You are on page 1of 21

NATIONAL ECONOMICS UNIVERSITY

-----¡&¡-----

TIỂU LUẬN

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề gia đình
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vận dụng của Nguyễn
Thị Ngọc Minh

Giáo viên hướng dẫn: Lê Ngọc Thông

Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Minh

MSV: 11224268

Lớp: Tài chính tiên tiến D

Hà Nội, tháng 6 năm 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................4

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ


XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI.......................................................................................................................5

1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình............................................5

1.1. Khái niệm gia đình................................................................................5

1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội.............................................................5

1.3. Chức năng cơ bản của gia đình............................................................7

2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.......8

2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội............................................................................8

2.2. Cơ sở chính trị - xã hội.........................................................................9

2.3. Cơ sở văn hoá.....................................................................................10

2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ.....................................................................10

3. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
11

3.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội 11

3.2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình........................11

3.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình............................................13

3.4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội......................................................13

CHƯƠNG II: VẬN DỤNG THỰC TIỄN..........................................................15

2
1. Giới thiệu bản thân.................................................................................15

2. Định hướng vận dụng.............................................................................15

3. Thành công khi thực hiện định hướng...................................................16

4. Những hạn chế khi thực hiện định hướng..............................................17

5. Nguyên nhân..........................................................................................17

6. Giải pháp................................................................................................18

KẾT LUẬN........................................................................................................20

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................21

3
LỜI MỞ ĐẦU

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi con người được chăm lo để hình
thành nên nhân cách, lối sống, đạo đức. Song, “gia đình” không phải một khái
niệm mới. Việc tổ chức gia đình đã trở thành một lối sống có từ xa xưa, đóng
góp một vai trò to lớn cho sự phát triển của cá nhân và của xã hội. Song song
với những biến đổi của thế giới những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải
qua những biến chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình mới
hiện đại hơn, tiến bộ hơn với những lối sống mới, hình thức mới. Với sự phát
triển mạnh mẽ của hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc hiểu rõ về gia
đình cũng như cách xây dựng gia đình tiến bộ một cách đúng đắn là vô cùng
quan trọng.

Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về gia đình và vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và vận dụng của Nguyễn Thị Ngọc Minh” làm đề tài tiểu luận của
mình, với mong muốn hiểu rõ cũng như chỉ ra tầm quan trọng của gia đình,
cũng như phương hướng vận dụng xây dựng gia đình.

4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI

1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình


1.1. Khái niệm gia đình

Trên thế giới, tồn tại rất nhiều hình thức gia đình với các cấu trúc, lối sống
khác nhau. Vì vậy, cách tiếp cận đối với khái niệm gia đình cũng vô cùng đa
dạng. Ví dụ, theo quan niệm Phật giáo, gia đình là “một tổ chức thu nhỏ của xã
hội, trong đó có các mối quan hệ chính là quan hệ giữa chồng và vợ, giữa ông
bà, cha mẹ và con cháu, giữa anh chị em trong gia đình. Khi gia đình được xây
dựng và phát triển ổn định thì xã hội, quốc gia mới hưng thịnh.”

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, gia đình là một hình thức cộng
đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ
sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng cùng với những quy
định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

Như vậy, theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan hệ hôn nhân là cơ
sở, nền móng hình thành nên những mối quan hệ khác trong một gia đình, là cơ
sở pháp lý cho sự tồn tại của gia đình, Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa
những người cùng một dòng máu, và quan hệ này được nảy sinh từ quan hệ hôn
nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, gắn kết mạnh mẽ các thành viên trong một
gia đình. Ngoài ra, các mối quan hệ trong một gia đình không chỉ nằm ở giữa vợ
và chồng, cha mẹ và con cái, mà còn nằm ở ông bà và cháu chắt, anh chị em,
v.v..

Ngày nay, quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi cũng được công nhận trong
quan hệ gia đình. Không chỉ vậy, các mối quan hệ khác giữa những người đồng
tính luyến ái, cha mẹ đơn thân, v.v. cũng dần được thừa nhận trong mối quan hệ

5
gia đình một cách rộng rãi hơn trên toàn thế giới nói chung, và ở Việt Nam nói
riêng.

1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội

Trước hết, gia đình là tế bào của xã hội. Đối với việc sản xuất ra tư liệu
tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất con người, gia đình đóng vai trò tạo nên
cơ thể - xã hội. Xã hội muốn tồn tại và phát triển, cần có gia đình tái tạo ra con
người. Nói cách khác, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn
nhau. Xã hội tốt đẹp, tiến bộ sẽ trở thành tiền đề cho các gia đình phát triển. Các
gia đình phát triển lành mạnh, có cuộc sống hạnh phúc sẽ tác động tích cực trở
lại cho sự phát triển của xã hội. Về vấn đề này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của
xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chú ý hạt
nhân cho tốt.” Noi theo tư tưởng đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
một lần nữa, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh
của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân
cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Như vậy, xây dựng
quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, lành mạnh, đúng đắn là một vấn đề
quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ hai, gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên. Có thể nói, gia đình là môi trường tốt nhất
để mỗi cá nhân được nuôi dưỡng, chăm sóc và phát triển bản thân. Khi gia đình
yên ấm, hoà thuận, cá nhân sẽ có điều kiện, định hướng để hình thành nhân
cách, lối sống phù hợp, có đời sống tinh thần lành mạnh, có động lực phấn đấu
trở thành một công dân tốt cho xã hội.

6
Thứ ba, gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân đều
được sinh sống ở cộng đồng xã hội đầu tiên là gia đình, vì vậy gia đình có tầm
ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách ở mỗi cá nhân.
Thông qua gia đình, mỗi cá nhân được đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội, tiếp thu
và thực hiện quan hệ xã hội, từ đó thực hiện quan hệ xã hội đối với các thành
viên của xã hội bên ngoài gia đình. Ngược lại, gia đình cũng là một trong những
cầu nối để xã hội tác động đến cá nhân. Thông qua gia đình, xã hội có thể ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến mỗi cá nhân. Không chỉ vậy, một số vấn đề
quản lý xã hội, cũng như nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân cần được thực
hiện thông qua hoạt động và sự hợp tác của các thành viên trong gia đình. Vì
vậy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần chú trọng xây dựng sự
bình đẳng trong hôn nhân và gia đình, tạo nền tảng vững chắc để giải phóng con
người.

1.3. Chức năng cơ bản của gia đình

Trước hết, chức năng của gia đình nằm ở tái sản xuất ra con người. Có
thể nói, đây là chức năng đặc thù thuộc về gia đình mà không một cộng đồng
nào có thể thay thế được. Chức năng này không chỉ có ý nghĩa đối với gia đình,
mà còn có vai trò quan trọng đối với xã hội. Thực hiện tái sản xuất con người có
thể gây ảnh hưởng đến nguồn nhân lực, mật độ dân số, chất lượng dân số cũng
như sự phát triển về mọi mặt của xã hội. Vì vậy, tuỳ thuộc vào nhu cầu của xã
hội, việc thực hiện chức năng này có thể được khuyến khích hoặc hạn chế.

Thứ hai, gia đình có chức năng nuôi dưỡng, giáo dục. Đối với mỗi cá
nhân, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và lâu dài, gây ảnh hưởng rất lớn
đến nhân cách của mỗi con người. Việc thực hiện chức năng này góp phần tạo
ra thế hệ con người có ích cho gia đình và cho xã hội, tạo ra nguồn nhân lực
chất lượng cao. Vì vậy, việc thực hiện chức năng này không chỉ là trách nhiệm
đối với gia đình mà còn có vai trò to lớn đối với xã hội. Giáo dục gia đình cần
phải toàn diện, bao gồm nhiều lĩnh vực như lối sống, nhân cách, tri thức, đạo

7
đức, v.v. Bên cạnh đó, phương pháp giáo dục của gia đình chủ yếu là nêu
gương, thuyết phục, gắn liền với giáo dục của xã hội.

Thứ ba, gia đình có chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng. Gia đình thực
hiện tổ chức tiêu dùng hàng hoá để duy trì đời sống thành viên gia đình, cũng
như đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cả mỗi thành viên trong gia đình.
Tuy nhiên, việc tổ chức tiêu dùng hàng hoá còn có vai trò đóng góp vào sự phát
triển kinh tế của xã hội. Mặt khác, gia đình không chỉ tham gia tiêu dùng, mà
còn tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất cũng như
sức lao động cho xã hội. Trong hệ tư tưởng Đức, khi xem xét mối quan hệ biện
chứng giữa gia đình và sự phát triển của nền công nghiệp, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã khẳng định sự tồn tại song trùng của hai quá trình. Thứ nhất, quá
trình phát triển nền công nghiệp được thúc đẩy bởi quá trình tồn tại và phát triển
của gia đình với những nhu cầu vật chất và tinh thần. Thứ hai, quá trình phát
triển nền công nghiệp đã tác động trở lại gia đình, làm thay đổi kết cấu gia đình,
làm biến động nhu cầu của gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần. Như vậy, thực
hiện tốt chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống của mỗi thành viên
trong gia đình, mà còn đóng góp vào sự giàu mạnh của xã hội.

Thứ tư, gia đình có chức năng thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình
cảm gia đình. Với chức năng này, gia đình trở thành hệ thống bảo trợ tốt nhất
cho con không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần. Chỉ trong gia đình,
những nhu cầu tình cảm, những khát vọng tâm - sinh lý của cá nhân mới được
bộc lộ và chia sẻ và được thoả mãn một cách an toàn nhất. Khi thực hiện tốt
chức năng này, gia đình trở thành tổ ấm của mỗi người, từ đó xây dựng nền tảng
cho sự ổn định và phát triển của xã hội.

Nói tóm lại, gia đình có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân
và với sự phát triển của xã hội. Gia đình được xây dựng lành mạnh, bền vững sẽ
góp phần để xã hội phát triển ổn định và lâu dài.

2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
8
2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội

Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở kinh tế - xã hội để xây
dựng gia đình trong thời kỳ quá độ là sự phát triển của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Như vậy, để xây dựng gia đình mới,
tiến bộ, cần phải xóa bỏ là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất - cơ sở kinh
tế dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới và bất bình đẳng giữa các thành viên và
các thế hệ thành viên trong gia đình, cùng với đó là từng bước xác lập quan hệ
sản xuất mới xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế hộ gia đình đã tạo ra
những điều kiện và cơ hội để phát huy tính chủ động, sáng tạo của gia đình vào
công cuộc phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh. Đó cũng là điều kiện, là cơ
sở để vừa lưu giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, vừa
tiếp thu tinh hoa văn hoá, thành tựu nhân loại để đóng góp vào sự phát triển của
xã hội.

2.2. Cơ sở chính trị - xã hội

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở chính trị để xây dựng
gia đình trong thời kỳ quá độ là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước chính là
công cụ xoá bỏ những luật lệ lạc hậu, cổ hủ gây những bất công, gánh nặng lên
người phụ nữ, thực hiện bình đẳng, giải phóng người phụ nữ và bảo vệ hạnh
phúc gia đình, tạo cơ sở để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ. Tính cách
này thể hiện sâu sắc nhất ở vai trò của hệ thống pháp luật, cụ thể có thể nhắc
đến Luật hôn nhân và gia đình. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm bình
đẳng trong hôn nhân và gia đình, xây dựng gia đình tiến bộ, dân chủ, ấm no,
hạnh phúc, văn minh, hôn nhân một vợ một chồng, bình đẳng là một trong
những vấn đề cấp thiết để đảm bảo xây dựng gia đình.

9
Ngoài ra, để xây dựng gia đình mới tiến bộ, cần phải chú ý xây dựng hệ
thống chính sách xã hội đảm bảo quyền lợi của công dân, của các thành viên
trong gia đình như bảo hiểm xã hội, chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình,
việc làm, chăm sóc sức khoẻ, v.v.. Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội
không chỉ giữ vai trò định hướng xây dựng gia đình, mà còn thúc đẩy quá trình
hình thành gia đình mới dân chủ, văn minh, tiến bộ trong thời kỳ quá độ.

2.3. Cơ sở văn hoá

Song song với những biến đổi trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đời
sống văn hoá, tinh thần cũng không ngừng thay đổi trong thời kỳ quá độ. Dựa
trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân, những giá trị văn hoá
từng bước được hình thành và giữ vai trò chi phối nền tảng văn hoá, tinh thần
của xã hội, song song với sự loại bỏ, đào thải đối với các lối sống, phong tục tập
quán lạc hậu, cổ hủ, không còn phù hợp. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chính là tạo ra điều
kiện để nâng cao dân trí, để phát huy đầy đủ khả năng của mỗi công dân, mỗi
gia đình và đó là điều kiện quan trọng cho việc xây dựng gia đình tiến bộ, bình
đẳng và hạnh phúc. Thiếu đi cơ sở này, việc xây dựng gia đình sẽ sai hướng,
thiếu hiệu quả.

2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ

Trước hết, hôn nhân tiến bộ cần phải là hôn nhân tự nguyện. Nói cách
khác, hôn nhân cần xuất phát giữa tình yêu từ hai phía, được xây dựng trên cơ
sở tình yêu, dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Hôn nhân tự nguyện đảm bảo cho hai
bên quyền tự do lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt, ép buộc từ
người khác. Không chỉ vậy, hôn nhân tự nguyện còn bao hàm cả quyền tự do ly
hôn khi tình yêu giữa hai phía không còn, nhưng không khuyến khích nông nổi
ly hôn, ngăn chặn lợi dụng ly hôn vì những mục đích vụ lợi cho cá nhân.

10
Thứ hai, hôn nhân tiến bộ cần phải là hôn nhân một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng. Bản chất của tình yêu chỉ nằm ở hai người, không thể chia sẻ
với người khác, nên hôn nhân một vợ một chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân
xuất phát từ tình yêu. Trong hôn nhân, vợ và chồng đều có nghĩa vụ và quyền
lợi ngang nhau về các vấn đề liên quan đến cuộc sống gia đình. Vợ và chồng
đều bình đẳng trong việc tự do lựa chọn những vấn đề riêng như nghề nghiệp,
học tập, v.v. cũng như thống nhất trong những vấn đề chung như ăn, ở, nuôi dạy
con cái,… Hôn nhân bình đẳng, một vợ một chồng là cơ sở cho sự bình đẳng
giữa các thành viên trong gia đình, đảm bảo hạnh phúc gia đình, xây dựng gia
đình tiến bộ, văn minh.

Thứ ba, hôn nhân tiến bộ cần được đảm bảo về pháp lý. Quan hệ hôn
nhân, gia đình không chỉ là vấn đề riêng tư trong nội bộ gia đình, mà còn là
quan hệ xã hội. Vì vậy, hôn nhân cần có sự đảm bảo đến từ thủ tục pháp lý
trong hôn nhân, thể hiện sự tôn trọng, trách nhiệm giữa hai phía trong hôn nhân,
cũng như giữa cá nhân và xã hội. Thực hiện thủ tục pháp lý không chỉ ngăn
chặn hiện tượng lợi dụng quyền tự do kết hôn và ly hôn vì mục đích không
chính đáng, mà còn là cơ sở để cá nhân thực hiện các quyền trong hôn nhân một
cách đầy đủ nhất.

3. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
3.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội

Trước hết, nếu như trước đây, ở xã hội nông nghiệp cổ truyền, kiểu gia
đình truyền thống với nhiều thế hệ cùng sinh sống giữ vai trò chủ đạo, thì hiện
nay, trong bước chuyển biến sang xã hội công nghiệp hiện đại, kiểu gia đình
đơn (gia đình hạt nhân) ngày càng trở nên phổ biến, với số ít gia đình đơn thân.
Quy mô gia đình có xu hướng thu nhỏ hơn, với số lượng thành viên ít đi so với
trước kia, chỉ có hai thế hệ cùng nhau sinh sống: cha mẹ - con cái. Với quy mô

11
ngày càng thu hẹp, gia đình kiểu mới đáp ứng nhu cầu và điều kiện của thời đại
với sự bình đẳng giữa nam và nữ, cuộc sống riêng tư của cá nhân được đề cao,
tránh những mâu thuẫn tồn tại ở gia đình truyền thống với nhiều thế hệ cùng
nhau sinh sống, làm cho xã hội phù hợp với tình hình mới, thời đại mới hơn.

Tuy nhiên, mặt trái của những thay đổi này là có tồn tại. Mỗi thành viên
trong gia đình đều bị cuốn theo những công việc riêng, từ đó thời gian dành cho
gia đình ngày càng giảm. Giao tiếp giữa các cá nhân trong một gia đình ngày
càng hạn chế, mối quan hệ gia đình dễ trở nên rời rạc, ít gắn bó hơn. Vì vậy,
trong quá trình xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ, cần chú ý lưu tâm vấn
đề này.

3.2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình

Trước hết, sự biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình nằm ở
chức năng đặc thù nhất – chức năng tái sản xuất ra con người. Hiện nay, song
song với sự tiến bộ của y học cũng như sự thay đổi trong chính sách xã hội của
nhà nước, việc sinh đẻ trở nên chủ động, có kế hoạch hơn. Nếu như trước kia,
chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nền kinh tế nông nghiệp, nhu cầu có
con của các gia đình Việt Nam rất cao: có con, đông con và có con trai nối dõi,
thì ngày nay, nhu cầu ấy đã có sự biến đổi. Trong gia đình hiện đại, sự bền vững
của hôn nhân không chỉ phụ thuộc vào việc sinh đẻ, có con trai hay con gái, mà
phụ thuộc vào nhiều yếu tố hơn về mọi mặt tâm lý, tình cảm, kinh tế. Hiện nay,
thay cho xu hướng sinh càng nhiều con cái càng tốt, nhà nước khuyến khích
mỗi gia đình có hai con để đáp ứng nhu cầu xã hội và đảm bảo lợi ích, sự phát
triển bền vững của các thành viên trong gia đình.

Thứ hai, sự biến đổi thể hiện ở chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.
Từ kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế gia đình đã chuyển thành kinh tế hàng hoá, từ
đơn vị khép kín để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị sản xuất để đáp
ứng nhu cầu của xã hội, từ sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu của thị trường
thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu của
12
thị trường toàn cầu, Các gia đình ngày nay trở thành một đơn vị tiêu dùng quan
trọng, tiến tới “tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra”, sử dụng hàng hoá và
dịch vụ xã hội, từ đó đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế.

Thứ ba, gia đình biến đổi ở chức năng giáo dục. Hiện nay, trong thời kỳ
quá độ, giáo dục gia đình phát triển theo xu hướng đầu tư tài chính cho giáo dục
con cái tăng lên, hướng đến giáo dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị các
kĩ năng để hoà nhập thay vì nặng về giáo dục đạo đức, ứng xử trong gia đình,
làng xã. Tuy nhiên, song song với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống giáo
dục xã hội, vai trò của các chủ thể trong gia đình về giáo dục có xu hướng giảm
dần. Đây vẫn là một thực tế chưa có lời giải ở Việt Nam hiện nay.

Thứ tư, gia đình biến đổi ở chức năng thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy
trì tình cảm. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã làm
gia tăng phân hoá giàu nghèo, gây ảnh hưởng đến đời sống tâm lý – tình cảm và
cả vật chất của bộ phận gia đình với ít khả năng tích luỹ tài sản hơn. Do đó, nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ hộ nghoè, khắc phục hiện tượng khoảng cách
giàu nghèo ngày càng tăng lên. Đồng thời, cần phải thay đổi quan niệm truyền
thống về con trai, đề cao bình đẳng giữa con trai và con gái trong quyền lợi và
nghĩa vụ trong gia đình. Nói cách khác, nhà nước cần có những giải pháp nhằm
định hướng, hình thành những chuẩn mực mới phù hợp với thời đại, đảm bảo sự
hài hoà lợi ích giữa các thành viên trong gia đình cũng như giữa gia đình và xã
hội.

3.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình

Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, nắm giữ
quyền lực trong gia đình, nắm giữ tài sản, của cải và đưa ra những quyết định
quan trọng thuộc về gia đình. Ngày nay, ngoài mô hình người đàn ông làm chủ
gia đình thì còn tồn tại những mô hình khác như người vợ làm chủ gia đình và
cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình.

13
Bên cạnh đó, các mối quan hệ gia đình hiện nay đang phải đối mặt với
những khó khăn nhất định. Song song với sự phát triển của khoa học công nghệ,
toàn cầu hoá, v.v. thì các gia đình phải gánh chịu những mặt trái như tỉ lệ ly hôn
gia tăng, ly thân, ngoại tình, v.v. Các giá trị truyền thống dần bị coi nhẹ, phá vỡ,
hôn nhân trở nên khó khăn với nhiều người do sức ép từ cuộc sống hiện đại. Do
đó, cần có những biện pháp khắc phục những hiện tượng trên trong quá trình
xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ.

3.4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức về xây
dựng và phát triển gia đình. Tầm quan trọng của gia đình và nhiệm vụ xây dựng
gia đình cần được đẩy mạnh tuyên truyền, tạo động lực quyết định thành công
phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.

Thứ hai, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật
chất, kinh tế hộ gia đình. Các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế phải hướng
tới phát triển và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó có xây dựng gia đình
mới. Xây dựng gia đình phải trở thành một bộ phận trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt chú ý đến các chính sách: việc làm, xóa đói giảm
nghèo, phúc lợi xã hội, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, dân số và kế hoạch
hóa gia đình, v.v.

Thứ ba, cần kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, đồng
thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại trong xây dựng gia đình hiện nay. Xây
dựng gia đình trong thời kỳ hiện nay đòi hỏi lưu giữ, phát huy những giá trị
truyền thống phù hợp và kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện
đại, nhằm hướng tới mục tiêu làm cho gia đình đáp ứng nhu cầu của xã hội và
của cá nhân.

14
Thứ tư, cần tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng
gia đình văn hoá. Cụ thể, nội dung cơ bản và trực tiếp của gia đình Việt Nam
hiện nay là xây dựng gia đình văn hoá theo tiêu chí: no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc và bền vững. “No ấm” là sự thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần
cơ bản phù hợp với khả năng lao động cống hiến của mỗi gia đình và là kết quả
lao động cần cù, sáng tạo, chính đáng của gia đình. “Bình đẳng” là việc đảm
bảo dân chủ, nền nếp, hòa thuận trong gia đình; bình đẳng giữa nam - nữ, giữa
cha mẹ và con cái. Gia đình “tiến bộ” đảm bảo sự tiến bộ của mọi thành viên
trong gia đình, không tách rời với sự tiến bộ chung của xã hội. No ấm, bình
đẳng, tiến bộ tạo nên hạnh phúc cho gia đình. Các tiêu chí xây dựng gia đình
văn hoá cần phải thiết thực, phù hợp với đời sống, tiến hành xét theo tiêu chí
thống nhất, nguyên tắc công bằng, dân chủ, nhận được sự đồng tình từ người
dân.

CHƯƠNG II: VẬN DỤNG THỰC TIỄN

1. Giới thiệu bản thân

Em là Nguyễn Thị Ngọc Minh, 19 tuổi, hiện đang sinh sống và học tập tại
Hà Nội. Hiện tại, gia đình em là một gia đình đơn (gia đình hạt nhân) với hai thế
hệ cùng sinh sống: cha mẹ - con cái. Gia đình em là một gia đình khá cởi mở
với những thay đổi và quan niệm sống mới tiến bộ của thế hệ trẻ, tuy nhiên vẫn
còn dấu vết của những phong cách sống xưa như: mặc định vai trò của người
phụ nữ trong gia đình, v.v.

2. Định hướng vận dụng

Trước hết, để vận dụng lý luận của Mác - Lênin về xây dựng gia đình vào
thực tiễn, em cần áp dụng những bài học đến từ lý luận vào gia đình của bản
thân. Cụ thể, em định hướng vận dụng lý luận theo 4 cách cơ bản.

Thứ nhất, tìm hiểu và nghiên cứu thêm về lý luận Mác - Lênin về xây dựng
gia đình, từ đó có thể hiểu rõ được những nguyên tắc cơ bản và áp dụng chúng

15
vào thực tiễn. Bằng cách tham khảo các tài liệu lý luận Mác – Lênin về xây
dựng gia đình cũng như các nội dung liên quan, em mong muốn học hỏi và áp
dụng những kiến thức tích luỹ được vào thực tiễn gia đình của bản thân, hướng
tới góp phần xây dựng gia đình tiến bộ, lành mạnh, văn minh.

Thứ hai, đưa ra kế hoạch và tổ chức các hoạt động trong gia đình, chia sẻ
công việc và tài nguyên một cách công bằng và hiệu quả, từ đó giúp gia đình
hoạt động hiệu quả hơn. Định hướng này có liên quan trực tiếp đến nội dung
phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ: “Kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống và tiếp thu tiến bộ
nhân loại”. Lấy truyền thống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ làm kim chỉ nam,
đồng thời áp dụng những tiến bộ của nhân loại về sự bình đẳng và tôn trọng lẫn
nhau trong nghĩa vụ tham gia xây dựng gia đình, em mong muốn đưa ra những
ý kiến của bản thân trong việc xây dựng gia đình và giải quyết một số vấn đề
của gia đình, góp sức lực của bản thân vào duy trì gia đình hoạt động hiệu quả.

Thứ ba, thực hiện sự tương hỗ trợ lẫn nhau và chia sẻ trách nhiệm trong gia
đình để tạo ra một môi trường hòa đồng và đoàn kết. Ngoài nội dung được đề
cập ở định hướng thứ hai, em mong muốn có thể giúp đỡ những thành viên khác
trong gia đình về mọi mặt. Ngoài những vấn đề chung của gia đình, em tin rằng
bản thân cần có trách nhiệm hỗ trợ, lắng nghe và cùng giải quyết những vấn đề
riêng của những thành viên khác khi họ cần, chia sẻ những gánh nặng, khó khăn
trong cuộc sống. Đồng thời, cần đặt tinh thần tôn trọng lẫn nhau lên trên hết khi
thực hiện định hướng, không gò ép, bắt buộc trái với nguyện vọng của các thành
viên trong gia đình khi đối mặt với vấn đề.

Thứ tư, tìm kiếm và liên kết với các tổ chức, cộng đồng hoặc nhóm bạn có
chung tư tưởng để học hỏi kinh nghiệm và chia sẻ kiến thức về xây dựng gia
đình. Ngoài học tập từ lý luận, từ kinh nghiệm của bản thân, em mong muốn có
thể tiếp thu từ kinh nghiệm của những người xung quanh, cũng như trao đổi,
thảo luận về các đề tài liên quan đến xây dựng gia đình để học hỏi những góc

16
nhìn mới, những cách tiếp cận mới và những phương hướng mới để xây dựng
gia đình văn minh, tiến bộ.

3. Thành công khi thực hiện định hướng

Thứ nhất, bằng cách tìm hiểu và nghiên cứu thêm về lý luận Mác – Lênin về
gia đình, em đã phần nào hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của gia đình, cũng như
phương hướng xây dựng gia đình đúng đắn, tiến bộ trong thời đại mới. Đồng
thời, em cũng đã chia sẻ những điều đã học được cho người thân, và đã áp dụng
một số nguyên tắc cơ bản để cải thiện lối sống gia đình.

Thứ hai, với định hướng đưa ra cách tổ chức các hoạt động trong gia đình,
chia sẻ công việc và tài nguyên cùng các thành viên khác trong gia đình, để gia
đình vận hành hiệu quả hơn, em cùng với cha mẹ, em gái đã phân chia công
việc chung của gia đình để giảm bớt gánh nặng cho nhau, đồng thời tạo điều
kiện để các thành viên khác có thể dành thời gian cho công việc riêng của bản
thân, hay tạo điều kiện cho phát triển cá nhân trong gia đình. Công việc chung
được phân chia dựa theo độ tuổi, thể lực, sở thích cũng như lịch trình cá nhân
của các thành viên để chắc chắn tất cả mọi người có khả năng đóng góp vào
hoạt động của gia đình. Đồng thời, các thành viên trong gia đình cũng tổ chức
những buổi thảo luận về các vấn đề chung, với tinh thần tôn trọng và tiếp thu ý
kiến lẫn nhau.

Thứ ba, thực hiện sự tương hỗ trợ lẫn nhau và chia sẻ trách nhiệm trong gia
đình để tạo ra một môi trường hòa đồng và đoàn kết. Tương tự với kết quả của
định hướng thứ hai, các thành viên trong gia đình đã có điều kiện lắng nghe và
tiếp thu ý kiến của nhau. Đồng thời, trong môi trường cởi mở hơn, các thành
viên đã nêu ý kiến, suy nghĩ của mình đối với gia đình nhiều hơn, đạt được kết
quả cơ bản của định hướng thứ ba.

Thứ tư, khi tìm kiếm và liên kết với các tổ chức, cộng đồng hoặc nhóm bạn
có chung tư tưởng, em đã có điều kiện lắng nghe định hướng từ bạn bè, người

17
thân để tiếp thu, học hỏi những cái đúng đắn, tiến bộ trong cách xây dựng gia
đình của những người xung quanh, và đã áp dụng một số phương hướng, thay
đổi nhỏ trong gia đình của bản thân, mang lại những hiệu ứng tích cực cho môi
trường gia đình.

4. Những hạn chế khi thực hiện định hướng

Thứ nhất, trong những buổi thảo luận, những thành viên nhỏ tuổi hơn thường
ít nêu ra suy nghĩ của bản thân hơn. Đồng thời, những cuộc nói chuyện không
kéo dài quá lâu, nên chưa thực sự thu được nhiều kết quả như mong đợi.

Thứ hai, khi tìm kiếm và liên kết với những người xung quanh, em chỉ có
điều kiện trao đổi với bạn bè, chưa tìm kiếm được các tổ chức, cộng đồng có
chung tư tưởng và mở rộng đối tượng ở lứa tuổi thanh niên.

5. Nguyên nhân

Nguyên nhân đạt được những thành công có thể kể đến việc gia đình em là
một gia đình khá cởi mở với những ý kiến mới, những thay đổi trong lối sống,
cách tổ chức gia đình. Vì vậy, em đã có điều kiện đề xuất một số phương hướng
để gia đình hoạt động một cách hiệu quả hơn.

Đối với những hạn chế, nguyên nhân thứ nhất là do lịch trình cá nhân bận
rộn của các thành viên, khó có thời gian dài các thành viên có thể dành ra cho
các buổi thảo luận. Đồng thời, các thành viên nhỏ tuổi thường rụt rè đưa ra ý
kiến của bản thân hơn. Thứ hai, việc khó khăn trong tìm kiếm tổ chức là do các
tổ chức, cộng đồng về xây dựng gia đình thường hướng đến đối tượng là người
đã có gia đình, ở lứa tuổi trung niên, hay người có khả năng làm chủ gia đình.
Đồng thời, ở địa phương em, các hoạt động liên quan đến xây dựng gia đình còn
chưa thực sự phổ biến.

6. Giải pháp

Thứ nhất, khuyến khích các thành viên chủ động nêu lên quan điểm, suy
nghĩ của bản thân trong tổ chức, xây dựng gia đình. Thay vì tổ chức những buổi
18
thảo luận dài, có thể áp dụng cách đưa ra suy nghĩ, quan điểm ở nhiều hoàn
cảnh phù hợp, tạo điều kiện để các thành viên trong gia đình nêu ý kiến, quan
điểm một cách tự do và thoải mái nhất, trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn
nhau.

Thứ hai, tìm kiếm các tổ chức, cộng đồng ở phạm vi rộng hơn, nền tảng hoạt
động đa dạng hơn như trực tuyến, kết hợp trực tiếp và trực tuyến, v.v. để mở
rộng khả năng tiếp cận với các quan điểm, góc nhìn khác về cách xây dựng gia
đình tiến bộ, văn minh. Đồng thời, cần phải chú ý chọn lọc các ý kiến đúng đắn,
hợp lý, tiến bộ, điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của bản thân
thay vì rập khuôn áp dụng tất cả các phương hướng phù hợp với hoàn cảnh của
người khác.

Thứ ba, khuyến khích các thành viên trong gia đình tìm hiểu, tiếp cận với
phương hướng xây dựng gia đình mới tiến bộ trong thời kỳ quá độ, hay tuyên
truyền với mọi người xung quanh để nâng cao nhận thức về gia đình. Bằng cách
nâng cao nhận thức, các hoạt động, tổ chức liên quan tới gia đình và xây dựng
gia đình có khả năng được lan toả và phổ biến hơn, tạo điều kiện tiếp cận và xây
dựng định hướng tổ chức gia đình trong cộng đồng.

19
KẾT LUẬN

Như vậy, gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ đối với sự
phát triển cá nhân mà còn với sự phát triển của cộng đồng. Trong thời kỳ quá
độ, chức năng của gia đình đã có nhiều sự biến đổi căn bản, từ đó đòi hỏi những
phương hướng mới trong xây dựng gia đình mới, tăng cường vai trò của gia
đình trong thời đại mới.

Vì vậy, mỗi cá nhân đều cần nhận thức rõ ràng vai trò của gia đình, cũng
như các phương hướng xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đồng thời, cần phải hành động, áp dụng những phương hướng
đó vào xây dựng gia đình của bản thân, xây dựng định hướng cá nhân cũng như
tuyên truyền về vấn đề gia đình đến mọi người xung quanh, nhằm nâng cao
nhận thức và thúc đẩy hành động để xây dựng gia đình tiến bộ, văn minh.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dành cho bậc đại học không

chuyên lý luận chính trị). (2021). NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật.

2. Hiểu Phật giáo để xây dựng gia đình hòa hợp, hạnh phúc. (n.d.). Phụ Nữ
Việt Nam: https://phunuvietnam.vn/hieu-phat-giao-de-xay-dung-gia-
dinh-hoa-hop-hanh-phuc-59216.htm

3. Phạm , B. T. (n.d.). Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về gia đình
trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội. Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-
angghen-lenin-ho-chi-minh/c-mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-
niem-cua-c-mac-va-ph-angghen-ve-gia-dinh-trong-moi-quan-he-voi-su-
phat-trien-kinh-te-xa-hoi-3191

21

You might also like