You are on page 1of 38

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH

BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN


ĐỀ TÀI:

CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ


ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. LIÊN HỆ VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: TS. Đoàn Thị May

Lớp: Y2022B

Nhóm thực hiện: 4

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2023


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ

BẢNG ĐIỂM BÀI TIỂU LUẬN


MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Nhóm: 4 Lớp: Y2022B

Học Kỳ:Ⅱ Năm học: 2022 - 2023

Đề tài: Cơ sở xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội . Liên hệ vấn đề hôn nhân và gia đình ở Việt Nam hiện nay.

STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ KẾT QUẢ


(%)

1 Trịnh Văn Phúc 2251010455 Phần 1.2.3, phần 1.2.4

2 Lê Minh Thông 2251010581 Phần 1.2.1, phần 1.2.2

3 Tống Thị Thu Thủy 2251010591 Phần 1.1.1, phần 2.1.1,


phần 2.2.2

4 Nguyễn Lan Thư 2251010597 Phần 1.1.1, phần 1.1.3

5 Nguyễn Trần Minh Thư 2251010598 Phần 2.2.1, phần 2.2.2

6 Ngô Hoàng Nhã Thy 2251010603 Phần 2.1.2, phụ lục

7 Nguyễn Thị Thanh Trinh 2251010627 Mở đầu, chỉnh file

8 Chướng Ngọc Vân 2251010642 Phần 2.3, tài liệu tham


khảo

9 Nguyễn Thị Kiều Vy 2251010661 Phần 2.1.1, Lời cảm ơn,


mục lục

10 Trần Hoàng Hải Yến 2251010672 Kết luận, tạo trang bìa,
trang thông tin
Họ và tên nhóm trưởng: Tống Thị Thu Thủy

SĐT: 0905360763

Email: 2251010591@pnt.edu.vn

NHÓM TRƯỞNG

Bài làm gồm:…..trang

Điểm Cán bộ chấm thi


Bằng số Bằng chữ (Ký và ghi rõ họ tên)

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, chúng em xin tri ân và gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến GV.
TS. Đoàn Thị May - người đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn chúng em trong
quá trình thực hiện bài tiểu luận về “Cơ sở xây dựng gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”, cũng như Bộ môn Lý luận chính trị tại Trường
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Trong quá trình học tập và tìm hiểu môn Chủ
nghĩa xã hội khoa học, cô đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý
báu cho chúng em. Nhờ sự chỉ bảo tận tình của cô, chúng em đã tích lũy thêm
nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn trong cuộc sống, có thái
độ tích cực với việc học tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như có lý tưởng,
có niềm tin vào mục tiêu, sự thành công của cuộc sống mới do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Hơn thế, cô đã định hướng cho chúng em cách lập luận, đưa ra dẫn
chứng để phân tích các vấn đề chính trị - xã hội trong đời sống hiện nay một cách
sâu sắc hơn.
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người
luôn tồn tại những hạn chế nhất định, chúng em sẽ tiếp tục tìm hiểu và tiếp thu
những kiến thức mới. Bài tiểu luận có thể được coi là một công trình nghiên cứu
khoa học nhỏ, do đó để hoàn tất một đề tài tiểu luận là việc không phải là dễ đối
với sinh viên chúng em. Trong quá trình làm, chúng em đã tìm tài liệu trên nhiều
phương tiện như giáo trình, sách báo, internet,… để nghiên cứu, tham khảo, và
cũng không thể tránh khỏi những sai sót. Nhóm chúng em rất mong được nhận góp
ý đến từ cô để rút kinh nghiệm và hoàn thành tốt những bài luận tiếp theo.
Chúng em xin chúc cô dồi dào sức khỏe, có nhiều thành công trong sự
nghiệp giảng dạy của mình.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài...........................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.....................................................................1
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...............................................................2
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................3
1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI..................................................................3
1.1 Gia đình và các vấn đề liên quan theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin...................................................................................................................3
1.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình.......................................3
1.1.2 Vị trí của gia đình trong xã hội...............................................................4
1.1.3 Gia đình với các chức năng cơ bản.........................................................6
1.2 Cơ sở xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.......................8
1.2.1 Cơ sở kinh tế - xã hội..............................................................................8
1.2.2 Cơ sở chính trị - xã hội...........................................................................9
1.2.3 Cơ sở văn hóa........................................................................................10
1.2.4 Chế độ hôn nhân tiến bộ.......................................................................11
2. THỰC TRẠNG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.........................................................................13
2.1 Thực trạng về hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay.............................13
2.1.1 Tình hình hôn nhân ở nước ta hiện nay................................................13
2.1.2 Thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay.............................................15
2.2 Những nguyên nhân và giải pháp để phát huy tốt những giá trị hôn nhân và
gia đình tại Việt Nam........................................................................................19
2.2.1 Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng hôn nhân và gia đình ở nước ta........19
2.2.2 Những giải pháp hướng đến xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình
hạnh phúc, tiến bộ..........................................................................................23
2.3 Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng gia đình Việt Nam...........25
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................
PHỤ LỤC....................................................................................................................
PAGE \* MERGEFORMAT 28

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Có thể nói, gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại. Hôn nhân và gia
đình có vai trò quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Muốn có
một xã hội phát triển lành mạnh, an toàn thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia
đình thật tốt bởi gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người và cũng là một xã hội thu
nhỏ trong cuộc sống. Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất
lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm,
hòa thuận trong gia đình, thì mới có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng góp
sức mình cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã
hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hôn nhân hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ bối cảnh trên liệu rằng chúng ta đã
từng đặt ra câu hỏi: Thực trạng của gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới này
như thế nào? Giải pháp xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam hiện nay như thế
nào chưa? Với mục đích trả lời cho những câu hỏi trên, nhóm chúng em chọn đề
tài: “Cơ sở xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ vấn đề hôn nhân và gia đình ở Việt Nam hiện nay” cho bài tiểu luận của
mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài: Giúp cho bản thân cùng với các bạn sinh
viên hiểu rõ hơn về gia đình cũng như thực trạng, giải pháp xây dựng, phát triển
gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu thì chúng ta cần có nhiệm vụ phân
tích rõ ràng, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về gia đình, nêu ra thực trạng, nguyên nhân
dẫn đến của gia đình Việt Nam hiện nay và đưa ra được giải pháp xây dựng gia
đình trong thời kỳ đổi mới theo hướng ngày càng đi lên.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


PAGE \* MERGEFORMAT 28

Đối tượng nghiên cứu: cơ sở xây dựng gia đình trong những năm 1986 đến
nay và những vấn đề về hôn nhân, gia đình hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: những biến đổi về gia đình và giữa hôn nhân và gia
đình ở Việt Nam liên quan đến các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá trong
thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.


Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật. Kết hợp các phương pháp như: thống nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đề tài khái quát được lý luận chung của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề
gia đình và cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
phân tích sự biến đổi của gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
giúp mọi người hiểu rõ tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đó, để xây
dựng một gia đình đúng chuẩn mực. Đồng thời liên hệ với thực trạng, giải pháp
xây dựng, phát triển gia đình ở Việt Nam từ đó liên hệ với bản thân và gia đình rút
ra các bài học quan trọng.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

PHẦN NỘI DUNG


1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Gia đình và các vấn đề liên quan theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình
Khi nói tới gia đình, mỗi người sẽ có những định nghĩa cho riêng mình.
Chung quy lại, gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đề cập đến vấn đề này, C.Mác và Ăngghen đã
luận chứng rõ về những mối quan hệ thiết yếu của con người như một điều tất yếu
ngoài nhu cầu vật chất, đó là duy trì nòi giống, mối quan hệ hôn nhân, huyết
thống,... Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về các vấn đề gia đình có sự kế
thừa và bổ sung từ những tư tưởng trước đó. Vì vậy, cái nhìn ở đây trở nên khách
quan, toàn diện hơn, phản ánh chân thực về sự vận động, biến đổi của gia đình.
Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” đã khẳng định: “…hàng ngày tái tạo ra đời
sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy
nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ con cái, đó là gia đình…” 1. Qua đây,
có thể thấy gia đình được hình thành dựa trên hai mối quan hệ cơ bản đó là quan hệ
hôn nhân (vợ - chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái...). Các mối quan
hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết và ràng buộc lẫn nhau về cả nghĩa vụ,
quyền lợi và trách nhiệm. Trong đó, quan hệ hôn nhân là cơ sở nền tảng để hình
thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, đây là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại
của gia đình. Mối quan hệ huyết thống được hình thành dựa trên cơ sở là hôn nhân,
là quan hệ giữa những người cùng dòng máu, là yếu tố mạnh mẽ để gắn kết các
thành viên trong gia đình. Ngoài ra, còn tồn tại các mối quan hệ khác như: quan hệ
ông bà - cháu, cha mẹ - con nuôi...
Các gia đình có thể tồn tại ở những mô hình khác nhau nhưng vẫn luôn gắn
với phương thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, phát triển của

1
Hội đồng xuất bản toàn tập C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), C.Mác và Ph.Ăngghen, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, T.3, tr.41.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

gia đình phụ thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã hội. Gia đình là “sản vật
của một chế độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển của
chế độ xã hội đó”. Sự phát triển các hình thức gia đình là do sự tác động của quy
luật đào thải tự nhiên, sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội, phát triển của
tâm lý, đạo đức... Trong đó, sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố
quyết định. Những điều kiện kinh tế - xã hội có tác dụng quyết định đến hình thức
tổ chức và kết cấu của gia đình. Ngược lại, gia đình và trình độ phát triển của gia
đình cũng có tác động quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con người để bảo vệ nòi giống cũng
như tái tạo ra sức lao động cho sản xuất xã hội.

1.1.2 Vị trí của gia đình trong xã hội


Thứ nhất, gia đình có vai trò như một tế bào, một đơn vị cơ bản để tạo nên
xã hội.
Khi nói về gia đình, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Bản thân của
sự sản xuất có hai loại: một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt; mặt khác là sự sản
xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống”2.
Với vai trò tạo ra các tư liệu sản xuất, tiêu dùng và tái sản xuất ra con người,
gia đình được coi là một tế bào - tổ chức nhỏ nhất để hợp thành cơ thể sống của xã
hội. Chúng có mối liên hệ mật thiết, tương hỗ nhau để đảm bảo sự tồn tại, phát
triển của xã hội. Tạo ra tư liệu sản xuất là cơ sở để cung cấp tư liệu tiêu dùng cho
con người, đáp ứng nhu cầu của họ, trong khi tái sản xuất con người là yếu tố quan
trọng đảm bảo sự tiếp tục và phát triển của xã hội. Không chỉ là nơi duy trì nòi
giống, là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách
con người, gia đình còn có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển xã hội,
góp phần xây dựng, duy trì, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân tộc; là nơi giữ
gìn, phát huy những giá trị truyền thống quý báu...

2
Hội đồng xuất bản toàn tập C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, T. 21, tr.44.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

Như vậy, để có một xã hội văn minh, phát triển lành mạnh, trước hết phải
quan tâm xây dựng tế bào gia đình thật tốt. Mỗi gia đình tốt là xã hội tốt, mỗi gia
đình giàu mạnh là góp phần cho xã hội phồn vinh. Cũng như chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “... nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng
tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt”3.
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào
bản chất của từng chế độ xã hội, đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền. Và
thực tế lịch sử cũng đã chứng minh, mỗi hình thức gia đình cũng thay đổi khác
nhau qua từng giai đoạn phát triển của xã hội. Trong giai đoạn đầu xã hội loài
người, con người phải lệ thuộc vào tự nhiên, gia đình mẫu hệ với chế độ quần hôn
phát triển mạnh. Sau đó, lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra công cụ lao động dẫn
đến sự phân công lao động trong xã hội. Chính sự sở hữu tư nhân đối với nguồn
lực và sản phẩm trong sản xuất đã kéo theo sự thay đổi các hình thức gia đình, là
nguyên nhân làm thay đổi chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ, một vợ, một chồng.
Thứ hai, gia đình là tổ ấm, nơi mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa
trong cuộc sống.
Gia đình là nơi yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc và là mái ấm của mọi
người. Ở nơi đây, chúng ta sẽ tìm thấy tình yêu, sự quan tâm và hỗ trợ tận tình, tạo
điều kiện cho sự phát triển toàn diện và phát huy hết tiềm năng của mình. Như vậy,
có được một gia đình hạnh phúc chính là tiền đề quan trọng cho sự phát triển toàn
diện của mỗi cá nhân, góp phần xây dựng một xã hội phát triển lành mạnh.
Thứ ba, gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.
Với vai trò là một cộng đồng người đặc biệt, gia đình không chỉ là “tế bào”
của xã hội, là tổ ấm, nơi mang lại sự hạnh phúc cho mỗi người, đây còn là cầu nối
giữa mỗi cá nhân với xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu
cầu quan hệ của cá nhân, cũng là môi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân được tiếp
xúc và thực hiện các quan hệ đó từ khi lọt lòng.
Không dừng lại ở đó, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội
tác động đến cá nhân, là cầu nối mang đến sự giáo dục, chăm sóc cùng những mối
3
Chủ tịch Hồ Chí Minh (10/10/1959), Hội thảo hôn nhân - gia đình.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

quan hệ, quyền và nghĩa vụ mang tính xã hội cao. Tất cả thông tin, hiện tượng từ
xã hội đều thông qua “lăng kính gia đình” để tác động đến sự phát triển của mỗi cá
nhân. Các mối quan hệ giữa cá nhân với gia đình là nền tảng cơ sở để xã hội nhận
thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi người.
Tuy nhiên, ở mỗi chế độ khác nhau sẽ có những đặc điểm gia đình thích
hợp. Trong xã hội phong kiến, để duy trì sự độc đoán, chuyên quyền và củng cố
chế độ bóc lột, xã hội đã tạo nên những quy định khắt khe đối với phụ nữ như: bắt
họ phải trung thành với người chồng, người cha - những người đàn ông trong gia
đình. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để có một xã hội bình đẳng, con
người được giải phóng, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được bảo vệ, thực hiện
sự bình đẳng trong gia đình.

1.1.3 Gia đình với các chức năng cơ bản


Một là, chức năng tái sản xuất ra con người.
Tái sản xuất ra con người là chức năng cơ bản và đặc trưng của mỗi gia
đình. Chức năng này bao gồm: tái sản xuất, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao
thể lực và trí lực nhằm đảm bảo tái sản xuất nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu về
sức lao động và sự trường tồn của xã hội.
Hoạt động sinh sản con cái là nhu cầu cần thiết, xuất phát từ nhu cầu tồn tại
tự nhiên và chính đáng của con người cũng như xã hội. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng
mật độ dân cư, dân số… và nhiều yếu tố khác đã tác động to lớn đến chiến lược,
chính sách phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính vì vậy, sinh đẻ không chỉ là việc của riêng mỗi gia đình mà còn là
nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia và của toàn nhân loại. Chiến lược về dân số
hợp lý sẽ đóng vai trò quan trọng mang tính quyết định trực tiếp giúp tạo ra kế
hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đây là
mục tiêu, động lực to lớn nhất của sự phát triển nền kinh tế, văn hóa, xã hội.
Hai là, chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình.
Các hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống gia đình là một trong những chức
năng cơ bản của gia đình. Hiểu theo nghĩa đầy đủ thì hoạt động kinh tế gồm có
PAGE \* MERGEFORMAT 28

hoạt động sản xuất và tiêu dùng để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, ở,
đi lại của từng thành viên cũng như toàn gia đình.
Chúng ta có thể thấy, từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những gia đình
có điều kiện (sở hữu hay tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một
đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Do đó, để có thể phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo trong kinh tế, Đảng và nhà nước ta đã và đang liên tục đề ra và
thực hiện các chính sách để tạo điều kiện tốt nhất cho mọi gia đình và cá nhân có
thể làm giàu chính đáng bằng các hoạt động kinh tế trong khuôn khổ pháp luật.
Gia đình thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ là cơ sở và bước đệm vững chắc
cho việc tổ chức đời sống ấm no, hạnh phúc. Song, ngoài yếu tố kinh tế, gia đình
còn cần nhiều yếu tố khác mới có thể đảm bảo một cuộc sống văn minh, tiến bộ và
hạnh phúc.
Ba là, chức năng nuôi dưỡng và giáo dục
Gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích
cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Đặc biệt, gia đình là nơi đầu tiên, cũng là nơi
cuối cùng để thực hiện chức năng về giáo dục và nuôi dưỡng đối với con trẻ. Việc
nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình là nội dung khá toàn diện và bao quát, cả về
giáo dục tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý
thức và cộng đồng.
Giáo dục và nuôi dưỡng của gia đình vô cùng đa dạng, song chủ yếu là
hướng giáo dục nêu gương, thuyết phục. Phương pháp giáo dục chịu ảnh hưởng vô
cùng to lớn từ xã hội như những tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của từng gia
đình. Dẫu ngày nay, giáo dục xã hội đóng một vai trò ngày càng quan trọng và
mang tính quyết định, tuy nhiên giáo dục gia đình vẫn đóng vai trò quan trọng
trong các nội dung, phương pháp giáo dục.
Thông qua việc thực hiện chức năng khách quan vốn có của gia đình, chúng
ta có thể thấy vai trò quan trọng của gia đình đối với sự phát triển xã, nhưng đây
chỉ là gia đình với tư cách là “của cái bộ phận với cái toàn thể”. Do đó, mọi quan
điểm tuyệt đối hóa hay đề cao, phủ nhận quá mức vai trò của gia đình trong xã hội
đều là sai lầm.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

Ảnh 1: Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình

Bốn là, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình. Gia đình là nơi mỗi thành viên
được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, được thỏa mãn nhu cầu tình cảm, cân
bằng tâm lý, giải tỏa ức chế... từ các quan hệ xã hội. Không phải ngẫu nhiên người
ta gọi gia đình với tính từ yêu thương, ấm áp. Trong gia đình, người già được con
cháu chăm sóc, được sống vui vẻ lạc quan. Nơi đó, con cái biết kính yêu, vâng lời
cha mẹ, vợ chồng quan tâm, chia sẻ vui buồn, cực nhọc với nhau. Ở đó, mỗi người
cảm nhận được tình yêu với từng góc nhà như khoảng sân, gốc cây, tivi cũ... Mối
quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình thành trong lối xóm, trong xã hội và dần trở
thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước, con người. Khi quan hệ tình cảm
gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị tan vỡ.
Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị... và một số chức năng khác. Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu
giữ truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tộc người. Ông bà truyền lại cho
con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ mà còn là
nơi sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính
trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ đó.
Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.

1.2 Cơ sở xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1.2.1 Cơ sở kinh tế - xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới, xã hội
chủ nghĩa. Thiết lập quan hệ sản xuất mới - chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với
tư liệu sản xuất thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xóa bỏ nguồn
gốc gây nên tình trạng thống trị của người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng
giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ, sự nô dịch đối với phụ nữ. V.I.Lênin đã viết:
"Bước thứ hai và bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về đất ruộng, công nông
PAGE \* MERGEFORMAT 28

và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được con đường giải phóng
hoàn toàn và thực sự cho phụ nữ, tiêu đề mới được "chế độ nô lệ gia đình" nhờ có
việc thay thế nền kinh tế gia đình cá nhân bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mô
lớn"4. Khi xã hội công bằng, bình đẳng thì gia đình sẽ hạnh phúc và phụ nữ cũng
được giải phóng ra khỏi các quan hệ lạc hậu trong gia đình. Bởi sự thống trị của
người đàn ông trong gia đình là kết quả của sự thống trị về kinh tế, sự thống trị
trong gia đình sẽ tự tiêu tan khi sự thống trị về kinh tế của đàn ông không còn. Hơn
nữa, việc xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân
được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chân chính chứ không phải vì lý do kinh tế,
địa vị xã hội hay một tính toán nào khác. Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: "Tư liệu sản
xuất chuyển thành tài sản chung, thì gia đình cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế
của xã hội nữa. Nền kinh tế tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội. Việc
nuôi dạy con cái trở thành công việc của xã hội"5.
Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt là hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, mặt khác tạo cơ hội để phát huy tiềm năng của mọi thành viên
trong gia đình, từng bước khắc phục những hạn chế, kế thừa và phát huy những giá
trị truyền thống, hình thành những yếu tố tích cực trong gia đình chuyển từ gia
đình truyền thống sang gia đình mới theo hướng xã hội chủ nghĩa.

1.2.2 Cơ sở chính trị - xã hội


Cơ sở chính trị - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên, nhân dân lao động được thực
hiện quyền lực không phân biệt nam và nữ. Khi chính quyền thuộc về giai cấp
công nhân và nhân dân lao động sẽ hình thành xã hội dân chủ, quyền lực thuộc về
đa số nhân dân lao động, xóa bỏ những luật lệ, phong tục lạc hậu, kiềm hãm, đè
nặng lên vai người phụ nữ và xây dựng hệ thống chính sách vì lợi ích nhân dân lao
động. Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính quyền xô viết là chính quyền đầu tiên
4
V.I.Lê-nin (2005), Lê-nin toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.42, tr.464.
5
Hội đồng xuất bản toàn tập C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, T. 21, tr.118.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

và duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê
tiện, những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng không bình đẳng với nam
giới, đã dành đặc quyền cho nam giới… Chính quyền xô viết, một chính quyền của
nhân dân lao động, chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giớ đã hủy bỏ tất cả
những đặc quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người đàn ông
trong gia đình…”6. Xã hội mà dân chủ thì phụ nữ sẽ giải phóng, gia đình bình
đẳng, hạnh phúc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành pháp luật liên quan đến gia đình, đặc
biệt là Luật hôn nhân và gia đình cùng với hệ thống các chính sách xã hội đảm bảo
lợi ích của công dân, các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng giới,
chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội,… từng bước đi vào cuộc sống
tạo điều kiện và tiền đề quan trọng đối những thay đổi theo chiều hướng tích cực
trong hình thức tổ chức, quy mô, kết cấu gia đình. Hệ thống pháp luật và chính
sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với Nhà nước, các bộ phận hợp
thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa như Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh
niên cộng sản, Liên đoàn lao động ngày càng có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng hôn nhân gia đình xã hội chủ nghĩa.

1.2.3 Cơ sở văn hóa


Văn hóa là tập hợp những giá trị vật chất và ý thức mà con người tạo ra ở
nơi họ sinh sống, chúng không bất biến mà luôn vận động và thay đổi qua từng giai
đoạn khác nhau. Văn hóa ở thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa có những thay đổi
rõ rệt ảnh hưởng tích cực đến vấn đề xây dựng gia đình và hôn nhân. Văn hóa
được xây dựng với nền tảng là tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân và dần trở
thành yếu tố giữ vai trò chi phối những giá trị tinh thần của xã hội. Nhận thức, tư
duy của con người trong thời kỳ này thay đổi nên những văn hóa lạc hậu tồn tại
trong xã hội trước đó cũng dần được loại bỏ. Văn hóa thay đổi, con người càng chú
trọng vào vấn đề giáo dục và khoa học công nghệ hơn, điều đó làm tăng sự hiểu

6
V.I.Lê-nin (2005), Lê-nin toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.40, tr.182.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

biết của con người, chuẩn mực đạo đức ngày càng được nâng cao, những nhận
thức mới dần xuất hiện và các quan điểm lỗi thời về hôn nhân và gia đình trong xã
hội trước đó dần tiêu biến, mối quan hệ trong gia đình được điều chỉnh phù hợp
hơn.
Việc xây dựng gia đình phụ thuộc phần nhiều vào sự thay đổi của văn hóa.
Văn hóa thay đổi là dấu hiệu cho thấy nhận thức của con người đã thay đổi, điển
hình là trong vấn đề xây dựng gia đình và hôn nhân trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa, việc kết hôn cũng trở nên cởi mở và thoải mái hơn, hạn chế sự bắt ép,
ép buộc kết hôn không theo ý muốn như trong xã hội cũ. Việc xây dựng gia đình
và hôn nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ không đi đúng hướng và
mức độ hiệu quả không cao nếu thiếu đi yếu tố văn hóa, một yếu tố cơ bản góp
phần hình thành một gia đình hạnh phúc, ấm no.

1.2.4 Chế độ hôn nhân tiến bộ


Việc xây dựng gia đình và hôn nhân nếu chỉ dựa vào cơ các cơ sở kinh tế,
chính trị, văn hóa của một xã hội thì vẫn chưa đủ. Nhất thiết phải có thêm chế độ
hôn nhân tiến bộ, một chế độ bao gồm các nguyên tắc: hôn nhân tự nguyện; một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng và được đảm bảo về pháp lý.
Một là, hôn nhân tự nguyện.
Hôn nhân tự nguyện là hôn nhân xuất phát từ tình yêu thật sự giữa một nam
và một nữ; dựa trên sự mong muốn của họ chứ không phải do sự cưỡng ép hay một
tác động nào khác ràng buộc họ phải kết hôn. Hôn nhân tự nguyện bảo đảm cho
nam và nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, trên cơ sở tình yêu
đích thực, là tiền đề quan trọng để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Cũng như Ph.
Ăngghen đã nói: “... nếu nghĩa vụ của vợ chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa
vụ của những kẻ yêu nhau há chẳng phải kết hôn với nhau và không được kết hôn
với người khác hay sao?”7. Hôn nhân tự nguyện là một trong những nguyên tắc
quan trọng quyết định sự hạnh phúc của một cuộc hôn nhân, một gia đình. Không

7
Hội đồng xuất bản toàn tập C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, T. 21, tr.125.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

những thế, nó còn là một trong các cơ sở để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ
lên xã hội chủ nghĩa.

Hai là, hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Hôn nhân một vợ một chồng là mối quan hệ tiến bộ, khi đó, người đang
trong một mối quan hệ hôn nhân không được kết hôn hay sống chung với người
khác như vợ chồng, đây là kết quả từ tình yêu thật sự giữa một nam và một nữ. Từ
đó, vợ và chồng chung thủy và gắn bó với nhau, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau,
cùng nhau phát triển các mối quan hệ trong gia đình một cách lành mạnh. Ngoài ra,
hôn nhân một vợ một chồng còn thể hiện sự tôn trọng giữa vợ và chồng, cũng như
thể hiện trách nhiệm của cả vợ và chồng trong việc giữ gìn hạnh phúc của gia đình.
Hôn nhân một vợ một chồng là vấn đề chung của cả đàn ông và phụ nữ, là một
trong những nguyên tắc cơ bản để xây dựng một gia đình hạnh phúc, đặc biệt là
xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Vợ chồng bình đẳng là mối quan hệ mà vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau trong cuộc sống gia đình. Vợ, chồng đều được quyền tự do lựa chọn
các hoạt động hay các nhu cầu cá nhân riêng, và đồng thời, họ sẽ cùng hợp sức để
giải quyết những vấn đề chung. Vợ chồng bình đẳng tạo điều kiện để không ai bị
thiệt thòi trong quan hệ hôn nhân, đặc biệt là người phụ nữ. Đây là yếu tố không
thể thiếu trong việc xây dựng gia đình nói chung và xây dựng gia đình trong thời
kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng là một trong các đặc điểm,
nguyên tắc của chế độ hôn nhân tiến bộ góp phần quan trọng trong việc xây dựng
một gia đình hạnh phúc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức.
Ba là, hôn nhân được đảm bảo về pháp lý.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý là hôn nhân được thực hiện dựa trên
những căn cứ, cơ sở lý luận, những quy định của pháp luật. Hôn nhân giữa một
nam và một nữ được thừa nhận khi họ đã hoàn thành các thủ tục pháp lý. Thực
hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân là cách thức ngăn chặn những cá nhân lợi dụng
các quyền của mình, quyền tự do kết hôn hay quyền tự do ly hôn để thực hiện
PAGE \* MERGEFORMAT 28

những hành vi sai trái, thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng của bản thân.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý góp phần bảo vệ mối quan hệ hôn nhân, giữ
gìn hạnh phúc gia đình, đồng thời là nguyên tắc quan trọng trong việc xây dựng gia
đình trong các thời kỳ, đặc biệt là thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Đối với việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, những vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa và sự hiện diện của
một chế độ hôn nhân hợp lý là rất quan trọng. Nó là tiền đề, là cơ sở không thể
thiếu để xây dựng nên một gia đình ấm no, hạnh phúc. Mỗi gia đình là một tế bào
của xã hội, tế bào khỏe mạnh thì cơ thể khỏe mạnh, gia đình được xây dựng tốt thì
xã hội ngày càng tốt, đất nước ngày càng phát triển.
2. THỰC TRẠNG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1 Thực trạng về hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay
2.1.1 Tình hình hôn nhân ở nước ta hiện nay
Hôn nhân được hiểu đơn giản là quan hệ giữa vợ - chồng sau khi đã thực
hiện các quy định của pháp luật về kết hôn, nhằm chung sống với nhau và xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, bền vững, là cơ sở xây dựng gia đình
hạnh phúc, đồng thời cũng là bước ngoặt đánh dấu sự trưởng thành.
Những tiến bộ trong hôn nhân
Hôn nhân tự nguyện, tự do, tiến bộ: Nếu trong xã hội phong kiến, chế độ
hôn nhân theo hướng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” cùng với các hủ tục khác tạo
nhiều bất lợi, đặc biệt là với phụ nữ. Thì hiện nay, chế độ hôn nhân tự nguyện đã
được quy định trong pháp luật, được đề cao, thể hiện sự tự do, tự quyết của mỗi cá
nhân trong hôn nhân. Cũng như Ph.Ăngghen đã nói: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa
trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu
được duy trì, mới là hợp đạo đức mà thôi... và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt
hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên
cũng như cho xã hội”8. Tuy nhiên, sự tự do quyết định trong các vấn đề hôn nhân
cũng chính là một phần gây ra thực trạng “ly hôn” quá nhiều ở nước ta.
8
Hội đồng xuất bản toàn tập C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.21, tr.128.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

Tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết giảm: Qua 5 năm (2015-2020) triển khai
đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng DTTS giai
đoạn 2015 - 2025” bước đầu đã thu được kết quả khá khả quan, tình trạng hôn
nhân cận huyết đã giảm 4,7% so với năm 2014 (năm 2014 là 26,6%, năm 2018 là
21,9%) và cứ trung bình mỗi năm giảm 0,94%. Theo số liệu điều tra thực trạng
kinh tế - xã hội 53 DTTS năm 2019, vùng Tây Nguyên có tỉ lệ tảo hôn cao nhưng
đã giảm so với năm 2014 (năm 2018 là 27,5% đã giảm khoảng 2,1%). Nhiều địa
phương đã triển khai thực hiện mô hình giảm tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết góp
phần thực hiện hiệu quả việc khuyến khích đồng bào tuân theo các chính sách của
địa phương, nhà nước và đã có sự thay đổi đáng kể.
Ảnh 2: Độ tuổi trung bình kết hôn tại nước ta theo thành thị, nông thôn và
vùng kinh tế năm 2019
Cởi mở hơn với vấn đề hôn nhân đồng giới: Mặc dù hiện nay pháp luật Việt
Nam vẫn chưa công nhận hôn nhân giữa những người có cùng giới tính, nhưng
thay vì “cấm” như trước đây thì chỉ quy định “không thừa nhận hôn nhân cùng giới
tính”. Năm 2014 pháp luật đã bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng
giới tính, thay vào đó quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những
người cùng giới tính”9. Đây được xem là một bước tiến lớn trong ngành lập pháp
Việt Nam. Điều này có thể hiểu là những người cùng giới tính có thể tổ chức hôn
lễ theo thủ tục hôn nhân truyền thống và chung sống với nhau như vợ chồng.
Những bất cập trong hôn nhân ở nước ta hiện nay
Bên cạnh những mặt tiến bộ đáng kể trong hôn nhân, nước ta vẫn còn tồn tại
một số bất cập cần được khắc phục để phát huy tốt những giá trị hôn nhân. Những
bất cập phổ biến cần kể đến là:
Tình trạng ly hôn đang dần trở nên phổ biến: Dựa trên thực trạng hôn nhân ở
Việt Nam hiện nay, nghiên cứu thấy số vụ ly hôn ở nước ta đang ở mức 60.000
vụ/năm, tương đương 0,75 vụ/1.000 dân. Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn là 25%, tức là
cứ 4 cặp vợ chồng đi đăng ký kết hôn thì có 1 đôi ra tòa. Theo thống kê, tại TP. Hồ
Chí Minh, số người đến tư vấn ly hôn chiếm đến 70% trong các ca tư vấn giải
9
Quốc hội (2015), Khoản 2, Điều 8, Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13
PAGE \* MERGEFORMAT 28

quyết về hôn nhân và gia đình. Điều này cho thấy giới trẻ hiện nay có xu hướng “ly
hôn” thay vì lựa chọn hòa giải, đây là một vấn đề đáng báo động.
Tỷ lệ tảo hôn ở dân tộc thiểu số còn cao: Ủy ban Dân tộc và Tổng cục
Thống kê tiến hành Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS cho biết tỷ lệ tảo
hôn vẫn còn tương đối cao, trong đó, 5 dân tộc có tỷ lệ tảo hôn cao nhất: dân tộc
Mông (51,5%), Cờ Lao (47,8%), Mảng (47,2%), Xinh Mun (44,8%), Mạ (39,2%).
Độ tuổi kết hôn trung bình của người DTTS năm 2018 là 17,5 tuổi đối với nam và
15,8 tuổi đối với nữ.
Tình trạng “sống thử” trước hôn nhân đang dần trở thành xu thế, đặc biệt là
với giới trẻ: sống thử - từ ngữ dùng để chỉ một hiện tượng xã hội, theo đó các cặp
nam nữ về sống chung với nhau như vợ chồng, nhưng không tổ chức hôn lễ cũng
như đăng ký kết hôn. Tình trạng này đã và đang trở thành một thứ “mốt” trong lối
sống của giới trẻ hiện nay. Theo thống kê của khoa xã hội học Đại học Mở
TPHCM, năm 2010, có khoảng 1/3 các bạn trẻ sống thử trước hôn nhân. L, sinh
viên năm 2 trường Đại học Nông Lâm TPHCM, cho biết: “Ở xóm trọ của em, gần
một nửa các bạn sống thử trước hôn nhân”.
Ảnh 3: Tỷ lệ phụ nữ và nam giới từ 20-49 tuổi kết hôn hoặc sống chung như
vợ chồng lần đầu trước 15 và 18 tuổi theo Điều tra SDGGW Việt Nam 2020-2021
Hiện trạng kết hôn muộn: Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, độ tuổi kết
hôn trung bình tại Việt Nam ở nam là 27,9 và ở nữ là 23,4 vào năm 2020. Như vậy,
sau 21 năm kể từ 1999, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam đã tăng thêm 2,5
năm trong khi nữ chỉ tăng 0,6 năm. Điều này chứng tỏ giới trẻ ngày càng có xu
hướng kết hôn muộn, đặc biệt là ở nam giới.
Ảnh 4: Độ tuổi kết hôn lần đầu theo giới tính tại 1 số khu vực
Một hiện tượng hôn nhân đáng bàn luận nữa là vấn đề “không muốn lập gia
đình”: Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tỷ lệ người độc thân ở nhóm
tuổi 20-24 là 68,2%, tỷ lệ này ở nhóm 40-44 là 9,7%. Tỷ lệ độc thân ở hai giới
cũng có sự khác biệt, như: dân số nam từ 15-39 tuổi có tỷ lệ độc thân cao hơn dân
số nữ ở độ tuổi đó, ngược lại ở nhóm 40 tuổi trở lên dân số nữ có tỷ lệ độc thân cao
PAGE \* MERGEFORMAT 28

hơn nam giới. Như vậy, trong suốt thời gian qua, “chủ nghĩa độc thân” đang được
nhiều bạn trẻ hưởng ứng và tôn sùng.

2.1.2 Thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay


Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi
mới, chẳng hạn: trước đây chỉ có kiểu gia đình truyền thống, nay xuất hiện thêm
gia đình ít thế hệ hơn (gia đình hạt nhân) với những đặc điểm hiện đại, tiên tiến,
thoải mái và tự do hơn, đây được xem là một trong những tiến bộ đáng kể. Song
song với những mặt tiến bộ ấy, cũng có những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong tình
hình gia đình và hôn nhân ở Việt Nam hiện nay, tiêu biểu là vấn đề đạo đức bị suy
thoái, bạo lực gia đình,…
Văn kiện Đại hội XIII đã khẳng định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và
triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người
gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” 10, “Đề
cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ” 11. Điều này càng
khẳng định giá trị của gia đình trong thời kỳ mới là hết sức quan trọng đối với sự
phát triển đất nước. Và để có một gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người, điều
này đòi hỏi sự hoàn thiện của pháp luật, các chính sách về gia đình và ý thức của
mỗi cá nhân.
Những thành tựu nổi bật trong gia đình:
Một là, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các gia đình ở Việt Nam đã thay đổi
một cách toàn diện hơn để phù hợp với thời đại. Điển hình là quy mô gia đình đã
được thu nhỏ lại. Nếu trước đây là một gia đình gồm nhiều thế hệ chung sống với
nhau như: ông bà, cha mẹ,… thì nay đã được thay thế bằng gia đình ít người hơn
thường chỉ có ba mẹ, con cái (gia đình hạt nhân). Xu hướng hạt nhân hóa gia đình
ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng vì nhiều ưu điểm như: cuộc sống riêng tư
được tôn trọng hơn, mỗi thành viên trong gia đình cảm thấy thoải mái, giảm bớt
được nhiều vấn đề mâu thuẫn xung đột phát sinh trong gia đình nhiều thế hệ. Sự

10
Nhà xuất bản Chính Trị Quốc gia Sự thật (3/2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,
chương VII.
11
Nhà xuất bản Chính Trị Quốc gia Sự thật (3/2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,
chương VII.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích cực, thay đổi
chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ thống xã hội, làm cho xã hội trở
nên phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.
Kết quả các cuộc tổng điều tra dân số năm 2019 cho thấy quy mô gia đình
Việt Nam liên tục giảm trong những năm qua, có 3,5 người/ hộ gia đình, thấp hơn
0,3 người/hộ gia đình so với năm 2009. Và quy mô gia đình cũng thay đổi tùy theo
khu vực, tại thành thị, trung bình mỗi hộ dân có 3,3 người, thấp hơn khu vực nông
thôn 0,3 người/hộ. Đồng bằng sông Hồng có quy mô gia đình thấp nhất cả nước là
3,3 người/hộ. Vùng trung du và miền núi phía Bắc có số người bình quân cao nhất
cả nước (3,8 người/hộ).
Hai là, các gia đình ở Việt Nam tiếp thu những cái mới mang tính tư duy,
sáng tạo, bình đẳng: biết tôn trọng ý kiến của nhau, bình đẳng về nghĩa vụ và trách
nhiệm giữa vợ chồng trong việc nuôi dạy con cái, tự do dân chủ trong các mối
quan hệ…. Trong gia đình Việt Nam hiện nay, không đàn ông làm chủ gia đình,
mà còn mô hình người phụ nữ - người vợ làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ
chồng cùng làm chủ gia đình. Qua đó, ta thấy các gia đình Việt Nam hiện nay đang
được củng cố và xây dựng theo xu hướng hiện đại hóa: dân chủ, bình đẳng, tự do
và tiến bộ.
Ba là, với những thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được
các gia đình tiến hành một cách chủ động. Từ trước những năm 70 và 80 của thế
kỷ trước, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến và áp dụng rộng rãi các phương tiện
và biện pháp kỹ thuật tránh thai và tiến hành kiểm soát thông qua cuộc vận động
sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2 con.
Đầu thế kỉ XXI, dân số Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn già hóa. Do vậy, để
đảm bảo lợi ích và sự phát triển bền vững của xã hội, Nhà nước đưa ra chính sách
kế hoạch hóa gia đình nghĩa là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.
Những thách thức về gia đình ở nước ta trong những năm qua:
Bên cạnh những thành tựu về gia đình, ta còn rất nhiều thách thức, khó
khăn. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động đến các giá trị
đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh; sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục tác
PAGE \* MERGEFORMAT 28

động đến không ít gia đình... Tất cả những điều này đặt ra một số vấn đề trong gia
đình Việt Nam hiện nay, đó là:
Một là, một số gia đình còn tư tưởng lạc hậu, điển hình là tư tưởng trọng
nam khinh nữ, dẫn đến mất cân bằng giới tính, để lại những hậu quả cho xã hội ở
nhiều lĩnh vực như kinh tế, hôn nhân gia đình, trật tự và an ninh xã hội. Kết quả
các cuộc điều tra thăm dò về nguyện vọng sinh con trai của các cặp vợ chồng của
Trung tâm nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ (1998-2000) cho thấy có
khoảng 50% các cặp vợ chồng bày tỏ nguyện vọng “nhất thiết phải có con trai”. Và
thực hiện điều tra tại một số tỉnh thành khác cũng có kết quả trên 50% ý kiến cho
rằng phải có con trai, tại Hà Nội có tới 53%, Lai Châu và Cao Bằng là 51%.
Hai là, xã hội ngày càng phát triển, con người dường như rơi vào vòng xoáy
của đồng tiền và vị thế xã hội mà vô tình đánh mất đi tình cảm gia đình. Các thành
viên ít quan tâm, lo lắng đến nhau và ít giao tiếp với nhau hơn,… Đặc biệt là vấn
đề giáo dục con cái đang dần bị sao nhãng. Những điều này dẫn đến con trẻ dễ sa
ngã vào các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Theo thống kê của Cục
Cảnh sát hình sự Bộ Công an cho biết từ 2016 đến 2018, toàn quốc đã phát hiện
13.794 vụ, trong đó có 20.367 đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội. Ngoài ra,
kết quả nghiên cứu về tình hình sử dụng thuốc lá trong độ tuổi từ 13-15 tuổi của
Bộ Y tế năm 2022 cho thấy tỷ lệ học sinh sử dụng thuốc lá hiện nay khoảng 2,9%.
Ba là, mặc dù mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng
dân chủ và bình đẳng hơn trước, nhưng vẫn còn tình trạng bạo lực gia đình, có thể
là giữa mẹ kế với con chồng, cha kế với con của vợ, và đặc biệt là bạo lực của
chồng đối với vợ. Bạo lực gia đình là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, và đây
là vấn đề không dễ giải quyết ngày một ngày hai. Do nhiều nguyên nhân khác nhau
mà vấn đề bạo lực gia đình vẫn đang diễn ra rất phổ biến, điều này không những
ảnh hưởng đến mỗi cá nhân mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Do đó,
tình trạng này cần được nhanh chóng giải quyết triệt để.
Theo báo cáo của Bộ Công an, từ năm 1995 đến 2000 đã có 106 vụ án bạo
lực gia đình dẫn đến chết người. Riêng năm 2001, trong số 1.1000 vụ giết người
trên phạm vi toàn quốc thì có tới 16% số vụ do người thân trong gia đình giết hại
PAGE \* MERGEFORMAT 28

lẫn nhau (Nguyễn Xuân Yên, 2002). Và gần đây nhất là vụ án của bé N.T.V.A.
(SN 2013) bị mẹ kế và cha đẻ của mình ngược đãi hành hung cho đến chết. Dù là
cha đẻ, Thái không can ngăn Trang (mẹ kế bé A.) khi thấy cô hành hung bé A.,
thậm chí nhiều lần anh đã cùng Trang đánh bé. Đến ngày 22-12-2021, cháu A. chết
vì phù phổi cấp do sốc chấn thương. Đây là một tín hiệu đáng lo ngại và cần được
cảnh tỉnh trong xã hội. Chúng ta cần phải nâng cao nhận thức, tăng cường công tác
giáo dục và xây dựng một môi trường gia đình lành mạnh, đặt sự an toàn và sự
phát triển toàn diện các thành viên trong gia đình lên hàng đầu.
Có thể thấy, thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay có nhiều tiến bộ nhưng
vẫn tồn tại những thách thức, khó khăn. Vì vậy, nhà nước cần phải quan tâm vấn
đề gia đình nhiều hơn, để gia đình Việt Nam tiếp thu được những giá trị mới của
nền văn minh, những giá trị tốt đẹp của truyền thống gia đình Việt Nam, có như
vậy mới giữ vững sự ổn định về kinh tế, xã hội, tạo nền tảng cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.2 Những nguyên nhân và giải pháp để phát huy tốt những giá trị hôn nhân
và gia đình tại Việt Nam
2.2.1 Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng hôn nhân và gia đình ở nước ta
Thực trạng hôn nhân và gia đình ở nước ta luôn là vấn đề được Nhà nước,
giới nghiên cứu quan tâm theo dõi. Hiểu rõ thực trạng hôn nhân và gia đình trong
từng giai đoạn và phản ánh các biến đổi về kinh tế, xã hội của đất nước là một cơ
sở quan trọng để đề xuất các đề tài, dự án nghiên cứu và xây dựng chính sách gia
đình mới, nhằm đáp ứng phù hợp với tình hình hiện tại. Các công trình nghiên cứu
về hôn nhân và gia đình đã được đẩy mạnh liên tục ở nước ta trong 15 năm trở lại
đây. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng hôn
nhân và gia đình ở Việt Nam hiện nay đã được đề cập, bàn luận và làm rõ.
Các vấn đề ảnh hưởng đến thực trạng hôn nhân ở Việt Nam hiện nay:
Tình trạng ly hôn ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề đáng báo động, vấn đề
này đang gia tăng và có những ảnh hưởng sâu sắc đến cá nhân và xã hội. Có thể kể
đến một số lý do như: Thứ nhất, sự thay đổi những quan điểm về hôn nhân, quyền
tự do cá nhân, sự độc lập kinh tế, vai trò của phụ nữ trong xã hội đã làm thay đổi
PAGE \* MERGEFORMAT 28

cách nhìn về hôn nhân và gia đình. Thứ hai, áp lực, khó khăn về kinh tế, không đủ
nguồn thu nhập để đáp ứng nhu cầu của gia đình có thể gây căng thẳng giữa các
cặp vợ chồng. Thứ ba, sự khác biệt trong quan điểm, giáo dục, những mối quan hệ
tình cảm phát sinh khác quan hệ vợ chồng. Và đáng lưu tâm nhất chính là tình
trạng bạo lực gia đình, một hiện trạng nhức nhối và đáng báo động trong cuộc sống
hôn nhân tại Việt Nam nói riêng.
Hiện nay, xã hội có xu hướng đánh giá cao việc học hành, sự nghiệp và sự tự
do cá nhân. Điều này dẫn đến độ tuổi trung bình kết hôn lần đầu của Việt Nam cao
hơn so với trước đây. Sự đổi mới kinh tế, sự phát triển xã hội đã mở ra nhiều cơ
hội học tập và làm việc cho giới trẻ, họ dành thời gian này để xây dựng sự nghiệp
và đạt được thành công cá nhân trước khi bước vào một mối quan hệ cam kết. Bên
cạnh đó, tầm nhìn về hôn nhân và gia đình đã được nâng cao một cách đáng kể,
nhiều cá nhân có ý thức cao trong việc nhìn nhận một hôn nhân bền vững, họ
mong muốn tìm kiếm tình yêu và sự hòa hợp trước khi quyết định kết hôn.
Tuy nhiên, độ tuổi kết hôn cũng có sự khác biệt giữa các vùng miền. Thông
thường, ở các vùng nông thôn hay miền núi, độ tuổi kết hôn trung bình thấp, tình
trạng tảo hôn còn khá phổ biến, nguyên nhân có thể liên quan đến các yếu tố sau:
Về văn hóa và truyền thống, miền núi thường có các tập tục và truyền thống về
việc kết hôn sớm: Kết hôn sớm có thể được coi là trách nhiệm, bảo tồn truyền
thống và văn hóa. Về môi trường sống và kinh tế, họ thường gặp nhiều khó khăn,
kết hôn sớm để tạo ra lực lượng lao động mới. Và quan trọng hơn hết, vấn đề tiếp
cận thông tin và giáo dục có thể bị hạn chế; sự thiếu hụt kiến thức về sức khỏe,
quyền lợi và lựa chọn sống theo khuôn mẫu đã làm giảm ý thức về quyền tự do cá
nhân và lựa chọn kết hôn sớm. Sự thay đổi xã hội và tiếp cận thông tin có thể làm
thay đổi quan điểm và hành vi của người dân, để có độ tuổi kết hôn phù hợp.
Sự gia tăng của các giá trị cá nhân, quyền tự do, và sự đa dạng trong lựa
chọn đời sống đã làm cho việc “sống thử” trở thành một lựa chọn phổ biến. Thứ
nhất, về kinh tế, hôn nhân có thể mang theo những trách nhiệm tài chính nặng nề.
Sống thử có thể là một cách để tránh áp lực tài chính và kiểm tra sự tương thích,
khả năng sống chung trong thực tế trước khi bước vào hôn nhân. Thứ hai, một vài
PAGE \* MERGEFORMAT 28

hạn chế pháp lý có thể ảnh hưởng đến khả năng đăng ký kết hôn. Và cuối cùng,
một số người có quan điểm riêng về hôn nhân và không coi việc đăng ký là cần
thiết, họ tin vào tình yêu và những lời hứa hẹn, không quan trọng vấn đề pháp lý.
Hiện tượng “không muốn lập gia đình” hay “chủ nghĩa độc thân” là hiện
tượng hôn nhân đáng bàn luận trong giai đoạn hiện nay. Một số nguyên nhân được
đặt ra: Về tài chính, kinh tế đóng vai trò quan trọng trong quyết định lập gia đình.
Giới trẻ thường đối mặt với áp lực tài chính do việc kiếm sống và ổn định cuộc
sống, điều này có thể làm giảm khả năng và mong muốn của họ khi bước vào xây
dựng và duy trì quan hệ gia đình. Mặt khác, giới trẻ hiện đại thường xem độc lập
và tự do cá nhân là một ưu tiên, họ muốn tận hưởng cuộc sống, thực hiện các ước
mơ và mục tiêu cá nhân trước khi bước vào một mối quan hệ cam kết. Ngoài ra,
một số cá nhân có thể có những trải nghiệm không tốt hoặc gặp phải mâu thuẫn
trong gia đình của mình, khiến họ không muốn tái hiện các vấn đề tương tự hoặc
sợ hãi về trách nhiệm gia đình.
Những tác động dẫn đến sự thay đổi trong gia đình Việt Nam giai đoạn hiện
nay:
Thu hẹp quy mô gia đình có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể đề
cập đến quá trình di cư, đô thị hóa, vấn đề này đã tạo ra môi trường sống mới và
thay đổi cách thức xây dựng gia đình: Một gia đình nhỏ và linh hoạt để thích ứng
với cuộc sống đô thị. Bên cạnh đó, việc giảm mức sinh cũng ảnh hưởng đến quy
mô gia đình một cách đáng kể. Tỷ lệ sinh con ở nước ta đã giảm trong thập kỷ qua,
có thể do sự thay đổi trong quan niệm về việc sinh nhiều con, nhu cầu tài chính và
công việc. Ngoài ra vẫn còn tồn tại một số nguyên nhân khác như ly hôn, xã hội
hiện đại có xu hướng tập trung vào sự cá nhân hóa và độc lập,... Những nguyên
nhân này tác động lẫn nhau và gây ra sự thu hẹp quy mô gia đình. Tuy nhiên, quy
mô gia đình vẫn có sự biến đổi theo vùng miền và tầng lớp xã hội.
Trong xã hội Việt Nam, tâm lý chuộng con trai trong một số gia đình là một
hiện tượng phổ biến và có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ gia đình, sự phát triển
của con cái. Truyền thống gia trưởng và văn hóa trong xã hội Việt Nam có xu
hướng ưu ái con trai, coi con trai là người nối dõi và mang trách nhiệm chăm sóc
PAGE \* MERGEFORMAT 28

gia đình, là điểm tựa khi về già, điều này có thể dẫn đến sự chuộng con trai và đặt
nhiều kỳ vọng lớn vào họ. Điều này có thể tạo ra sự thiếu cân bằng và bất công
giữa các thành viên trong gia đình, ảnh hưởng đến sự phát triển của con gái, và gây
ra tình trạng thiếu đồng thuận, cạnh tranh không lành mạnh giữa các anh em.
Tệ nạn xã hội đang trở thành một thách thức đáng lo ngại trong cuộc sống
của giới trẻ. Trong đó, gia đình là một lý do đáng kể: Các yếu tố như sự sao nhãng
của cha mẹ, xung đột gia đình, căng thẳng tâm lý,... dẫn đến sự yếu đuối, dễ bị lôi
kéo vào các tệ nạn xã hội. Môi trường xung quanh có thể ảnh hưởng đến hành vi
và lựa chọn của giới trẻ, làm tăng nguy cơ tiếp xúc với các tệ nạn. Một số cá nhân
có mục tiêu và khát vọng không rõ ràng, không có định hướng trực tiếp từ người
thân và gia đình, có thể dễ dàng bị lôi cuốn vào vấn đề này. Sự ảnh hưởng và tác
động của tệ nạn xã hội sẽ khác nhau đối với từng cá nhân; và việc cung cấp hỗ trợ,
giáo dục và môi trường tích cực từ ba mẹ hay gia đình có thể giúp giới trẻ đối phó
tốt hơn và tránh xa các tệ nạn xã hội.
Bạo lực gia đình là một vấn đề nghiêm trọng và phức tạp, gây ảnh hưởng
đáng kể đến sức khỏe và trái tim của nhiều gia đình tại Việt Nam. Bạo lực gia đình
có thể bắt nguồn từ các vấn đề tâm lý và cảm xúc, việc nuôi dạy con cái, áp lực
sinh con trai, vấn đề ngoại tình và sự tự ti,... tạo ra sự căng thẳng trong gia đình.
Những khó khăn tài chính, vấn đề sức khỏe và nghiện rượu, ma túy,... cũng góp
phần làm tăng nguy cơ xảy ra bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình có thể xuất phát từ
truyền thống gia trưởng, trong đó nam giới coi bản thân là người có quyền kiểm
soát và áp đặt ý muốn của mình lên phụ nữ, khung cảnh bạo lực gia đình được coi
là vấn đề chấp nhận được hoặc bị bỏ qua. Các yếu tố như quan niệm sai lầm về vai
trò của nam và nữ, lạm dụng truyền thống, sự im lặng xã hội và thiếu sự hỗ trợ từ
cộng đồng có thể tác động đáng kể đến bạo lực gia đình. Không có nhận thức đúng
về quyền và vai trò của trẻ em trong gia đình, một số khu vực có chấp nhận hoặc
thậm chí khích lệ việc sử dụng bạo lực trong gia đình như một phương pháp giáo
dục: họ cho rằng trẻ em phải tuân thủ mọi yêu cầu và bị phạt nếu làm sai. Sau
cùng, bạo lực gia đình không bao giờ được dung túng và chấp nhận, đây luôn là
PAGE \* MERGEFORMAT 28

hành vi vi phạm quyền cơ bản của con người. Cần tạo ra môi trường gia đình an
toàn, nơi mọi thành viên trong gia đình được đối xử công bằng và tôn trọng.
Các nguyên nhân đa dạng đã dẫn đến thực trạng hôn nhân và gia đình ở Việt
Nam hiện nay. Việc hiểu rõ và nhận thức về những nguyên nhân này là cơ sở để đề
ra các giải pháp thích hợp nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng cuộc sống gia
đình, tạo nên một tương lai tươi sáng cho hôn nhân và gia đình trong xã hội Việt
Nam ngày càng phát triển.

2.2.2 Những giải pháp hướng đến xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình hạnh
phúc, tiến bộ
Để hạn chế những bất cập và phát huy tốt các giá trị trong hôn nhân và gia
đình, cần đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp.
Đối với Đảng và Nhà nước:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu và quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng
và hoàn thiện hệ thống các chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xây
dựng gia đình. Chính sách gia đình cần hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc, và văn minh, đặc biệt quan tâm đến trẻ em, người bệnh tật
và người cao tuổi.
Thứ hai, tăng cường nhận thức đúng về vai trò và tầm quan trọng của gia
đình trong tình hình mới. Gia đình được coi là một trong những yếu tố quan trọng
quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Mở các lớp kỹ năng về giới tính,
sức khỏe và hôn nhân,…. nhằm nâng cao kiến thức và hiểu biết để biết cách phòng
tránh và bảo vệ bản thân khỏi những cám dỗ trong cuộc sống.
Thứ ba, đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục về chính sách
và pháp luật hôn nhân, gia đình. Quan trọng nhấn mạnh vai trò của gia đình, cộng
đồng và xã hội trong việc xây dựng một môi trường văn hóa, con người Việt Nam
giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo đức, cần cù, chăm
chỉ, tiết kiệm, sáng tạo và khát vọng hiện đại.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả và tính thiết thực trong việc xây dựng gia đình
văn hóa. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, trong đó
PAGE \* MERGEFORMAT 28

gia đình có nền tảng văn hóa. Tập trung khắc phục bệnh thành tích, hình thức trong
công tác xây dựng gia đình và nâng cao chất lượng của gia đình Việt Nam.
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh chống lại lối sống thực dụng, tệ nạn xã hội và
bạo lực gia đình. Cần xóa bỏ các hủ tục và tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia
đình. Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quy định của pháp luật liên quan đến gia
đình. Định kỳ có những nghiên cứu quốc gia về thế hệ trẻ Việt Nam nhằm tìm hiểu
những mong đợi, xu hướng tình cảm cũng như nhận định của giới trẻ về hôn nhân,
cuộc sống, công việc; từ đó có những hoạt động can thiệp phù hợp, giúp cho giới
trẻ phát triển toàn diện, lành mạnh.
Thứ sáu, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho gia đình,
đảm bảo gia đình có tiếp cận công bằng, bình đẳng và thuận lợi đến các dịch vụ xã
hội cơ bản; hỗ trợ gia đình phát triển bền vững, hạnh phúc và thực hiện bình đẳng
giới. Các dịch vụ này có thể bao gồm chăm sóc sức khỏe, giáo dục, tâm lý, tư vấn
gia đình và hỗ trợ giảm nghèo.
Thứ bảy, gắn kết công tác xây dựng gia đình với tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xây dựng Chương trình mục
tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới,... giúp tăng cường hiệu quả và đồng bộ hóa các hoạt động
phát triển và xây dựng gia đình.
Thứ tám, đẩy mạnh các chương trình hướng nghiệp, đào tạo và dạy nghề cho
thanh niên nhằm tạo dựng cơ hội việc làm tốt, tự tin tham gia vào quá trình lao
động và trở thành nguồn nhân lực chất lượng. Làm chủ cuộc sống trong bối cảnh
kinh tế thị trường ngày càng phát triển là một yếu tố có ý nghĩa quyết định, góp
phần xây dựng một nền tảng vững chắc cho các “tế bào xã hội” trong tương lai.
Giải pháp của mỗi cá nhân, gia đình:
Thứ nhất, tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình có cơ hội phát
triển toàn diện, được tiếp cận giáo dục, đào tạo và trau dồi các kỹ năng sống như
kỹ năng quản lý tài chính, giao tiếp, xử lý xung đột và quản lý thời gian,... để có
cái nhìn khái quát nhất về hôn nhân và gia đình. Đồng thời, tạo cơ hội cho các
PAGE \* MERGEFORMAT 28

thành viên trong gia đình tham gia vào các hoạt động chung, gắn kết và tạo ra kỷ
niệm đẹp.
Thứ hai, xây dựng một môi trường gia đình với tình yêu thương và sự tôn
trọng, khuyến khích sự hiểu biết và lắng nghe lẫn nhau. Gia đình cần thể hiện sự
quan tâm và chăm sóc, đáp ứng các nhu cầu về tình cảm, vật chất và tinh thần của
các thành viên.
Thứ ba, đấu tranh, đưa ra các biện pháp chặt chẽ để đảm bảo an toàn và bảo
vệ quyền lợi của các thành viên trong gia đình khỏi bạo lực và tác động tiêu cực
của tệ nạn xã hội.
Thứ tư, xây dựng một môi trường gia đình đề cao sự công bằng giới, đảm
bảo quyền và cơ hội phát triển bình đẳng cho nam và nữ, xóa bỏ các định kiến,
những hạn chế về vai trò và quyền lợi của phụ nữ trong gia đình.
Gia đình có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và truyền dẫn những giá trị
chân, thiện, mỹ từ truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời khơi dậy những ý
tưởng sáng tạo và hình thành lối sống lành mạnh cho con trẻ, góp phần vào quá
trình giáo dục và phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân. Sự yêu thương và chia sẻ
trong gia đình sẽ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển lành mạnh của từng thành
viên, để xây dựng hôn nhân và gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc.

2.3 Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng gia đình Việt Nam
Gia đình là nơi khởi nguồn của mỗi con người; là nơi đầu tiên nuôi dưỡng,
hình thành nhân cách, đạo đức, trí tuệ, lối sống… của mỗi cá nhân. Không những
thế gia đình còn là “tế bào của xã hội”, quyết định sự tồn tại, vận động và phát
triển của xã hội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo và đề
cao vai trò của gia đình trong xã hội. Người căn dặn “Nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt… Hạt
nhân của xã hội chính là gia đình”. Chính vì vậy, muốn thực hiện thành công khát
3

vọng của dân tộc, xây dựng đất nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội, thì phải gắn liền
với việc xây dựng, giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình. Là một người thanh niên
của Tổ quốc Việt Nam và đặc biệt hơn là một người con/ cháu/ anh/ chị/ em trong
PAGE \* MERGEFORMAT 28

gia đình, bản thân sinh viên phải tích cực, làm tốt vai trò, bổn phận của mình trong
gia đình; xây dựng, gìn giữ gia đình hạnh phúc.
Đối với ông bà, bản thân phải kính trọng, biết ơn, lễ phép, thường xuyên
thăm hỏi sức khỏe chăm sóc động viên, chia sẻ tâm tư tình cảm với ông bà.
Trong mối quan hệ con cái với cha mẹ, con cái nên dành nhiều thời gian
quan tâm, chăm sóc cha mẹ, thường xuyên tâm sự, trò chuyện và chia sẻ, tạo cơ
hội để hiểu nhau hơn; hoàn thành tốt việc học tập, rèn luyện để cha mẹ an lòng, trở
thành thành viên có ích trong gia đình và một công dân tốt của xã hội; hiếu thảo,
vâng lời cha mẹ, tránh xa các tệ nạn xã hội và tỉnh táo trước các cám dỗ.
Với mối quan hệ anh chị em trong gia đình, đây là một tình cảm hết sức
thiêng liêng và đặc biệt, xuất phát từ mỗi cá nhân. Vì vậy, để mối quan hệ này
ngày càng bền chặt, anh chị em phải yêu thương, đùm bọc và giúp đỡ nhau để gia
đình luôn hòa thuận, hạnh phúc. Học cách tôn trọng nhau, lựa lời mà nói để tránh
gây ra những mâu thuẫn, tổn thương không đáng có. Anh chị có trách nhiệm yêu
thương, đùm bọc, rèn luyện đạo đức, trở thành một công dân tốt và là tấm gương
sáng để các em noi theo. Người làm em phải biết vâng lời, tiếp thu những ý kiến từ
anh chị để sửa đổi và phát huy, giúp bản thân ngày càng hoàn thiện.
Trong tương lai, sinh viên có thể kết hôn và xây dựng một gia đình nhỏ cho
riêng mình. Khi đó, vai trò của họ trong gia đình cũng có những thay đổi nhất định.
Trong mối quan hệ vợ chồng, trước hết phải tôn trọng pháp luật, nghiêm túc chấp
hành chế độ hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Vợ chồng cùng
nhau đồng lòng, nhất trí và bình đẳng trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Bên
cạnh đó, hôn nhân đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc gây dựng một
gia đình hạnh phúc, ấm no và thịnh vượng. Do vậy, để hôn nhân được vững chắc
thì phải xuất phát từ tình yêu, sự cảm thông, chia sẻ và chung thủy trong đời sống.
Với vai trò là người làm cha mẹ, đối với con cái, chúng ta cần thực hiện tốt
vai trò của mình, không để trẻ phải lớn lên trong một môi trường thiếu sự yêu
thương, quan tâm, chăm sóc và chia sẻ dẫn đến hình thành tính cách rụt rè, các
bệnh về tâm lý và dễ rơi vào các tệ nạn xã hội. Tôn trọng, ghi nhận ý kiến, suy
nghĩ, quyết định của con; tâm sự, giúp đỡ con trước những vướng mắc, khó khăn.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

Không sử dụng bạo lực để răn dạy con cái vì điều đó có thể mang lại những tổn
thương về mặt tinh thần và thể xác, khiến con có những suy nghĩ tiêu cực, chán
nản, dẫn đến các hành vi chống đối, nổi loạn, hình thành tâm lý thù ghét cha mẹ và
tự tạo khoảng cách với gia đình. Tạo không gian phát triển an toàn và lành mạnh, ở
đó, con cảm thấy được bảo vệ, chăm sóc và tự do phát triển; không thiên vị, đối xử
công bằng với các con. Cố gắng lắng nghe, thấu hiểu và kiên nhẫn với con, trở
thành điểm tựa vững chắc, ủng hộ, giúp đỡ con người vững bước trên con đường
đời.
PAGE \* MERGEFORMAT 28

PHẦN KẾT LUẬN


Tiểu luận đã cho chúng ta thấy được cơ sở xây dựng gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời liên hệ vấn đề hôn nhân và gia
đình ở Việt Nam hiện nay. Cho thấy rõ ràng nhất vị trí, chức năng và cơ sở xây
dựng nên gia đình. Nêu ra thực trạng hôn nhân hiện nay và từ đó tìm ra giải pháp
hướng đến xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình hạnh phúc, tiến bộ ở nước ta.
Chúng ta nhận thức rằng hôn nhân là tổ chức cộng đồng xã hội ra đời sớm nhất,
mang tính bền vững nhất. Hôn nhân và gia đình luôn có mối liên hệ mật thiết, gắn
bó với nhau. Hôn nhân là cơ sở, là viên gạch đầu tiên xây dựng nên một gia đình.
Còn gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường
quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, trao truyền các giá trị văn hóa dân
tộc, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là nền tảng của xã hội,
nó có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cuộc sống cho từng cá nhân, nhu cầu
hạnh phúc của các thành viên trong gia đình. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội
tốt thì gia đình càng tốt. Với vai trò là một sinh viên và hơn nữa là thế hệ trẻ của
đất nước chúng ta cần hiểu rõ và nhận thức đúng về tầm quan trọng và trách nhiệm
của bản thân. Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, những rạn nứt và phá hoại các
giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam về phương diện đạo đức, tình cảm, lối
sống, văn hóa. Bên cạnh đó là xây dựng hôn nhân gia đình mới, xã hội chủ nghĩa
được thực hiện trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp nhất của gia đình truyền
thống đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại, phù hợp với văn hóa và chuẩn
mực đạo đức, tạo nên động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.
[2] Báo Điện tử Chính phủ (2021), “Xây dựng gia đình hạnh phúc, tạo nền
tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc là vấn đề hết sức hệ trọng”:
https://baochinhphu.vn/xay-dung-gia-dinh-hanh-phuc-tao-nen-tang-de-xay-dung-
xa-hoi-hanh-phuc-la-van-de-het-suc-he-trong-102294934.htm
[3] Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). “Để gia đình thực sự là
“tổ ấm”: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/de-gia-dinh-thuc-su-la-to-am-
557944.html
[4] GS.TS Hoàng Bá Thịnh - Đại học Quốc gia Hà Nội (2022), “Xây dựng
gia đình Việt Nam: Những thành tựu nổi bật, vấn đề đặt ra và giải pháp chính
sách”, tạp chí cộng sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825283/xay-
dung-gia-dinh-viet-nam--nhung-thanh-tuu-noi-bat%2C-van-de-dat-ra-va-giai-
phap-chinh-sach.aspx
[5] PGS, TS. Trần Thị Minh Thi - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và
giới - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2020), “Những biến đổi của gia
đình Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị chính sách”, Tạp chí Cộng sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816737/
nhung-bien-doi-cua-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-khuyen-nghi-chinh-
sach
[6] Cổng thông tin điện tử hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Nghệ An (2023), “Bạo
lực gia đình - Nguyên nhân và hướng phòng chống”:
https://lhpn.nghean.gov.vn/chinh-sach-phap-luat/bao-luc-gia-dinh-nguyen-nhan-
va-huong-phong-chong-546862
[7] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Vụ Gia đình, “Cấu trúc, hình thái,
quy mô và các mối quan hệ trong gia đình bị tác động mạnh mẽ trong xã hội phát
triển và hội nhập”: http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/cau-truc-hinh-thai-quy-mo-va-
cac-moi-quan-he-trong-gia-dinh-bi-tac-dong-manh-me-trong-xa-hoi-phat-trien-va-
hoi-nhap
[8] Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), “Gia đình: “Pháo đài”
chống lại các tệ nạn xã hội”: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/gia-dinh-
phao-dai-chong-lai-cac-te-nan-xa-hoi-584145.html
[9] Báo Điện tử Sức khỏe và Đời sống (2021), “Tư tưởng phải sinh con trai
của người Việt, đâu là nguyên nhân ?”: https://suckhoedoisong.vn/tu-tuong-phai-
sinh-con-trai-cua-nguoi-viet-dau-la-nguyen-nhan-169211125213547953.htm
[10] Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, “Thái độ và trách nhiệm
của sinh viên trong các mối quan hệ gia đình”:
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-dai-hoc-da-nang/
giao-tiep-kinh-doanh/thai-do-va-trach-nhiem-cua-sinh-vien-trong-cac-moi-quan-
he-gia-dinh/30501191
[11] Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), “Phát huy vai trò của
gia đình trong việc xây dựng các hệ giá trị Việt Nam thời kỳ mới”:
https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/bai-4-phat-huy-vai-tro-cua-gia-
dinh-trong-viec-xay-dung-cac-he-gia-tri-viet-nam-thoi-ky-moi-628879.html
[12] Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), “Tình trạng tảo hôn ở
vùng dân tộc thiểu số - Thực trạng đáng lo ngại”:
https://dangcongsan.vn/xa-hoi/bai-1-tinh-trang-tao-hon-o-vung-dan-toc-thieu-so-
thuc-trang-dang-lo-ngai-592292.html
[13] Trang Thông tin điện tử Unicef Việt Nam (2018), “Giảm thiểu 25 triệu
cuộc tảo hôn trong thập kỷ qua nhờ những tiến bộ nhanh chóng”:
https://www.unicef.org/vietnam/vi/thông-cáo-báo-chí/giảm-thiểu-25-triệu-cuộc-
tảo-hôn-trong-thập-kỷ-qua-nhờ-những-tiến-bộ-nhanh-chóng
[14] Luật Hùng Bách, “Thực trạng hôn nhân ở Việt Nam hiện nay”:
https://luathungbach.vn/thuc-trang-hon-nhan-o-viet-nam-hien-nay
[15] Báo Điện tử Đại Đoàn Kết (2022), “Gia tăng tình trạng ly hôn”:
http://daidoanket.vn/gia-tang-tinh-trang-ly-hon-5689906.
[16] Hội thảo Khoa học Sinh viên “Sinh viên với pháp luật dân sự trong bối
cảnh kỷ nguyên 4.0” (2021), “Hôn nhân giữa những người có cùng giới tính và
định hướng hoàn thành pháp luật Việt Nam”: https://fdvn.vn/hon-nhan-giua-
nhung-nguoi-co-cung-gioi-tinh-va-dinh-huong-hoan-thien-phap-luat-viet-nam
[17] Báo Điện tử Chính Phủ (2022), “Giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận
huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số”: https://baochinhphu.vn/giam-
thieu-tao-hon-hon-nhan-can-huyet-thong-trong-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-
102221220153640785.htm
[18] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Vụ Gia đình, “Đề xuất một số giải
pháp phát huy giá trị hôn nhân, gia đình đối với thế hệ trẻ Việt Nam”:
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/de-xuat-mot-so-giai-phap-phat-huy-gia-tri-hon-nhan-
gia-dinh-doi-voi-the-he-tre-viet-nam
[19] Trang Thông tin điện tử tổng hợp Cafef (2022), “Xu hướng kết hôn tại
Việt Nam biến động sau 3 thập kỷ: Độ tuổi trung bình tăng rõ rệt, đặc biệt có một
nơi nam giới gần 30 mới lập gia đình”: https://cafef.vn/xu-huong-ket-hon-tai-viet-
nam-bien-dong-sau-3-thap-ky-do-tuoi-trung-binh-tang-ro-ret-dac-biet-co-mot-noi-
nam-gioi-gan-30-moi-lap-gia-dinh-2022
[20] Nguyễn Văn Đại, “Tìm hiểu các chức năng cơ bản của gia đình”:
https://www.thuvienbinhduong.org.vn
[21] Ths. Phạm Thị Bình - Trường Đại học Vinh (2018), “Quan niệm của
C. Mác và Ph. Ăngghen về gia đình trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế -
xã hội”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-mac/
nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-niem-cua-c-mac-va-ph-angghen-ve-gia-dinh-
trong-moi-quan-he-voi-su-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-3191
PHỤ LỤC
Ảnh1:https://monkeymedia.vcdn.com.vn/upload/web/storage_web/30-09-
2022_16:17:14_VMonkey.jpg
Ảnh2:https://consosukien.vn/pic/News/Nam_2020/637314408101972108.jpg
Ảnh3:https://f19zpc.zdn.vn/4747552696306072663/7662d632084fd911805e.jpg
Ảnh4:https://f12zpc.zdn.vn/4006693872270184426/693345aabaaa6bf432bb.jpg

You might also like