You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BỘ MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

BÀI TẬP LỚN:


LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH VÀ LIÊN HỆ VỚI GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Ngọc Thông

Họ và tên sinh viên : Lê Thị Việt Hà


Mã sinh viên : 11211885
Lớp : Quản trị Marketing CLC 63A

Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2022


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU_____________________________________________________________ 2
1. Tính cấp thiết của đề tài ______________________________________________ 2
2. Mục tiêu nghiên cứu _________________________________________________ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu _______________________________________ 3
4. Cơ sở lý luận _______________________________________________________ 3
5. Bố cục bài tiểu luận __________________________________________________ 3
NỘI DUNG _______________________________________________________________ 4
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH _________________________________ 4
I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH ____________________ 4
1.1. Khái niệm về gia đình ______________________________________________ 4
1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội _______________________________________ 5
1.3. Các chức năng cơ bản của gia đình ____________________________________ 6
II. CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI ______________________________________________________________ 7
2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội _______________________________________________ 7
2.2. Cơ sở chính trị - xã hội ______________________________________________ 7
2.3. Cơ sở văn hóa _____________________________________________________ 8
2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ_____________________________________________ 8
PHẦN II: LIÊN HỆ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI HIỆN NAY _________________________________________________________ 9
I. GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
HIỆN NAY ____________________________________________________________ 9
1.1. Thực trạng của gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay _________________________________________________________________ 9
1.2. Nguyên nhân ____________________________________________________ 15
1.3. Những biện pháp, phương hướng cơ bản xây dựng và pháp triển gia đình Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay ______________________ 16
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN _______________________________________________ 17
2.1. Liên hệ gia đình của sinh viên _______________________________________ 17
2.2. Liên hệ bản thân sinh viên __________________________________________ 21
KẾT LUẬN ______________________________________________________________ 23
DANH MỤC THAM KHẢO _______________________________________________ 24

1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày Gia đình Việt Nam – 28/6 hàng năm ra đời như một sự khẳng định hùng hồn vì
tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Hạt
nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân
cho tốt”. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, gia đình tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng vai trò của
nó chưa bao giờ bị xem nhẹ. Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định sự
biến đổi tất yếu của gia đình khi tán thành với quan điểm của Móoc – gan: “Gia đình là yếu tố
năng động, nó không bao giờ đứng nguyên một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một hình
thức cao, như xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao” Với chủ đề “Gia
đình – các nguồn lực và thế giới đang đổi thay” được đề cập trong năm quốc tế gia đình 1994
(IYE) đã khẳng định việc xây dựng và củng cố các vấn đề trong gia đình là một nhân tố quan
trọng trong quá trình phát triển đất nước.

Trong bối cảnh đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, cùng với
quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, những vấn đề trong gia đình có sự
biến đổi sâu sắc kéo theo những ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của đất nước. Ví như các
thực trạng quy mô gia đình có xu hướng thu nhỏ, các vấn nạn như ly hôn, bạo lực gia đình…
đang trở thành những vấn đề nhức nhối cho toàn xã hội. Đảng và Nhà nước ta khẳng định:
“Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới,
nền kinh tế mới, con người mới” trong Đại hội Đảng lần thứ VI đã cho thấy Đảng và Nhà nước
ta nhìn nhận gia đình như một nhân tố quan trọng cấu thành nên xã hội, đóng vai trò quyết
định đến sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Đặc biệt, trong thời buổi dịch bệnh COVID-19 như hiện nay, tầm quan trọng của gia
đình được đề cao hơn hẳn khi đóng một vai trò quan trọng, quyết định đến công cuộc phòng,
chống dịch bệnh COVID-19 cũng như củng cố và ổn định vững chắc nền kinh tế đất nước.
Xuất pháp từ những quan điểm nói trên, em lựa chọn đề tài “Lý luận chung về gia đình và liên
hệ với gia đình Việt Nam hiện nay” với mục tiêu cung cấp cái nhìn tổng quan nhất về gia đình
và phân tích sâu những hiện trạng mà gia đình Việt Nam đang gặp phải.

2
2. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu, khai thác những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về gia đình. Từ đó
vận dụng những quy luật duy vật biện chứng về gia đình vào thực tiễn vấn đề gia đình trong
thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cung cấp những vấn đề mà gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa đang gặp phải, từ đó đề xuất những phương hướng
giải quyết những vấn đề đó, tạo điều kiện cho công cuộc xây dựng gia đình và xã hội được cải
thiện và phát triển.

Vấn đề liên hệ thực tế được nhấn mạnh trong quá trình nguyên cứu vấn đề gia đình thời
kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Qua đó, đưa đến những góc nhìn thiết thực nhất về vấn đề bài
tiểu luận đang bàn về.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Bàn về vấn đề gia đình, cụ thể là gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ
nghĩa được chú trọng nghiên cứu một cách kĩ càng bằng cung cấp những báo cáo, dữ liệu chính
sách nhằm bổ sung cho những quan điểm nghiên cứu được từ thực tiễn gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.

4. Cơ sở lý luận

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về gia đình, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề xây dựng và củng cố gia đình trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, từ đó
đưa ra những quan điểm thiết thực nhất về bức tranh toàn cảnh gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.

5. Bố cục bài tiểu luận

Bên cạnh phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, phần nội dung đóng vai trò
nhất trong bài tiểu luận khi cung cấp đầy đủ những lý luận về gia đình, thực trạng của gia đình
Việt Nam hiện nay, nguyên nhân dẫn đến những thực trạng nói trên, từ đó đề xuất giải pháp
và rút ra bài học cho bản thân mình.

3
NỘI DUNG

PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH

I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

1.1. Khái niệm về gia đình

Bàn về vấn đề gia đình, C. Mác và Ăngghen cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngày từ
đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người
bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ
với con cái, đó là gia đình”. C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr41.

Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành, duy trì và củng cố
chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những
quy định về quyền và nghĩa vụ các thành viên trong gia đình.

Căn cứ vào quy mô, gia đình được chia thành hai loại: gia đình hạt nhân và gia đình mở
rộng. Gia đình mở rộng (hay gia đình ba thế hệ hay gia đình truyền thống hoặc gia đình lớn)
là một nhóm người có quan hệ huyết thống từ ba thế hệ trở lên cùng chung sống với nhau. Gia
đình hạt nhân (hay còn gọi là gia đình tiểu học hoặc gia đình vợ chồng) là gia đình bao gồm
hai thế hệ cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà và thường tập trung vào một cặp vợ
chồng và con cái của họ.

Trong việc xây dựng gia đình, mối quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống là hai mối
quan hệ cơ bản hình thành lên gia đình.

Quan hệ hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng, là cơ sở, là nền tảng hình thành nên
các mối quan hệ trong gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Mối quan hệ
này có sự thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau do tác động của điều kiện kinh tế - xã
hội. Trong chế độ công xã nguyên thủy, xuất hiện chế độ quần hôn. Đến chế độ phong kiến,
chế độ quần hôn sụp đổ thay thế hôn nhân một vợ - một chồng nhưng nghiêng về phía người
phụ nữ. Trong chủ nghĩa xã hội, chế độ hôn nhân một vợ - một chồng đã có sự thay đổi, đảm
bảo bình đẳng cho hai phía. Cơ sở của hôn nhân là tình yêu nam - nữ.

4
Quan hệ huyết thống là mối quan hệ giữa những người có cùng dòng máu, nảy sinh trên
cơ sở mối quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố gắn kết mạnh mẽ nhất các
thành viên trong gia đình. Đồng thời, quan hệ huyết thống cũng chịu chi phối của điều kiện
lịch sử. Huyết thống mẫu hệ trong chế độ cộng sản nguyên thủy mang nghĩa con cái đứng về
mẹ do chế độ quần hôn. Ngược lại, trong xã hội phong kiến, gia đình phụ quyền gia tăng do
sự xuất hiện của chế độ tư hữu.

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa ông bà, cha mẹ với con, cháu và ngược lại. Đồng
thời đó có thể là mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi (người đỡ đầu) với con nuôi (được công nhận
bằng thủ tục pháp lý). Quan hệ nuôi dưỡng bắt nguồn từ sự quan tâm săn sóc nhau không chỉ
trong gia đình đơn thuần mà còn giữa người với người. Đây là nghĩa vụ, trách nhiệm của gia
đình và các thành viên trong gia đình.

Các thành viên trong gia đình có chung những giá trị về vật chất và tinh thần; có quyền
lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm về tài sản, về người thân và cùng hướng tới mục tiêu cao nhất là
phát triển kinh tế, nuôi dưỡng các thành viên và xây dựng gia đình bền chặt.

1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội

Gia đình là tế bào của xã hội, là thiết chế căn bản của xã hội. Xã hội bao gồm rất nhiều
tế bào và mỗi một gia đình được coi là tế bào của xã hội. Xã hội muốn tốt thì tế bào phải tốt
như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình
cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt
nhân của xã hội là gia đình”.

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định sự phát triển của gia đình. Sự phát triển
của các phương thức sản xuất, kéo theo sự biến đổi trong kinh tế - xã hội đã gây ra sự thay đổi
trong gia đình về mặt hình thức, quy mô, kết cấu và tính chất. Cụ thể, trong chế độ công xã
nguyên thủy, chế độ chiếm hữu tư nhân chưa tồn tại, hình thức gia đình là quần hôn. Đến xã
hội phong kiến, chế độ chiếm hữu tư nhân ra đời và bắt đầu bành trướng, xã hội xuất hiện gia
đình một vợ - một chồng bất bình đẳng. Ngày nay, gia đình một vợ - một chồng ngày càng
bình đẳng hơn đi liền với sự phát triển kinh tế - xã hội.

5
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Bất kỳ xã hội nào cũng bao gồm các cá nhân.
Đồng thời các cá nhân tạo nên gia đình. Xét về góc độ xã hội, cá nhân là đầu tiên, tiếp đến là
gia đình và cuối cùng là xã hội. Mỗi cá nhân mà muốn kết nối xã hội thì phải đi qua cầu nối
gia đình. Thông qua gia đình, cá nhân được hòa nhập, chung sống và phát triển trong xã hội,
ngược lại, nhờ gia đình, xã hội tiếp cận được cá nhân.

Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi cá
nhân. Gia đình trở thành tổ ấm khi nó mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
tâm lý, tinh thần cũng như đời sống vật chất. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự hình
thành và phát triển nhân cách của con người. Gia đình là tổ ấm thì cá nhân mới tốt đẹp được.

1.3. Các chức năng cơ bản của gia đình

Chức năng tái sản xuất ra con người. Đây là chức năng đặc thù nhất của gia đình với
mục tiêu duy trì nòi giống; đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người; tạo các thế
hệ mới cho xã hội, qua đó làm vững chắc sự trường tồn của xã hội loài người. Chức năng đóng
vai trò quan trọng bởi nó không chỉ dừng lại ở chức năng gia đình mà còn liên quan đến xã
hội, đặc biệt là vấn đề dân số.

Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình. Gia đình đóng vai trò rất quan trọng
trong việc nuôi dưỡng và giáo dục thể chất lẫn tinh thần của con người ngay từ khi sinh ra. Gia
đình là môi trường giáo dục sơ khai và gắn liền với cuộc sống con người. Gia đình có nền giáo
dục tốt thì con người mới có ích cho xã hội sau này, từ đó tạo ra nguồn lực chất lượng cao cho
sự phát triển của đất nước. Vậy nên, thực hiện tốt chức năng là trách nhiệm và nghĩa vụ của
gia đình đối với toàn xã hội.

Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình. Một gia đình cơ bản gồm có hai hoạt
động kinh tế chính là sản xuất kinh doanh và tiêu dùng nhằm đảm bảo đời sống vật chất và
tinh thần ổn định cho các thành viên trong gia đình, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước
phát triển.

Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm của gia đình. Nhà là nơi để trở
về, là nơi luôn chào đón ta. Có thể nói, gia đình là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho con người,
đồng thời cũng cung cấp lượng vật chất nhất định cho sự trưởng thành của con người. Chỉ khi

6
ở cùng với các thành viên trong gia đình, ta mới có đủ sự thoải mái để chia sẻ, tâm sự, yêu cầu
những nhu cầu về tình cảm, tâm – sinh lý của mỗi người.

Như vậy, gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với riêng cá nhân mỗi
con người mà còn là nhân tố không thể thiếu trong việc xây dựng và phát triển một xã hội vững
mạnh.

II. CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI

2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội

Trong các giai đoạn lịch sử, lực lượng sản xuất luôn có sự thay đổi gắn liền với sự xuất
hiện của các quan hệ sản xuất mới. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất bị xóa bỏ, thay thế bởi chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư
liệu sản xuất. Như vậy, cơ sở kinh tế đã có sự thay đổi, dẫn đến sự bất bình đẳng trong gia đình
cũng như trong xã hội dần bị tan biến. Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin từng khẳng định: “Bước
thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà máy.
Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được con đường giải phóng hoàn toàn và thật sự cho
phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế độ nô lệ gia đình” nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá
thể bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mô lớn”. Hiện nay, người phụ nữ tham gia trong các hoạt
động trong cả gia đình và xã hội, có tiếng nói trong gia đình và xã hội, họ đóng góp cho sự
phát triển của đất nước. Chế độ xã hội chủ nghĩa xóa bỏ gốc rễ gây ra sự bất bình đẳng giới,
tạo cơ sở biến lao động tư nhân trong gia đình thành lao động xã hội trực tiếp, là cơ sở cho
những cuộc hôn nhân bắt nguồn từ tình yêu.

2.2. Cơ sở chính trị - xã hội

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa đã củng
cố vững chắc cơ sở chính trị trong quá trình xây dựng gia đình. Giai cấp công nhân và nhân
dân lao động được giải phóng, thoát khỏi kiếp nô lệ, đồng thời gạt bỏ những gánh nặng, thủ
tục lạc hậu đè lên người phụ nữ, từ đó tạo tiền đề cho việc bảo vệ hạnh phúc của gia đình. Sự
ra đời của hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hôn nhân và Gia đình kết hợp với hệ thống
chính sách xã hội đã thể hệ rõ nét vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa với mục tiêu đảm bảo

7
quyền lợi của công dân cũng như các thành viên trong gia đình. Việc tích cực hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật thúc đẩy quá trình xây dựng gia đình được ổn định.

2.3. Cơ sở văn hóa

Bên cạnh những sự biến đổi trong kinh tế, văn hóa, xã hội, thì đời sống văn hóa, tinh
thần cũng không kém phần thay đổi tích cực trên cơ sở tư tưởng chính trị của giai cấp công
nhân. Trình độ dân trí được nâng cao nhờ sự phát triển của giáo dục và những thay đổi to lớn
trong nền khoa học và công nghệ của xã hội. Từ đó, chất lượng gia đình được nâng cao nhờ
những những kiến thức tiến bộ được tiếp thu bởi những thành viên trong gia đình.

2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ

Hôn nhân tự nguyện

Hôn nhân tự nguyện là hôn nhân của nền xã hội tiến bộ. Tình yêu nam nữ là cơ sở xây
dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc, bởi nó không có sự ép buộc của cha mẹ mà quyền tự do
của nam nữ trong việc lựa chọn bạn đời của mình. Điều này đã được Ph. Ăngghen khẳng định:
“…nếu nghĩa vụ của vợ và chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau
há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác”. Đồng thời, hôn
nhân tiến bộ là bao gồm quyền ly hôn, tuy nhiên việc ly hôn sẽ để lại những hậu quả nhất định,
đặc biệt là con cái.

Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

Bản chất của hôn nhân tiến bộ xuất pháp từ tình yêu một nam một nữ, không kẻ thứ ba
bởi đó là quy luật tự nhiên, đúng với đạo đức con người. Hôn nhân một vợ một chồng đúng
nghĩa chỉ xuất hiện khi chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bị xóa bỏ. Thực hiện chế độ
hôn nhân một vợ một chồng không chỉ tạo điều kiện bảo đảm hạnh phúc gia đình mà còn là sự
giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ vợ
chồng. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một người, vào
tay người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải lại cho con cái của người đàn ông ấy,
chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ một vợ một chồng về phía
người vợ, chứ không phải về phía người chồng”.

Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý

8
Quan hệ hôn nhân không chỉ dừng lại ở vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà rộng ra là
quan hệ xã hội. Tình yêu nam nữ muốn được xã hội công nhận, muốn có sự tự do, bình đẳng
trong hôn nhân thì phải đi qua các thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Đồng thời, thủ tục pháp lý
về hôn nhân còn đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng, ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền
cá nhân trong quan hệ hôn nhân.

PHẦN II: LIÊN HỆ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI HIỆN NAY

I. GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI HIỆN NAY

1.1. Thực trạng của gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
hiện nay

1.1.1. Sự biến đổi của gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay

Sự biến đổi về quy mô hộ gia đình

Sự phát triển kinh tế - xã hội kéo theo sự biến đổi trong quy mô và kết cấu của gia đình
Việt Nam. Trong xã hội xưa, gia đình truyền thống chiếm đa số, người đàn ông trưởng trong
gia đình nắm mọi quyền lực. Tuy nhiên, ngày nay, khi xã hội có sự biến chuyển, từ xã hội
nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại, gia đình hạt nhân dần thay thế cho
kiểu gia đình cũ. Gia đình hạt nhân đang trở nên phổ biến. Theo thống kê của Tổng cục Thống
kê Việt Nam về xu hướng hạt nhân hóa gia đình Việt Nam, quy mô năm 2009 đạt 3,66 người/hộ
(chung), 3,78 người/hộ (đô thị) và 3,84 người/hộ (nông thôn) và giảm xuống trung bình 3,6
người/hộ, cụ thể, đô thị đạt 3,4 người/hộ và nông thôn đạt 3,6 người/hộ. Như vậy, hiện nay,
gia đình hạt nhân đang được ưu chuộng hơn và có xu hướng tăng mạnh, đặc biệt là ở các khu
vực đô thị.

Quy mô gia đình hiện nay có xu hướng thu nhỏ về số lượng thành viên trong một gia
đình. Theo nguyên cứu của Tổng cục Thống kê, hơn 24 triệu hộ gia đình trên cả nước, những
hộ gia đình có quy mô nhỏ từ 2 đến 4 người chiếm gần 65% trong khi đó những hộ gia đình

9
có trên 7 người chiếm thiểu số. Ngoài ra, xu hướng số hộ độc thân dù chiếm tỉ lệ nhỏ, đạt 8%
nhưng đang có sự gia tăng nhanh chóng trong 5 năm gần đây.

Sự biến đổi về chức năng tái sản xuất con người

Trong xã hội xưa, chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất nông
nghiệp, nhu cầu về con cái mang tính lạc hậu, bảo thủ. Với mục tiêu, phải có con, càng đông
con càng giàu và đặc biệt phải có con trai nối dõi. Việc này thể hiện sự nghiêm trọng của thực
trạng trọng nam khinh nữ trong xã hội xưa. Tuy nhiên, cuối thế kỉ XX, nhận thức được hệ lụy
của truyền thống lạc hậu này, Nhà nước đã đề ra những chính sách về sinh đẻ, thực hiện hóa
gia đình để đạt mục tiêu hạn chế sinh đẻ. Ban đầu, Nhà nước khuyến khích các cặp vợ chồng
chỉ nên sinh từ 1 đến 2 con với chính sách “thưởng” – “phạt”. Gia đình có hai con được cấp
đất dựng nhà, đối với gia đình trên hai con phải đóng góp kinh phí bảo trợ xã hội. Kết quả số
con trung bình trên một người phụ nữ giảm từ 5,25 con/phụ nữ trong năm 1975 xuống còn 3,8
con/phụ nữ vào năm 1990. Đến năm 2011, đây là giai đoạn già hóa dân số, tổng tỷ suất sinh
đạt 1,99 con/phụ nữ, lo ngại mức sinh có thể giảm xuống quá thấp, Nhà nước đã quyết định
nới lỏng quy định sinh 2 con. Giai đoạn 2012 – 2019 ghi nhận tổng tỷ suất sinh dao động từ
2,04 đến 2,10 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế, trong đó khu vực thành phố Hồ Chí Minh
có mức sinh thấp nhất cả nước với 1,39 em bé/ bà mẹ vào năm 2019.

Với thông điệp mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con, cùng với tàn dư của chế độ xã hội
cũ, các gia đình có xu hướng lựa chọn sinh con trai, dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính.
Cụ thể, tỷ số giới tính khi sinh năm 2019 đạt 111,5 bé trai/100 bé gái, đã có xu hướng giảm so
với năm 2018 (114,8 bé trai/100 bé gái) nhưng vẫn ở mức cao.

Sự biến đổi về chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, kinh tế gia đình đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Nền kinh tế gia đình đang có sự biến đổi mang tính bước ngoặt bao gồm, từ kinh
tế tự cấp tự túc trong gia đình sang kinh tế hàng hóa, sản xuất đáp ứng nhu cầu của xã hội; từ
kinh tế sản xuất hàng hóa phục vụ cho thị trường quốc gia sang mở rộng nhu cầu đáp ứng cho
thị trường quốc tế. Cụ thể, số lượng hộ gia đình kinh doanh cá nhân tại khu vực nông thôn có
xu hướng tăng mạnh, giai đoạn 2001 – 2005 tốc độ tăng đạt 11,5% so với 5,38% trong giai

10
đoạn 2001 – 2005. Đặc biệt, trong giai đoạn 5 năm sau, sự tăng trưởng của các hộ kinh doanh
diễn ra khá đồng đều, trong đó, Đông Nam Bộ là khu vực có sức tăng cao nhất cả nước đạt
mức 26,74%. Bên cạnh đó, cơ cấu hộ gia đình có sự thay đổi phù hợp với xu hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các hộ gia đình có xu hướng chuyển dịch từ nhóm nông,
lâm nghiệp, thủy sản sang nhóm công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Đối chiếu với năm 2001,
số hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2011 giảm 18,8% về tỷ trọng và đạt 62,1% về số hộ,
tương ứng hộ công nghiệp – xây dựng tăng 8,9% và đạt 14,7%, hộ dịch vụ tăng 2,1% và đạt
4,8%.

Tuy nhiên, kinh tế gia đình vẫn gặp những khó khăn nhất định trong nền kinh tế thị
trường hiện đại ngày nay. Ví dụ quy mô sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa áp dụng triệt để
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Cơ cấu
ngành còn lạc hâu, tỉ trọng trong nhóm nông, lâm nghiệp, thủy sản còn cao, đạt 62,1% năm
2011. Ngoài ra thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ nông sản hàng hóa
được tiêu thụ thông qua hợp đồng chỉ đạt 6 – 10% sản lượng thực tế. Những nhược điểm trên
được giải thích với nguyên nhân chủ yếu là lao động gia đình có độ tuổi cao và trình độ tay
nghề thấp chiếm đa số. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ lực lượng lao
động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ở vùng Đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ cao nhất với
31,8%, thấp nhất là mức 13,6% thuộc về khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Qua đấy, trình
độ tay nghề của người lao động tại Việt Nam vẫn nằm ở mức thấp.

Sự biến đổi về chức năng giáo dục (xã hội hóa)

Con người muốn trưởng thành mang đầy đủ những yếu tố, phẩm chất, trình độ để đáp
ứng cho sự phát triển của xã hội thì phải có sự kết hợp đồng thời của môi trường giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội. Hiện nay, giáo dục gia đình được chú trọng theo hướng nuôi dạy và
phát triển trẻ một cách khoa học. Nhu cầu đầu tư tài chính trong việc nuôi dạy con cái được
quan tâm nhiều hơn. Bên cạnh đó, giáo dục xã hội cũng được đẩy mạnh với hệ thống giáo dục
xã hội hiện đại, dẫn đến vai trò giáo dục trong gia đình có xu hướng giảm. Tuy nhiên, hệ lụy
của vấn đề này là xảy ra những hiện tượng tiêu cực trong xã hội và nhà trường tăng, là nỗi e
ngại cho các bậc phụ huynh khi gửi gắm con cái của mình cho nền giáo dục xã hội.

11
Hiện tượng tội phạm trẻ vị thành niên có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.
Theo số liệu được công bố bởi Bộ Công an, giai đoạn 2018 – 2021, tỷ lệ tội phạm dưới 18 tuổi
chiếm 69,12% trong tổng số các đối tượng bị bắt giữ. Trong đó, đáng chú ý là 71,44% tội phạm
tuổi vị thành niên bỏ học. Vì vậy, để có thể chăm sóc và giáo dục trẻ em hiệu quả, cần phải
linh hoạt phối hợp giữa giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Trong đại dịch COVID-19, vai trò của giáo dục gia đình được đề cao hơn bao giờ hết.
Cách ly xã hội diễn ra, mọi hoạt động đông người đóng cửa, học sinh chuyển từ học trực tiếp
trên trường, lớp sang hình thức học trực tuyến, gây ra những hệ lụy khôn lường, đặc biệt là sức
khỏe tâm thần của thế hệ trẻ em cũng như các bậc cha mẹ. Theo số liệu ước tính năm 2021,
trong tổng số 7 trẻ em thì có 1 trẻ vị thành niên từ 10-19 tuổi bị chuẩn đoán mắc bệnh rối loạn
tâm thần. Tại Bệnh viện hồi sức COVID-19 thuộc thành phố Hồ Chí Minh, ước tính có khoảng
53,3% bệnh trị điều trị tại đây bị rối loạn lo âu, 20% mắc bệnh trầm cảm và 16,7% bị stress.
Đại dịch COVID-19 không chỉ gây ra những tác động lớn đến nền kinh tế quốc gia mà còn
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho cá nhân mỗi gia đình. Ngoài mắc chứng bệnh mới, người
dân còn đối mặt với các bệnh tâm thần. Điều này đòi hỏi vai trò của giáo dục gia đình cần làm
tốt những công tác để giảm thiểu vấn nạn này xảy ra.

Một khảo sát tại Bệnh viện hồi sức COVID-19 TP.HCM vào năm 2021 ghi nhận 53,3%
bệnh nhân điều trị tại đây bị rối loạn lo âu, 20% trầm cảm và 16,7% stress. Đặc biệt, những ca
từng thở HFNC (oxy lưu lượng cao), bệnh nhân từng thở oxy qua mặt nạ hoặc thở máy, tỉ lệ trầm
cảm và tỉ lệ rối loạn lo âu lên tới 66,7%.

Sự biến đổi về chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm

Một cuộc hôn nhân hạnh phúc, một gia đình vui vẻ không chỉ dừng lại ở việc thực hiện
đầy đủ những trách nhiệm, nghĩa vụ được quy định trong pháp lý mà yếu tố tình cảm còn đóng
vai trò vô cùng quan trọng. Đó là tình cảm giữa vợ và chồng; giữa cha mẹ và con cái; sự quan
tâm, yêu thương, hi sinh vì lợi ích chung của gia đình. Đồng thời trong cuộc sống chung, mỗi
cá nhân được hưởng quyền tự do chính đáng của mình.

Xã hội pháp triển, nhu cầu về tâm sinh lý trong mỗi gia đình tăng cao. Nếu như trong xã
hội cũ, những cuộc hôn nhân còn mang nặng đơn vị kinh tế như “đăng môn hậu đối”, “cha mẹ

12
đặt đâu, con ngồi” đấy thì ngày nay, các cuộc hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình cảm
nam nữ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như độ bền vững của một gia đình.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ người dân trên 15 tuổi đã từng kết hôn
đạt 77,5. Độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu đạt 25,2 tuổi, so với năm 2009 đã tăng 0,7 tuổi,
trong đó nam giới kết hôn muộn hơn nữ giới 4,1 năm (tương ứng là 27,2 tuổi và 23,1 tuổi).

Công nghiệp hóa và toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng đã làm tăng sự phân hóa giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đặc biệt những hộ gia đình ở nông thôn, chịu tác
động lớn của quá trình đô thị hóa, gây ra bất bình đẳng trong thu nhập. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê năm 2020, trong 5 nhóm thu nhập tăng dần từ nhóm 1 (nhóm người nghèo nhất)
đến nhóm 5 (nhóm người giàu nhất), giai đoạn 2010 -2020, khoảng cách về thu nhập giữa
nhóm 1 và nhóm 5 tăng từ 9,2 lần vào năm 2010 lên 10,2 lần vào năm 2019. Đến năm 2020,
do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, mức chênh lệch có xu hướng giảm nhẹ xuống còn
8,1 lần. Những hạn chế trong sự chênh lệch giàu nghèo khiến đời sống của mỗi gia đình gặp
không ít khó khăn. Đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh, hàng loạt các công nhân bị nghỉ việc,
không có việc làm, không tạo ra thu nhập, kinh tế càng trở lên khó khăn hơn. Đối tượng gặp
khó khăn chủ yếu và chịu tác động nặng nề của COVID-19 là nhóm người lao động tại các
công xưởng, với nguồn thu nhập trung bình đến thấp.

Bên cạnh đó, len lỏi trong cuộc sống của những gia đình trong xã hội ngày nay vẫn còn
những tồn đọng của nền tư tưởng lạc hậu cũ về vai trò của người con trai trong gia đình. Trong
xã hội cũ, người đàn ông năm quyền lực chính trong gia đình, quyết định mọi vấn đề. Trong
khi đó, vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ, thân phận “ba chìm, bảy nổi”, “tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”; người phụ nữ không có tiếng nói trong gia đình, không
được hưởng đầy đủ những quyền cơ bản như quyền được học tập. Sự bất bình giới tính diễn
ra gay gắt trong xã hội phong kiến, gia đình phải có con trai để nối dõi, trách nhiệm phải sinh
con trai đổ hết lên người phụ nữ. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, vấn đề trọng nam kinh nữ
đã giảm nhiều, tiêu biểu trong khẩu hiệu “dù gái hay trai chỉ hai là đủ” trong việc chính sách
thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Để xây dựng một gia đình thành một tổ ấm trọn vẹn, không
chỉ riêng người đàn ông gánh vác những công việc trong gia đình, mà người phụ nữ trong gia
đình cũng chung tay góp sức xây dựng gia đình hạnh phúc; người chồng và người vợ có vai

13
trò tương đương nhau. Tuy nhiên, vấn đề lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới đã cho
thấy việc trọng nam khinh nữ vẫn hiện hữu trong xã hội người nay. Dẫn đến, mất cân bằng tỷ
số giới tính khi sinh tại Việt Nam lớn, đạt 111,5 bé trai/ 100 bé trai vào năm 2019, cao thứ ba
châu Á. Bên cạnh đó, vai trò của người phụ nữ trong xã hội ngày càng được đề cao. Cụ thể tỷ
lệ nữ đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 2011 – 2016 tăng mạnh từ 25,8% vào nhiệm kỳ 2007 – 2011
lên 24,4%, cao thứ 2 trong khu vực và thứ 43 trên thế giới. Trong tổng số lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên, 48,5 % là nữ lao động; đặc biệt trong các ngành có tỉ trọng lớn, tỷ lệ nữ lao
động chiếm 70% trong dệt may, 53,7% trong nông, lâm nghiệp, thủy sản. Giáo viên là nữ giới
chiếm đa số, với 70,9% trong bậc phổ thông.

Sự biến đổi về quan hệ gia đình hôn nhân và quan hệ vợ chồng

Trong xã hội không ngừng thay đổi, nhiều vấn đề, thách thức lớn đặt ra trong hôn nhân
và gia đình Việt Nam như quan hệ vợ chồng – gia đình không còn gắn kết; tỷ lệ ly hôn, ly thân,
ngoại tình… có xu hướng tăng. Trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, tỷ lệ ly hôn ở nước
ta nằm trong mức thấp tuy nhiên lại có xu hướng tăng trong 10 năm trở lên đây, năm 2009, tỷ
lệ ly hôn đạt 1,0%, đến năm 2019, con số này đạt 1,8%. Phụ nữ có xu hướng chủ động ly hôn
cao hơn nam giới, tỷ lệ ly hôn của nữ giới đạt 2,1% trong đó con số này với nam giới chiếm
1,4%. Tại Việt Nam, ước tính cứ 4 cặp nam nữ đi đăng kí kết hôn thì có 1 cặp gặp nhau ở tòa.
Việc ly hôn dẫn đến những nỗi đau của hai vợ chồng, dù giải thoát nhau nhưng những tổn
thưởng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến cuộc sống sau này. Những đứa con là nạn nhân bất hạnh
nhất trong những cuộc ly hôn, chung sẽ sống trong gia đình không có đầy đủ cha và mẹ, không
được hưởng nền giáo dục gia đình đúng nghĩa, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành
nhân cách và tương lai sau này của con cái.

Không dừng lại ở đó, những bi kịch trong gia đình xuất hiện như bạo hành gia đình, xâm
hại tình dục, người già neo đơn… Theo báo cáo của Tồng cục Thống kê năm 2010, có đến
32% phụ nữ từng kết hôn thừa nhận họ phải chịu bạo lực thể xác do chồng gây ra, trong đó tỷ
lệ bị bạo hành thể xác từ một lần trở lên trong quá trình mang thai là 5% và xảy ra nhiều nhất
ở những người phụ nữ có trình độ học vấn thấp. Ước tính có khoảng 10% phụ nữ từng kết hôn
bị bạo lực tình dục do chồng gây ra và xảy ra ở mọi trình độ học vấn. Bạo lực tinh thần và kinh
tế do chồng gây ra ghi nhận những con số rất cao: 54% phụ nữ bị bạo hành tinh thần và 9%

14
phụ nữ bị bạo lực về kinh tế. Theo khảo sát của Viện Nguyên cứu xã hội, kinh tế và môi trường
năm 2015, 27,5% gia đình xảy ra tình trạng bất hòa giữa các thành viên, 16% gia đình có vợ
hoặc chồng đi ngoại tình…

Vai trò của người phụ nữ được đẩy mạnh, khác với gia đình truyền thống, người đàn ông
không còn là người duy nhất làm chủ trong gia đình, người vợ có thể làm chủ hoặc là cả hai
cùng nhau làm chủ gia đình.

Sự biến đổi về quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực và văn hóa của gia đình

Trong thời đại xã hội không ngừng thay đổi và phát triển, kéo thay sự biến đổi không
ngừng trong quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực và văn hóa của gia đình Việt Nam.
Nếu như trong gia đình truyền thống, vai trò của cha mẹ, ông bà trong việc nuôi dạy con cái
được chú trọng thì trong xã hội hiện đại ngày nay, họ chuyển chức năng nuôi dưỡng trẻ em
cho nhà trường và xã hội.

Thời đại gia đình hạt nhân đang bành trướng, gia đình truyền thống có xu hướng suy
giảm. Tình trạng người già neo đơn tăng nhanh; sự bất đồng quan điểm, sự khác biệt về tuổi
tác, thế hệ gây ra những mâu thuẫn trong gia đình dẫn đến những giá trị về tình cảm và tinh
thần giữa các thành viên trong gia đình bị rạn nứt.

Bên cạnh đó, ngày càng xuất hiện nhiều những vấn đề và các tệ nạn như nạn tảo hôn,
buôn bán người qua biên giới… Vấn nạn tảo hôn diễn ra chủ yếu ở các vùng dân tộc thiểu số,
ước tính tỷ lệ tảo hôn ở nam giới là 20,1% trong đó con số này ở nữ giới cao hơn với 23,5%,
đặc biệt dân tộc Mông có tỷ lệ tảo hôn lớn nhất với 51,5%. Tình trạng mua bán người vô cùng
phức tạp với số nạn nhân bị mua bán ước tính lên đến 11,7 triệu người, chiếm 70% số nạn
nhân bị mua bán trên thế giới, trong đó phụ nữ và trẻ em là đối tượng bị mua bán nhiều nhất
với 55%.

1.2. Nguyên nhân

Thứ nhất, gia đình Việt Nam hiện nay vẫn mang những tàn dư lạc hậu của gia đình truyền
thống. Nổi bật là sự bất bình đẳng nam nữ. Trong xã hội xưa, người đàn ông nắm giữ mọi
quyền lực trong gia đình, còn người phụ nữ thì “thấp cổ bé họng”, không có tiếng nói trong
gia đình; vấn đề gia trưởng chiếm phần đông trong xã hội. Người xưa quan niệm, phụ nữ không

15
sinh được con trai để nối dõi là một sự thất bại. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn hiện
hữu trong xã hội hiện nay. Điều đó dẫn việc lựa chọn giới tính trẻ em bằng cách phương pháp
khoa học hiện đại nổi lên hơn bao giờ hết. Tâm lý không có con trai vẫn là gánh nặng tâm lý
đối với các cặp vợ chồng

Thứ hai, do sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, văn hóa, xã hội cùng với sự hội nhập
với thế giới, nhiều gia đình gặp khó khăn trong việc thực hiện kinh doanh hộ gia đình. Cạnh
tranh với các hàng hóa trên thị trường; quy mô kinh doanh còn nhỏ lẻ, thiếu quy củ; phương
pháp kinh doanh còn non nớt, chưa áp dụng triệt để những tiến bộ khoa học vào quá trình sản
xuất; trình độ lao động còn kém, chưa đạt đến mức độ chuyên môn cao; dẫn đến chuỗi cung
ứng sản phẩm hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Hội nhập nhanh

Thứ ba, Nhà nước chưa có những biện pháp triệt để trong việc xây dựng gia đình Việt
Nam trong thời kỳ hiện đại ngày nay. Vai trò của giáo dục xã hội vẫn gặp nhiều hạn chế, những
chính sách khuyến khích các hộ gia đình kinh doanh sản xuất còn nhiều khúc mắc.

Thứ tư, xuất pháp từ chính các cặp vợ chồng. Những mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh trong
kinh doanh, nuôi dạy con cái, áp lực sinh con trai, việc ngoại tình… dẫn đến những vụ việc ly
thân, ly hôn, bạo lực gia đình, bạo lực tình dục… Kết quả, những đứa con là người hứng chịu
hệ quả nặng nề nhất cho những hành động chính bố mẹ các em gây ra: tổn thương về tâm sinh
lý, thiếu thốn một gia đình đầy đủ, thậm chí có thể khiến các em đi vào những con đường sai
lệch.

Ngoài ra, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, xã hội cách ly, nhiều hộ gia đình mất
việc, mất nguồn thu nhập chính của gia đình, áp lực về đồng tiền, không chỉ về mặt thể chất,
sức khỏe tâm lý của các thành viên cũng bị ảnh hưởng. Nhiều gia đình bị mất người thân do
dịch bệnh, những đứa trẻ trở thành trẻ mồ côi vì dịch bệnh cũng dẫn đến những hệ lụy khôn
lường.

1.3. Những biện pháp, phương hướng cơ bản xây dựng và pháp triển gia đình Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây dựng
và phát triển gia đình Việt Nam. Cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục về việc tổ chức và

16
xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại. Đồng thời cần nâng cao nhận thức của mọi người về vị
trí, vai trò và tầm quan trọng của gia đình trong việc xây dựng và phát triển đất nước bền vững.

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia
đình. Để có thể củng cố và pháp triển nền kinh tế gia đình, việc xây dựng và hoàn thiện chính
sách phát triển kinh tế - xã hội cần được đẩy mạnh và chú trọng. Bên cạnh đó, cần có những
chính sách hỗ trợ những hộ kinh tế gia đình trong quá trình sản xuất kinh doanh các sản phẩm
và khâu đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hỗ trợ
vốn cho các gia đình tham gia sản xuất phục vụ xuất khẩu và các hộ gia đình kinh doanh loại
hình kinh tế trang trại, làm giàu chính đáng.

Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những tiến bộ
của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Trong quá trình kế thừa
những giá trị của gia đình truyền thống, cần chọn lọc những mặt tích cực và tiếp tục phát huy
những giá trị tích cực đó, đồng thời kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại,
tạo điều kiện xây dựng mô hình gia đình hiện đại phù hợp với với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa.
Hiểu được ý nghĩa thực sự của gia đình văn hóa là điều thiết yếu. Gia đình văn hóa là gia đình
ấm no, hòa thuận, tiến bộ, khỏe mạnh và hạnh phúc. Tại đó, mọi cá nhân trong gia đình đều
thực hiện tốt nghĩa vụ công dân trong quá trình xây dựng kế hoạch hóa gia đình. Cần đẩy mạnh
quá trình xây dựng mô hình gia đình văn hóa trong thời kỳ ngày nay, đồng thời đề xuất và thực
hiện những biện pháp giải quyết những thách thức đề ra trong quá trình hiện đại hóa gia đình.

II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

2.1. Liên hệ gia đình của sinh viên

Là sinh viên trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
bản thân em hiểu được những giá trị mà một gia đình hiện đại đem đến cho mỗi thành viên
trong gia đình quan trọng đến mức nào, đồng thời đó còn là một những yếu tố quan trọng hàng
đầu quyết định đến sự phát biển bền vững của xã hội Việt Nam.

Khái quát về bản thân và hoàn cảnh sống

17
Sinh ra trong một gia đình nhỏ tại vùng thôn quê bình yên, bản thân em cảm thấy mình
vô cùng may mắn khi được hưởng môi trường giáo dục gia đình và giáo dục xã hội tuyệt vời.
Dựa trên quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về gia đình, gia đình em bao gồm đầy đủ mối
quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Gia đình em gồm có ba thành viên: bố, mẹ và
em. Có thể nói, gia đình em chính là một gia đình tiêu biểu đại diện cho gia đình hạt nhân được
xây dựng trên quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.

Dựa theo quy định của pháp luật, trong một buổi sáng ngày đầu mùa hạ, cha mẹ em đã
cùng nhau đến Ủy ban nhân dân xã thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn, hai người chính thức
trở thành vợ chồng. Sau 10 năm kết hôn và chung sống bên nhau, em được chào đời như một
kết quả của một cuộc hôn nhân hạnh phúc.

Cha mẹ em vốn là những người chưa thực sự được hưởng một nền giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội đầy đủ. Cha mẹ sinh ra trong thời kỳ nước ta đang công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội sau những tháng ngày đấu tranh chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Thời bấy
giờ, tư tưởng sinh nhiều con sẽ có nhiều đất, cha mẹ em có rất nhiều anh chị ruột thịt trong nhà
nên điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc con cái không được đủ đầy như ngày nay. Cụ thể, cả
bố và mẹ em đều không được đi học đầy đủ như các bạn bè đồng trang lứa, kết thúc những
tháng ngày học sinh, cha mẹ phải phụ giúp ông bà trong công việc đồng áng để kiếm tiền nuôi
cả gia đình. Có lẽ, vì không được hưởng đầy đủ nền giáo dục, hơn ai hết, cha mẹ em luôn mong
muốn em được đi học đầy đủ, để em có nhiều cơ hội rộng mở hơn trong tương lai. Theo như
lời kể của cha mẹ em, ngày bố mẹ em kết hôn vẫn còn rất trẻ, đó là tuổi ăn tuổi lớn trong xã
hội hiện nay, nhưng cha mẹ em đã phải đi lấy chồng, lấy vợ. Một gia đình nhỏ của hai cặp vợ
chồng trẻ gặp tương đối nhiều khó khăn về mặt kinh tế. Ban đầu, cha mẹ em làm công việc
đồng ruộng, nguồn thu nhập tương đối ổn định nhưng thấp. Công việc đồng áng vất vả, cha
mẹ chuyển sang hình thức kinh doanh hộ gia đình về lĩnh vực nông, lâm nghiệp, hải sản, cụ
thể là sản xuất thực phẩm hành sấy khô. Có thể nói, đây là công việc đem lại lợi nhuận rất cao
cho gia đình em. Tuy nhiên, hình thức kinh doanh hộ gia đình của gia đình em gắn bó lâu nhất
và duy trì đến hiện tại là vận hành xưởng cơ khí theo hình thức kinh doanh hộ gia đình.

Em được sinh ra và lớn lên trong một gia đình hạnh phúc, đầy đủ và trách nhiệm. Tuy là
những bậc phụ huynh non trẻ, nhưng cha mẹ em rất cẩn thận, tỉ mỉ trong việc nuôi dưỡng em.

18
Không chịu ảnh hưởng của tư tưởng đẻ nhiều con hay trọng nam khinh nữ, em là người con
duy nhất trong gia đình và là người con gái. Cha mẹ em không đè nặng vấn đề sinh con trai,
dù chịu sợ rè bỉu từ xã hội vì không có người con trai trong gia đình. Tỉ mị, cẩn thận trong việc
nuôi dạy em, cung cấp cho em những sản phẩm nuôi dưỡng tốt nhất. Đặc biệt, em được gia
đình tạo mọi điều kiện để có thể đi học đầy đủ. So với các hộ gia đình ở trong khu vực sinh
sống, gia đình em là gia đình có xu hướng đầu tư tài chính nhiều vào việc giáo dục và học tập
của em. Học tập tại ngôi trường Đại học Kinh tế Quốc dân là minh chứng rõ ràng nhất cho
việc mạnh tay đầu tư học tập của cha mẹ em.

Gia đình em là một gia đình ấm no và hạnh phúc. Vấn đề tài chính, cơm ăn áo mặc, gia
đình em luôn được đảm bảo. Cha yêu mẹ, mẹ yêu cha, cha mẹ yêu con, con yêu cha mẹ. Những
mâu thuẫn trong gia đình chưa bao giờ là vấn đề lớn trong gia đình em. Em được sống trong
một gia đình chan hòa, hạnh phúc. Những bữa cơm luôn có mặt đầy đủ các thành viên trong
gia đình, các thành viên trong gia đình luôn giúp đỡ nhau trong mọi công việc trong gia đình.
Điều mà bản thân em nhớ rõ nhất, có lẽ là những giây phút gia đình tâm sự với nhau, cùng
nhau giải quyết những vấn đề mà thành viên vướng mắc. Ví như giai đoạn ôn thi chuẩn bị cho
kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia, cha mẹ đã động viên em rất nhiều, họ là người truyền
cho em những động lực rất lớn, khích lệ em cố gắng trong học tập. Mỗi dịp giao thừa đến, đó
đều là những giây phút thiêng liêng đối với em, em vui thì mình được quây quần bên gia đình
trong những bữa cơm ngày tết, nhưng nỗi buồn vẫn len lỏi trong tâm trí em bởi năm mới, cha
mẹ lại già thêm một tuổi, thời gian em ở bên cha mẹ không còn nhiều. Điều đó càng khiến em
trân trọng hơn những giây phút bình dị ấy. Những ngày tháng làm sinh viên, sống một cuộc
sống trên một vùng đất hoàn toàn mới, cha mẹ luôn ủng hộ em, bầu bạn bên em mỗi khi em
nhớ nhà.

Những thành tích trong gia đình sinh viên

Đối với gia đình em, thành tích lớn nhất là cuộc sống ấm no và hạnh phúc của gia đình
em. Thành công lớn nhất trong cuộc đời làm cha mẹ của bố mẹ em là sinh thành và nuôi dưỡng
em thành một con người như bây giờ. May mắn lớn nhất mà em có được trong cuộc sống này
là được làm con của cha mẹ em, được cha mẹ nuôi dưỡng. Dù có những lúc cha mẹ em có
nghiêm khắc trong việc giáo dục em nhưng em hiểu những hành động đó của cha mẹ cũng đều

19
là vì em, vì sự hình thành nhân cách của em. Mọi thành viên trong gia đình em luôn thực hiện
đầy đủ trách nhiệm của mình. Cha mẹ em luôn yêu thương, chăm sóc, quan tâm đến em, thực
hiện đồng thời trách nhiệm làm vợ làm chồng, làm cha làm mẹ của mình. Trong gia đình, cả
cha và mẹ em đều thực hiện kinh doanh kinh tế hộ gia đình, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong
công việc gia đình và công việc kinh doanh.

Mô hình kinh tế gia đình được gia đình em áp dụng, cung cấp những hàng hóa cho thị
trường. Doanh thu từ việc kinh doanh hộ gia đình là nguồn thu nhập chính của gia đình em.
Đồng thời, mô hình kinh tế gia đình cũng góp phần trong việc phân phối các sản phẩm trên thị
trường. Bên cạnh đó, việc chi tiêu và phân bổ ngân sách của gia đình cũng vô cùng hợp lý.
Điều đó thể hiện trong những tháng ngày cách ly toàn xã hội, khi mọi hoạt động bị ngừng trệ
vì dịch bệnh COVID-19, nguồn kinh phí của gia đình dự trữ vẫn luôn đầy đủ để đối phó với
dịch bệnh.

Có thể tự tin khẳng định rằng gia đình em là một gia đình hiện đại. Điều đó, thể hiện
trước tiên là trong tư tưởng của từng thành viên trong gia đình. Cha mẹ là những bậc phụ huynh
hiện đại, luôn bắt kịp với những sự thay đổi khôn lường của xã hội. Ví dụ, trong phong trào
phân loại rác thải tại địa phương, gia đình em là gia đình đón đầu làn sóng bảo vệ môi trường
này, được bác trưởng thôn tuyên dương trước tập thể toàn dân trong thôn. Tiếp đó, một tư
tưởng tiến bộ đó là cha mẹ em xóa bỏ hoàn toàn tư tưởng trọng nam khinh nữ, là đứa con gái
và là duy nhất trong nhà, cha mẹ em luôn yêu thương, chăm sóc, bảo vệ em. Năm 2020, gia
đình vinh dự được nhận bằng khen “Gia đình gương mẫu” do Ủy ban Nhân dân tỉnh gửi tặng.

Những mặt hạn chế còn tồn tại trong gia đình sinh viên

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt lợi nói trên, gia đình em vẫn còn những mặt hạn chế.
Trong đó, bao gồm những khó khăn trong kinh doanh hộ gia đình. Quy mô kinh doanh hộ gia
đình còn nhỏ, chỉ dừng lại ở cơ sở nhỏ với số lượng công nhân dưới 10 người. Đồng thời, hàng
hóa tập trung phân khúc khách hàng nhỏ, chưa có hoạt động giao thương với thị trường quốc
tế.

Nguyên nhân chủ yếu xuất pháp từ chính doanh nghiệp, gia đình em với người đứng đầu
là cha mẹ em, hai người đang ở độ tuổi không còn trẻ, không còn muốn thử thách nhiều thứ

20
hơn nữa. Nếu việc đầu tư có thể đem lại nhiều lợi nhuận nhưng đi kèm theo nó cũng là những
rủi ro khá cao. Đồng thời, em cũng đã lớn, cha mẹ em cũng không cần phải đầu tư tài chính
nhiều vào em như trước. Có thể nói đây là giai đoạn hưởng sự an nhàn hơn là thực chiến trên
thị trường cạnh tranh khốc liệt.

Đề xuất giải pháp

Nhà nước đẩy mạnh chính sách nhằm thúc đẩy mô hình kinh doanh hộ gia đình. Đồng
thời tích cực khai thác và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất
bằng các khoản vay vốn ngắn hạn và dài hạn với mục tiêu đẩy mạnh kinh tế hộ gia đình và
vươn lên làm giàu chính đáng. Bên cạnh đó, gia đình em còn thay đổi tư tưởng hưởng lộc ở
tuổi cao. Cần tập trung vào việc mở rộng quy mô, gia tăng năng suất, thúc đẩy doanh thu bán
hàng sản phẩm không chỉ trong nước và cả thị trường nước ngoài.

2.2. Liên hệ bản thân sinh viên

Là một sinh viên đang ngắm nhìn thế giới bên ngoài qua khung cửa đại học, em hiểu
trách nhiệm của bản thân mình trong việc xây dựng gia đình, tạo tiền đề cho công cuộc dựng
xây và phát triển đất nước.

Học tập và làm theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình là điều
thiết yếu mà không chỉ riêng em mà bản thân các bạn sinh viên khác cũng cần phải làm theo.
Đồng thời, cần hiểu biết chính xác và áp dụng có hiệu quả những quy định của pháp luật về
gia đình, đặc biệt là vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của người con trong gia đình.

Không dừng lại ở những cơ sở lý thuyết, là người con, người cháu trong gia đình, em
hiểu ông bà, cha mẹ đã hy sinh rất nhiều điều cho em. Em trân trọng những giá trị mà gia đình
đem đến cho bản thân em. Yêu thương, kính trọng, quan tâm, chăm sóc gia đình là nghĩa vụ
hàng đầu của em. Tuy chưa tạo ra nguồn thu nhập trong gia đình, nhưng em luôn cố gắng giúp
đỡ cha mẹ trong các công việc hàng ngày, đồng thời cố gắng, phấn đấu để trở thành con ngoan
trò giỏi, học tập thật tốt trong môi trường đại học mới mẻ này.

Tiếp thu từ kiến thức nhân loại và thực tiễn đời sống gia đình, bản thân trong tương lai
khi đã thành lập một gia đình cho riêng sẽ thực hiện đầy đủ các chức năng của gia đình như

21
bài luận đã đề cập. Từ đó tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam
phát triển.

22
KẾT LUẬN

Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, những lý luận cơ bản về gia đình
đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển và áp dụng trong thực tiễn gia đình Việt Nam
hiện nay. Trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa và công
cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế, gây ra
những sự biến đổi trong gia đình Việt Nam, tuy nhiên gia đình luôn đóng vai trò quan trọng
trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển, đòi hỏi mỗi công dân Việt Nam cần nhận thức
đúng đắn vai trò của gia đình.

Bên cạnh đó, sự thay đổi không ngừng của đất nước cũng đặt ra những vấn đề trong gia
đình, đòi hỏi từng cá nhân và nhà nước cùng tham gia để giải quyết triệt đề. Thực trạng ly hôn,
bạo lực gia đình, sinh con ngày một ít, kinh doanh hộ gia đình hạn chế… ngăn cản sự phát
triển toàn diện của đất nước. Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chính sách, bộ luật, phương
hướng nhằm giải quyết triệt để những tình trạng nói trên. Xây dựng gia đình tốt thì xã hội mới
phát triển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Hạt nhân của xã hội là gia đình.
Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Mọi công dân Việt
Nam phải hiểu được chân lý đó, từ đó kết hợp với Đảng, Nhà nước và Chính phủ từng bước
giải quyết những khúc mắc trong gia đình Việt Nam hiện nay.

23
DANH MỤC THAM KHẢO

[1]. GS.TS Hoàng Chí Bảo, Chủ biên. (2019). Giá trình Chủ nghĩa Xã hội Khoa học:
Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia sự
thật.

[2]. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập. Tập 3 (1995). Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia
sự thật.

[3]. Tổng cục Thống kê. (2019). Thông báo báo chí kết quả tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2019. Truy cập ngày 05/05/2022, từ Thông cáo báo chí Kết quả Tổng điều tra dân số
và nhà ở năm 2019 – General Statistics Office of Vietnam (gso.gov.vn)

[4]. Tổng cục Thống kê. (2021). Tác động của đô thị hóa đến chênh lệch giàu nghèo ở
Việt Nam. Truy cập ngày 05/05/2022, từ Tác động của đô thị hóa đến chênh lệch giàu nghèo
ở Việt Nam – General Statistics Office of Vietnam (gso.gov.vn)

[5]. Tổng cục Thống kê. (2010). Kết quả từ nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với
phụ nữ Việt Nam. Truy cập ngày 05/05/2022, từ EXECUTIVE SUMMARY (gso.gov.vn)

24

You might also like