìm thấy được niềm vui và hạnh phúc thật sự.

b) Tổ chức gia đình theo lối sống nề nếp, văn minh

15 | 2 9
Không giống giáo dục nhà trường hay giáo dục xã hội, có thể nói giáo dục tại gia
đình là thiết chế giáo dục quan trọng nhất, không thể thay thế. Trước hết được thể hiện ở
thời gian, môi trường, chủ thể tham gia. Giáo dục tại gia đình là toàn bộ những tác động
của gia đình đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người, trước hết là trẻ em.
Giáo dục gia đình là một bộ phận của hệ thống giáo dục xã hội. Nội dung giáo dục tại gia
đình chính là những yếu tố của vấn đề văn hóa gia đình và văn hóa cộng đồng, nhằm tạo
lập và phát triển nhân cách con người như đạo đức, lối sống, ứng xử... Gia đình là tế bào
của xã hội, nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Đây là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Một
gia đình tốt sẽ là cơ sở để xây dựng xã hội hạnh phúc tiến bộ.
4. Đối với cá nhân
a) Phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tình cảm

Sự phát triển về thể chất là nhân tố nền tảng của một đứa trẻ, giúp chúng có đủ sức
mạnh để tồn tại trong tự nhiên và xã hội với tư cách là con người. Mỗi gia đình đều cố
gắng tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ em phát triển về thể chất. Trong gia đình trẻ được ăn
no, mặc ấm, được cung cấp những nhu cầu về vật chất để lớn khôn. Thể chất là điều kiện
tối cần thiết để tạo cơ sở cho hình thành thế giới tinh thần và cấu trúc nhân cách. Nó là
tiền đề quy định đứa trẻ lựa chọn kiểu hoạt động và phát triển các mối quan hệ.

Sự phát triển trí tuệ là nhân tố quan trọng để trẻ có khả năng tư duy, phán xét về
thế giới từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Sự phát triển trí tuệ không chỉ giúp con trẻ
thích nghi để tồn tại mà còn biết cách cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh,
phục vụ cho đời sống con người. Thông qua hoạt động trong cuộc sống hằng ngày từ khi
còn nhỏ, cha mẹ đã đảm nhận trách nhiệm dạy bảo, hướng dẫn trẻ từ những điều cụ thể
đến trừu tượng, từ những vấn đề đơn giản đến phức tạp. Nhờ những bài học lớn dần theo
năm tháng đó, con trẻ có đủ tự tin để bước ra khỏi vòng an toàn và dám dân thân vào
những môi trường mới luôn thay đổi.

Sự phát triển về mặt tình cảm là điều cần thiết cho mỗi đứa trẻ trong xa hội ngày
nay. Trẻ em được nuôi dưỡng trong tình yêu thương chăm sóc của gia đình sẽ giúp chúng
hình thành dần tình cảm của mình, từ thấp đến cao, từ biểu hiện bên ngoài đến chiều sâu
nội tâm. Cho đến khi trưởng thành, những đứa trẻ trở thành người lớn và lại đảm nhận

16 | 2 9
trách nhiệm mới trong gia đình, gia đình vẫn luôn tác động và giữ cân bằng phát triển tình
cảm và đạo đức cho các thành viên theo cách giáo dục như thế.

b) Hiểu được những giá trị cốt lõi tốt đẹp của xã hội

Về mặt đạo đức, giáo dục là nội dung quan trọng nhằm xây dựng ý thức đạo đức,
bồi dưỡng tình cảm đạo đức, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức. Những đứa trẻ sống
trong môi trường chan chứa tình thương, đậm tính nhân văn sẽ lối ứng xử văn minh hơn
rất nhiều so với những đứa trẻ cùng trang lứa. Giáo dục có tác động sâu sắc đến ý thức
trách nhiệm của con trẻ, chúng sẽ biết đùm bọc tương trợ, giúp đỡ người xung quanh.
Những bài học về lối cư xử lễ phép, kính trên, nhường dưới, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ
là cơ sở giúp trẻ hình thành những phẩm chất đạo đức tốt như: lòng nhân ái, tính khiêm
tốn, tính chân thực trong quan hệ đối nhân xử thế với mọi người ngoài xã hội.

Về mặt văn hóa, giáo dục đến từ gia đình có nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Nếu
không hiểu rõ về phong tục, tập quán của dân tộc, đất nước mình, thế hệ trẻ sẽ không thể
làm chủ xã hội. Giáo dục bởi gia đình sẽ trực tiếp truyền thụ các giá trị văn hóa của dân
tộc và nhân loại từ thế hệ này đến thế hệ khác, vì vậy chỉ có thông qua gia đình mới là con
đường nhanh nhất, chắc chắn nhất để giáo dục con trẻ tôn trọng và phát huy văn hóa của
dân tộc, đất nước mình.

Về mặt thẩm mỹ, con trẻ trực tiếp tiếp thu cái đẹp đầu tiên chính là ở trong gia
đình. Có thể nói những mầm mống của cái đẹp được tiếp nhận ở trong gia đình là nền
tảng để xây dựng cái đẹp của cả cuộc đời. Giáo dục thẩm mỹ ở trong gia đình, trước hết
phải quan tâm giáo dục những hành vi trong nếp sống. Ngoài ra, một số cha mẹ đã lựa
chọn những phương tiện phù hợp giúp con em mình phát triển năng khiếu thẩm mỹ
chuyên biệt về ca nhạc, hội họa, điêu khắc... làm cho thẩm mỹ nhân sinh ngày càng thêm
phong phú hơn.

Ngoài ra, giáo dục nhận thức về giới tính, tình yêu và hôn nhân trong mỗi gia đình
đã tác động tích cực lên đại đa số trẻ em trong những năn gần đây và dần trở thành xu
hướng tại Việt Nam. Trẻ chưa thành niên có những biến đổi đặc thù về sinh lý và đi theo
nó là những biến đổi đặc thù về tâm lý. Do đó giáo dục giới tính đến từ cha mẹ sẽ tạo điều
kiện cho sự phát triển hài hòa của con em mình. Minh chứng rõ ràng cho thấy những đứa
trẻ được giáo dục về các vấn đề tình dục đúng cách sẽ hiểu rõ mối quan hệ qua lại giữa

17 | 2 9
hai giới, có nhu cầu, nguyện vọng hành động phù hợp với những tiêu chuẩn đạo đức của
xã hội.

III. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC
TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Đối với Nhà nước

o Các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về gia đình còn có
những khoảng trống, việc thực hiện có lúc, có nơi còn thiếu nghiêm túc, chưa được đầu tư
thỏa đáng
o Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, pháp luật về gia đình nhằm phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và phát
triển bền vững. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đất nước, bên cạnh những thành tựu
to lớn đạt được trong việc nâng cao chất lượng sống của các gia đình Việt Nam, vẫn còn
nhiều vấn đề cần quan tâm, giải quyết như: tình trạng ly hôn, ly thân, tảo hôn, phụ nữ lấy
chồng nước ngoài qua môi giới bất hợp pháp, mua bán người… diễn biến phức tạp; tệ nạn
xã hội vẫn đang tiếp tục xâm nhập vào gia đình đặc biệt là giới trẻ; vấn đề bạo lực gia
đình, xâm hại trẻ em nghiêm trọng gây lo lắng, bức xúc trong dư luận xã hội; sự tôn trọng
giá trị gia đình ở nhiều tầng lớp xã hội, nhất là thế hệ trẻ đang bị giảm sút; đạo đức, lối
sống suy đồi…
o Với kết quả của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, đại bộ phận các gia
đình Việt Nam trong những năm gần đây có số con ít, điều kiện đời sống kinh tế, tinh thần
được cải thiện nâng cao, không ít các gia đình tỏ ra quá nuông chiều, sẵn sàng thỏa mãn
đòi hỏi của con cái, buông lỏng quản lý, ít chú ý đến sự lễ phép, tính kỷ luật của con trẻ
và vô tình đã tạo ra một thế hệ công dân nặng tính ích kỷ cho xã hội. Đã xem nhẹ bổn
phận, trong đó có bổn phận thuộc đạo đức mà bất cứ đứa trẻ nào trong bất cứ gia đình nào
cũng phải thực hành. Đó là sự hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ; thương yêu, nhường nhịn
giữa anh chị em; lễ phép với thầy cô giáo, với người lớn,….

2. Đối với cộng đồng

18 | 2 9
Thực tế cho thấy, kết quả của công cuộc đổi mới đã giúp nhiều hộ gia đình thoát
nghèo, kinh tế dần được cải thiện; nhưng đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao đồng
thời cũng nảy sinh những thách thức đối với hạnh phúc và sự bền vững của gia đình Việt
Nam, trong đó có vấn đề về lối sống và giáo dục gia đình. Thu nhập có thể tăng lên, nhà
cửa có thể khang trang hơn, nhu cầu sinh hoạt ngày càng cao của mỗi thành viên trong gia
đình có thể dễ dàng được đáp ứng nhưng bi kịch mới của gia đình đã hình thành bởi sự
rạn nứt về tình cảm, sự nghi kỵ do thiếu lòng tin; dần tạo nên mâu thuẫn, xung đột, bạo
lực, gia tăng ly hôn… Chẳng hạn như vấn đề ly hôn, theo kết quả Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2019 cho thấy tỷ lệ ly hôn đang có xu hướng tăng trong 10 năm qua (năm
2009: 1,0%; năm 2019: 1,8%). Tỷ lệ này có sự khác biệt theo khu vực có điều kiện phát
triển kinh tế xã hội khác nhau: Tỷ lệ ly hôn của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông
thôn (2,1% so với 1,6%); vùng kinh tế phát triển cao hơn so với địa bàn có điều kiện kinh
tế đặc biệt khó khăn (Đông Nam Bộ 2,2% so với miền núi và trung du phía Bắc 1,7%).
Hay như thực trạng liên tiếp những vụ án đau lòng xảy ra gần đây mà nạn nhân và thủ
phạm là cha mẹ, con cái, anh em trong gia đình. Trong điều kiện ấy, gia đình khó có thể
làm tốt chức năng giáo dục, các thành viên trong gia đình khó có thể hình thành nhân cách
tốt.
3. Đối với gia đình
o Nhiều phụ huynh còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm và thời gian dành cho giáo dục
con cái. Mặt khác nhiều gia đình đang lúng túng trong cách giáo dục con cái. Sự thay đổi
của xã hội cũng như những ảnh hưởng của cuộc sống hiện đại tới mỗi thành viên trong xã
hội đã khiến nhiều gia đình khó khăn trong việc giáo dục con em mình, và phó mặc cho
nhà trường, xã hội. Bên cạnh đó, những hoàn cảnh đặc biệt của gia đình như cha mẹ ly
hôn, bất hoà, bạo hành… sẽ dẫn tới hành vi rối nhiễu, trầm cảm, tâm lý lệch lạc, phạm
pháp… của trẻ em sau này.

o Cách thức giáo dục của gia đình hiện nay vẫn còn những còn nhiều bất cập. Trong
gia đình, tình trạng giáo dục trẻ bằng sự trừng phạt hay vũ lực còn tồn tại với tỷ lệ khá
lớn. Một khảo sát cho thấy, có 12,2% số người được hỏi đồng ý với sử dụng đòn roi trong
việc giáo dục con cái, 34% cho rằng “tùy mức độ” mà có thể đánh đòn, như vậy người
dân vẫn còn quan điểm giáo dục bằng vũ lực. Nhiều người còn quan niệm rằng chồng có
quyền “dạy” vợ con mình bằng cách sử dụng vũ lực”. Mặc dù việc dùng vũ lực ở những

19 | 2 9
mức độ khác nhau, có thể để lại hậu quả nghiêm trọng về thể chất hoặc tinh thần. Cần
xem xét những hoàn cảnh đặc biệt của gia đình và cách cư xử của các thành viên trong gia
đình (đặc biệt giữa cha mẹ và con cái) để có những hoạt động giáo dục thích hợp và đạt
hiệu quả.
o Tạo ra sự ngăn cách không gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn,
trở lực trong việc gìn giữ tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình
o Các thành viên ít quan tâm, lo lắng và ít giao tiếp với nhau hơn, mối quan hệ gia
đình vì thế mà trở nên rời rạc, lỏng lẻo…

4. Đối với cá nhân

o Vì những lý do khác nhau, một bộ phận gia đình đã không thật sự trở thành “tổ
ấm” cho mỗi con người. Với không ít gia đình (không phân biệt điều kiện kinh tế), đó là
việc thiếu vắng sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục giữa các thành viên. Ở khu vực đô thị, do
nhịp sống hiện đại, khung cảnh sinh hoạt gia đình dường như bị thu hẹp dần bởi những
bữa cơm thiếu thành viên, những khoảnh khắc gặp nhau vội vã, những cuộc trò chuyện
thăm hỏi ngày càng thưa thớt… Ngay cả khi có điều kiện ngồi cùng nhau trong một
khung cảnh chung thì dường như mỗi thành viên cũng đang tập trung sự chú ý vào máy
tính, điện thoại và bị cuốn vào những mối quan tâm riêng trên không gian mạng. Ở địa
bàn nông thôn, do hoàn cảnh mưu sinh, nhiều người phải di cư lao động để tìm việc làm ở
các đô thị, các khu công nghiệp (trong đó, phụ nữ di cư lao động có xu hướng ngày càng
tăng), dẫn tới nguy cơ tình cảm gia đình phai nhạt, sự gắn kết giữa các thành viên trong
gia đình trở nên hạn chế, lỏng lẻo; trẻ em không có được chăm sóc từ bố mẹ, rất dễ bị tổn
thương.

o Cách thức giáo dục của gia đình hiện nay vẫn còn những còn nhiều bất cập. Trong
gia đình, tình trạng giáo dục trẻ bằng sự trừng phạt hay vũ lực còn tồn tại với tỷ lệ khá
lớn. Một khảo sát cho thấy, có 12,2% số người được hỏi đồng ý với sử dụng đòn roi trong
việc giáo dục con cái, 34% cho rằng “tùy mức độ” mà có thể đánh đòn, như vậy người
dân vẫn còn quan điểm giáo dục bằng vũ lực. Nhiều người còn quan niệm rằng chồng có
quyền “dạy” vợ con mình bằng cách sử dụng vũ lực”. Mặc dù việc dùng vũ lực ở những
mức độ khác nhau, có thể để lại hậu quả nghiêm trọng về thể chất hoặc tinh thần.

20 | 2 9
IV. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ
Trước hết là những vấn đề liên quan đến pháp luật, đây là một trong các cơ sở hình
thành đạo đức gia đình, hiện tượng thiếu hiểu biết pháp luật đã xảy ra, người phạm pháp
không hiểu hành vi của mình là phạm tội, người bị hại lại cam chịu cho rằng đó là số
phận. Có người biết luật nhưng cố tình không thực hiện. Trong khi đó, nhận thức, năng
lực của cán bộ và nhân dân còn hạn chế, hệ thống bảo vệ trẻ em chưa được kiện toàn
mang tính chuyên nghiệp.

Nhịp sống của nhiều gia đình Việt Nam ngày càng hối hả tất bật hơn. Thời gian
dành cho nhau giữa những người thân thiết trong gia đình ngày một ít, nhất là thời gian
cha mẹ dành cho con cái. Một bộ phận cha mẹ mải mê làm ăn, đầu tư về kinh tế nhưng
không đầu tư thời gian dành cho con. Mải miết với cơm áo, gạo tiền và những nhu cầu
khác không dành đủ thời gian bên con và cho con tất sẽ dẫn đến những hệ luỵ: sự tâng
bốc, chiều chuộng và cung phụng con quá mức. Lối giáo dục ấy đã gây ra những tác động
xấu tới việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của trẻ, khiến nhiều đứa trẻ sinh
ra thói ngạo mạn coi thường người khác,

Tình trạng ly hôn có xu hướng tăng cao, ngoại tình, sống chung không kết hôn, tệ
nạn mại dâm, tình trạng trẻ em nghiện hút, trẻ em hư, phạm tội, lang thang có xu hướng
tăng; bạo lực gia đình; buôn bán phụ nữ; bất bình đẳng giới; mua bán hôn nhân có yếu tố
nước ngoài; xu hướng tôn sùng tiền bạc trong quan hệ giữa người với người; tình trạng
buôn lậu, tham nhũng, hối lộ, mua quan bán chức diễn ra phổ biến trong xã hội… đang
tác động đến từng cộng đồng, tập thể, cá nhân, từng gia đình ở mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn
cảnh, mọi phương diện, đặc biệt trên phương diện giáo dục.

 Những tác động này đang tạo ra một môi trường xã hội ô nhiễm nặng nề, hết sức
bất lợi đối với sự bền vững và phát triển của gia đình nói chung và giáo dục gia đình và sự
trưởng thành của trẻ em nói riêng.

Cùng với những điều kiện khách quan đó, bản thân các gia đình hiện nay cũng
đang gặp rất nhiều rắc rối, khó khăn. Đó là giá cả thị trường tăng cao, đời sống kinh tế
bấp bênh, các thành viên gia đình gặp nhiều rủi ro, bất thường trong cuộc sống, trình độ
văn hóa, học vấn của cha, mẹ thấp hoặc do dồn hết sức lực vào việc kiếm sống nên nhiều
bậc cha, mẹ không có thời gian gần gũi, chăm sóc, dạy dỗ con…; Mặt khác, do tác động

21 | 2 9
nhiều mặt của xã hội mở cửa, tốc độ phát triển tâm – sinh lý của trẻ hiện nay diễn ra
nhanh, có khi đột biến, bất thường trong khi các bậc cha, mẹ vừa chưa đủ kiến thức, chưa
kịp nhận thức, chưa đủ thời gian, chưa có phương pháp phù hợp để kịp thời quản lý, điều
chỉnh, giáo dục và định hướng phát triển đối với trẻ.

 Gia đình được xác định là nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu bởi môi trường sống
trong gia đình có tác động đầu tiên và ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân
cách của trẻ em. Vai trò của gia đình trong việc quản lý, giáo dục trẻ em, đặc biệt là vai
trò của cha mẹ là hết sức quan trọng.

Về phía cá nhân thanh thiếu niên, việc tiếp thu không chọn lọc lối sống, văn hóa
phương Tây, học tập cả những nét văn hóa không phù hợp với thuần phong mỹ tục của
người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Dẫn tới hậu quả là một bộ
phận không nhỏ thanh thiếu niên sa vào vòng tôi lỗi, băng hoại đạo đức gầy khó khăn cho
việc xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa đáp ứng nhu cầu phát triển của đất
nước.
V. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐIỀU CHỈNH SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC
NĂNG GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI
1. Phương hướng
a. Phương pháp giáo dục

o Đẩy mạnh giáo dục, cung cấp cho các thành viên gia đình về chủ trương, chính
sách, luật pháp liên quan đến gia đình; kỹ năng sống (kỹ năng làm cha, mẹ, nâng cao chất
lượng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau và với cộng đồng, xây
dựng gia đình là một môi trường an toàn cho trẻ em); trách nhiệm của nam giới đối với
công việc trong gia đình, đối với việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong gia đình; trách
nhiệm thực hiện nếp sống văn minh, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; xây dựng tình làng
nghĩa xóm, đoàn kết, giúp đỡ, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp
của gia đình, của dòng họ; tiếp thu các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển;
cảnh báo các nguy cơ và hậu quả về mất cân bằng giới tính khi sinh.
o Giáo dục các em thông qua truyền thống gia đình. Giáo dục truyền thống gia đình
tạo cho các em niềm tự hào về gia đình và dòng họ: gia đình có nhiều người thành đạt, gia

22 | 2 9
đình có nề nếp, gia phong, gia đạo và cách sống tốt đẹp. Phải dùng truyền thống gia đình
và dòng họ làm nền tảng để các em học theo, rèn luyện và phát huy truyền thống tốt đẹp
đó.
o Giáo dục bằng nêu gương. Đó là biện pháp giáo dục bằng cách thông qua những
tấm gương sáng trong gia đình của ông bà, cha mẹ, anh em…, trẻ em lớn lên và được tiếp
nhận cách sống, ứng xử của những người xung quanh, trẻ em sẽ bắt chước học theo từ đó
hình thành nhân cách tốt qua trải nghiệm thực tế. Bản thân, những người lớn tuổi trong
gia đình cần phải làm gương cho con trẻ, để con trẻ noi theo. Cách giáo dục này mang lại
cho trẻ em cách sống, làm việc theo gương tốt của gia đình và chuẩn mực của xã hội.
o Cần thiết phải có sự vào cuộc của các cấp, các ngành. Đối với Bộ Văn hóa, Thể
Thao và Du lịch, với chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước lĩnh vực gia đình, nhằm thực
hiện tốt hơn vai trò, trách nhiệm của gia đình trong giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ
trẻ, thời gian qua, Bộ đã triển khai các chương trình với chủ đề xuyên suốt từ năm 2014
về công tác gia đình: “Xây dựng nhân cách người Việt Nam từ giáo dục đạo đức, lối sống
trong gia đình”.
o Bộ đã đề xuất, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình về giáo dục đời
sống gia đình đến năm 2020 (Quyết định số 1028/QĐ-TTg, ngày 08/6/2016). Bộ cũng ban
hành theo thẩm quyền Đề án giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình (Quyết định số
3391/QĐ-BVHTTDL, năm 2009); Bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình năm 2018, trong đó
nêu mối quan hệ ứng xử của tầng lớp thanh, thiếu nhi với ông, bà và với cha, mẹ. Nội
dung tuyên truyền tập trung nhấn mạnh vào các giá trị văn hóa ứng xử tốt đẹp, lối sống
lành mạnh, theo chuẩn mực đạo đức xã hội và phù hợp với sự phát triển của kinh tế – xã
hội cho các thành viên trong gia đình. Từ đó làm nền tảng để thế hệ trẻ hình thành những
giá trị cốt lõi của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước.
Bộ đã tổng kết các văn bản này và đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành trong năm
2021 Chương trình quốc gia truyền thông giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình đến
năm 2030.

b. Chất lượng, nội dung giáo dục

o Nâng cao năng lực giáo dục cho các bậc cha mẹ. Một trong những nguyên nhân
ảnh hưởng không tốt đến giáo dục gia đình, là do năng lực của một bộ phận cha mẹ không

23 | 2 9
đáp ứng được việc truyền thụ và giáo dục con cái; ý thức trách nhiệm cũng như nội dung,
phương pháp giáo dục còn nhiều hạn chế và bất cập. Một số cha mẹ chưa phải là tấm
gương sáng về đạo đức, lối sống để con cái noi theo. Trước đây, để giáo dục con cái, cha
mẹ chỉ cần có một số kinh nghiệm rút ra từ bản thân hoặc thêm nữa là kinh nghiệm của
anh em, bà con dòng tộc là đủ. Thậm chí cha mẹ có thể dạy con bằng biện pháp áp đặt.
Ngày nay, muốn giáo dục tốt con cái, trước hết cha mẹ phải thường xuyên học tập, trong
đó học tập cả nghệ thuật giáo dục. Sự tu dưỡng, gương mẫu của cha mẹ sẽ tạo nên uy tín
đối với con cái. Sự hiểu biết sâu rộng kiến thức về xã hội, sự thống nhất giữa lời nói và
việc làm của cha mẹ có tác dụng củng cố cho uy tín của cha mẹ.
o Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta đã và đang đặt ra những yêu
cầu bức thiết đối với sự nghiệp giáo dục nhằm tạo ra một lớp người vừa cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, vừa đạt đến tầm cao về trí tuệ,
…. Yêu cầu đó đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, trong đó có việc giáo dục gia đình của đất
nước ta phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chúng ta cần có sự nhìn nhận đầy đủ hơn, khách quan hơn, đúng đắn hơn về vai trò của
giáo dục gia đình trong sự nghiệp giáo dục để từ đó có chiến lược và kế hoạch đầu tư thỏa
đáng cho giáo dục gia đình.

c. Hình thức giáo dục

o Tổ chức các hoạt động hợp lý trong gia đình. Các loại hình hoạt động ở gia đình
rất đa dạng và phong phú, đó là các buổi sinh hoạt gia đình, hoạt động lao động, học tập,
hoạt động vui chơi giải trí, du lịch, giao lưu, thăm hỏi họ hàng… Qua các hoạt động này
giúp trẻ em gắn bó với gia đình, tạo ra hứng thú trong cuộc sống, biết chia sẻ, tâm sự,
cũng từ đó hình thành các năng lực, phẩm chất, kỹ năng sống, xử lý các tình huống phù
hợp với gia đình, xã hội trong thời kỳ mới. Qua đó giúp các em phát huy những ưu điểm
và khắc phục hạn chế của bản thân để hòa nhập tốt với xã hội.
o Kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Để công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho thế hệ trẻ đạt kết quả cao hơn, bên cạnh vai trò của gia đình, cần có sự gắn
kết với nhà trường và toàn xã hội. Trong giai đoạn bùng nổ thông tin hiện nay, việc gắn
kết giữa các chủ thể nêu trên ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trong đó, gia đình và xã hội là môi trường vun đắp, nuôi dưỡng sự hình thành giá trị đạo

24 | 2 9
đức tốt đẹp và xây dựng nếp sống văn hóa, lành mạnh trong thế hệ trẻ; nhà trường giữ vai
trò cung cấp kiến thức và giáo dục định hướng, uốn nắn những hành vi của thế hệ trẻ theo
chuẩn mực chung.
o Cần thiết phải có sự vào cuộc của các cấp, các ngành Đối với Bộ Văn hóa, Thể
Thao và Du lịch, với chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước lĩnh vực gia đình, nhằm thực
hiện tốt hơn vai trò, trách nhiệm của gia đình trong giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ
trẻ, thời gian qua, Bộ đã triển khai các chương trình với chủ đề xuyên suốt từ năm 2014
về công tác gia đình: “Xây dựng nhân cách người Việt Nam từ giáo dục đạo đức, lối sống
trong gia đình.
d. Vai trò của phụ huynh, cá nhân

Chúng ta thường nói con cái là tấm gương phản chiếu của cha mẹ. Trẻ sinh ra tiếp
xúc với người thân trong gia đình, đặc biệt là cha mẹ là nhiều nhất. Chúng có khả năng
bắt chước và thể hiện lại tất cả những biểu hiện, lời nói, cử chỉ, cảm xúc tích cực hay tiêu
cực từ cha mẹ. Điều đó thể hiện vai trò lớn của cha mẹ ảnh hưởng đến con cái như thế
nào.

 Phát triển về mặt nhận thức

Những năm đầu đời trẻ có khả năng học hỏi rất nhanh. Chúng thu nạp những kiến
thức từ những thói quen rất đơn giản trong gia đình.

Nếu cha mẹ nuôi con theo hướng tích cực sẽ giúp trẻ phát triển khả năng nhận
thức, kỹ năng giải quyết các vấn để chúng gặp trong cuộc sống.

 Phát triển về thể chất

Hầu hết những đứa trẻ lớn lên đều trải qua những cột mốc phát triển về thể chất.
Nhưng điều đó không phải mục tiêu duy nhất. Trẻ cần hiểu được tầm quan trọng về sức
khoẻ, rèn luyện mỗi ngày và duy trì đều đặn. Đồng thời, trẻ cần có chế độ ăn uống, sinh
hoạt hợp lý, khoa học để có được sức khoẻ, thể chất tốt, làm nền tảng để phát triển các kỹ
năng khác. Những điều này cũng do cha mẹ xây dựng thói quen cho con từ bé là tốt nhất.

 Phát triển về mặt tinh thần

Việc dạy bảo, sát cánh ở bên của bạn sẽ giúp con cái mạnh mẽ vượt qua những
thăng trầm trong cuộc sống, những khi thành công hay thất bại, khi buồn khi vui, khi hạnh

25 | 2 9
phúc hay đau khổ,... con đều biết cách phải vượt qua thế nào. Đó chính là sức mạnh tinh
thần to lớn nhất mà bạn có thể giúp con xây dựng và từng bước vượt qua.

 Phát triển về văn hoá

Trẻ quan sát được tất cả những hoạt động trong gia đình, cách đi đứng nói chuyện,
cách ăn cơm, trao đổi, thảo luận, tranh luận,... giữa mọi người trong gia đình với nhau và
với người khác. Tất cả những điều đấy làm nên văn hoá của trẻ, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
tương lai sau này. Vì vậy đôi khi cha mẹ buộc phải nghĩ đến sự phát triển của trẻ để bớt đi
cái tôi của mỗi người.
2. Giải pháp
a. Về phương pháp giáo dục

Việc giáo dục con cái không thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những hành động
cụ thể.

Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông gắn với tăng cường tuyên truyền
chiến lược xây dựng gia đình và văn hóa gia đình để nâng cao nhận thức và hành động,
góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về gia
đình

b. Về nội dung giáo dục

Bên cạnh các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam như: Thái độ, cử chỉ, ăn
nói lễ phép, tôn kính người trên, hiếu thảo…còn cần có sự giáo dục cơ bản từ gia đình các
lĩnh vực như: văn hóa lao động, văn hóa sinh hoạt, văn hóa tiêu dùng, văn hóa giao tiếp

Chú trọng tạo dựng môi trường gia đình yêu thương, bình đẳng và trách nhiệm, tổ
chức lối sống gia đình lành mạnh, các thành viên trong gia đình yêu thương, sẻ chia, gắn
kết; cha mẹ, ông bà nêu gương cho con trẻ học theo, làm theo những điều tốt đẹp, có giá
trị nhân văn lớn lao. Trong giáo dục, cần tạo điều kiện để con trẻ được nêu chính kiến,
quan điểm, thậm chí phản biện lại một vấn đề nào đó là vô cùng cần thiết, bởi đây là năng
lực, bản lĩnh cần thiết của mỗi con người được giáo dục hiện đại khuyến khích, góp phần
quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách của con người từ khi còn nhỏ.

c. Về hình thức giáo dục

26 | 2 9
Việc giáo dục trong gia đình có thể được hỗ trợ bằng việc trang trí không gian gia
đình, không gian riêng của trẻ để rèn luyện tính tự lập cho trẻ.

Lấy con trẻ làm trọng tâm trong quá trình dạy dỗ, giáo dục và nghiêm túc trong
việc dạy bảo con trẻ, giáo dục, rèn luyện con trẻ học hỏi tính kỷ luật, sự tôn trọng các
thành viên, nhất là cha mẹ, ông bà để con trẻ có thời gian luyện tập nhân cách của mình.
Tạo được sự gần gũi, thân mật, tin tưởng ở con trẻ, để con trẻ coi mình là những người
bạn lớn mà chia sẻ tâm tư, tình cảm, diễn biến tâm lý bên trong, từ đó cha mẹ, ông bà có
thể hiểu được các mối quan hệ, khát vọng, cảm xúc, suy nghĩ, nguyện vọng, mong muốn,
sở thích, niềm vui, nỗi buồn của con trẻ.

d. Về phía phụ huynh

Các bậc cha mẹ không ngừng học hỏi, tìm hiểu những tri thức khoa học xã hội,
trang bị và nâng cao kiến thức, khả năng chăm sóc, dạy dỗ và giáo dục con cái, để phát
huy vai trò giáo dục gia đình, khắc phục phương pháp giáo dục chỉ dựa trên kinh nghiệm
và cảm tính. Thực tế cho thấy, cha mẹ có quyền và thường tác động đến sự phát triển và
định hướng tương lai của con trẻ, song nếu giáo dục không đúng và định hướng “không
chuẩn”, không sát điều kiện thực tế của chính bản thân con trẻ và gia đình thì con trẻ
không những không phát huy được khả năng của mình mà còn luôn cảm thấy căng thẳng,
dễ dẫn đến suy sụp tinh thần và thể chất. Bên cạnh đó, tăng cường sự phối hợp giữa gia
đình- nhà trường- xã hội trong việc quản lý, giáo dục các em.

Bậc phụ huynh cũng cần hỗ trợ tham gia một cách có hiệu quả vào giáo dục con cái;
hiểu được những nhu cầu về sự phát triển và giáo dục của trẻ; tiếp cận các nguồn lực của
trường học và cộng đồng; hiểu các dịch vụ giáo dục đặc biệt và tăng cường kỹ năng làm
cha mẹ…Đồng thời trong gia đình cha mẹ cũng cần phải biết sâu sắc nội dung đạo đức
gia đình để bản thân họ thực hiện và dạy con cái và dành thời gian, chăm sóc, giáo dục
con.

27 | 2 9
28 | 2 9
PHẦN KẾT LUẬN
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động của nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan: sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về gia đình..., gia đình Việt Nam đã có sự biến đổi tương đối toàn diện
về quy mô, kết cấu, các chức năng cũng như quan hệ gia đình. Ngược lại, sự biến đổi của
gia đình cũng tạo ra động lực mới thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Quy mô gia đình Việt
Nam ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành viên trong gia đình
ít đi, đáp ứng nhu cầu và điều kiện mới của thời đại mới đặt ra. tuy nhiên, trong quá trình
đó cũng gây ra những phản chức năng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chức
năng của gia đình có sự biến đổi về các mặt: tái sản xuất ra con người, kinh tế và tổ chức
tiêu dùng, giáo dục (xã hội hoá) và thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm. bên
cạnh đó, các mối quan hệ trong gia đình cũng có sự biến đổi lớn. Từ những sự thay đổi ấy
Đảng và nhà nước ta đã có những phương hưởng cơ bản để xây dựng và phát triển gia
đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Ở Việt Nam, trong bối cảnh xã hội hoá giáo dục diễn ra nhanh, mạnh ,trong chức
năng giáo dục tại gia đình cần phải có sự biến đổi , phát triển nhanh để đáp ứng nhu cầu
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. Những biến đổi của chức năng giáo dục trong
gia đình có những mặt tích cực và hạn chế nhất định và cần được đưa ra những chính sách
và giải pháp để có thể phát triển nhanh, kịp thời đại công nghiệp hóa-hiện đại hóa nền
giáo dục. Bởi giáo dục đóng vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay, nó là tiêu
đề chính để đưa phát triển Việt Nam vươn tầm với thế giới. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết trong “Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt nam Dân chủ
cộng hòa” , ngày 15-09-1945 : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân
tộc Việt nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được
hay không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các em”. Chính vì vậy, Chức
năng giáo dục đóng vai trò quan trọng đối với mỗi con người. Chức năng giáo dục không

29 | 2 9
chỉ tạo cho con người kiến thức mà còn tạo cho con người làm tròn ở chữ “con” và cả chữ
“người” nhằm tạo ra người con hiếu thảo, một công dân có ích xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hoàng Bảo Chí và Dương Ngọc Xuân- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học,
dùng cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị, NXB Chính Trị Quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo :Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2019.
3. Lê Ngọc Văn : Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb, Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2011.
4. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) :Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện
nay, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010
5. Phan Thị Luyện, “Nhận thức và ý thức pháp luật của cá nhân và cồng đồng về vấn
đề bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em” (bài tham luận trong hội thảo: “Phòng chống bạo lực
đối với phụ nữ và trẻ em”, 2015.

30 | 2 9

You might also like