You are on page 1of 46

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA




BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI:
VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

LỚP CN01--- NHÓM 04 --- HK 221


NGÀY NỘP ………………

Giảng viên hướng dẫn: THS. ĐOÀN VĂN RE

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Nguyễn Phạm Hoài Nam 2053246
Nguyễn Phan Duy Minh 2052171
Trần Khôi 2053155
Nguyễn Ngọc Lâm 2053178
Chu Minh Nhân 2052624

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


Mục lục

I. MỞ ĐẦU.....................................................................................................................3

1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................3

2. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................5

3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................5

4. Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................................5

5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6

6. Kết cấu của đề tài....................................................................................................6

II. NỘI DUNG.................................................................................................................7

Chương 1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI..................................................................................................................................7

1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình..................................................7

1.1.1. Khái niệm gia đình........................................................................................7

1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội.....................................................................8

1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình.....................................................................9

1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.................11

1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội..................................................................................11

1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội...............................................................................12

1.2.3. Cơ sở văn hoá.............................................................................................13

1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ.............................................................................13

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................................................................17

2.1. Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030...................................17

2.1.1. Mục tiêu......................................................................................................17

2.1.2. Nhiệm vụ và giải pháp................................................................................17

1
2.2. Thực trạng xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam thời gian qua................19

2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân.........................................................19

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân..................................................................28

2.3. Giải pháp xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam thời gian tới....................36

III. KẾT LUẬN.............................................................................................................43

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................44

2
I. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với xã hội, đất nước, mà
với mỗi bản thân con người. Phát huy vai trò tích cực của gia đình, khắc phục những
hạn chế còn tồn tại trong mỗi gia đình hiện nay, xây dựng gia đình văn hóa là góp
phần quyết định xây dựng xã hội mới ổn định, dân chủ, văn minh.

Nhìn chung, các nhà triết học phương Tây ít chú ý đến vấn đề gia đình, hoặc chỉ
đề cập đến gia đình và vai trò của nó khi nói đến nhà nước, hôn nhân và chế độ sở hữu.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình và vai trò của gia đình là sự kế
thừa có bổ sung những tư tưởng trước đó, vì vậy cái nhìn về vai trò của gia đình ở đây
trở nên khách quan, toàn diện hơn, phản ánh chân thực về sự vận động, biến đổi cũng
như vai trò của gia đình trong xã hội.

Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi gia đình là một trong ba mối quan hệ của con người
đã được hình thành trong lịch sử nhân loại: Quan hệ thứ nhất là giữa con người với tự
nhiên; Quan hệ thứ hai là giữa con người với con người trong quá trình sản xuất; và
Quan hệ thứ ba là gia đình. Theo các ông, quan hệ gia đình “tham dự ngay từ đầu vào
quá trình phát triển của lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con
người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và
vợ, cha mẹ và con cái”.1 Ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa vào nhau, cùng
tồn tại bên nhau.

Đề cập đến vai trò của gia đình, C.Mác và Ph.Ăngghen không dừng lại ở chức
năng tái sản sinh con người, mà các ông rất lưu tâm đến vai trò kinh tế trong gia đình.
Chức năng kinh tế vốn là chức năng khởi thủy của gia đình và nó giữ vai trò quan
trọng lâu dài trong lịch sử. Bên cạnh đó, chức năng văn hóa của gia đình có tác động
đến việc bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa, các hệ giá trị và bản sắc dân tộc. Bản
chất của gia đình đã chứa đựng sẵn những nhân tố văn hóa nội sinh. Gia đình luôn giữ
vai trò chuyển tải các giá trị văn hóa của xã hội.

1
C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, tập 3, tr.41.
3
Như vậy, trong quan niệm của các ông, gia đình là tế bào của xã hội, gia đình
tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản phẩm; từ
việc tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ tạo ra sự khác
biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Và, ngược lại, các quá trình sản xuất,
tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao động, giáo dục và đào tạo, v.v. đều tác động
trở lại gia đình, củng cố hoặc làm biến đổi hình thức và kết cấu gia đình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội
là gia đình”.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước quán triệt trong Nghị
quyết của các kỳ Đại hội Đảng và trong các bộ luật liên quan, với các nội dung hướng
tới việc củng cố vị trí, vai trò và chức năng của gia đình.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vấn đề xây dựng gia đình văn
hóa ở tỉnh ta hiện nay đang gặp phải nhiều khó khăn và thách thức. Ở không ít các địa
phương, việc tổ chức đăng ký xây dựng gia đình văn hóa và công tác bình xét, công
nhận các danh hiệu văn hóa có nơi, có lúc còn mang tính hình thức. Không ít gia đình,
khu phố, thôn bản đạt danh hiệu văn hóa chỉ trên danh nghĩa, có khuynh hướng nặng
theo chỉ tiêu. Không ít nơi tỷ lệ gia đình văn hóa đạt chuẩn rất cao song thực trạng đời
sống văn hóa, xã hội lại xuống cấp và diễn biến khá phức tạp.

Thực tế, có những gia đình rất ý thức, quý trọng và nỗ lực để đạt được danh hiệu
gia đình văn hóa, thế nhưng cũng có nhiều gia đình bàng quan và không hề quan tâm
đến vấn đề này. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, vận động chưa thực hiện tốt, việc
nêu gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến trong phong trào chưa được coi
trọng.

Ngoài những lý do trên thì việc xây dựng gia đình văn hóa hiện gặp nhiều khó
khăn là do ảnh hưởng của nền cơ chế thị trường. Nhiều người có nhận thức sai lệch về
chuẩn mực gia đình, đề cao đồng tiền, chạy theo giá trị vật chất. Các nền tảng đạo đức
gia đình bị rạn nứt, những nền nếp tốt đẹp vốn có của gia đình truyền thống mà cha
ông đã dày công vun đắp bị phai mờ. Tệ nạn xã hội phát sinh len lỏi vào khắp các gia
đình như: nghiện hút, cờ bạc, trộm cắp, mại dâm, mê tín, bạo lực. Lối sống thực dụng

2
Hồ Chí Minh. (2011). Toàn tập. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tập 12, tr.300.
4
nhất là trong giới trẻ do ảnh hưởng giao thoa văn hóa xấu từ bên ngoài đã tạo nên hội
chứng xã hội đáng lo ngại như lối sống ích kỷ, vô cảm. Cùng với đó là sự thờ ơ, vô
trách nhiệm của những bậc làm cha, làm mẹ đối với con cái của mình vì mải lo kiếm
tiền đã khiến cho lớp thanh thiếu niên phạm pháp ngày càng cao.

Như vậy, việc xây dựng gia đình văn hóa hiện nay đang đứng trước không ít
những thách thức lớn đòi hỏi cần nâng cao chất lượng hoạt động của phong trào. Để
phong trào thực sự phát huy hiệu quả và đi vào chiều sâu thì việc nâng cao nhận thức
cho mỗi người về ý nghĩa của việc xây dựng gia đình văn hóa là việc làm hết sức quan
trọng. Trước hết, mỗi gia đình cần phát huy tốt những giá trị đạo đức của gia đình
truyền thống, giữ vững gia phong, làm tốt việc giáo dục con cái, trong đó người lớn
phải luôn gương mẫu để con cháu học tập noi theo. Ngoài ra, rất cần sự hỗ trợ, quan
tâm của các chính quyền, đoàn thể địa phương để phong trào thực sự phát huy hiệu
quả.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm chọn đề tài: “Vấn đề gia đình trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực trạng và giải pháp xây dựng, phát triển
gia đình Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.

2. Đối tượng nghiên cứu

Thứ nhất, vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, thực trạng và giải pháp xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam hiện nay.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam
hiện nay.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Thứ nhất, làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề gia đình
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, đánh giá thực xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam thời gian qua.

Thứ ba, đề xuất giải pháp xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam thời gian tới.

5
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó chủ yếu nhất là các phương pháp: phương pháp thu thập số liệu; phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử - logic;…

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:

Chương 1: Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam hiện nay.

6
II. NỘI DUNG

Chương 1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI

1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình

1.1.1. Khái niệm gia đình

Gia đình là cộng đồng người đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ
yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với
những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

Cơ sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và
chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái…). Những mối quan hệ này tồn tại
trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bới nghĩa vụ, quyền lợi và
trách nhiệm của mỗi người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.

Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng thành niên các mối quan hệ khác trong gia
đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ
giữa những người cùng một dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối qua
hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau.
Trong gia đình, ngoài hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ
giữa cha mẹ với con cái, còn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ông bà với cháu
chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cô, dì, chú bác với chau,...

Dù hình thành từ hình thức nào, trong gia đình tất yếu nảy sinh quan hệ nuôi
dưỡng, đó là sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình cả
về vật chất và tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ vừa là một quyền lợi thiêng
liêng giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã hội hiện đại, hoạt động nuôi dưỡng,
chăm sóc của gia đình được xã hội quan tâm chia sẻ, nhưng không thể thay thế hoàn
toàn sự chăm sóc, nuôi dưỡng của gia đình.

7
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội

a. Gia đình là tế bào của xã hội

Gia đình có vai trò quyết định đối với tồn tại, vận động và phát triển của xã hội.
Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tải sản xuất con người, gia đình
như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội. Không có gia
đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được.

Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình với xã hội lại phụ thuộc vào bản chất
của từng chế độ xã hội, vào đường lối chính sách của giai cấp cầm quyền, và phụ
thuộc vào chính bản thân mô hình, kết cấu, đặc điểm của mỗi hình thức gia đình trong
lịch sử. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với xã hội
không hoàn toàn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất
lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chính vì vậy, quan hệ gia đình bình
đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

b. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá
nhân của mỗi thành viên

Từ khi còn nằm trong bụng mẹ đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời, mỗi cá nhân
đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được
yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Chỉ trong môi trường yên
ấm của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc có động lực để phấn đấu
trở thành con người xã hội tốt.

c. Gia đình là cầu nối giữa các nhân với xã hội

Gia đình là cộng động xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân của con người. Chỉ trong gia đình mới thể
hiện được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ và con
cái, anh chị em với nhau.

8
Tuy nhiên mỗi cá nhân lại không thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm gia đình,
mà còn có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác ngoài các thành viên
trong gia đình. Mỗi cá nhân không chỉ là các thành viên của gia đình mà còn là thành
viên của xã hội.

Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến
cá nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thông qua lăng kính gia đình mà tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống, nhân cách. Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi xem
xét họ trong các quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý xã
hội phải thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền
lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia đình.
Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu
cầu của mình cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc
điểm của gia đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau.

Trong xã hội phong kiến, để củng cố, duy trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia
trưởng, độc đoán, chuyên quyền đã có những quy định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi
hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với chồng, người cha – những người đàn
ông gia đình. Trong quá trình xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người được
giải phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng,
thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Vì vậy quan hệ gia đình
trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất so với các chế độ xã hội trước đó.

1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình

a. Chức năng tái sản xuất ra con người

Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế.
Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý của con người, đáp ứng nhu
cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức lao động
và duy trì sự trường tồn của xã hội.

9
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình,
nhưng không chủ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề của xã hội. Thực hiện chức
năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, tùy
theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo
xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.

b. Chức năng nuôi dưỡng giáo dục

Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có trách nhiệm nuôi
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức
năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời
thế hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người.
Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha
mẹ và người thân trong gia đình.

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành viên
trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể trong việc
nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào
việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng
nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước
được xã hội hóa. Vì vậy, giáo dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu
giáo dục của gia đình không gắn với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi
hòa nhập với xã hội, và ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không dạy được hiệu quả cao
khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, không lấy giáo dục của gia đình là nền
tảng.

c. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác
không có được là gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra sức lao động cho xã hội.
10
Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật
chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiẹn
chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hoá để duy trì đời sống cả gia đình vê kao động sản
xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu
nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần
của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra môi trường
văn hóa lành mạnh.

Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau, tùy theo
giai đoạn phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy
mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối.Thực
hiện tốt chức năng này không những tạo cho gia đình có cơ sở để tốt chức tốt đời sống,
nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.

d. Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình

Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo lý,
lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là
nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con
người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định
đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ
tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.

1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội

Cơ sở kinh tế - xã hội đế xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản
xuất là quan hệ sản xuất môi, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là
chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và củng
cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguồn gốc của sự áp bức, bóc

11
lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dân dân bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho
việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã hội.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng thống
trị của người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và
chồng, sự nô dịch đối với phụ nữ. Bởi vì sự thống trị của người đàn ông trong gia đình
là kết quả sự thống trị của họ về kinh tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu tan khi sự thống
trị về kinh tế của đàn ông không còn. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đồng
thời cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình thành lao động xã hội trực
tiếp, người phų nữ dù tham gia lao động xã hội hay tham gia lao động gia đình thì lao
động của họ đóng góp cho sự vận động và phát triển, tiến bộ của xã hội. Do vậy, phụ
nữ có địa vị bình đẳng với đàn ông trong xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất cüng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ không
phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự tính toán nào khác.

1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội

Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động được
thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Nhà nước cũng
chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu đè nặng lên vai người phụ nữ,
đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia đình
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vại trò của hệ thống
pháp luật, trong đó có Luật hôn nhân và gia đình cùng với hệ thống chính sách xã hội
đảm bảo lợi ích của công dân, các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng
giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội... Hệ thống pháp luật và chính
sách xã hội đó vừa định hướng, và thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mối trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp
luật chưa hoàn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình còn
hạn chế.

12
1.2.3. Cơ sở văn hoá

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản
trong đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng không ngừng
biến đổi. Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của
giai cấp công nhân từng bước hình thành và dân dẫn giữ vai trò chi phối nền tảng văn
hóa, tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối
sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ.

Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng
cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung
cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự
hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình gia
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế, chính
trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.

1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ

a. Hôn nhân tự nguyện

Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu là
khát vọng của con người trong moi thơi đai. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng
trên cơ sở tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn
chế.

Hôn nhân tự nguyện đảm bảo cho nam, nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn
người kết hôn, không chấp nhận sự sắp đặt của cha mę. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện
không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhân thức đúng, có
trách nhiệm trong việc kết hôn.

Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm các quyền tự do ly hôn, khi tình yêu giữa nam và
nữ không còn nữa. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly
hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và đặc biệt là con cái. Vì
vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nối khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi
dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.

13
b. Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

Ban chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng
là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân một vợ một
chồng là điều kiện đam bao hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật
tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.

Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người
khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên,
trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chi đối với người phụ
nữ. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một
chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau giữa vợ và chồng. Trong đó, vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang
nhau về mọi vấn để của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những
vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu
khác, v.v..; đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung
của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái... nhẫm xây dựng gia đình hạnh phúc.

Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha
mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu
thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy
bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có
những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích
riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được
mọi người quan tâm, chia sẻ.

c. Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý

Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn để riêng tư của mỗi gia
đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn để riêng của mỗi người, xã
hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã
đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội. Điều
đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý
trong hôn nhân là thế hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ,
14
trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện pháp
ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thỏa mãn
những nhu câu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình. Thực
hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly
hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ
nhất.

15
Tóm tắt chương 1

Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành, duy trì và
củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng,
cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ các thành viên trong gia đình. Gia đình
là tế bào của xã hội, là tổ ấm mang lại hạnh phúc cá nhân, là cầu nối giữa các nhân với
xã hội. Gia đình bao gồm các chức năng sản xuất ra con người, chức năng nuôi dưỡng
giáo dục, chức năng tổ chức kinh tế, chức năng tâm sinh lý. Trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bao gồm các cơ sở kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội, văn hoá. Các
chế độ hôn nhân tiến bộ, hôn nhân tự nguyện, hôn nhân một vợ một chồng bình đẳng,
hôn nhân được bảo đảm về mặt pháp lý.

16
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN GIA
ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030

2.1.1. Mục tiêu

Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy phát triển bền vững; là trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn
xã hội. Ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi để các gia đình nâng cao đời sống văn hóa, tinh
thần, tiếp cận các giá trị tốt đẹp của nền văn hóa, văn minh nhân loại và các thành tựu
của khoa học công nghệ.

Phấn đấu 100% các gia đình được cung cấp thông tin, kiến thức về văn hóa ứng
xử, kỹ năng giáo dục đạo đức, lối sống, tình yêu thương, truyền thống dân tộc và các giá
trị văn hóa tốt đẹp; phòng ngừa rủi ro, tệ nạn xã hội, bạo lực trong gia đình; đặc biệt
quan tâm hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo, gia đình dân tộc thiểu số. Các
gia đình được tuyên truyền, giáo dục về truyền thống dân tộc, truyền thống văn hóa,
truyền thống gia đình và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị
tốt đẹp của gia đình hiện đại. Các địa phương có mô hình về truyền thông, giáo dục xây
dựng gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững tại cơ sở. Các địa phương đưa nội dung
giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục hệ giá trị gia đình trong thời kỳ mới vào hương ước,
quy ước của dòng họ, cộng đồng, làng xã. Phấn đấu nam, nữ thanh niên trước khi kết
hôn được giáo dục, tư vấn về hôn nhân gia đình, kiến thức, kỹ năng xây dựng gia đình
hạnh phúc.

2.1.2. Nhiệm vụ và giải pháp

a. Nâng cao nhận thức, giáo dục, tuyên truyền về các giá trị trong tình hình mới
về gia đình.

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cộng đồng và mọi cá
nhân trong xã hội, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức về vị trí, vai trò,
giá trị của gia đình trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng và triển khai chương trình truyền
thông quốc gia về xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ.

17
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển gia đình. Tăng cường, đổi mới, đa
dạng hóa nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tuyên
truyền, giáo dục đạo đức, lối sống ngay từ trong gia đình; giáo dục, phòng ngừa tác
động tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển của gia đình, đặc biệt là các gia đình trẻ.

Định kỳ hằng năm hướng dẫn, tổ chức chiến dịch truyền thông hưởng ứng ngày
Quốc tế hạnh phúc (20/3), ngày Gia đình Việt Nam (28/6) và Tháng hành động quốc
gia phòng, chống bạo lực gia đình với nội dung thiết thực, phù hợp điều kiện thực tiễn
nhằm tạo sự lan tỏa, hiệu ứng xã hội mạnh mẽ tôn vinh giá trị gia đình.

b. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về gia đình.

Rà soát, hoàn thiện sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về: giáo dục đạo
đức, lối sống trong gia đình; phòng, chống bạo lực gia đình; thúc đẩy thực hiện bình
đẳng giới, phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em và chăm sóc người cao tuổi; ngăn
chặn các tác động tiêu cực đến sự phát triển của gia đình trong xã hội hiện đại.

Xây dựng, ban hành chính sách, cơ chế khuyến khích, đãi ngộ đội ngũ cán bộ
thực hiện công tác gia đình các cấp, các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực gia
đình, đặc biệt là phòng, chống bạo lực gia đình.

Nghiên cứu, xây dựng bộ chỉ số về gia đình hạnh phúc làm cơ sở đánh giá, đề
xuất, hoạch định chính sách.

c. Xây dựng môi trường gia đình văn minh, hạnh phúc, tạo điều kiện cho mọi
thành viên được phát triển toàn diện và thụ hưởng thành quả phát triển.

Tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc, giá trị gia đình; xây dựng
nhân cách đạo đức, lối sống văn minh cho thế hệ trẻ thông qua sự phối hợp giáo dục từ
gia đình, nhà trường và xã hội.

Hoàn thiện, triển khai “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình”; chú trọng tổ chức
thực hành các hành vi văn hóa lành mạnh, ứng xử chuẩn mực trong gia đình nhằm tạo
sự gắn kết, trao truyền và phát huy giá trị gia đình truyền thống tốt đẹp.

18
Thường xuyên, kịp thời biểu dương, khen thưởng những tấm gương gia đình tiêu
biểu, hạnh phúc; đồng thời phê phán, lên án, đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn
tạo dư luận tiêu cực, tác động xấu tới cộng đồng. Xử phạt nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật liên quan đến công tác gia đình và lĩnh vực gia đình.

d. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về gia đình.

Rà soát, đề xuất các giải pháp quản lý nhằm đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
thực hiện công tác gia đình các cấp bảo đảm tinh gọn, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả,
có sự gắn kết nội dung gia đình với các lĩnh vực có liên quan; phát triển mạng lưới
cộng tác viên dân số, gia đình và trẻ em ở cơ sở.

Nghiên cứu, xây dựng danh mục dịch vụ công gắn với hệ thống dịch vụ công về
văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên gia đình. Phát triển các loại
hình dịch vụ gia đình cần thiết hỗ trợ cho cuộc sống nhằm bảo đảm sự ổn định và an
toàn của đời sống gia đình, nhất là gia đình lao động di cư và công nhân lao động
trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Xây dựng dữ liệu số quốc gia về gia đình; các chương trình, đề án, dự án, kế
hoạch hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững.

e. Phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư, huy động xã hội hóa, phát triển lĩnh
vực gia đình.

Sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước cho công tác gia đình. Ưu tiên nguồn lực
đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế trao đổi kinh nghiệm
trong hoạch định, đánh giá chính sách về gia đình, dành nguồn lực phù hợp đầu tư
sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật về gia đình.

2.2. Thực trạng xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam thời gian qua

2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân

2.2.1.1. Những mặt đạt được

19
a. Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về giá trị gia đình
trong tình hình mới

Với thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay; việc phát
triển xã hội, con người cũng là một sự tất yếu đi đôi với nền kinh tế. Mà đặc biệt là sự
phát triển về gia đình, cũng vì thế mà nhà nước ta đã đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng
cao nhận thức, giáo dục về các giá trị gia đình. Có thể thấy qua các năm gần đây gia
đình Việt Nam càng có sức sống mãnh liệt, cách thành viên gia đình luôn có một sự gắn
kết rất chặt chẽ. Biểu hiện thường thấy như khoảng cách giữa các thế hệ có sự thấu hiểu,
đồng cảm hơn trong các thành viên trong gia đình. Hiện nay đã xuất hiện nhiều chương
trình truyền hình, giải trí có chủ đề về các thành viên trong gia đình và việc bày tỏ tình
cảm, cảm xúc giữa các cá nhân ấy đã cho thấy được sức sống và sự liên kết trong gia
đình hiện nay mạnh mẽ như thế nào. Và cũng vì thế cho thấy được nhà nước ta đã có sự
quan tâm nhất định và vấn đề tuyên truyền mà đặc biệt là qua các phương tiện truyền
thông đại chúng.

Tuy nhiên để đánh giá được việc tuyên truyền có thực sự hiệu quả, ta phải
xem được liệu các giá trị gia đình có được phát huy và các giá trị đó mang lại gì cho
tình hình mới hiện nay. Theo chỉ đạo của ngành văn hóa, thể thao và du lịch khi tiến
hành tổng kết 20 năm thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” thì tỷ lệ gia đình văn hóa có sự gia tăng đáng kể qua từng năm. Ở thành phố Hồ
Chí Minh - thành phố tiên phong về sự biến đổi, phát triển mới, đã có hơn 20.7 triệu
lượt gia đình được công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”, và cũng từ đó kéo theo
23.967 lượt khu phố, ấp được công nhận danh hiệu “Khu phố - Ấp văn hóa”; 1.657
lượt phường, xã, thị trấn đạt danh hiệu “Phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”,
“Xã đạt chuẩn văn hóa - văn minh đô thị” và “Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”.3

Có thể thấy được gia đình đã và đang phát huy được vai trò của nó với tư cách
là môi trường góp phần nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, chống lại các tệ
nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực có chất lượng tốt phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc,...Và đó cũng là một phần không nhỏ trong công tác nâng cao nhận thức,
3
Trọng Ngôn. (31/03/2021). Thành phố Hồ Chí Minh: Hơn 20,7 triệu lượt gia đình được công nhận danh hiệu
“Gia đình văn hóa”. Truy cập từ Thành phố Hồ Chí Minh: Hơn 20,7 triệu lượt gia đình được công nhận danh
hiệu “Gia đình văn hóa” - Hà Nội Mới (hanoimoi.com.vn)
20
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về giá trị gia đình trong tình hình mới của Đảng và
nhà nước ta đã đề ra.

b. Hoàn thiện chính sách, pháp luật vể gia đình

Để thấy được sự thay đổi và dần hoàn thiện về chính sách và pháp luật gia
đình, chúng ta nên trở lại từ những năm sau 1986. Từ khi chế độ quan liêu, bao cấp,
chế độ một giá,... kết thúc. Đảng và Nhà nước đã đổi mới, phát triển nhiều chính sách
và pháp luật khác nhau để phù hợp với thời đại phát triển khi ấy. Và luật hôn nhân, gia
đình không nằm ngoài sự biến đổi này, nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI khẳng
định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây
dựng gia đình văn hóa mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác
xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế
hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hóa của gia đình”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005:773-774). 4 Gia đình khi ấy được nhận định, đại
chúng hóa là một thành phần cấu tạo nên xã hội và có sự liên kết với các giá trị con
người. Sự nhận thức này là một bước tiến, một nền tảng hình thành nên hệ thống pháp
luật gia đình bây giờ.

Và trong những năm gần đây, gia đình còn quan trọng và có sự mật thiết hơn
những gì so với nhận thức lúc bấy giờ đặc biệt hơn trong bối cảnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Về chiều rộng, gia đình không chỉ liên kết với riêng xã hội mà
còn là nền kinh tế: “Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh
tế của xã hội. Mối quan hệ biện chứng giữa no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều
kiện cơ bản để gia đình phát triển lành mạnh, ngược lại muốn có một tế bào lành mạnh
thì phải xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.” 5 Hoặc nền văn hóa, bản sắc dân

4
Trần Tuyết Ánh. (07/01/2020). Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình và gia đình
hạnh phúc từ Đổi mới đến nay. Truy cập từ Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình
và gia đình hạnh phúc từ Đổi mới đến nay - Viện hàn lâm khoa học xã hội việt nam (vass.gov.vn)
5
Trần Tuyết Ánh. (07/01/2020). Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình và gia đình
hạnh phúc từ Đổi mới đến nay. Truy cập từ Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình
và gia đình hạnh phúc từ Đổi mới đến nay - Viện hàn lâm khoa học xã hội việt nam (vass.gov.vn)
21
tộc Việt Nam được lưu giữ qua từng khung hình thế hệ trong một gia đình,... Không
chỉ thế về chiều sâu, gia đình nhận được sự quan tâm từ xã hội, cộng đồng và đất nước
sẽ có sự chuyển biến về giá trị vốn có của mỗi gia đình. Mỗi con người trong một gia
đình tiến bộ sẽ được giáo dục, nhận thức một cách toàn diện, từ đó có sự gắn kết của
mỗi thành viên trong gia đình. Như thế thành phần cấu tạo nên gia đình từ bước một
cũng phải phát triển theo và xây dựng lại chính gia đình ấy. Và để củng cố thêm, vào
năm 2020 Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 629/QĐ-TTg về “Phê duyệt
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” góp phần
hoàn thiện hơn chính sách và pháp luật gia đình.

c. Xây dựng môi trường gia đình văn minh, hạnh phúc, tạo điều kiện cho mọi
thành viên được phát triển toàn diện và hưởng thụ thành quả phát triển

Ý thức xây dựng gia đình được nâng cao, các chức năng gia đình từng bước
thực hiện đầy đủ; lợi ích gia đình dần được đảm bảo. Kết cấu và quy mô gia đình ngày
càng thu hẹp để hình thành các gia đình “hạt nhân” và sinh đẻ ít con hơn, tạo cơ hội
chăm sóc và nuôi dạy con tốt hơn. Qua nghiên cứu cho thấy gia đình Việt Nam đang
theo xu hướng hạt nhân hóa, giảm dần về quy mô, nhất là ở khu vực hiện đại như đô thị.
Năm 2009, trung bình có 3,66 người/hộ, trong đó, đô thị là 3,78 người/hộ và nông thôn
là 3,84 người/hộ. Năm 2019, quy mô giảm xuống còn 3,6 người/hộ (chung), 3,4
người/hộ (đô thị) và 3,6 người/hộ (nông thôn) (TCTK, 2019). 6 Nghiên cứu này cho xu
hướng tương tự, gia đình hạt nhân gồm cha mẹ và con cái, hoặc ông bà với cháu, hoặc
chỉ hai vợ chồng chiếm đa số. Gia đình hạt nhân có xu hướng tăng mạnh hơn ở các khu
vực đô thị.

Nhiều gia đình đã tiếp cận được những dịch vụ xã hội cơ bản, chất lượng cuộc
sống ngày càng nâng cao. Kinh tế hộ gia đình đã đóng vai trò quan trọng trong thu
nhập quốc dân; nhiều hộ gia đình đã nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng. Bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em và chăm sóc người cao tuổi trong gia đình được coi trọng và
có nhiều tiến bộ. Bình đẳng giới, quyền trẻ em, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã

6
Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du lịch. (29/07/2021). Xu hướng hạt nhân hóa gia đình có biến đổi. Truy cập từ Xu
hướng hạt nhân hóa gia đình có biến đổi - VỤ GIA ĐÌNH (bvhttdl.gov.vn)

22
hội ngày càng được đề cao. Chăm lo, vun đắp, xây dựng, giữ gìn hạnh phúc gia đình là
giá trị cao đẹp mà mỗi người Việt Nam luôn quan tâm thực hiện và hướng tới. Cùng
với đó là các giá trị chung thủy, yêu thương, chia sẻ và bình đẳng trong hôn nhân được
coi trọng hơn.

d. Nâng cao năng lực quản lý của nhà nước về gia đình

Cho đến hiện nay, nước ta đã có sự biến đổi mạnh trong cơ cấu gia đình. Các
chức năng cơ bản có sự thay đổi trong cách thực hiện cũng ảnh hưởng đến sự tương
tác, các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Các mối quan hệ như vợ
chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em ngày càng dân chủ hơn, vợ chồng tôn trọng lẫn
nhau, cha mẹ lắng nghe con cái, giảm bớt tính gia trưởng, độc đoán.

Không chỉ vậy, các hộ gia đình ở các vùng xa, khó khăn đã từng bước tiếp cận
được các giá trị tiên tiến của những gia đình ở xã hội hiện đại, đời sống gia đình từng
bước nâng cao và phát triển về kinh tế lẫn xã hội. Cụ thể là số hộ nghèo 124 xã vùng
dân tộc miền núi chiếm tỷ lệ 16,24%, đã giảm 2,98% so với năm 2016; tỷ lệ hộ nghèo
là 12,49% giảm 0,06% so với năm 2016.7

Ngoài ra, các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện ở vùng
dân tộc, miền núi trong những năm vừa qua với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các
cấp uỷ Đảng, Chính quyền địa phương cùng với các nguồn lực đầu tư và sự nỗ lực cố
gắng của đồng bào các dân tộc, bộ mặt nông thôn vùng dân tộc miền núi đã từng bước
thay đổi, một số vùng đã đi vào sản xuất hàng hóa, đời sống vật chất tinh thần được
nâng lên. Đi vào chi tiết, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3-5%/năm, kết cấu hạ tầng thay
đổi rõ rệt, 98,6% số xã trong cả nước có đường ô tô đến trung tâm xã, 99,8% số xã và
95,5% số thôn có điện. Công tác giáo dục có nhiều tiến bộ 99,5% số xã có trường tiểu
học, 93,2% số xã có trường THCS, 12,9% số xã cố trường THPT, 96,6% số xã có
trường Mầm non, 100% xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập
THCS. Mạng lưới y tế phát triển, đồng bào được tiếp cận dịch vụ y tế, công tác khám

7
Nông Văn Trân. (03/07/2017). Những thuận lợi, khó khăn trong việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc.
Một số nội dung cần nghiên cứu, làm rõ để phục vụ xây dựng chính sách dân tộc trong thời gian tới. Truy cập từ
Những thuận lợi, khó khăn trong việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Một số nội dung cần nghiên
cứu, làm rõ để phục vụ xây dựng chính sách dân tộc trong thời gian tới. - Thông tin, tuyên truyền - Ban dân tộc
tỉnh Thái Nguyên (thainguyen.gov.vn)
23
chữa bệnh được chăm lo, bảo hiểm y tế được thực hiện đúng quy định. Đã có 99,39% số
xã có trạm y tế xã, 77,8% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đến năm 2020 đã có 97,2%
số thôn có cán bộ y tế.8

e. Phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư, huy động xã hội hoá, phát triển lĩnh
vực gia đình

Trong khoảng từ năm 2002 đến năm 2018, chỉ số GDP đầu người tăng 2,7 lần,
đạt trên 2700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm
mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). 9 Đồng
thời trong bối cảnh đó, kinh tế các hộ gia đình đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập quốc dân hằng năm. Các phong trào xây dựng đời
sống văn hóa mới có sự phát triển mạnh rõ rệt. Cụ thể là số lượng gia đình văn hóa, khu
phố văn hóa, cụm dân cư văn hóa, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc. Ngoài ra công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm được thực hiện gần như
triệt để đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống.

Nhà nước dần đáp ứng được nhu cầu văn hóa, vui chơi, nghệ thuật tinh thần của
Nhân Dân. Tính đến nay, đã xuất hiện khá nhiều câu lạc bộ gia đình do các cơ quan, tổ
chức đoàn thể xây dựng và triển khai như : Câu lạc bộ ông – bà – cháu do Trung ương
Hội Người cao tuổi Việt Nam xây dựng, Câu lạc bộ gia đình trẻ thuộc Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc,…

Với mục đích chính là nơi tập hợp các gia đình có nhu cầu tham gia sinh hoạt
để giao lưu, học hỏi, chia sẻ những kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng để có thể xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Hơn thế nữa, Chính phủ cũng hiện thực các chương trình y tế, sức khỏe miễn
phí cho người dân. Nổi bật là chính sách tiêm chủng phòng COVID-19 miễn phí trên
phạm vi toàn quốc và thực hiện xét nghiệm COVID-19 cho các đối tượng sử dụng sinh
8
Tổng cục thống kê. (29/06/2020). BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI QUÝ II VÀ 6 THÁNG NĂM
2020. Truy cập từ Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý II và 6 tháng năm 2020 – General Statistics Office of
Vietnam (gso.gov.vn)
9
Hoàng Bá Thịnh. (18/04/2022). Xây dựng gia đình Việt Nam: Những thành tựu nổi bật, vấn đề đặt ra và giải
pháp chính sách. Truy cập từ Xây dựng gia đình Việt Nam: Những thành tựu nổi bật, vấn đề đặt ra và giải pháp
chính sách - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn)
24
phẩm (xét nghiệm) miễn phí, chương trình theo dõi miễn phí dành cho F0 tại nhà.
Không thể không kể đến chương trình Sức khỏe Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025.

Thực hiện thành công với Mục tiêu Thiên niên kỷ về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ
và trẻ sơ sinh. Sự đóng góp của các tổ chức phi chính phủ tại các vùng sâu, vùng xa và
đối với các nhóm dân số đặc biệt, như trẻ vị thành niên, thanh niên trẻ, người di cư,
đồng bào dân tộc thiểu số có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và sự thành công trong
việc thực hiện các chính sách về sức khỏe và y tế cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Ngoài ra phải
kể đến vai trò tích cực của truyền thông đại chúng trong việc truyền tải các thông điệp
về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em đến người dân, vận động nhân dân cùng phối hợp
với ngành y tế và toàn thể xã hội tham gia chăm sóc sức khỏe cho chính mình và gia
đình mình.

2.2.1.2. Nguyên nhân đạt được

a. Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về giá trị gia đình
trong tình hình mới

Đại diện tiêu biểu cho việc tuyên truyền đó chính là phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Nội dung có thể tóm gọn lại là việc phát triển
đồng bộ toàn bộ các môi trường sao cho đáp ứng đủ các yêu cầu về văn hóa tốt đẹp
của người Việt Nam, trong đó việc phát triển gia đình văn hóa chính là nòng cốt thiết
yếu để đi lên đến thôn văn hóa, làng văn hóa, đơn vị văn hóa,... Từ đó ta có thể nhận ra
nhờ có phong trào này mà các cấp, các tỉnh có sự quan tâm đặt biệt hơn về sự phát
triển các giá trị của gia đình, và cho chúng ta thấy được việc tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao nhận thức vai trò, giá trị gia đình quan trọng như thế nào.

Nhìn rộng hơn, Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm rất đặc biệt vào văn
hóa, xã hội Việt Nam trên con đường phát triển mới với gia đình của mỗi cá nhân người
Việt làm gốc. Tiêu biểu có thể nhắc đến là chỉ thị số 49-CT/TW của Ban bí thư về xây
dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vô số các hoạt
động thiết thực mà các nhà lãnh đạo đã thực hiện như đổi mới nội dung và giải pháp
truyền thông về gia đình, nâng cao hiểu biết về Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật phòng,
chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc sống
gia đình. Giáo dục những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam, nêu gương người
25
tốt, việc tốt, các mô hình hỗ trợ gia đình có hiệu quả; phê phán những biểu hiện không
đúng, không lành mạnh trong cuộc sống gia đình. Chú trọng ngăn ngừa thông tin và sản
phẩm văn hóa xấu bên ngoài tác động vào gia đình… Thế nên sự phát triển này không
chỉ có toàn dân chung sức mà còn có sự lãnh đạo tài tình, đường lối sáng suốt của Đảng
và Nhà nước ta.

b. Hoàn thiện chính sách, pháp luật vể gia đình

Như trên đã trình bày, chúng ta có thể khẳng định rằng Đảng và Nhà nước có
vai trò quan trọng nhất trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện luật pháp đặc biệt về khía
cạnh gia đình. Từ những đường lối, chỉ đạo sáng suốt đi sâu vào từng khía cạnh gia đình
và giải quyết một cách có hiệu quả. Tiêu biểu như qua các năm gần đây, theo sau hệ
thống pháp luật, chính sách về gia đình và liên quan đến gia đình ngày càng hoàn thiện,
Nhà nước còn đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình nghèo, đặc biệt khó
khăn, gia đình có công với cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Không những thế chúng ta thấy được có sự tăng trưởng của các gia đình hạnh phúc biểu
hiện ở mối quan hệ ứng xử tốt đẹp, hiểu biết, sẻ chia, thông cảm và thương yêu nhau
giữa vợ và chồng; sự thương yêu, chăm sóc, hy sinh của cha mẹ vì con và sự kính trọng,
biết ơn, hiếu thảo của con đối với cha mẹ, ông bà. Còn rất nhiều dẫn chứng cho thấy
được nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước mà luật pháp Việt Nam được củng cố, bổ
sung hiệu quả đặc biệt ở đây là về khía cạnh gia đình - nền tảng của phát triển mọi lĩnh
vực xã hội.

Đi đôi với công cuộc xây dựng của chính phủ chính là sự quan tâm, góp ý từ
nhân dân. Đã bao đời nay, không ai khác chính nhân dân là người gìn giữ bao giá trị,
bao văn hóa của Việt Nam được truyền lại xuyên suốt hàng nghìn năm lịch sử bởi các
thế hệ gia đình. Nên vì vậy, người hiểu rõ nhất về những quy tắc, cách ứng xử trong gia
đình chính là người dân Việt Nam. Và để từ là người gìn giữ, bảo vệ chuyển sang người
phát huy thì chính thời đại hiện nay, nền kinh tế, giáo dục phát triển đã “cho phép” dân
trí dân tộc ta có sự tăng trưởng mà từ đó có những góp ý, ý kiến đóng góp rất thuyết
phục, hợp lý trong chính sách pháp luật. Ông cha ta có câu “Quốc có quốc pháp gia có
gia quy” điều này không phải là sự bù trừ lẫn nhau trong thời đại hiện nay mà đó là sự

26
bổ sung mật thiết giữa pháp luật và người dân trong mỗi gia đình Việt Nam, phản ánh sự
thiết yếu về sự đóng góp của nhân dân trong chính việc xây dựng luật pháp về gia đình.

c. Xây dựng môi trường gia đình văn minh, hạnh phúc, tạo điều kiện cho mọi
thành viên được phát triển toàn diện và hưởng thụ thành quả phát triển

Nhờ sự quan tâm chia sẻ tạo nên sự kết nối bền chặt giữa các thành viên trong
gia đình mà sự xây dựng gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc góp phần thúc đẩy một
xã hội hiện đại tiến bộ ở nhiều mặt. Ngoài ra, tài chính đóng góp vai trò không nhỏ.
Khi tài chính được vững mạnh, các thành viên trong gia đình sẽ có nhiều điều kiện
chăm sóc sức khỏe thường xuyên hơn, được học tập và phát triển bản thân ở những
môi trường tốt nhất. Mỗi thành viên trong gia đình đều làm tốt trách nhiệm của mình
cùng với sự tôn trọng lẫn nhau tạo nên sự hoà hợp trong gia đình.

Việc các chính sách hiệu quả và kịp thời của Đảng và Nhà Nước góp phần xây
dựng phát triển của các gia đình. Qua đó tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình
gia đình văn hoá tiêu biểu, nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ
chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau. Và cùng các công tác tuyên
truyền vận động giúp cho việc bình đẳng giới, quyền trẻ em ngày càng được đề cao và
được các cấp chính quyền quan tâm ủng hộ nhiều hơn.

d. Nâng cao năng lực quản lý của nhà nước về gia đình

Những mặt tích cực đó đã đạt được là nhờ vào sự thành công của các chính
sách hỗ trợ gia đình. Đầu tiên là hỗ trợ tối đa các gia đình thực hiện tốt các chức năng
của mình thông qua các hoạt động nâng cao kỹ năng, cung cấp kiến thức. Hai là can
thiệp kịp thời, giảm thiểu các biểu hiện tiêu cực ảnh hưởng tới sự phát triển của các gia
đình như bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội.

Ngoài ra, Đảng và Nhà nước cũng đã thực hiện nhiều chính sách đặc biệt dành
cho vùng dân tộc và miền núi, ngày càng toàn diện và đồng bộ hệ thống các chính
sách, với hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật của Chính Phủ và Thủ tướng Chính
phủ về phát triển kinh tế xã hội theo vùng, theo từng lĩnh vực.

27
e. Phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư, huy động xã hội hoá, phát triển lĩnh
vực gia đình

Tập trung chú trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản
lý của Nhà nước trong các lĩnh vực: Xây dựng kế hoạch, chiến lược, quy hoạch; chú
trọng vào hoàn thiện các cơ chế, chính sách, thể chế; tăng cường quản lý Nhà nước.
Tập trung cao độ vào cơ chế quản lý ngành trong tình hình mới trên cơ sở tuân thủ
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực
tiễn, tôn trọng thực tiễn để linh hoạt, sáng tạo trong việc thực hiện và điều chỉnh.
Ngoài ra, Nhà nước còn ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình nghèo, gia
đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, gia đình có công với cách mạng. Chưa hết
kế hoạch hóa gia đình, công tác dân số, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt
được những thành tựu đáng kể, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng gia đình
hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển.

Chưa hết, sức khỏe bà mẹ và trẻ em được Nhà nước xác định là ưu tiên hàng
đầu trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân ở Việt Nam. Việc Chính phủ nước ta
cam kết thực hiện trong các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ là yếu tố quan trọng góp
phần vào thành công trong công tác này.

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.2.2.1. Những mặt hạn chế

a. Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về giá trị gia đình
trong tình hình mới

Để có một gia đình văn hóa, trước hết chúng ta phải có một gia đình. Có thể
nói rằng một gia đình cần thiết đó là nơi đó có ba mẹ và con cái. Sẽ ra sao nếu việc
một trong hai người vợ hoặc chồng cảm thấy không còn hạnh phúc. Sự việc như này
càng đáng sợ hơn khi ở Việt Nam số vụ ly hôn qua từng năm tăng một cách chóng
mặt. Viện nghiên cứu Gia đình và Giới cho biết, cả nước trung bình có trên 60.000 vụ
ly hôn/năm, chiếm tỷ lệ 30% tức là cứ 10 cặp vợ chồng kết hôn thì có 3 cặp ly hôn.
70% số vụ ly hôn thuộc về các gia đình trẻ trong độ tuổi 18-30, trong đó 60% ly hôn
sau 1-5 năm kết hôn, cá biệt có nhiều trường hợp kết hôn chỉ được vài tháng, hoặc vài

28
ngày… Trong số các nguyên nhân ly hôn, mâu thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng
đầu (27,7%), tiếp theo là ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực gia đình (6,7%),
sức khỏe (2,2%), sống xa nhau nhiều ngày (1,3%). 10 Mà có thể thấy được sau ly hôn
người chịu ảnh hưởng lớn nhất chính là con cái của họ. Điều này cũng đã thể hiện
được phần nào về giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức chưa thực sự toàn diện
và đặc biệt là giới trẻ, người chưa có quá nhiều kinh nghiệm, trải nghiệm về cách sống,
cách đối xử đối với các vấn đề trong thời đại phát triển hiện nay.

b. Hoàn thiện chính sách, pháp luật vể gia đình

Theo kết quả điều tra quốc gia năm 2021, 32% phụ nữ bị chồng bạo lực thể
xác hoặc bạo lực tình dục. 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác hoặc tình dục không
tìm kiếm sự giúp đỡ, chỉ 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của công an. Kết quả còn cho thấy,
năm 2019, bạo lực gia đình với phụ nữ gây thiệt hại 1,8% GDP. 11 Việc này chỉ ra bạo
lực trong gia đình rất đáng báo động khi mà cái con số đang có xu hướng tăng mang
lại một vấn đề khó khăn cho xã hội. Do hoạt động của Ban Chỉ đạo công tác gia đình
các cấp có mặt hạn chế, chưa thường xuyên, có lúc chưa chặt chẽ. Phối hợp của các
ban, ngành, đoàn thể, địa phương chưa tích cực, có lúc, có nơi còn chưa đồng bộ, chưa
rõ nét; chưa phát huy trách nhiệm trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác gia
đình, như xử lý các vụ bạo lực gia đình, xâm hại tình dục trẻ em.

Các công tác giáo dục đời sống gia đình chưa được coi trọng; phát triển kinh
tế hộ gia đình ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xã, vùng bãi ngang, ven biển còn
chưa được quan tâm đúng mức. Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về xây
dựng gia đình ở một số địa phương chưa được coi trọng, chưa thường xuyên, còn
mang tính hình thức, chung chung, nội dung chưa cụ thể, chưa phù hợp với từng loại
hình gia đình, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển; nội dung và hình thức tuyên
truyền, giáo dục chưa có sự đổi mới, chưa hấp dẫn và hiệu quả.

10
Từ Thắng. (26/09/2022). Gia đình trẻ Việt ngày càng thiếu sự gắn bó và bền vững. Truy cập từ Gia đình trẻ
Việt ngày càng thiếu sự gắn bó và bền vững - Thanh Niên (thanhnien.vn)
11
Báo người lao động. (16/04/2022). Bộ trưởng VH-TT-DL: Cứ 3 phụ nữ có gần 1 người bị chồng bạo lực thể
xác hay tình dục. Truy cập từ Cứ 3 phụ nữ có gần 1 người bị chồng bạo lực thể xác hay tình dục - Báo Người lao
động (nld.com.vn)
29
Tâm lý chuộng con trai ở Việt Nam còn phổ biến. Việc chưa có con trai vẫn là
một gánh nặng tâm lý đối với các cặp vợ chồng ở cả đô thị, nông thôn và miền núi. Và
đây chính là yếu tố tiềm ẩn của sự gia tăng dân số không theo ý muốn, nếu như Nhà
nước không có biện pháp chặt chẽ kiểm soát mức sinh.

c. Xây dựng môi trường gia đình văn minh, hạnh phúc, tạo điều kiện cho mọi
thành viên được phát triển toàn diện và hưởng thụ thành quả phát triển

Ngoài những mặt đạt được, song song đó cũng luôn có những hạn chế. Tình
trạng trẻ em hư, vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng ở nước ta,
đặc biệt ở các thành phố lớn, đang là nỗi lo của mỗi gia đình và toàn xã hội. Theo
thống kê của Bộ Công an, từ năm 2018 đến quý I/2021, cả nước ghi nhận hơn 10.000
vụ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, với 16.000 đối tượng có liên quan. Trong
đó, nữ giới chiếm 5%, nam giới chiếm đến 95%. 12 Đây là con số không hề nhỏ đối với
tội phạm chưa đủ tuổi vị thành.

Hiện nay, 12.306 người đang trong thời gian cai nghiện được quản lý, trong đó
77,65% có độ tuổi 18 đến 35. Số người nghiện ma túy có chiều hướng gia tăng, trung
bình tăng từ 6 đến 8%/năm. Đáng báo động hơn, cứ 10 người nghiện ma túy thì có
chín người tái nghiện. Theo thống kê, hơn 70% số người nghiện ma túy dưới 35 tuổi,
0,8% là trẻ vị thành niên, học sinh.13

Ngoài ra, có những tệ nạn vấn đề nằm ở các bậc phụ huynh trong gia đình như
rượu chè, cờ bạc,... Cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến với việc xây dựng gia đình.
Và việc này cũng mang lại tác hại to lớn với việc phát triển và tư duy của con trẻ.

d. Nâng cao năng lực quản lý của nhà nước về gia đình

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn thiếu nhân lực trầm
trọng, nhiều dân tộc còn chưa có cán bộ chủ chốt ở cấp cơ sở; trình độ chuyên môn
còn thấp: ở cấp tỉnh, tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số có trình độ cao đẳng, đại học
77,26%, cấp huyện là 45,63%, cấp xã, cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học rất thấp,
12
Báo Quân đội nhân dân. (30/12/2021). Phát huy vai trò giáo dục, quản lý của gia đình. Truy cập từ Ngăn chặn
tình trạng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật (qdnd.vn)

13
Báo Nhân Dân. (14/11/2019). Tạo sức “đề kháng” trước tệ nạn xã hội. Truy cập từ Tạo sức “đề kháng” trước
tệ nạn xã hội (nhandan.vn)
30
chỉ chiếm 5,87%, còn lại 94,13% là sơ cấp và trung cấp và chưa qua đào tạo. 14 Với
việc đó dẫn đến việc năng lực thực thi công vụ rất bị hạn chế, chưa thể đáp ứng được
yêu cầu quản lý nhà nước và khả năng xử lý các tình huống, vấn đề phát sinh ở cấp cơ
sở.

e. Phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư, huy động xã hội hoá, phát triển lĩnh
vực gia đình

Rõ nhất là về vấn đề kinh tế hộ gia đình cũng đã đạt tới giới hạn của nó. Đi vào
cụ thể, trong bối cảnh sự hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm hàng hóa với các
nước trong khu vực và trên thế giới có sự gia tăng không ngừng, kinh tế hộ gia đình
trước đây, vốn chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gia đình và tiêu dùng trong nước, nay
buộc phải mang khuynh hướng chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa xuất khẩu tới các
nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là một hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa
đầy tiềm năng nhưng cũng vô vàn rủi ro, yêu cầu có sự chuyên sâu nhất định. Việc này
yêu cầu sự cạnh tranh khốc liệt và sự chấp nhận rủi ro thị trường. Trong trường hợp
năng suất lao động không có sự tăng trưởng, các nguồn lực không được sử dụng một
cách hiệu quả thì sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa sẽ rất hạn chế, đồng nghĩa với
việc rủi ro thị trường sẽ lớn.

Các chính sách gia đình vẫn chưa phát huy được tối đa tiềm lực. Với các chính
sách đã được đề cập ở mục đạt được, do các yếu tố chủ quan như năng lực quản lý
chưa thật sự được tốt và khách quan như lỗ hổng trong chính sách đề ra, Nhà nước và
ban lãnh đạo các cấp không thể phát huy tối đa tiềm lực như mong muốn.

2.2.2.2. Nguyên nhân hạn chế

a. Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về giá trị gia đình
trong tình hình mới

Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay, thành phân dân tộc
và dân tộc thiểu số (14,1 triệu người, gần 3 triệu hộ chiếm 14,7% dân số cả nước) có

14
NGHỊ QUYẾT VỀ PHÊ CHUẨN ĐỀ ÁN BỐ TRÍ, TẠO NGUỒN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀ
NGƯỜI DÂN TỘC MÔNG VÀ MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ ÍT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI
ĐOẠN 2018 – 2021. (08/12/2017). Truy cập từ Nghị quyết 76/NQ-HĐND 2017 phê chuẩn Đề án bố trí đội ngũ
cán bộ người dân tộc Mông Sơn La (vanbanphapluat.co)
31
phần không bắt kịp với những chính sách thay đổi liên tục để phù hợp với nền kinh tế và
phù hợp với văn hóa Việt Nam. Vì vậy các tình trạng như tảo hôn, hôn nhân cận huyết
thống xảy ra vô cùng thường xuyên. Sau năm 5 thực hiện đề án (từ 2015-2020), tỷ lệ tảo
hôn trong vùng dân tộc thiểu số có xu hướng giảm dần. Kết quả Điều tra về thực trạng
kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số cho thấy, tỷ lệ người dân tộc thiểu số tảo hôn
năm 2018 là 21,9%, giảm 4,7% so với năm 2014 (26,6%) (tương ứng với mức giảm
trung bình xấp xỉ 1%/năm).15 Tuy nhiên, nếu so sánh với mục tiêu của Đề án 498 là
giảm 2 đến 3%/năm thì kết quả thực hiện trong giai đoạn 2015-2020 chưa đạt. Tỷ lệ kết
hôn cận huyết trong vùng dân tộc thiểu số có xu hướng giảm nhưng không đáng kể. Tỷ
lệ người dân tộc thiểu số kết hôn cận huyết thống năm 2018 là 5,6%, giảm 0,9% so với
năm 2014 (6,5%).16 Để nói tới thành phần gia đình thì sự việc ở đây chưa nằm trong giá
trị gia đình và chưa được pháp luật công nhận, tuy nhiên đây là sự việc cơ bản để cấu
tạo nên một gia đình. Điều này một phần nào đã thể hiện rằng dân tộc thiểu số chưa thực
sự tiếp cận được với các thông tin đại chúng hay về mặt giáo dục nâng cao nhận thức
còn yếu kém.

Tiếp đến, tổng cục thống kê đã công bố ấn phẩm kết quả chủ yếu điều tra biến
động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 01/4/2020. Về khu vực, tỷ lệ ly thân ở
hai khu vực thành thị và nông thôn lần lượt là 0,4% và 0,3%, tỷ lệ ly hôn ở các vùng
Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là 3,0%, cao hơn gần gấp đôi so với các
vùng còn lại.17 Và về mặt giới tính, ly hôn ở nữ giới được tìm thấy luôn cao hơn so với
nam cho mọi nhóm tuổi quan sát,... Chúng ta có thể thấy tùy từng vùng thành thị hay
nông thôn; tùy từng miền bắc, trung, nam,...; và tùy từng giới tính tỷ lệ ly hôn, ly thân,
bạo lực gia đình,... có sự khác biệt. Thế nên việc áp dụng thuần các chính sách cơ bản
thì không thể nào tạo ra sự thay đổi khác biệt được, việc áp dụng cứng nhắc các thông

15
Cao Cường. (22/08/2021). Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc
thiểu số: Thực trạng và giải pháp. Truy cập từ Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong
đồng bào dân tộc thiểu số: Thực trạng và giải pháp - Ủy ban dân tộc (dttg.ubdt.gov.vn)
16
Cao Cường. (22/08/2021). Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc
thiểu số: Thực trạng và giải pháp. Truy cập từ Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong
đồng bào dân tộc thiểu số: Thực trạng và giải pháp - Ủy ban dân tộc (dttg.ubdt.gov.vn)
17
Thái Quỳnh. (10/03/2022). Phát hiện "lạ" về hôn nhân gia đình. Truy cập từ Phát hiện "lạ" về hôn nhân gia
đình - Cafebiz (cafebiz.vn)
32
tư này để giáo dục, tuyên truyền một mặt của vấn đề gia đình đã vô tình đè nặng lên
một bên trong tổ hợp các thành phần cấu tạo nên một gia đình hạnh phúc. Điều này
thật sự nguy hiểm và cần được giải quyết một cách nhanh chóng.

b. Hoàn thiện chính sách, pháp luật vể gia đình

Pháp luật vẫn chưa xiết chặt vấn nạn bạo lực gia đình và một số gia đình coi
việc bạo lực là một việc bình thường nên ít phản ánh lên chính quyền địa phương. Do
đó vấn nạn này là một vấn nạn nan giải trong thời gian qua.

Chính quyền chưa coi trọng tuyên truyền, giáo dục những chuẩn mực, giá trị
văn hóa của gia đình và cung cấp kiến thức làm cha mẹ, kỹ năng ứng xử trong gia
đình, chưa làm thay đổi nhiều về nhận thức và chuyển đổi hành vi mạnh mẽ trong
nhân dân, nhất là đối với vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình, tư tưởng “trọng nam,
khinh nữ”, xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình.

Việc triển khai các nhiệm vụ xây dựng gia đình của các cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể còn mang tính hình thức, chưa hiệu quả. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu
xây dựng gia đình chưa cao, chưa vững chắc. Chưa phát huy những mặt tích cực của
gia đình trong mọi mặt của đời sống; chưa quan tâm đúng mức đến chuyển đổi sinh kế
của gia đình trong quá trình đô thị hóa và phát triển khu công nghiệp.

Tâm lý “Trọng nam khinh nữ” vẫn còn khá phổ biến ở nước ta do bị ảnh
hưởng nặng nề của Đạo giáo Trung Quốc. Mặt khác, nguồn gốc của tâm lý này xuất
phát từ truyền thống coi trọng con trai trong gia đình Việt Nam như con trai là người
thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường, là trụ cột kinh tế của gia đình, là nơi nương tựa
của cha mẹ lúc tuổi già.

c. Xây dựng môi trường gia đình văn minh, hạnh phúc, tạo điều kiện cho mọi
thành viên được phát triển toàn diện và hưởng thụ thành quả phát triển

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm trái pháp luật hoặc có nguy cơ
làm trái pháp luật. Một trong những nguyên nhân đó là sự giảm sút vai trò của gia đình
trong giáo dục trẻ em, truyền thống và kỷ cương nề nếp gia đình bị nới lỏng, gia đình
mất dần đi chức năng kiểm soát trẻ em. Thêm vào đó là việc pháp luật vẫn chưa thực
sự chặt chẽ trong vấn đề xử lý các trường hợp vi phạm của trẻ vị thành viên.

33
Với sự phát triển của kinh tế ngày nay, luôn tồn tại một số bộ phận gia đình do
sự hấp dẫn từ lợi nhuận kinh tế đã mải mê lo làm giàu, kiếm tiền, sao nhãng thời gian
dành cho gia đình, không quan tâm chăm lo việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống,
nếp sống văn hoá trong gia đình cho các thế hệ; ít quan tâm chú ý đến việc phụng
dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ, giáo dục con cái.

Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây dựng hành lang pháp lý
tạo tiền đề cho các hoạt động xây dựng và củng cố gia đình. Tuy nhiên, hoạt động triển
khai và thực thi chính sách về gia đình vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều văn bản luật chưa
được cán bộ nhận thức đầy đủ. Các điều luật thường mang tính khung, chung chung và
việc ban hành những văn bản hướng dẫn dưới luật còn chậm. Việc tổng kết, đánh giá
chính sách, pháp luật về gia đình chưa được quan tâm.

Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong triển khai chính sách, pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình; phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới, bình đẳng
giới trong gia đình còn hạn chế. Cơ chế phối hợp giữa các cấp ủy với các ban, ngành,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh đến cơ sở chưa đồng
bộ, chặt chẽ và chưa thường xuyên.

Ngoài ra, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường; lối sống hưởng thụ, thực
dụng đã và đang tồn tại ở một bộ phận thanh, thiếu niên hiện nay cũng là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến hành vi phạm tội trong thanh, thiếu niên.

d. Nâng cao năng lực quản lý của nhà nước về gia đình

Không chỉ có tác động đến lĩnh vực kinh tế, các giá trị đạo đức truyền thống và
lối sống lành mạnh cũng đồng thời bị cơ chế thị trường và lối sống thực dụng ảnh hưởng
mạnh tới. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường vẫn chưa được hoàn thiện, Việt Nam đã
và đang chứng kiến những “xáo động”, biến đổi lớn của kinh tế và tất yếu về xã hội,
xuất hiện các “đảo lộn” về cấu trúc xã hội với tính đa dạng của các giai cấp, tầng lớp,
các nhóm lợi ích, vị thế, lứa tuổi, thế hệ, đi kèm theo những khác biệt về xu hướng, định
hướng giá trị và lựa chọn giá trị, trong đó có cả lối sống, giá trị đạo đức.

Chưa kể đến việc Nhà nước chưa hoàn toàn kiểm soát được các tình hình gia
đình ở các vùng sâu vùng xa. Các chủ trương, quan điểm của Đảng ở nhiều nơi chưa

34
được quán triệt và triển khai thực hiện kịp thời; thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở nhiều
nơi còn mang tính hình thức quá nhiều; giải quyết những bức xúc trong đồng bào còn
chậm và chưa thỏa đáng. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền và các dân tộc
ngày càng lớn. Xuất hiện một số “đạo lạ” xâm nhập vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và diễn biến ngày càng phức tạp. Lực lượng cán bộ người dân tộc thiểu số nhìn chung
đang còn thiếu rất nhiều và khá yếu về năng lực cũng như khả năng xử lý tình huống.
Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng
về lĩnh vực này còn chưa được chú trọng.

Chưa có sự đầu tư đúng mức cho việc đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng các
chính sách, cớ chế với đội ngũ cán bộ dân vận, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số.
Các phương pháp tập hợp, vận động đồng bào của các đoàn thể nhân dân và mặt trận
chưa phù hợp với từng đối tượng, từng dân tộc, từng vùng, miền. Đồng thời hệ thống
các văn bản quy phạm, văn bản hướng dẫn vẫn còn đang trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình chỉ vừa mới được thành lập nên
kinh nghiệm, nhân lực làm công tác quản lý còn nhiều phần hạn chế dẫn đến các
phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng, điều hành của chính quyền còn chậm đổi mới.

e. Phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư, huy động xã hội hoá, phát triển lĩnh
vực gia đình

Chưa đáp ứng đủ các nhu cầu về vấn đề an sinh xã hội, trình độ khoa học - kỹ
thuật, công nghệ của đất nước cũng như các nguồn lực khác còn nhiều hạn chế. Kinh
tế vẫn chưa thể phát triển ngang tầm với tiềm năng, lợi thế, văn hóa - xã hội đang bị
tác động bởi mặt trái nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, từ đó
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước, trong đó có lĩnh vực an sinh xã
hội.

Chất lượng dịch vụ an sinh xã hội chưa cao, nhất là các dịch vụ bảo hiểm, y tế.
Các sản phẩm dịch vụ an sinh xã hội vẫn chưa thực sự sáng tạo, phong phú, chưa đáp
ứng được nhu cầu của nhân dân. Hệ thống an sinh xã hội chưa bao phủ hết các mặt,
các lĩnh vực, đối tượng tham gia còn hẹp. Tỷ lệ lực lượng lao động tham gia BHXH
còn thấp do các giải pháp mở rộng đối tượng chưa thật sự hiệu quả, đặc biệt là với các
đối tượng lao động ở khu vực kinh tế phi chính thức. Quỹ BHXH chưa bền vững. Quy

35
mô và chất lượng của dịch vụ xã hội cơ bản được cung cấp chưa cao, nhất là tại các
vùng miền núi, nông thôn và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Chưa có sự cải thiện lớn với các vấn đề an sinh xã hội và phúc lợi chưa được
phân bổ hợp lý giữa các nhóm dân cư và vẫn còn một bộ phận dân cư bị bỏ sót trong
mạng lưới an sinh xã hội. Mặt khác, nhận thức về quyền và nghĩa vụ nộp Bảo hiểm xã
hội - Bảo hiểm Y tế, Bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động và người lao
động chưa đầy đủ, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về lao động còn nhiều bất cập,
do đó tình trạng không đăng ký tham gia BHXH, chậm trích nộp BHXH - BHYT,
BHTN hoặc khai báo số lao động và mức lương thấp hơn so với thực tế tại các doanh
nghiệp vẫn còn diễn ra, các đơn vị sử dụng lao động vẫn cố tình chiếm dụng Hội thảo
khoa học: Chất lượng cuộc sống của người dân TP.HCM trong bối cảnh kinh tế hiện
nay tiền trích nộp BHXH dẫn đến tình trạng nợ đọng BHXH kéo dài gây ảnh hưởng
đến việc giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động.

2.3. Giải pháp xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam thời gian tới

2.3.1. Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về giá trị gia đình
trong tình hình mới

Để phát huy được mặt đạt được cần phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ
Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với công tác gia đình. Cấp uỷ Đảng và
chính quyền các cấp cần xác định công tác gia đình là một trong những nội dung quan
trọng trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
xem đây là nhiệm vụ thường xuyên; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể giải quyết
những thách thức khó khăn về gia đình và công tác gia đình; xoá bỏ các hủ tục, tập
quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình; phòng chống các tệ nạn xã hội, bạo lực trong
gia đình; đấu tranh chống lối sống thực dụng, vị kỷ, đồi truỵ; tăng cường công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Nhà
nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình. Quan tâm
một cách thiết thực và toàn diện hơn nữa đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và
đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ thực
hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con
người để xây dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc bền vững”.

36
Qua đó để khắc phục được tình trạng hôn nhân hiện nay vẫn đã và đang rất cao
cần phải có những biện pháp cụ thể:

Một là, đề nghị cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo các ngành, các
cấp, các đoàn thể tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong
gia đình Việt Nam theo chủ đề nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình cũng như tuyên
truyền pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành bằng sự đa dạng của các phương tiện
truyền thông kết hợp các loại hình truyền thông để tuyên truyền, giáo dục hiệu quả,
nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân hướng tới mục tiêu xây dựng gia đình
Việt Nam bền vững.

Hai là, nâng cao chất lượng giáo dục trong gia đình cũng như Nhà trường và xã
hội đối với giới trẻ, trong đó đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo đức, lối sống, nhân
cách để họ nâng cao nhận thức, hiểu biết về Luật Hôn nhân và Gia đình; Tập huấn các
kỹ năng theo từng giới (nam, nữ riêng), cùng với đó giúp họ chuẩn bị tốt về mọi mặt
trước khi bước vào cuộc sống vợ chồng, nhất là các kỹ năng sống, cách ứng xử, kỹ
năng giải quyết mâu thuẫn, khả năng kiềm chế cái tôi của bản thân để tránh được việc
để xảy ra ly hôn ngay từ những năm đầu chung sống.

Ba là, đẩy mạnh vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ để làm tốt công tác hòa giải
ngay từ cơ sở, giải quyết những mâu thuẫn ngay khi mới phát sinh, từ đó hạn chế việc
gửi đơn ra Tòa để xin ly hôn.

2.3.2. Hoàn thiện chính sách, pháp luật vể gia đình

Để phát huy được mặt tích cực cần tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng và thực hiện
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về gia đình và công tác gia đình
như:

Đẩy mạnh việc tổ chức, chỉ đạo, quản lý, triển khai thực hiện các chủ trương,
chính sách liên quan đến gia đình, bảo đảm cho các gia đình được tiếp cận, được thụ
hưởng đầy đủ các chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước và thực hiện trách nhiệm
đối với việc xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, tích cực đóng góp cho sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

37
Tổng kết thực tiễn việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về gia đình và
công tác gia đình; trên cơ sở đó, đề xuất với Trung ương Đảng kịp thời bổ sung, hoàn
thiện các chủ trương, chính sách về gia đình và công tác gia đình.

Để khắc phục được mặt hạn chế cần rà soát, hoàn thiện sửa đổi, bổ sung các quy
định của pháp luật: nhận diện đúng và đầy đủ các hành vi về bạo lực gia đình, quy
định rõ nguyên tắc và đa dạng nội dung, đối tượng, loại hình thông tin, tuyên truyền về
phòng chống bạo lực gia đình. Đồng thời vận dụng phương án hòa giải trong phòng
chống bạo lực gia đình một cách hợp lý cùng với việc phải có những biện pháp bảo vệ,
hỗ trợ nạn nhân một cách thiết thực, phù hợp với thực tiễn. Ban hành luật hiện hành
quy định về việc hỗ trợ, động viên, giúp đỡ người có hành vi bạo lực gia đình sau khi
bị xử lý theo quy định của pháp luật để họ không tái diễn hành vi bạo lực gia đình, vừa
là biện pháp phòng ngừa bền vững và vừa phù hợp với văn hoá truyền thống của Việt
Nam.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền một cách đa dạng, phong phú và thông qua
nhiều hình thức, nhiều mô hình, cách làm hay. Đặc biệt, công tác truyền thông phải
được tổ chức một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện, phong tục tập quán của nhân
dân các địa phương và phải tập trung chủ yếu vào thay đổi nhận thức của người dân về
giới tính trẻ khi sinh. Và phải thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 đưa tỷ số
giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp
lý. Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỷ lệ trẻ em dưới
15 tuổi đạt khoảng 22%, tỷ lệ người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%, tỷ lệ
phụ thuộc chung đạt khoảng 49%.18

2.3.3. Xây dựng môi trường gia đình văn minh, hạnh phúc, tạo điều kiện cho
mọi thành viên được phát triển toàn diện và hưởng thụ thành quả phát triển

Để phát huy được mặt đạt được cần phải tích cực đẩy mạnh công tác truyền
thông, giáo dục, vận động nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cộng
đồng và các thành viên gia đình về vị trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của

18
Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. (27/11/2019). 8 mục tiêu Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030. Truy
cập từ 8 mục tiêu Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 (luutru.gov.vn)
38
Nhà nước về hôn nhân và gia đình; giúp các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống,
chủ động phòng chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình, kế thừa và
phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn
lọc những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển. Đồng thời, cũng phải
luôn củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ gia đình và cộng đồng; tạo điều
kiện cho mọi gia đình tiếp cận được kiến thức pháp luật, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa
học kỹ thuật và phúc lợi xã hội…

Song đó, để khắc phục được hạn chế cần phải có những biện pháp mạnh mẽ:
Một là, nhà nước cần ban hành những văn bản pháp luật, những chế tài nghiêm
khắc về phὸng chống tệ nạn xã hội để răn đe hơn nữa những đối tượng cố ý vi phạm,
đồng thời để giúp người dân nhận thức được hệ quả tệ nạn xã hội và kiểm soát được
hành vi của mình. Qua đó, cũng phải có những chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển
kinh tế gia đình cho các gia đình chính sách, gia đình các dân tộc thiểu số, gia đình
nghèo, gia đình đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

Hai là, thực hiện cȏng tác tuyên truyền và vận động người dȃn để nȃng cao ý
thức. Ngoài việϲ tuyên truyền trực tiếp, những đơn vị chức năng phὸng chống tệ nạn
xã hội cὸn phải thực thi tuyên truyền bằng nhiều hὶnh thức khác nhau như thȏng tin
trên loa, tuyên truyền qua sách báo, internet,... Ngoài ra, việc tuyên truyền trong hệ
thống giáo dục như ở các trường trung học cơ sở, phổ thông hay các trường đại học
cũng rất quan trọng. Qua đó, sẽ giúp những em học sinh, sinh viên được giáo dục về
điều này ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Ba là, thường xuyên thanh tra, kiểm tra có sự phối hợp giữa cơ quan và người
dân đối với việc xử phạt sẽ được kiểm soát chặt chẽ và dễ dàng hơn. Luôn đôn đốc các
đơn vị kiểm tra, tuần tra thực hiện nhiệm vụ.

Bốn là, phát triển kinh tế văn hóa và xã hội. Khi người dân có đời sống kinh tế
ổn định và thu nhập đầu người cao sẽ góp phần làm tệ nạn giảm đi. Đồng thời, việc
nâng cao trình độ dân trí của xã hội và mọi người được tiếp cận thông tin, văn hóa sẽ
giúp người dân hiểu rõ hơn về bạo lực gia đình, tác hại và cách phòng chống tệ nạn xã
hội.

39
2.3.4. Nâng cao năng lực quản lý của nhà nước về gia đình

Công tác quản lý vốn là việc đầy khó khăn bởi lẽ chịu nhiều sự tác động cả bên
trong lẫn bên ngoài. Để có thể nâng cao năng lực quản lý của mình, các nhà nước nên
cân nhắc phát huy tối đa những gì đạt được và phát triển thêm cái mới, phù hợp với xã
hội, thời đại. Ngoài ra cần tiêu giảm, triệt tiêu những mặt tiêu cực nhằm giúp cho công
tác quản lý dễ dàng và hiệu quả hơn.

Về những phần đạt được:

Trước nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, cán
bộ làm công tác dân số, gia đình và trẻ em các cấp. Quản lý chặt chẽ các hộ gia đình ở
cấp địa phương và luôn sẵn sàng can thiệp nếu cần.

Hai là, đội ngũ cán bộ trở thành tấm gương để người dân noi theo nhằm xây
dựng gia đình văn minh giúp việc quản lý phần nào “dễ thở” hơn.

Ba là, luôn chủ động trong công tác quản lý, tổ chức các buổi tuyên truyền, cập
nhật nội dung, các chính sách quản lý cho các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ vùng sâu
vùng xa, các dân tộc thiểu số.

Về mặt hạn chế:

Thứ nhất, nhằm giải quyết vấn đề Lồng ghép công tác gia đình vào kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội hằng năm.

Thứ hai, yêu cầu gắt gao trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác viên làm công tác gia đình. Một trong
những yếu tố chủ quan khiến cho việc quản lý các hộ gia đình thuộc diện dân tộc, vùng
sâu vùng xa khó khăn là do năng lực của Ban quản lý cấp địa phương chưa đủ cao.

Cuối cùng là xây dựng dữ liệu số quốc gia về gia đình; các chương trình, đề án,
dự án, kế hoạch hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững.

40
2.3.5. Phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư, huy động xã hội hoá, phát
triển lĩnh vực gia đình

Về những phần đạt được:

Đầu tiên, Đảng và Nhà nước nên xem xét các chính sách phù hợp nhằm duy trì
và tối ưu hóa cũng như mở rộng phát triển trong tương lai. Cụ thể là:

Tổ chức các hoạt động, đề ra các chính sách hỗ trợ gia đình (hỗ trợ kinh tế,
mạng lưới dịch vụ gia đình). Không chỉ riêng các gia đình ở khu vực thành thị mà còn
cả ở vùng sâu khó khăn nhằm thu hẹp khoảng cách xã hội đưa nước ta lên một tầm cao
mới: “Dân giàu nước mạnh”.

Hai là, huy động, tăng cường tổ chức các hoạt động vui chơi, nghệ thuật cho
tinh thần của Nhân Dân.

Cuối cùng, huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, các
dòng họ, cá nhân vào việc hỗ trợ hoặc tạo các điều kiện giúp cho các gia đình nâng cao
nhận thức và có thêm cơ hội, điều kiện tham gia vào các hoạt động xây dựng gia đình
no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

Song với những thành tựu, những bất cập vẫn luôn còn là một vấn đề hết sức
nan giải, cần phải có những giải pháp thiết thực như:

Tiếp tục củng cố và ổn định các cơ quan: Tổng cục Dân số (Bộ Y tế), Vụ Gia
đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); Cục Trẻ em (Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội), các cơ quan thuộc lĩnh vực này ở các cấp,... Phải đảm bảo đủ nguồn lực đầu
tư từ ngân sách nhà nước và huy động sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác gia
đình.

Cuối cùng là huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công
tác gia đình; chi ngân sách nhà nước cho công tác gia đình theo phân cấp ngân sách
nhà nước hiện hành; ưu tiên nguồn lực cho vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng miền
núi còn nhiều tập tục lạc hậu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

41
Tóm tắt chương 2:

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều phải biết chăm sóc và
bảo vệ gia đình. Bởi lẽ, gia đình như là một tế bào của xã hội, là môi trường để hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách của mỗi cá nhân, để bảo tồn và phát huy văn
hóa truyền thống dân tộc, để chống lại tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực để phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh trật tự xã hội. Với thời đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay, ngoài những mặt tích cực mà Đảng,
Nhà nước, mỗi gia đình nói riêng và toàn thể nhân dân ta nói chung đã cùng nhau xây
dựng và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, song đó, cũng luôn tồn tại những mặt hạn chế
khó tránh khỏi. Tuy nhiên với những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển gia đình cùng với những Chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030 đã tạo nên những giải pháp, những mục
tiêu rõ ràng góp phần vừa thúc đẩy xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn
minh; vừa bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc.

42
III. KẾT LUẬN

Gia đình là tế bào của xã hội, điều này chứng tỏ gia đình và xã hội có sự tương
tác, thống nhất hữu cơ. Gia đình là sự sống của xã hội, là tế bào hạnh phúc góp phần
phát triển hài hoà xã hội. Xã hội tạo điều kiện cho gia đình phát triển sự sống. Gia đình
là sản phẩm của lịch sử nhưng với tư cách là tế bào của xã hội. Xã hội được phát triển
là do hai loại sản xuất quyết định, một mặt là do trình độ phát triển của lao động, mặt
khác là do trình độ phát triển của gia đình.

Gia đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế xã hội nhỏ nhất nhưng lại đa
dạng và phong phú trong quá trình vận động và phát triển của nó, vừa tuân thủ quy
luật và cơ chế chung của xã hội. Đó là cầu nối giữa con người thành viên của gia đình
với xã hội nhiều thông tin ở ngoài.

Gia đình là tổ ấm tức là đem lại hạnh phúc cho mỗi con người trong gia đình, các
cá nhân được đùm bọc về mặt vật chất, về tâm hồn, về giáo dục, trẻ em có điều kiện an
toàn và khôn lớn, người già có chỗ nương tựa, người lao động được phục hồi về sức
khoẻ và thoải mái về tinh thần. Ở đó thường ngày diễn ra mối quan hệ thiêng liêng và
sâu đậm nghĩa vợ chồng, cha con, anh em, đó là những người đồng tâm, đồng cảm và
nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời.

Tóm lại, gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, vừa chịu sự tác động mạnh
mẽ, liên tục của các chuyển biến xã hội, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Gia đình có vai trò to lớn trong việc giáo dục nhân cách cho con người, xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, tạo cơ sở để xây dựng xã hội tốt đẹp. Do đó, để phát
huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc trong tương lai, Nhà nước và xã hội cần nhận thức và có các chính sách
phát triển gia đình và tăng cường giáo dục gia đình, góp phần đào tạo các thế hệ trẻ
có nhân cách hoàn thiện, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, tri thức, kỹ năng sống,
đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cho đất nước. Đây cũng là minh chứng
rõ nhất cho quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền
vững theo xu hướng tiến bộ của thế giới hiện nay.

43
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Tuyết Ánh. (07/01/2020). Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về
vấn đề gia đình và gia đình hạnh phúc từ Đổi mới đến nay. Truy cập từ Quan điểm của
Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình và gia đình hạnh phúc từ Đổi mới
đến nay - Viện hàn lâm khoa học xã hội việt nam (vass.gov.vn)

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội:
NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du lịch. (29/07/2021). Xu hướng hạt nhân hóa gia đình
có biến đổi. Truy cập từ Xu hướng hạt nhân hóa gia đình có biến đổi - VỤ GIA ĐÌNH
(bvhttdl.gov.vn)

4. Báo người lao động. (16/04/2022). Bộ trưởng VH-TT-DL: Cứ 3 phụ nữ có gần 1


người bị chồng bạo lực thể xác hay tình dục. Truy cập từ Cứ 3 phụ nữ có gần 1 người
bị chồng bạo lực thể xác hay tình dục - Báo Người lao động (nld.com.vn)

5. Báo Quân đội nhân dân. (30/12/2021). Phát huy vai trò giáo dục, quản lý của gia
đình. Truy cập từ Ngăn chặn tình trạng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật (qdnd.vn)

6. Báo Nhân Dân. (14/11/2019). Tạo sức “đề kháng” trước tệ nạn xã hội. Truy cập từ
Tạo sức “đề kháng” trước tệ nạn xã hội (nhandan.vn)

7. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, tập 3.

8. Cao Cường. (22/08/2021). Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết
thống trong đồng bào dân tộc thiểu số: Thực trạng và giải pháp. Truy cập từ Giảm
thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số:
Thực trạng và giải pháp - Ủy ban dân tộc (dttg.ubdt.gov.vn)

9. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. (27/11/2019). 8 mục tiêu Chiến lược Dân số Việt
Nam đến năm 2030. Truy cập từ 8 mục tiêu Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm
2030 (luutru.gov.vn)

10. Hồ Chí Minh. (2011). Toàn tập. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tập 12.

44
11. Trọng Ngôn. (31/03/2021). Thành phố Hồ Chí Minh: Hơn 20,7 triệu lượt gia đình
được công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”. Truy cập từ Thành phố Hồ Chí Minh:
Hơn 20,7 triệu lượt gia đình được công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” - Hà Nội
Mới (hanoimoi.com.vn)

12. NGHỊ QUYẾT VỀ PHÊ CHUẨN ĐỀ ÁN BỐ TRÍ, TẠO NGUỒN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀ NGƯỜI DÂN TỘC MÔNG VÀ MỘT SỐ DÂN TỘC
THIỂU SỐ ÍT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2018 – 2021.
(08/12/2017). Truy cập từ Nghị quyết 76/NQ-HĐND 2017 phê chuẩn Đề án bố trí đội
ngũ cán bộ người dân tộc Mông Sơn La (vanbanphapluat.co)

13. Thái Quỳnh. (10/03/2022). Phát hiện "lạ" về hôn nhân gia đình. Truy cập từ Phát
hiện "lạ" về hôn nhân gia đình - Cafebiz (cafebiz.vn)

14. Hoàng Bá Thịnh. (18/04/2022). Xây dựng gia đình Việt Nam: Những thành tựu nổi
bật, vấn đề đặt ra và giải pháp chính sách. Truy cập từ Xây dựng gia đình Việt Nam:
Những thành tựu nổi bật, vấn đề đặt ra và giải pháp chính sách - Tạp chí Cộng sản
(tapchicongsan.org.vn)

15. Nông Văn Trân. (03/07/2017). Những thuận lợi, khó khăn trong việc xây dựng và
thực hiện chính sách dân tộc. Một số nội dung cần nghiên cứu, làm rõ để phục vụ xây
dựng chính sách dân tộc trong thời gian tới. Truy cập từ Những thuận lợi, khó khăn
trong việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Một số nội dung cần nghiên cứu,
làm rõ để phục vụ xây dựng chính sách dân tộc trong thời gian tới. - Thông tin, tuyên
truyền - Ban dân tộc tỉnh Thái Nguyên (thainguyen.gov.vn)

16. Tổng cục thống kê. (29/06/2020). BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI
QUÝ II VÀ 6 THÁNG NĂM 2020. Truy cập từ Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý
II và 6 tháng năm 2020 – General Statistics Office of Vietnam (gso.gov.vn)

17. Từ Thắng. (26/09/2022). Gia đình trẻ Việt ngày càng thiếu sự gắn bó và bền vững.
Truy cập từ Gia đình trẻ Việt ngày càng thiếu sự gắn bó và bền vững - Thanh Niên
(thanhnien.vn)

45

You might also like