Professional Documents
Culture Documents
TIỂU LUẬN
MÔN TÂM LÝ HỌC
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TIỂU LUẬN
MÔN TÂM LÝ HỌC
Tỷ lệ điểm thực
Stt Họ và tên sinh viên MSSV Lớp được hưởng so với
điểm
GV chấm cho nhóm
1. Lâm Mai Nhựt Quang 2088700110 20DLTA2 100%
2. Nguyễn Hoàng Hạ Long 2088700103 20DLTA2 100%
3. Nguyễn Công Chánh 2011064643 20DLTA1 100%
4. Nguyễn Võ Trung Nam 2088701042 20DLTA2 75%
5. Phan Phụng Trí 2088700974 20DLTA2 100%
6. Nguyễn Hoàng Duy 2088701008 20DLTA2 75%
7.
3
Mục lục
1. Lý do chọn đề tài
Nhìn vào sự phát triển vượt bậc của con người trong những thập kỉ gần
đây, ta có thể thấy rằng ngoài các lĩnh vực kinh tế, khoa học đang không ngừng
tăng trưởng mà đồng thời sự nhận thức về các nhu cầu cá nhân của mỗi con
người cũng đang ngày càng đổi mới một cách sâu rộng.
Có thể nói nhu cầu là một hình thức tâm lý gắn liền với con người từ lúc
sinh ra đến khi mất đi. Thông qua việc ăn uống, học tập, khen thưởng, bày tỏ
tình cảm, cảm xúc,…qua đó cho thấy nhu cầu chi phối rất mạnh đến cuộc sống
của con người thông qua các biểu hiện tâm lí và hành vi như đói thì, khát thì
uống,…
Tùy từng mỗi con người mà nhu cầu được đánh giá từ thấp đến cao dựa
theo tháp nhu cầu Maslow, từ các tầng thấp là các nhu cầu cơ bản đến các tầng
cao là những nhu cầu siêu việt, những nhu đó là những nhu cầu cần đáp ứng các
nhu cầu dưới để phát triển cao hơn. Tuy nhiên, não bộ con người vốn dĩ phức
tạp, có hàng ngàn quá trình xảy ra song song khiến nhiều nhu cầu xảy ra đồng
thời và cần được đáp ứng. Điều đó đã tạo ra một động lực vô hình, khiến con
5
người và xã hội được vận hành và phát triển.
Môi trường đại học chính là quy mô của 1 xã hội thu nhỏ, việc sinh viên có
nhu cầu xã hội như giao lưu tình cảm, được hòa nhập vào 1 tập thể, được sự yêu
mến từ gia đình, thầy cô và sự tin tưởng, tôn trọng của bạn bè chính là một nhu
cầu cấp bách của bản thân mỗi sinh viên. Đặc biệt với sinh viên Hutech, một
quần thể sinh viên rộng lớn, năng động, đầy nhiệt huyết đi kèm với 1 môi trường
kích thích khả năng cá nhận, tạo điều kiện để mỗi cá nhân thể hiện bản thân
mình thật tốt.
Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của nhu cầu xã hội đối với bất kì
cá nhân hay tổ chức nào, đặc biệt là sinh viên nói chung và sinh viên Hutech nói
riêng, nhóm chúng em – Trí học giỏi – đã đề ra một số câu hỏi với nguyện vọng
tìm kiếm sự giải đáp thắc mắc từ các thầy cô về chủ đề “Nhu cầu xã hội của sinh
viên Hutech” trong thời buổi hiện nay.
2. Nhiệm vụ
- Có cái nhìn rõ nét hơn về nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu xã hội ở mỗi cá
nhân, trong đó có sinh viên Hutech.
- Trình bày rõ các cơ sở lý luận về nhu cầu xã hội
- Đưa ra được các câu hỏi về chủ đề “Nhu cầu xã hội của sinh viên
Hutech”
1. Giải thích
1.1. Nhu cầu là gì?
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn,
nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy
theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi
người có những nhu cầu khác nhau. (Wikipedia, (2021) )
6
khả năng tạo dựng và duy trì các cảm xúc trong các mối quan hệ.
Nhu cầu xã hội bao gồm:
Tình bạn
Sự thân mật
Tình gia đình
Theo Maslow, con người sở hữu một nhu cầu tình cảm về cảm giác muốn
được thuộc về và chấp nhận trong một nhóm xã hội nào đó dù lớn hay nhỏ. Ví
dụ, những nhóm lớn bao gồm các câu lạc bộ, đồng nghiệp, tôn giáo, tổ chức
chuyên nghiệp đội thể thao, băng đảng và cộng đồng trực tuyến. Một số ví dụ về
các kết nối xã hội nhỏ bao gồm các thành viên gia đình, đối tác thân mật, cố vấn,
đồng nghiệp và tâm sự. Con người cần yêu và được yêu - cả tình dục và phi tình
dục - bởi người khác. Nhiều người trở nên dễ bị cô đơn, lo lắng xã hội và trầm
cảm lâm sàng khi không có tình yêu hoặc yếu tố "được thuộc về" này.
Nhu cầu thuộc về này có thể khắc phục các nhu cầu sinh lý và an ninh, tùy
thuộc vào sức mạnh của áp lực ngang hàng. Ngược lại, đối với một số cá nhân,
nhu cầu về lòng tự trọng quan trọng hơn nhu cầu thuộc về; và đối với những
người khác, nhu cầu thực hiện sáng tạo có thể thay thế ngay cả những nhu cầu
cơ bản nhất. (Wikipedia, (2021) )
2. Cơ sở lí luận
2.1. Nhân cách là gì?
Nhân cách là một tổng thể thống nhất của nhiều thành phần, nhiều thuộc
tính kết hợp chặt chẽ với nhau. Nói đến câu trúc nhân cách là nói đến các thành
phần tạo nên nhân cách, các thành phần ấy được sắp xếp tổ chức ra sao, chúng
có quan hệ như thế nào.
Nhân cách là một phạm trù đa diện với nhiều điểm tiếp cận, vì thế có nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề này.Sau đây là một số kiểu cấu trúc nhân cách
dưới góc nhìn Tâm lý học, các kiểu cấu trúc này được vận dụng nhiều trong
nghiên cứu, trong giáo dục và đào tạo. (ThS Lê Thị Hân, TS Huỳnh Văn Sơn
(chủ biên), TS Trần Thị Thu Mai, ThS Nguyễn Thị Uyên Thy (2012) )
7
2.2.2. Tính cách?
Tính cách là thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, đối
với những người khác, nó được biểu hiện chủ yếu ở tác động qua lại giữa con
người với con người và với xã hội. Tính cách nói lên bộ mặt đạo đức của con
người trong xã hội. (Nguyễn Ánh Hồng, (2015) )
8
mưới tuổi đã dày dạn kinh nghiệm, sóng gió cuộc đời cái gì cũng kinh qua.
Nhưng có người 30, 40 tuổi hay nhiều tuổi hơn vẫn va chạm, vấp ngã. Cho nên
để mà nói theo khía cạnh tâm lý, quá trình phát triển nhân cách gần như không
có điểm dừng cố định. Cứ mỗi kinh nghiệm được rút ra, nhân cách chúng ta lại
đi lên một tầm mới. Cuộc sống là sự chảy trôi, vận động không ngừng nên nhân
cách con người cũng nằm trong sự chảy trôi phát triển không ngừng đó.
Thông thường, phát triển luôn có xu hướng đi lên, mang tính tích cực.
Nhưng theo một chiều hướng khác, việc phát triển, đôi khi không chỉ là đi lên
mà còn có thể là đi xuống, mang tích tiêu cực. Các nhân tố chi phối tới sự hình
thành và phát triển nhân cách cũng vì thế mà xuất hiện. Sự đa dạng trong cuộc
sống mỗi con người kéo theo sự xuất hiện của nhiều nhân tố ảnh hưởng tới nhân
cách, để mà kể tên thì đôi ba dòng chưa chắc kể hết. Do vậy, trong khuôn khổ
bài viết, chúng tôi xin đưa ra một số yếu tố được coi là cốt lõi, quan trọng nhất,
ảnh hưởng và chi phối nhiều nhất tới việc hình thành và phát triển nhân cách
gồm có 5 nhân tố:
- Nhân tố di truyền;
- Hoàn cảnh sống;
- Nhân tố giáo dục;
- Nhân tố hoạt động;
- Nhân tố giao tiếp. (Ngô Thị Thùy Dương, (2021) )
9
Tuy nhiên, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, bẩm sinh – di truyền mặc dù
đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách
nhưng không phải là yếu tố quyết định chiều hướng và giới hạn phát triển nhân
cách. Nói đúng hơn thì Bẩm sinh và Di truyền sẽ tham gia vào quá trình hình
thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý. Trong giai đoạn đầu, chúng thể
hiện vai trò tiền đề cho sự hình thành, phát triển nhân cách. (Ngô Thị Thùy
Dương, (2021) )
10
đoạn lịch sử nhất định. Trong tâm lý học, giáo dục thường được hiểu là quá trình
tác động có ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và
hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục
ngoài nhà trường. Giáo dục mang lại những thứ mà yếu tố bẩm sinh, di truyền
hoặc môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Giáo dục vạch ra chiều
hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, bù đắp những thiếu hụt, uốn
nắn những phẩm chất, tâm lý do phát triển tự phát của môi trường, xã hội. (Ngô
Thị Thùy Dương, (2021) )
11
gồm một hệ thống động cơ quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy
định sự lựa chọn thái độ của nó.
Xu hướng thường biều lộ ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, lí
tưởng,… (GS.TS Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), TS Nguyễn Văn Lũy và TS
Đinh Văn Lang, (2009) )
2.4.3. Lí tưởng
Lí tưởng xác định là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực,
tương đối hoàn chỉnh, có sức lôi cuốn đối với người muốn đạt tới nó.
- Lý tưởng khác ước mơ ở chỗ, trong lý tưởng chứa đựng mặt nhận
thức sâu sắc của chủ thể về điều kiện chủ quan và khách quan để vươn
tới lý tưởng, đồng thời chủ thể có tình cảm mãnh liệt đối với hình ảnh
mẫu mực của mình. Chính vì thế lí tưởng có sức mạnh lôi cuốn toàn
bộ cuộc sống con người vào các hoạt động vươn tới lí tưởng của mình.
12
Tuy vậy, ước mơ có thể là cơ sở hình thành cho các lí tưởng cao đẹp
sau này.
- Lí tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Có tính hiện
thực vì lí tưởng bao giờ cũng được xây dựng từ nhiều “chất liệu” có
thực trong đời sống. Song lí tưởng là hình ảnh mẫu mực chưa có trong
hiện thực, là cái chỉ đạt được trong tương lai. Lí tưởng phản ánh xu
thế phát triển của con người.
- Lý tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có
chức năng xác nhận mục tiêu, điều khiển toàn bộ hoạt động của con
người, trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển tâm lí cá nhân.
(GS.TS Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), TS Nguyễn Văn Lũy và TS
Đinh Văn Lang, (2009) )
13
Tầng 2: Nhu cầu được an toàn (Security and Safety Needs)
Khi các nhu cầu ở mức độ sinh lý đã được thỏa mãn, con người hướng tới
những nhu cầu về sự an toàn của bản thân. Họ mong muốn được bảo vệ tính
mạng khỏi các nguy hiểm và sự an toàn, ổn định trong đời sống. Nhu cầu được
an toàn ở đây không chỉ là an toàn về thể chất và sức khỏe, nó còn là mong
muốn được an toàn về mặt tinh thần về điều kiện tài chính của bản thân.
Một số nhu cầu an toàn của con người như:
+ An toàn khi gặp tai nạn, sự cố chấn thương
+ An toàn về sức khỏe
+ An toàn về tài chính (Trường Lăng, ( 2019) )
14
• Nhu cầu về giải trí
Mỗi sinh viên đều có 1 sở thích khác nhau, thích chơi game, thể thao, đọc
sách,…
Trong xã hội ngày nay, số lượng sinh viên thích đọc sách và ham học
không nhiều bằng số lượng sinh viên thích chơi game và chơi thể thao.
Minh Chứng:
1 học sinh tham gia cuộc thi đường lên đỉnh Olympia và đoạt giải nhất với
số tiền 500 triệu đồng, 1 đội game giành giải nhất với số tiền 200.000$ (2 trăm
ngàn đô) tương đương với số tiền hơn 4 tỷ đồng và trong đó có 1 người đang
còn ở độ tuổi sinh viên.
Nói vậy cũng không đúng, vì ta nên khuyến khích học sinh sinh viên nên
đọc sách để có thể học thêm nhiều kiến thức mới. không thì hãy chơi thể thao để
rèn luyện sức khỏekhỏe như đá banh, bóng rổ, bơi lội,…
Đa số các trường đại học đều đáp ứng đủ cho sinh viên về thư viện, các sân
vận động,… tổ chức nhiều cuộc thi về thể thao, kiến thức thậm chí là cả các
cuộc thi về game,… Đó là các loại hình giải trí rất tuyệt vời, ở 1 số trường hiện
nay còn có cả bộ môn bida để tăng thêm loại hình giải trí cho sinh viên.
Một thực tế khác là không gian phục vụ việc vui chơi, giải trí dành riêng
cho sinh viên nói riêng và thanh niên, thiếu niên nói chung hiện nay đang thiếu,
nhất là các không gian ngoài trời. Ðây cũng là một trong những nguyên nhân
khiến cho một bộ phận sinh viên sa vào thú vui độc hại, vi phạm pháp luật, như:
sử dụng các chất kích thích, chất gây nghiện (ma túy, thuốc lắc), cờ bạc, rượu
chè, đua xe...
Nhu cầu vui chơi, giải trí lành mạnh của sinh viên hiện nay là rất lớn, đa
dạng, phong phú. Vì vậy, rất cần các cấp có thẩm quyền, các nhà quản lý, các
nhà trường, tổ chức đoàn, hội quan tâm, xem xét, nghiên cứu nhằm xây dựng,
định hướng những loại hình, những không gian vui chơi, giải trí bổ ích dành cho
sinh viên.Mỗi con người hãy tự nâng cao ý thức về cách xác định loại hình giải
trí cho mình. Hãy đọc sách đi vì đọc sách rất tốt cho đầu óc. Hãy chơi thể thao
để nâng cao sức khỏe. Còn nếu chơi game mà bị người nhà hay bạn bè phàn nàn
thì hãy nói “ THÀ MÌNH CẦM ĐIỆN THOẠI CÒN HƠN CẦM CÁI BOONG”
Cứ thử đi, hiệu quả lắm đó. (Chí Trung và Hoàng Minh, (2010) )
15
đặt ra cho mình khi mới bước chân vào cánh cửa đại học.
Thực tế cho thấy đã có rất nhiều bạn sinh viên đi làm thêm trong quá trình
còn học đại học, cao đẳng để kiếm thêm thu nhập trang trải cuộc sống. Đã có
nhiều người trong số họ sau khi tốt nghiệp được nhận vào những công ty lớn có
múc thu nhập hấp dẫn.
Chắc hẳn trong chúng ta, những ai đã từng trải qua thời sinh viên thì đều
luôn ưu tiên gia sư là việc làm hàng đầu nếu có nhu cầu tìm kiếm một công việc
part-time. Với ưu điểm là thời gian linh động, mức lương ổn định nên đây là
công việc được khá nhiều bạn trẻ lựa chọn. Chỉ với thời gian khoảng 1, 2 tiếng
là bạn đã có thể kiếm thu nhập từ 80.000 - 150.000 đồng. Làm nhân viên phục
vụ nhà hàng ăn hay quán nước là công việc được nhiều bạn sinh viên ứng tuyển.
Với ưu điểm là thời gian linh động, thoải mái, môi trường năng động, bạn có thể
sắp xếp làm theo ca phù hợp với lịch học của mình. Ngoài mức lương cố định
theo giờ, sinh viên đôi khi còn nhận được tiền "boa" từ khách nên đây cũng là
công việc khá hấp dẫn. Đối với những ai yêu thích kinh doanh, bán hàng online
là công việc không nên bỏ qua. Nếu bạn không muốn làm nhân viên bán hàng
part-time thì công việc này sẽ giúp bạn tự do và thoải mái thời gian. Ngoài ra
còn có ưu điểm là không cần phải thuê cửa hàng với chi phí lớn, bạn vẫn có thể
kinh doanh đa dạng các mặt hàng như quần áo, mỹ phẩm, đồ lưu niệm,…
Nếu bạn vẫn còn băn khoăn sinh viên có nên làm thêm không, chọn việc
như thế nào cho phù hợp thì hãy cùng tìm hiểu thật kỹ để có thể ứng dụng cho
nhu cầu công việc để không ảnh hưởng đến việc chính của mình là học tập nhé.
Tuy nhiên làm thêm cũng có rất nhiều ưu điểm đặc biệt là trải nghiệm giúp bạn
vững vàng hơn khi ra trường, hãy thử và làm trong khả năng của mình nhé.
(Joboko, (2020) )
16
Nhiều sinh viên đề xuất được giảm học phí. Ảnh: Huyên Nguyễn
Trả lời báo Lao Động ngày 24.5 về vấn đề này, ông Nguyễn Quốc Anh -
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hutech - cho hay, ông đã tiếp nhận được một
số thắc mắc của sinh viên liên quan tới học phí. Đây không phải vấn đề của
riêng Hutech mà một số trường khác cũng gặp phải vấn đề này.
Đứng trên khía cạnh nhà trường, ông Quốc Anh cho rằng, việc chuyển sang
học online trong tình hình dịch bệnh là một trong những phương thức mà sinh
viên có thể chọn hoặc không chọn. Nếu nhà trường không triển khai giảng dạy,
sẽ rất nhiều sinh viên không đảm bảo được tiến độ học tập, vì thế nên nhà
trường chọn triển khai học online. Nếu sinh viên cảm thấy chưa đủ điều kiện
như về máy tính, đường truyền, kinh phí… để học online thì có thể làm đơn bảo
lưu và sau đó theo học trực tiếp khi đủ điều kiện.
Ngoài ra, ông Quốc Anh cũng cho biết, nhà trường vẫn có chính sách về
học bổng khuyến tài cho sinh viên học giỏi và học bổng khuyến học cho sinh
viên có hoàn cảnh khó khăn. Những sinh viên nào gặp khó khăn thì có thể làm
17
đơn gửi Phòng Công tác học sinh sinh viên, nhà trường sẽ xem xét dựa trên chỉ
tiêu hằng năm và giải quyết. (Huyên Nguyễn, (2021) )
5. Bảng hỏi
STT Câu hỏi
1 Nhu cầu mong muốn của sinh viên sau tốt nghiệp là gì?
2 Vấn đề mà sinh viên mong muốn từ ban giám hiệu nhà trường?
3 Nhà trường cần triển khai loại hình gì để đáp ứng nhu cầu giải trí của
sinh viên sau những giờ học mệt mỏi?
4 Trong thời đại hiện nay, loại hình giải trí nào được sinh viên chú ý thế
hiện nhất?
5 Nguyên nhân dẫn đến việc sinh viên tham gia vào các loại hình giải trí
độc hại dù nhà trường đã triển khai các loại hình giải trí lành mạnh?
6 Liệu đi làm thêm có ảnh hưởng xấu đến việc học tập của sinh viên?
7 Có bạn cho rằng việc đi làm thêm không ảnh hưởng đến việc học tập,
vậy phương pháp tốt nhất để đi làm thêm mà vẫn duy trì thành tích học
tập tốt là gì?
8 Nhà trường nên hỗ trợ gì cho sinh viên trong thời buổi dịch bệnh căng
thẳng?
9 Cách thức giải quyết tốt nhất cho sinh viên không đủ điều kiện học
online?
10 Cách thức giải quyết tốt nhất cho sinh viên không đủ điều kiện học
online?
6. Kết luận
Nhu cầu xã hội của mỗi người là một sự khác biệt đặc trưng biểu thị nhân
cách của mỗi cá nhân trong xã hội. Nghiên cứu về nhu cầu của sinh viên chính
là tìm hiểu một nhân cách, một suy nghĩ chung của những cá nhân tồn tại trong
một môi trường sinh hoạt và học tập chung này một cách khái quát, đa dạng,
đồng thời cũng giúp đưa ra các biện pháp đảm bảo nhu cầu, nguyện vọng của
sinh viên một cách hoàn thiện nhất.
Qua những thông tin nghiên cứu cũng như những thực tế bằng các tài liệu,
báo chí,…ta hiểu được thêm về quá trình phát triển nhân cách của mỗi sinh viên,
chính những nhân cách đó dẫn đến mỗi một nhu cầu khác nhau. Từ đó rút kết
được những nhu cầu thiết yếu và cấp bách của sinh viên tròn thời buổi hiện tại.
So sánh được sự khác biệt giữa nhu cầu của sinh viên ở quá khứ, hiện tại cũng
như chuẩn bị những giải pháp cho tương lai một cách hợp lí.
Nhìn chung, bài tiểu luận đã đạt được một số mục tiêu nhất định, đưa người
đọc hiểu rõ hơn đến những khái niệm tâm lý, đưa ra một số biểu hiện nhân cách
cũng như cho một số ví dụ điển hình về nhu cầu của sinh viên. Tuy nhiên, bài
tiểu luận vẫn chưa đạt được những mục tiêu sâu sắc nhất, vẫn chưa thể hiện tốt
và hoàn thiện nhất về nhu cầu của sinh viên, chỉ là sự nhìn nhận chủ quan của
18
nhóm về một mặt nhỏ của những nhu cầu ở sinh viên. Mong quý thầy cô nhận
xét khách quan, chỉ ra những thiếu sót, giúp đỡ nhóm chúng em để có một cái
nhìn khách quan hơn về nhân cách và nhu cầu của sinh viên nói riêng và con
người nói chung. Chúng em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô.
19