You are on page 1of 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM

KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

MÔN HỌC:

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài:

CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ


QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. LIÊN HỆ
THỰC TIỄN
GVHD: PGS.TS: Đoàn Đức Hiếu

Sinh viên thực hiện:

Nguyễn Đăng Quang 22110211

Nguyễn Ngọc Hân 22110135

Lê Chí Nghĩa 22110187


Nguyễn Hữu Thông 22110239

Trần Nguyễn Quốc Bảo 22110112

Huỳnh Thanh Kiệt 22110168

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2023


Mục lục
A. PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................................1

1 Lý do nghiên cứu.....................................................................................1

2 Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................1

3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................1

4. Bố cục đề tài............................................................................................1

B. NỘI DUNG..............................................................................................................................2

Chương 1: Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình trong xã hội.............2

1. Khái niệm gia đình....................................................................................2

2. Vị trí gia đình trong xã hội.......................................................................3

2.1. Gia đình là tế bào của xã hội...........................................................4

2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hanh phúc,sự hài hòa
trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên..........................................4

2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội....................................4

3. Chức năng của gia đình............................................................................4

3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người................................................4

3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục......................................................4

3.3. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia
đình.............................................................................................................4

Chương 2: Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội......................................................................................................................7

1. Cơ sở kinh tế - xã hôi................................................................................7

2. Cơ sở chính trị - xã hội...........................................................................10

3. Cở văn hóa...............................................................................................12
4. Chế độ hôn nhân tiến bộ.........................................................................12

Chương 3: Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.....................................................................................................15

1. Những yếu tố tác động đến gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội....................................................................................15

1.1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.. 4

1.2. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.......................4

1.3. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.......................................4

1.4. Cách mạng khoa học và cộng nghệ hiện đại hóa...........................4

1.5. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về gia
đình...........................................................................................................4

2. Sự biến đổi của đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa. .16

2.1. Biến đổi quy mô, kết cấu gia đình...................................................4

2.2. Biến đổi các chức năng của gia đình...............................................4

2.3. Sự biến đổi quan hệ gia đình...........................................................4

3. Phương hướng cơ bản để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội................................................17

3.1. Tăng cượng sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã
hội về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam...............................17
3.2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hôi, nâng cao đời sống vật
chất, kinh tế hộ gia đình.......................................................................19

3.3. Kê thừa những giá trị của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp
thu những tiến bộ của nhân loại vè gia đình trong xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay.................................................................................21

3.4. Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng
gia đình văn hóa ...................................................................................17

4.Liên hệ thực tiễn về vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội........................................................................17

C. Tài liệu tham khảo.............................................................................................................26


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt
thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Bởi vậy, gia đình không chỉ là môi
trường để giáo dục nhân cách con người Việt Nam mà còn là cơ sở để xây dựng đời sống
mới trong xã hội mới. Đó cũng chính là lý do mà chúng em quyết định nghiên cứu đề tài
này.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Nắm được những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về gia đình, xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Có kỹ năng, phương pháp khoa học trong nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
đến vấn đề gia đình và xây dựng gia đình.
Có thái độ và hành vi đúng đắn trong nhận thức và có trách nhiệm xây dựng gia đình,xây
dựng mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội.

3. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luân chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp khác như: đánh giá, phân tích, tổng
hợp,logic - lịch sử... và các phương pháp cụ thể như: đọc tài liệu, tổng hợp tài liệu.

4. Bố cục đề tài

Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 3 chương chính:
Chương 1: Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình trong xã hội.
Chương 2: Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chương 3: Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

1
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÃ
HỘI
1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã đặc biệt, được hình thanh, duy trì và củng cố
chủ yếu dựa trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng,
cùng với những quy đinh về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng nhằm đảm bảo nhu cầu – sinh lý và tình
cảm, để duy trì nòi giống, dồng thời để tổ chức cuộc sống gia đình. Quan hệ này được
xã hội thừa nhận dưới hình thức, ở những mức độ, trình độ khác nhau.Quan hệ hôn nhân
là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý
cho sự tồn tại của mỗi gia đình.

Quan hệ huyết thống là quan hệ cha mẹ và con cái (cùng dòng máu giữa các thành viên
trong gia đình). Đây là quan hệ cơ bản đặc trưng của gia đình. Đây là mối quan hệ tự
nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Hệ này
chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, do vậy nó cũng
biến đổi theo tiến trình phát triển của lịch sử.

Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên trong gia đình.Nuôi
dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm, đồng thời còn là một quyền lợi thiêng liêng, là
niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình với nhau. Quan hệ sinh thành – nuôi
dưỡng – dạy dỗ là những hoạt động không tách rời nhau trong gia đình.

Trong gia đình, ngoài hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ
giữa cha mẹ với con cái, còn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ông bà với cháu
chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cô dì, chú bác với chú v.v… Ngày nay, ở Việt
Nam cũng như trên thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ nuôi (người đỡ đâu) với con
nuôi ( được công nhân bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia đình.

2. Vị trí của gia đình trong xã hội


2.1. Gia đình là tế bào của xã hội
Điều này trước hết chỉ ra răng, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với
nhau.Quan hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình trao đổi chất, duy trì sự

2
sống giữa tế bào và cơ thể sinh vật. Xã hội (cơ thể) lành mạnh tạo điêu kiện cho các gia
đình tiến bộ, gia đình (tế bào) hạnh phúc góp phần cho sự phát triển hài hoà của xã hội.

Trải qua các xã hội nô lệ, phong kiến tư bản,... và từng giai đoạn khác nhau, gia đình cá
thể còn có những đặc thù riêng. Theo Ph.Ăngghen, chính từ các xã hội có chế độ tư hữu
tư nhân và đối kháng giai cấp, trong các tầng lớp nhân dân lao động cũng đã xuất hiện
mầm mống một kiểu gia đình mới mà hôn nhân không phải là chỉ hình thành đầy đủ và
phổ biến trong những điều kiện mới của xã hội có tự do và bình đẳng thực sự. Đến khi
đó, gia đình mới có khả năng thể hiện đầy đủ vị trí xứng đáng của mình đối với sự phát
triển chung của xã hội.

Như vậy, gia đình là sản phẩm của lịch sử. Nhưng với tư cách là tế bào của xã hội, gia
đình tác động tích cực đến tiến trình phát triển của xã hội. Những trật tự xã hội, trong đó
mỗi con người của một thời đại lịch sử nhất định và một nước nhất định đang sống, là
do hai loại sản xuất quyết định: “một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt
khác là do trình độ phát triển của gia đình”. Nhận định đó cho thấy vai trò to lớn của gia
đình đối với xã hội.

2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống

Trong gia đình, cá nhân được đùm bọc về vật chất và được giáo dục về tâm hồn, trẻ thơ có
điêu kiện được an toàn và khôn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao động được
phục hồi sức khoẻ và thoải mãi tinh thần. Ở đó hàng ngày diễn ra các quan hệ thiêng
liêng, sâu đậm giữa vợ – chống , cha – con, anh - em, những người đồng tâm, đồng cảm
nâng đỡ, đùm bọc nhau suốt cuộc đời. Có rất nhiều vẫn đề ngoài môi trường gia đình,
không ở đâu có và giải quyết có hiệu quả. Chỉ khi nào được yên ấm trong gia đình và
hữu ái trong xã hội, cá nhân mới thực sự yên tâm lao động và làm việc sáng tạo. Một
trong những bất hạnh lớn nhất của con người là lâm vào cảnh “vô gia cư”, gia đình lục
đục tan nát hoặc rơi vào cảnh khốn cùng . Vì vậy, việc xây dựng gia đình mới là một
trong những vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tích Hồ
Chí Minh đã nói: “ Nhiều gia đình cộng lại mới là một xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt,
gia đình tốt thì xã hôi tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”.

3
2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.

Nhiều thông tin về xã hội tác động đến con người thông qua gia đình. Xã hội (nhà nước,
cơ quan, bạn bè...) nhận đầy đủ và toàn diện hơn về một người khi nhận rõ hoàn cảnh
gia đình của người ấy. Nhiều nội dung quản lý xã hội không chỉ thông qua hoạt động
của các thiết chế xã hội, mà còn thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến con
người; nghĩa vụ và quyền lợi xã hội của mỗi người được thực hiện với sự tác động
chung của các thành viên gia đình. Qua đó, ý thức công dân của cá nhân được nâng cao
và gắn bó giữa gia đình và xã hội có một nội dung xác thực.

3. Chức năng của gia đình trong xã hội


3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người.

Gia đình là nơi tái sản xuất con người, giúp duy trì và phát triển giống nòi. Gia đình
đóng vai trò hết sức quan trọng đối với một xã hội, một đất nước. Ở các nước khác
nhau,để phù hợp với tùy thuộc vào tình hình dân số, điều kiện kinh tế - xã hội mà quốc
gia đó điều chỉnh, ban hành các quy định về kế hoạch hóa gia đình phù hợp. Ở nước ta
hiện nay,điều kiện kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của đất nước,
nhà nước đã ban hành chính sách kế hoạch hóa gia đình: Mỗi gia đình chỉ nên sinh từ
một đến hai con.

3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục.

Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần
phong mỹ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục
toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử
trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức...

Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố khách quan và
chủ quan. Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội, những biến đổi trong lĩnh
vực văn hóa, thông tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh nghiệm, ý thức dạy con trong những
gia đình trẻ… đó là những yếu tố ảnh hướng đến chức năng giáo dục của gia đình.

Lại có những gia đình cha mẹ mãi kiếm tiền mà không biết hài hòa giữa vật chất và tình
thần nển không có thời giân quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống
buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần
phong mỹ tục và truyền thống đạo đức của dận tộc…

4
Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ
trở nên hoàn thiện hơn khi có sự kết hợp ở gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý
thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi con người…

Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi
chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình lý tưởng với
chức năng xã hội của nó.

3.3. Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý và duy trì tình cảm gia đình:

Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý và duy trì tình cảm gia đình là hai chức năng quan
trọng khác của gia đình trong xã hội chủ nghĩa khoa học.

Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý của gia đình đảm bảo cho các thành viên trong gia
đình có một môi trường an toàn, chăm sóc sức khỏe và cung cấp cho các nhu cầu cơ bản
như ăn uống, sinh hoạt, sinh sản và giải trí. Trong gia đình, các thành viên thường chia
sẻ và hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo mọi người được đáp ứng các nhu cầu sinh lý cơ bản.

Chức năng duy trì tình cảm gia đình là quan trọng để xây dựng và duy trì mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình. Điều này bao gồm việc tạo ra một môi trường ấm áp,
yên tĩnh và an toàn cho các thành viên cảm thấy gắn kết và có tình cảm với nhau. Gia
đình cũng cung cấp cho các thành viên một nơi để chia sẻ, tương tác và giải trí cùng
nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra mối quan hệ bền vững giữa các thành
viên trong gia đình.Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gia đình
đóng vai trò quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu sinh lý và duy trì tình cảm gia
đình. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, một số gia đình
đã phải đối mặt với những thách thức và áp lực trong việc đáp ứng các chức năng này.
Do đó, các chính sách và các biện pháp hỗ trợ gia đình được đưa ra nhằm giúp gia đình
đáp ứng các chức năng này một cách tốt nhất.

5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1. Cơ sở kinh tế - xã hội:

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở kinh tế - xã hội của Việt Nam đã trải
qua một quá trình phát triển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh
tế công nghiệp hóa và hiện đại hơn. Điều này đã ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát
triển gia đình trong thời kỳ đó.
Trước khi lên chủ nghĩa xã hội, gia đình ở Việt Nam thường có cấu trúc tập thể, nông
hộ truyền thống, với vai trò chủ yếu là sản xuất và nuôi dưỡng con cái. Tuy nhiên, sau
khi lên chủ nghĩa xã hội, gia đình trở thành một cơ quan chức năng trong xã hội, với
nhiệm vụ chính là nuôi dưỡng và giáo dục con cái, đồng thời đóng góp vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cơ sở kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đó chưa được phát triển đồng đều ở
mọi vùng miền, do đó cũng ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế - xã hội của gia đình. Những
gia đình ở vùng nông thôn có cơ sở kinh tế - xã hội yếu hơn, thường phải đối mặt với
nhiều khó khăn trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Trong khi đó, những gia
đình ở thành thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, có cơ sở kinh tế - xã hội tốt hơn, tuy
nhiên lại phải đối mặt với nhiều thách thức về môi trường sống, xã hội hóa và đối diện
với những thay đổi trong nền văn hoá, giá trị và lối sống.
Do đó, trong thời kỳ đó, việc xây dựng gia đình phải đi đôi với phát triển cơ sở kinh tế
- xã hội, đặc biệt là ở những vùng miền đang phát triển chậm. Công cuộc cải cách kinh
tế - xã hội và xây dựng gia đình trong thời kỳ đó là một quá trình kéo dài, đòi hỏi sự
kiên trì, nỗ lực.
2. Cơ sở chính trị - xã hội:

Cơ sở chính trị - xã hội là các yếu tố, quy luật, quan hệ, cấu trúc của xã hội được xác
định bởi các quyết định chính trị và các hoạt động của chính phủ, các tổ chức và các
cá nhân trong xã hội. Cơ sở chính trị - xã hội bao gồm các yếu tố về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, tôn giáo, giáo dục và pháp luật. Các yếu tố này có tác động lẫn nhau
và tạo nên bức tranh tổng thể về cơ sở chính trị - xã hội của một xã hội. Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở chính trị - xã hội đã thay đổi đáng kể, với sự phát
triển của các quan hệ sản xuất mới và việc thay đổi các quyết định chính trị và các
hoạt động của chính phủ.

6
3. Cơ sở văn hóa:

Cơ sở văn hóa là các giá trị, tư tưởng, tín ngưỡng, thực tiễn văn hóa, tác phẩm nghệ
thuật, truyền thống, phong tục tập quán và những thứ liên quan đến văn hóa của một
xã hội. Cơ sở văn hóa thường được hình thành và phát triển dựa trên các yếu tố như
lịch sử, địa lý, tôn giáo, ngôn ngữ, hệ thống giáo dục, nghệ thuật, văn hóa dân tộc và
những ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở văn hóa của một số nước đã thay đổi
đáng kể, bao gồm cả văn hóa gia đình. Việc thay đổi này đôi khi đã gây ra mâu thuẫn
với các giá trị truyền thống và tập quán văn hóa của gia đình, và đã cần phải tìm cách
thích ứng với các thay đổi trong cơ sở văn hóa.

4. Chế độ hôn nhân tiến bộ:

Chế độ hôn nhân tiến bộ không chỉ là một khái niệm quan trọng trong quá trình xây
dựng xã hội mới, mà còn là một phần quan trọng của quá trình phát triển văn hóa và
nhân văn. Nó giúp tạo ra một môi trường xã hội tốt hơn, nơi mà quan hệ giữa con
người được đặt lên hàng đầu và đảm bảo sự công bằng và tự do cho mọi thành viên
trong gia đình.
Chế độ hôn nhân tiến bộ cũng giúp thúc đẩy sự phát triển của các hình thức gia đình
đa dạng. Trong quá khứ, hình thức gia đình chủ yếu chỉ là gia đình truyền thống với
vai trò rõ ràng của nam giới trong vai trò trưởng gia đình. Nhưng hiện nay, với sự tiến
bộ của chế độ hôn nhân tiến bộ, các hình thức gia đình mới đã được công nhận và
được coi là bình đẳng với hình thức gia đình truyền thống. Gia đình đơn thân, gia đình
đồng tính, và gia đình phụ nữ độc thân được xem là các hình thức gia đình đa dạng và
đáp ứng nhu cầu của một số nhóm cộng đồng đặc biệt.

7
Tổng thể, chế độ hôn nhân tiến bộ đã mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, đặc biệt là
trong việc tạo ra một môi trường xã hội công bằng và tự do. Nó không chỉ khuyến
khích sự phát triển của quan niệm về tình yêu và tình cảm trong mối quan hệ hôn
nhân, mà còn đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình.
Việc quy định rõ ràng các quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình
cùng việc khuyến khích sự đa dạng trong hình thức gia đình giúp cho các vấn đề liên
quan đến bạo lực gia đình được giải quyết một cách hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, chế
độ hôn nhân tiến bộ cũng đóng góp vào việc tạo ra một xã hội tôn trọng và đánh giá
cao những giá trị nhân văn, tình cảm, đồng cảm và sự chia sẻ.
Tóm lại, chế độ hôn nhân tiến bộ là một khái niệm quan trọng trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nó đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội bình đẳng và
tự do, trong đó quan hệ giữa con người được coi là quan trọng nhất. Tuy nhiên, cần
nhận thức rõ ràng về những khó khăn và thách thức của chế độ hôn nhân tiến bộ để có
thể xây dựng một chế độ hôn nhân thực sự bình đẳng và tự nguyện giữa các thành viên
trong gia đình.

CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1. Những yếu tố tác động đến gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
1.1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động đáng kể đến việc xây dựng gia đình.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự tự do kinh tế và tăng
trưởng kinh tế đáng kể, từ đó làm thay đổi cách nhìn nhận của người dân về hôn nhân
và gia đình.

Trong quá trình phát triển kinh tế, các gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi và
chuyển đổi. Trong quá khứ, gia đình Việt Nam thường có tính chất đa thế hệ và hợp
tác xã, trong đó mỗi thành viên có trách nhiệm phụ trách một lĩnh vực cụ thể trong gia
đình. Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế, gia đình Việt Nam đã thay đổi từ tính
chất đa thế hệ sang tính chất nhân tạo, với những hộ gia đình nhỏ.

8
Ngoài ra, với sự gia tăng của thu nhập và cải thiện điều kiện sống, người dân Việt
Nam đã có khả năng lựa chọn và kiểm soát hơn về cuộc sống của mình, trong đó bao
gồm cả việc lựa chọn đối tác trong hôn nhân. Việc lựa chọn đối tác không còn bị giới
hạn bởi các yếu tố như tôn giáo, sắc tộc hay gia cảnh như trước đây, mà thay vào đó,
tình yêu và sự đồng cảm giữa hai người được coi trọng hơn.

Ngoài ra, sự thay đổi trong cách nhìn nhận về hôn nhân và gia đình cũng có ảnh
hưởng đến các quan hệ xã hội khác, ví dụ như quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con cái,
và quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình. Các quan hệ này đang trở nên bình đẳng
hơn và dựa trên sự đồng tình và sự tôn trọng lẫn nhau.

Tổng thể, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động
tích cực đến sự phát triển của gia đình Việt Nam, và đã đóng góp vào việc thúc đẩy
các giá trị gia đình mới và tiên tiến hơn, đồng thời mở ra nhiều cơ hội cho những
người muốn tạo dựng và duy trì một gia đình phù hợp với giá trị cá nhân của mình.
Nền kinh tế thị trường cũng đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển
các hình thức gia đình đa dạng, như gia đình đơn thân, gia đình đồng tính và gia đình
phụ nữ độc thân.

Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng đem lại nhiều thách thức cho
việc xây dựng và duy trì một gia đình vững mạnh và hạnh phúc. Sự cạnh tranh, áp lực
công việc và cuộc sống hiện đại có thể gây ra nhiều áp lực và stress cho các thành viên
trong gia đình, đặc biệt là đối với phụ nữ trong vai trò vừa là người vợ, vừa là người
mẹ và người lao động.

Việc giải quyết các thách thức này đòi hỏi sự đồng lòng, tình yêu thương và sự hiểu
biết lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, cũng như sự hỗ trợ từ cộng đồng và
xã hội. Ngoài ra, việc xây dựng một hệ thống pháp luật về gia đình cũng là một yếu tố
quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

Tóm lại, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động tích
cực đến sự phát triển của gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, để duy trì và phát triển một
gia đình vững mạnh và hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay, cần phải có sự đồng lòng
và hỗ trợ từ cộng đồng và xã hội, cũng như việc đưa ra các giải pháp và chính sách hỗ
trợ cho gia đình.

1.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
9
Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, gia đình Việt Nam đã trải
qua nhiều thay đổi về cách sống, cách xây dựng và quản lý gia đình. Điều này là do
nền kinh tế đang phát triển, với sự gia tăng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, dẫn
đến sự thay đổi về cách sống và phát triển của xã hội.

Trước đây, gia đình Việt Nam thường có nhiều thành viên và thường ở cùng nhau
trong một ngôi nhà lớn. Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế, nhu cầu về nhà ở và
không gian sống đã thay đổi. Nhiều gia đình Việt Nam đã chuyển từ các ngôi nhà lớn
sang các căn hộ và nhà phố nhỏ hơn, với số lượng thành viên trong gia đình cũng giảm
đi. Các gia đình cũng trở nên năng động hơn, với các thành viên phải di chuyển nhiều
hơn để đến nơi làm việc và trường học.

Đồng thời, trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, các giá trị và
thói quen của gia đình cũng thay đổi. Gia đình Việt Nam trước đây thường có thói
quen tiết kiệm và tập trung vào việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Tuy nhiên, với sự
phát triển của xã hội, các giá trị về tình bạn, tình yêu và sự đa dạng hóa về mối quan
hệ cũng được coi trọng hơn.

Bên cạnh đó, việc phụ nữ tham gia vào cuộc sống kinh tế cũng đã thay đổi cách quản
lý gia đình của người Việt. Trước đây, phụ nữ thường được xem là người chịu trách
nhiệm chính trong việc quản lý gia đình, nhưng với sự phát triển của nền kinh tế, cả
nam và nữ đều tham gia vào công việc kiếm sống và chia sẻ trách nhiệm trong việc
quản lý gia đình.

Tổng thể, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đã tác động rất lớn đến
sự phát triển của gia đình Việt Nam. Những thay đổi về cách sống, giá trị và thói quen
trong gia đình cũng đã xảy ra theo nhịp độ của quá trình đó. Một trong những thay đổi
đáng chú ý nhất là sự thay đổi về vai trò của phụ nữ trong gia đình. Trong quá khứ,
phụ nữ thường được xem là thành viên thứ hai của gia đình, chỉ đảm nhận các công
việc chăm sóc gia đình và con cái. Tuy nhiên, với sự thay đổi của nền kinh tế và văn
hóa, vai trò của phụ nữ trong gia đình đã thay đổi rất nhiều. Ngày nay, phụ nữ được
coi là người cùng với nam giới trong việc chăm sóc và quản lý gia đình.

10
Ngoài ra, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng đã làm thay đổi cách thức
sinh hoạt của các gia đình. Các gia đình bây giờ có nhiều lựa chọn hơn khi muốn mua
sắm và tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ. Điều này đã đưa đến một nhu cầu mới trong
gia đình, đó là nhu cầu về quản lý tài chính. Vì vậy, sự phát triển của các hình thức tài
chính như ngân hàng và bảo hiểm cũng đã ảnh hưởng đến sự phát triển của gia đình
Việt Nam.

Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng mang lại những thách thức
mới cho gia đình Việt Nam. Với sự thay đổi của giá trị và thói quen, một số gia đình
có thể gặp khó khăn trong việc thích nghi với những thay đổi này. Hơn nữa, nhu cầu
tài chính cũng đưa ra những áp lực về thu nhập và chi tiêu đối với các gia đình.

Tóm lại, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã tác động tích cực đến sự phát
triển của gia đình Việt Nam, tuy nhiên cũng mang lại những thách thức và áp lực mới.
Để đáp ứng những thách thức đó, gia đình cần có sự linh hoạt và sáng tạo để thích
nghi với những thay đổi trong xã hội và kinh tế.

1.3. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế:

Trong thời kỳ chuyển đổi từ chế độ kinh tế truyền thống sang chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã góp phần thúc đẩy sự thay đổi trong
cách xây dựng gia đình và quan hệ gia đình.

Xu thế toàn cầu hóa là quá trình tích hợp và liên kết kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hóa của các quốc gia trên toàn cầu. Trong lĩnh vực gia đình, xu thế này đã tác động
đến cách thức mà người Việt Nam xây dựng và duy trì quan hệ gia đình. Theo xu thế
toàn cầu hóa, các gia đình đang trở nên đa dạng hơn về cấu trúc, phân chia lao động và
vai trò giới tính.

Hội nhập quốc tế là một khía cạnh quan trọng của xu thế toàn cầu hóa. Việt Nam đã
tham gia vào nhiều thỏa thuận thương mại quốc tế, điều này đã mang lại nhiều cơ hội
nhân rộng tri thức và văn hóa từ các quốc gia khác. Hội nhập quốc tế cũng đã tác động
đến cách thức mà người Việt Nam xây dựng gia đình, bởi vì nó mang lại nhiều cơ hội
cho việc tìm kiếm việc làm, giáo dục và trao đổi văn hóa.

11
Trong gia đình Việt Nam hiện đại, nhiều người vẫn tôn trọng truyền thống gia đình mà
còn coi trọng những giá trị văn hóa Việt Nam như sự tôn trọng người già, tính đoàn
kết và tình thương yêu gia đình. Tuy nhiên, với sự thay đổi đa dạng về cấu trúc gia
đình và phân chia lao động, cũng như sự thay đổi trong vai trò giới tính, gia đình Việt
Nam đang trở nên đa dạng và phong phú hơn trước.

1.4. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại hóa:

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại hóa đã đóng góp rất nhiều vào việc xây dựng và phát triển gia đình.

Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại hóa đã giúp gia đình Việt Nam tiếp cận
được với những công nghệ, sản phẩm và dịch vụ mới. Các sản phẩm và dịch vụ này đã
giúp gia đình tiết kiệm thời gian, tăng cường hiệu quả trong công việc, và cải thiện
chất lượng cuộc sống. Nhiều gia đình đã sử dụng các sản phẩm và dịch vụ như máy
giặt, tủ lạnh, điều hòa không khí, máy tính, Internet, điện thoại di động, và các ứng
dụng công nghệ khác để nâng cao cuộc sống của mình.

Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại hóa cũng đã tác động đến cách thức mà
người Việt Nam xây dựng và duy trì quan hệ gia đình. Với việc sử dụng các thiết bị
công nghệ hiện đại như máy tính, điện thoại di động và các ứng dụng liên lạc trực
tuyến, gia đình có thể giữ liên lạc và giao tiếp dễ dàng hơn. Điều này giúp gia đình
duy trì mối quan hệ gắn bó với nhau dù có cách biệt địa lý.

Tuy nhiên, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại hóa cũng có thể tác động đến
quan hệ trong gia đình. Ví dụ, việc sử dụng máy tính và Internet quá nhiều có thể
khiến các thành viên trong gia đình ít giao tiếp hơn với nhau và tạo ra khoảng cách
trong quan hệ. Việc sử dụng điện thoại di động trong thời gian quá nhiều cũng có thể
gây ra sự gián đoạn trong quan hệ và làm giảm tính gắn bó của gia đình.

Vì vậy, việc sử dụng công nghệ hiện đại trong gia đình cần được cân nhắc và quản lý
để đảm bảo tính gắn bó và tương tác giữa các thành viên trong gia đình.

1.5. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về gia đình:

Trong quá trình xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật
về gia đình để đảm bảo quyền lợi và nâng cao vị trí của gia đình trong xã hội.
12
Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình tập trung vào các mục
tiêu chính như: bảo vệ quyền lợi và lợi ích của gia đình, nâng cao chất lượng cuộc
sống và đưa gia đình vào trung tâm phát triển xã hội.

Cụ thể, Đảng và Nhà nước đã thực hiện những chính sách và pháp luật sau:

Chính sách hỗ trợ tài chính cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn và người lao động
có con nhỏ: Nhà nước đã đưa ra các chính sách hỗ trợ tài chính như tiền trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp cho người nghèo và trẻ em vô gia cư. Những chính
sách này nhằm giúp các gia đình có thể vượt qua khó khăn và nâng cao chất lượng
cuộc sống của mình.

Chính sách về bảo vệ mẹ và trẻ em: Nhà nước đã thực hiện chính sách bảo vệ mẹ và
trẻ em bao gồm tăng cường chăm sóc sức khỏe phụ nữ và trẻ em, giảm tỷ lệ tử vong
của mẹ và trẻ em, đảm bảo cho các trẻ em được tiếp cận với giáo dục, nâng cao giá trị
giáo dục cho các trẻ em, tăng cường giám sát để phòng tránh tình trạng bạo lực và
xâm hại tình dục.

Chính sách hỗ trợ cho người cao tuổi: Nhà nước đã thực hiện chính sách hỗ trợ cho
người cao tuổi bao gồm hỗ trợ tài chính, chăm sóc sức khỏe, giảm phí đối với những
người cao tuổi, tạo điều kiện cho người cao tuổi có thể tham gia các hoạt động xã hội.

Chính sách tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia vào hoạt động kinh tế và xã hội:
Nhà nước đã thực hiện chính sách tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia vào hoạt
động kinh tế và xã hội bao gồm việc đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ trong địa vị lao
động, tạo điều kiện cho phụ nữ được tham gia vào các hoạt động xã hội và chính trị.
Đặc biệt, những chính sách này tập trung vào việc nâng cao trình độ và tay nghề cho
phụ nữ, giảm bớt sự phân biệt giới tính trong việc tuyển dụng và xếp hạng công việc,
cũng như đảm bảo các quyền lợi của phụ nữ trong quá trình sinh sản và nuôi dạy con
cái.

Chính sách hỗ trợ tài chính cho các gia đình đang gặp khó khăn trong việc nuôi dạy
con cái: Nhà nước đã thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính cho các gia đình đang gặp
khó khăn trong việc nuôi dạy con cái. Chính sách này bao gồm các khoản trợ cấp cho
các gia đình nghèo, trợ cấp cho các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, các khoản giảm
giá và miễn phí về dịch vụ y tế, giáo dục và giải trí cho trẻ em.

13
Tổng thể, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về gia đình tập
trung vào việc bảo vệ quyền lợi và nâng cao vị trí của gia đình trong xã hội. Những
chính sách này cũng hỗ trợ cho việc xây dựng và phát triển các gia đình trở thành
nòng cốt của xã hội và đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

2. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
2.1.Sự biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình:

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều sự
biến đổi về quy mô và kết cấu. Trước đó, gia đình Việt Nam thường là gia đình mở
rộng, với đa thế hệ sống chung một nhà. Tuy nhiên, với sự thay đổi của xã hội và
chính sách của nhà nước, gia đình Việt Nam đã trở nên nhỏ hơn, đa phần chỉ có 1-2
thế hệ sống chung một nhà.

Sự thay đổi về quy mô gia đình cũng liên quan đến vấn đề kinh tế. Trong quá trình đổi
mới và cải cách kinh tế, nhiều gia đình đã phải chuyển từ nghề nông nghiệp sang nghề
công nghiệp và dịch vụ. Điều này dẫn đến sự phân tách của gia đình, khi một số thành
viên gia đình phải di cư sang các thành phố lớn để tìm kiếm việc làm. Trong khi đó,
một số gia đình ở vùng nông thôn vẫn duy trì các nghề truyền thống và sống trong
điều kiện kinh tế khó khăn.

Ngoài ra, sự biến đổi của gia đình Việt Nam còn được thể hiện qua thay đổi kết cấu
gia đình. Trong quá khứ, gia đình Việt Nam thường có kết cấu theo mô hình gia đình
phong kiến, với bố làm trụ cột chính của gia đình và mẹ phụ trách công việc trong gia
đình. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế và sự tiến bộ của xã hội, nhiều gia
đình đã chuyển đổi sang mô hình gia đình hiện đại, trong đó vai trò của bố và mẹ được
chia sẻ đồng đều và có sự phân chia rõ ràng các công việc trong gia đình.

Thêm vào đó, các gia đình đang trở nên đa dạng hơn về cấu trúc, với sự gia tăng của
số lượng gia đình đơn thân, gia đình tập thể, gia đình đồng tính và các loại hình gia
đình khác. Những thay đổi này đặt ra nhiều thách thức mới cho nhà nước và xã hội
trong việc đáp ứng các nhu cầu và mong muốn của các gia đình khác nhau.

Tóm lại, sự biến đổi quy mô và kết cấu của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã ảnh hưởng rất lớn đến các giá trị, nhân văn và phong cách
sống của người dân Việt Nam. Trong quá trình phát triển, gia đình Việt Nam đã trải
qua nhiều biến đổi quan trọng về quy mô và kết cấu.
14
Đầu tiên, quy mô của gia đình đã thay đổi đáng kể. Trước đây, gia đình Việt Nam
thường có nhiều thế hệ sống chung một nhà. Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế
và xã hội, nhu cầu về sự độc lập và tự chủ của từng cá nhân đã tăng lên. Do đó, gia
đình ngày nay thường chỉ có một hoặc hai thế hệ sống chung một nhà. Thêm vào đó,
tỷ lệ gia đình có một con cái cũng tăng lên, trong khi tỷ lệ gia đình có nhiều con lại
giảm đi.

Thứ hai, kết cấu của gia đình cũng có sự thay đổi. Trong quá khứ, gia đình thường
tuân theo mô hình gia đình mở rộng, bao gồm cha mẹ, con cái và người thân khác.
Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội, gia đình ngày nay có xu hướng trở nên nhỏ
hơn và đơn giản hơn. Các gia đình thường chỉ có cha mẹ và con cái, với một số trường
hợp thì chỉ có một người cha hoặc mẹ với con cái.

Sự biến đổi quy mô và kết cấu của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội phản ánh sự thay đổi của xã hội và nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, sự
thay đổi này cũng đưa ra nhiều thách thức mới đối với các gia đình, đặc biệt là trong
việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ gia đình. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực của
chính phủ và các tổ chức xã hội, nhiều gia đình đã thích nghi với sự thay đổi này và
đạt được sự ổn định trong cuộc sống.

2.2. Sự biến đổi các chức năng của gia đình:

Một là, sự biến đổi chức năng sinh đẻ(tái sản xuất con người):

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều thay
đổi đáng kể về chức năng, trong đó có chức năng sinh đẻ (tái sản xuất con người).

Trước đây, với tư tưởng Confucianism, vai trò của phụ nữ trong gia đình chỉ là sinh
con, chăm sóc gia đình và chồng. Việc sinh con cho đàn ông và nuôi dạy con cái được
coi là trách nhiệm của phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên, với sự thay đổi của xã hội,
chức năng sinh đẻ của phụ nữ không chỉ giới hạn trong gia đình mà còn mở rộng ra xã
hội.

Trong thời kỳ đó, nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ phụ nữ tham gia vào
hoạt động kinh tế, giáo dục, đào tạo nghề và cả chính trị. Phụ nữ đã có nhiều cơ hội để
tham gia và phát triển bản thân, không chỉ trong gia đình mà còn ở bên ngoài.
15
Với sự thay đổi này, vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Phụ nữ
không chỉ là người sinh con và chăm sóc gia đình nữa, mà còn là người đóng góp vào
kinh tế gia đình và xã hội. Họ có thể làm việc và kiếm tiền để đóng góp vào chi phí
sinh hoạt của gia đình, hoặc tham gia các hoạt động xã hội như các tổ chức tình
nguyện, đóng góp cho cộng đồng.

Đồng thời, với sự phát triển của xã hội và khoa học công nghệ, các phương tiện tiện
ích, dịch vụ gia đình được cải tiến và phát triển như trường học, bệnh viện, siêu thị,
công viên và các hoạt động giải trí. Việc sử dụng các dịch vụ này sẽ giúp giảm tải
công việc trong gia đình và giúp phụ nữ có nhiều thời gian hơn để thực hiện các hoạt
động khác trong gia đình và xã hội.

Tóm lại, sự thay đổi chức năng sinh đẻ trong gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã mang lại những tác động tích cực đối với vai trò và vị trí của
phụ nữ trong gia đình và xã hội. Qua đó, phụ nữ được tạo điều kiện để tham gia hoạt
động kinh tế và xã hội, đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Hơn nữa, việc giảm
bớt gánh nặng sinh đẻ cũng giúp cho phụ nữ có thêm thời gian và năng lực để tham
gia các hoạt động khác như học tập, nghiên cứu, làm việc, v.v. Điều này cũng góp
phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời là bước tiến
đáng kể trong quá trình cải cách và hiện đại hóa gia đình. Tuy nhiên, sự thay đổi này
cũng đặt ra một số thách thức về việc bảo vệ và chăm sóc cho trẻ em, đặc biệt là trong
bối cảnh xã hội hiện đại với nhiều áp lực và thách thức khác nhau. Do đó, cần có các
chính sách và biện pháp nhằm đảm bảo quyền lợi và sự phát triển toàn diện cho trẻ em
trong gia đình, đồng thời tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức của các thành
viên trong gia đình về vai trò và trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc và nuôi
dưỡng trẻ em.

Hai là, sự biến đổi chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng:

Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế của Việt Nam, sự biến đổi của chức năng
kinh tế trong gia đình cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Trong giai đoạn trước đây,
gia đình truyền thống thường có một chủ đạo kinh tế, thường là nông nghiệp, thủ công
và một số nghề khác, và các thành viên trong gia đình thường làm việc cùng nhau để
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

16
Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế, chức năng kinh tế trong gia đình đã trở
nên đa dạng hơn và phức tạp hơn. Các thành viên trong gia đình đã có thể tham gia
vào các ngành kinh tế khác nhau như chăn nuôi, thương mại, dịch vụ, sản xuất công
nghiệp, và cả học hành để có được một nghề nghiệp ổn định và thu nhập cao hơn.

Sự biến đổi chức năng kinh tế trong gia đình cũng đã ảnh hưởng đến cách tổ chức tiêu
dùng của gia đình. Trong quá khứ, gia đình thường tổ chức tiêu dùng bằng cách trao
đổi sản phẩm giữa các thành viên trong gia đình hoặc mua hàng tại các chợ địa
phương. Nhưng hiện nay, với sự phát triển của thị trường, gia đình cũng đã thay đổi
cách tổ chức tiêu dùng của mình, thường mua sắm tại các siêu thị hoặc trên mạng.

Sự biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng trong gia đình đã tạo ra những ảnh
hưởng lớn đến các thành viên trong gia đình. Đối với phụ nữ, họ đã có cơ hội tham gia
vào các ngành kinh tế khác nhau, trở thành những đầu tàu trong việc kiếm tiền và
chăm sóc gia đình. Đối với trẻ em, việc được học hành và có cơ hội theo đuổi những
nghề nghiệp mơ ước cũng đã giúp cho họ có một tương lai tốt hơn.

Ba là, sự biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa):

Sự biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình cũng là một trong những đặc điểm nổi
bật của sự thay đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trước đây, trong gia đình truyền thống, cha mẹ thường là những người giáo dục con
cái, đảm nhận trách nhiệm giáo dục và rèn luyện đức tính cho các thế hệ sau.

Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội và giáo dục, các trường học và các cơ sở giáo
dục khác đã phát triển mạnh mẽ. Việc tập trung vào giáo dục trong gia đình đã dần
được thay thế bằng các hình thức giáo dục khác như trường học, các tổ chức xã hội và
các trung tâm giáo dục ngoại khóa.

Ngoài ra, sự biến đổi của chức năng giáo dục trong gia đình còn liên quan đến sự gia
tăng của vai trò của trường học và các tổ chức giáo dục khác trong việc truyền đạt
kiến thức và giáo dục trẻ em. Các gia đình ngày nay thường đóng vai trò hỗ trợ cho
trường học trong việc giáo dục con cái, đồng thời sự xã hội hóa giáo dục cũng đã giúp
các bậc phụ huynh có thể tìm kiếm và lựa chọn được các nguồn kiến thức và giáo dục
phù hợp với nhu cầu của gia đình.

17
Tóm lại, sự biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình đã mở rộng cơ hội và tầm nhìn
của các thế hệ trẻ, giúp họ có được một hành trang kiến thức và kỹ năng cần thiết để
phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào các tổ chức giáo dục khác như
trường học và các trung tâm giáo dục cũng đồng nghĩa với việc gia đình không còn
đơn thuần chỉ là nơi giáo dục và đào tạo con cái, mà còn phải đối mặt với nhiều thách
thức trong việc nuôi dạy và giáo dục cho con cái trong môi trường phức tạp và đa
dạng của xã hội hiện đại.

Bốn là, sự biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm:

Sự biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm trong gia đình
cũng là một trong những thay đổi đáng chú ý trong gia đình Việt Nam trong thời kỳ
chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội. Trước đây, trong gia đình truyền thống, việc duy trì
tình cảm và thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý không được coi là một vấn đề quan trọng.
Trong thời kỳ chuyển đổi này, tình cảm trong gia đình được xem như là một phần
không thể thiếu để giúp cho gia đình phát triển và duy trì hạnh phúc.

Sự chuyển đổi kinh tế, xã hội và văn hóa cũng ảnh hưởng đến nhận thức của con
người về những giá trị truyền thống và phương thức sống trong gia đình. Con người
Việt Nam bắt đầu quan tâm đến việc chăm sóc và bảo vệ tình cảm trong gia đình hơn.
Họ bắt đầu tìm kiếm những phương pháp, công cụ và kỹ năng để nâng cao chất lượng
tình cảm trong gia đình.

Đặc biệt, sự xuất hiện của công nghệ thông tin và truyền thông đã giúp cho việc duy
trì tình cảm trong gia đình trở nên dễ dàng hơn. Nhờ vào Internet, điện thoại di động,
mạng xã hội và các ứng dụng chat, các thành viên trong gia đình có thể dễ dàng liên
lạc, chia sẻ thông tin và tìm hiểu về nhau một cách nhanh chóng và tiện lợi.

18
Tuy nhiên, cũng có những hạn chế trong việc sử dụng công nghệ để duy trì tình cảm
trong gia đình. Sự thiếu hiểu biết và kiến thức về cách sử dụng công nghệ, cũng như
sự lạm dụng và phụ thuộc vào công nghệ, có thể gây ra những tác động tiêu cực đến
tình cảm trong gia đình. Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của xã hội cũng khiến
cho các thành viên trong gia đình phải đối mặt với nhiều áp lực từ môi trường xã hội,
gây ảnh hưởng đến tình cảm và sự đoàn kết trong gia đình.

Tóm lại, sự biến đổi các chức năng của gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của xã hội, mở rộng vai trò của phụ nữ
trong gia đình và xã hội, đồng thời giúp giảm bớt gánh nặng cho phụ nữ trong việc
sinh sản và chăm sóc gia đình. Chức năng kinh tế của gia đình đã được thay đổi với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, dẫn đến sự thay đổi về cách tổ chức tiêu dùng và
quản lý tài chính trong gia đình. Chức năng giáo dục của gia đình cũng đã có sự thay
đổi, từ việc tập trung vào giáo dục học thuật sang giáo dục xã hội hóa, nhằm phát triển
các kỹ năng sống và giáo dục tình cảm cho trẻ em. Cuối cùng, chức năng thỏa mãn
nhu cầu tâm sinh lý và duy trì tình cảm cũng đã có sự thay đổi với sự mở rộng về quan
điểm về tình dục, giới tính và các quan hệ tình cảm, đồng thời đánh dấu sự thay đổi về
quan niệm về hôn nhân và tình yêu trong xã hội.

2.3. Sự biến đổi quan hệ cơ bản của gia đình:

Một là, sự biến đổi quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng:

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
trong gia đình Việt Nam cũng đã có những sự thay đổi đáng kể. Trước đây, hôn nhân
thường được xem là một nghi lễ truyền thống, quy định rõ ràng về quan hệ giữa hai
bên và có sự can thiệp của gia đình. Tuy nhiên, với sự thay đổi trong xã hội và giá trị
về cá nhân hóa, quan hệ hôn nhân đã được đánh giá cao hơn về mặt tình cảm và sự
đồng ý của hai bên. Sự tự do trong quyết định lập gia đình và hôn nhân đã được công
nhận.

19
Ngoài ra, quan hệ vợ chồng trong gia đình cũng đã có những sự thay đổi đáng kể.
Trước đây, quan hệ vợ chồng thường dựa trên những quy định truyền thống và sự
phân công rõ ràng về vai trò của nam và nữ. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội và
sự thay đổi giá trị về bình đẳng giới, quan hệ vợ chồng đã được đánh giá cao hơn về
mặt tình cảm và sự đồng tình của hai bên. Nam và nữ đều có trách nhiệm chung trong
việc chăm sóc và nuôi dạy con cái, chia sẻ công việc trong gia đình và đóng góp cho
sự phát triển của gia đình. Sự bình đẳng giới đã được thể hiện trong những quy định
pháp luật về quyền lợi của vợ chồng trong hôn nhân và gia đình.

Cùng với sự thay đổi chức năng của gia đình, quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
cũng đã trải qua sự biến đổi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong quá trình này, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi để
nâng cao vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, đồng thời cũng góp phần
tác động đến quan hệ hôn nhân và vợ chồng.

Trong quá trình đó, quan hệ hôn nhân đã trở nên đa dạng hơn. Nếu trước đây hầu hết
các cặp vợ chồng đều có nguồn gốc từ gia đình truyền thống, thì hiện nay quan hệ tình
cảm và tình yêu trở thành yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn đối tác trong cuộc
sống. Đồng thời, quan hệ vợ chồng cũng thay đổi với vai trò của nam giới và nữ giới
trở nên bình đẳng hơn. Nhiều phụ nữ đã tham gia vào hoạt động kinh tế và xã hội,
đóng góp vào thu nhập gia đình và trở thành đối tác của chồng trong việc quản lý gia
đình.

Hai là, sự biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia
đình:

Sự biến đổi quan hệ giữa các thế hệ và các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình là
một trong những khía cạnh quan trọng của sự biến đổi gia đình trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.

Trước đây, trong gia đình truyền thống của Việt Nam, quan hệ giữa các thế hệ rất đặc
biệt, với truyền thống tôn kính ông bà, cha mẹ, đối xử kính trọng với người lớn tuổi,
với bộ máy giáo dục con cái được đặt ở trung tâm của mọi việc. Tuy nhiên, với sự
thay đổi của thế giới, các giá trị, chuẩn mực văn hóa cũng thay đổi theo, và quan hệ
giữa các thế hệ trong gia đình cũng bắt đầu thay đổi.

20
Về mặt quan hệ giữa các thế hệ, trong gia đình hiện đại, các thế hệ trẻ có xu hướng
độc lập hơn, không còn phụ thuộc quá nhiều vào ý kiến của cha mẹ hay ông bà. Các
thế hệ trẻ hiện nay có những quan điểm, giá trị riêng, cách suy nghĩ, hành động khác
biệt so với thế hệ trước đó, điều này góp phần tạo nên sự đa dạng trong quan điểm và
thái độ trong gia đình.

Ngoài ra, cũng có xu hướng gia đình nhỏ hóa, khiến cho quan hệ giữa các thế hệ càng
trở nên gần gũi hơn, vì các thành viên trong gia đình có thể sống cùng nhau trong cùng
một không gian, tiếp xúc hàng ngày và chia sẻ cuộc sống với nhau.

Việc cải thiện đời sống vật chất và gia tăng sự độc lập của các thành viên trong gia
đình cũng đã dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ giữa các thế hệ. Truyền thống tôn kính
người già đã được giữ lại, tuy nhiên, các thành viên trẻ tuổi trong gia đình đã có thể tự
quyết định cuộc sống của mình một cách độc lập hơn. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của
các công nghệ tiên tiến cũng đã làm thay đổi quan niệm của người Việt Nam về quan
hệ giữa vợ chồng, khi mà người ta thường tìm kiếm sự đồng thuận và sự cân bằng
trong quan hệ tình cảm thay vì những quy tắc truyền thống.

Với sự thay đổi này, gia đình Việt Nam đang có những bước tiến vượt bậc để trở
thành một tổ chức gia đình đa dạng và linh hoạt hơn, đồng thời cũng bảo tồn được các
giá trị truyền thống của xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, sự thay đổi này cũng đòi hỏi
người Việt Nam phải tiếp tục tôn trọng và giữ gìn các giá trị cốt lõi của gia đình, đồng
thời tìm ra những giải pháp thích hợp để thích nghi với các thay đổi trong xã hội.

3. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện xây dựng gia đình mới,
hướng tới hình thành con người mới Việt Nam với những đức tính cao đẹp, đồng thời
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2023, mục tiêu chung trong xây
dựng và phát triển gia đình Việt Nam là xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Để đạt được mục tiêu
đó, cần chú ý một số định hướng sau:

21
3.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây dựng và
phát triển gia đình Việt Nam.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn
thể từ trung ương đến cơ sở nhận thức sâu sắc về mặt vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của gia đình và công tác xây dựng phát triển của gia đình Việt Nam hiện nay, coi đây là
một trong những động lực quan trọng quyết định thành công sự phát triển bền vững kinh
tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội dung, mục tiêu của công tác xây dựng và
phát triển gia đình vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chương trình công tác
hàng năm của các bộ, nhành, địa phương.

3.2 Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế gia đình.

Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội để góp phần củng cố, ổn
định và phát triển kinh tế hộ gia đình, có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia
đình cho các gia đình liệt sỹ, gia đình thương binh bệnh binh, gia đình các dân tộc thiểu
số, gia đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa vùng khó khăn. Có chính sách kịp thời
hỗ trợ gia đình phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh các sản phẩm mới, sản phẩm sử
dụng nguyên liệu tại chỗ, hỗ trợ gia đình tham gia sản xuất phục vụ xuất khẩu. Tích cực
khai thác và tạo điều kiện thuận lợi cho hộ gia đình vay vốn ngắn hạn và dài hạn nhằm
xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, mở rộng phát triển kinh tế, đẩy mạnh
loại hình phát triển kinh tế nông trại, vươn lên làm giàu chính đáng.

3.3 Kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những tiến bộ
của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.

22
Gia đình được hun đúc từ lâu đời trong lịch sử dân tộc. Bước vào thời kỳ mới của gi a
đình ấy bộc lộ cả những mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, nhà nước cũng như các cơ
quan văn hóa, các ban ngành liên quan cần phải xác định, duy trì những nét đẹp có ích
và đồng thời, tìm ra những hạn chế và tiến tới những hủ tục của gia đình cũ. Xây dựng
và phát triển gia đình Việt Nam hiện nay vừa phải kế thừa và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, vừa kết hợp những giá trị tiên tiến của
gia đình hiện đại để phù hợp với sự vận động phát triển tất yếu của xã hội. Tất cả nhằm
hướng tới thực hiện mục tiêu làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là
tổ ấm của mỗi người.

3.4 Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa.

Gia đình văn hóa là một mô hình gia đình tiến bộ, một danh hiệu hay chỉ tiêu mà nhiều
gia đình Việt Nam mong muốn hướng đến. Đó là, gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ,
khỏe mạnh và hạnh phúc; thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; thực hiện kế hoạch hóa gia
đình; đoàn kết tương trợ trong cộng đồng dân cư.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã thực sự tác động đến nền tảng gia đình Việt
Nam. Ở đây, cần tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh không thực chất phong
trào và chất lượng gia đình văn hóa phải phù hợp và có ý nghĩa thiết thực với đời sống
của nhân dân, công tác bình xét danh hiệu gia đình văn hóa phải được tiến hành theo
tiêu chí thống nhất, trên nguyên tắc công bằng, dân chủ, đáp ứng được nguyện vọng tâm
tư, tình cảm tạo được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân.

Xã hội hóa việc xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng và phát triển gia
đình Việt Nam không phải là việc riêng của mỗi gia đình mà là nhiệm vụ chung của
toàn xã hội, cần có sự tham gia của mọi ngành toàn thể, cộng đồng dân cư, dòng họ và
mọi cá nhân. Công tác xây dựng gia đình chỉ đạt hiệu quả cao nếu các cấp ủy Đảng và
Nhà nước về xây dựng và phát triển gia đình, từ đó tạo ra phong trào thi đua rộng khắp,
thiết thực và hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công tác xây dựng và phát triển gia
đình với phương châm xã hội hóa, tạo nền tảng cho sự phát triển chung của toàn xã hội.

4. Liên hệ thực tiễn về vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

Gia đình là một thiết chế xã hội tương đối bền vững.

23
Điều này thể hiện ở tỷ trọng dân số có vợ có chồng vẫn ở mức cao. Theo kết quả tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 1999, độ tuổi 50 chỉ có 3,3% dân số chưa từng kết hôn.
Ngay ở Hà Nội, trung tâm giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế của cả nước, chịu ảnh
hưởng nhiều của lối sống nước công nghiệp hóa phát triển, cũng như chưa có dấu hiệu
xã hội nào chứng tỏ đã hình thành một lối sống độc thân, từ chối hôn nhân và gia đình.
Theo ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em Hà Nội, năm 2001 ở độ tuổi 45-49 chỉ có 3.8%
dân số Hà Nội chưa từng kết hôn. Hôn nhân vẫn là hình thức chung sống phổ biến của
những người trưởng thành khác giới.

Quy mô gia đình có xu hướng ngày càng nhỏ lại.

Kết quả các cuộc tổng điều tra dân số qua các năm cho thấy quy mô gia đình Việt Nam
giảm liên tục trong vòng 20 năm qua từ 5,22 người/ hộ gia dình năm 1979 xuống 4,88
người/ hộ năm 1989 và 4,6 người/ hộ năm 1999.

Đồng bằng sông Hồng có qui mô gia đình thấp nhất là 4,1 người. Vùng Tây Bắc cao
nhất là 5,2 người. Tiếp theo là Tây Nguyên 5 người, vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng
sông Cửu Long 4,8 người. Vùng Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Nam Trung
Bộ là 4,6 người. Trong phạm vi cả nước, số hộ từ 1-4 người chiếm trên một nửa (55%).
Đặc biệt ở Đồng bằng sông Hồng, cứ ba hộ thì có đến hai hộ có từ 1-4 người (Tổng điều
tra dân số vào nhà ở Việt Nam 1999; Kết quả điều tra mẫu: 30).

Tình trạng hôn nhân không đăng ký.

Hôn nhân không đăng ký là hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng chưa
đăng ký kết hôn. Do đó, không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Trên thực tế hiện
tượng không đăng ký chung sống trên khá phức tạp, có thể tạm phân chia thành hai
nhóm, nhóm thứ nhất : sự chung sống của đôi nam nữ được gia đình và họ hàng, cộng
đồng thừa nhận được gọi là hôn nhân thực tế; nhóm thứ hai: chưa được gia đình và họ
hàng, cộng đồng thừa nhận gọi là hiện tượng chung sống trước hôn nhân.

Liên hệ những vấn đề liên quan với giai đoạn chống dịch Covid-19 vừa qua ở Việt
Nam mình:

Những ảnh hưởng của đại dịch Covid không chỉ đang tác động tiêu cực đến tình hình
kinh tế, mà còn gây hàng loạt hệ lụy lên đời sống tinh thần của người dân mà cụ thể là
các gia đình - hạt nhân xã hội.

24
Kinh tế gia đình.

Trước hết, việc đóng cửa hoặc giảm giờ làm việc của các doanh nghiệp và công ty đã
kiến nhiều người mất việc làm hoặc giảm lương. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho
các gia đình khi họ không thể đáp ứng được chi phí hàng ngày của mình, như tiền thuê
nhà, chi phí ăn uống, tiền điện, nước và các chi phí khác.

Ngoài ra, các giới hạn và hạn chế phong tỏa và giãn cách xã hội đã khiến nhiều hoạt
động kinh tế trong cộng đồng bị gián đoạn hoặc ngừng hoạt động. Điều này ảnh hưởng
đến nhiều hoạt động kinh doanh và thương mại như làm thêm thu nhập, kinh doanh nhỏ,
dịch vụ cộng đồng và khách sạn, du lịch.

Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn, nhiều gia đình đã phải thay đổi cách tiêu dùng và
chi tiêu của mình để đối phó với tình hình kinh tế khó khăn. Các gia đình đã tập trung
vào những nhu cầu cơ bản và hạn chế những chi tiêu không cần thiết.

Ngoài ra, nhiều gia đình cũng đã chuyển sang mô hình làm việc và học tập trực tuyến để
tránh tiếp xúc với virus và tiết kiệm chi phí đi lại. Một số gia đình cũng đã bắt đầu kinh
doanh trực tuyến hoặc bán hàng qua mạng để kiếm thêm thu nhập trong thời gian khó
khăn này.

Tóm lại, giai đoạn chống dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến nền kinh tế gia đình, tuy
nhiên, nhiều gia đình đã có những cách tiêu dùng và chi tiêu mới để đối phó với tình
hình khó khăn. Điều này đã thể hiện sự linh hoạt và sáng tạo của các gia đình trong việc
vượt qua khó khăn và đảm bảo sự ổn định kinh tế cho gia đình.

Ngoài những thay đổi trong cách tiêu dùng và chi tiêu, nhiều gia đình cũng đã bắt đầu
tìm kiếm các nguồn thu nhập mới trong giai đoạn chống dịch Covid-19. Điều này đã
đưa đến sự gia tăng trong việc kinh doanh trực tuyến và bán hàng qua mạng.

Với sự phát triển của công nghệ và mạng Internet, nhiều gia đình đã sử dụng các nền
tảng trực tuyến như Shopee, Lazada, Tiki, Tiktok để kinh doanh trực tuyến và bán hàng
qua mạng. Điều này đã giúp các gia đình tiếp cận được với nhiều khách hàng mới và mở
rộng thị trường kinh doanh của mình.

25
Ngoài ra, nhiều gia đình cũng đã bắt đầu tìm kiếm các nguồn thu nhập khác như làm
thêm thu nhập trực tuyến, nhận việc làm tạm thời hoặc kinh doanh nhỏ để đảm bảo ổn
định kinh tế cho gia đình trong giai đoạn khó khăn này.

Bên cạnh đó, chính phủ và các tổ chức xã hội cũng đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ
gia đình trong giai đoạn chống dịch Covid-19. Những chính sách này bao gồm giảm
thuế, tạm ngừng trả nợ và cung cấp các khoản vay ưu đãi để giúp các gia đình vượt qua
khó khăn trong việc quản lý tài chính.

Tóm lại, giai đoạn chống dịch Covid-19 đã tác động đến nền kinh tế gia đình, tuy nhiên,
nhiều gia đình đã tìm kiếm các nguồn thu nhập mới và sử dụng các chính sách hỗ trợ
của chính phủ để đảm bảo ổn định kinh tế cho gia đình. Điều này đã cho thấy sự khả
năng thích nghi và sáng tạo của các gia đình trong việc vượt qua khó khăn và đảm bảo
sự ổn định kinh tế cho gia đình.

Bạo lực trong gia đình.

Bạo lực trong gia đình là một vấn đề đáng lo ngại và cần được giải quyết để bảo vệ sự
an toàn và tránh những hậu quả đau lòng cho các thành viên trong gia đình.

Trong một gia đình, bạo lực có thể được xác định như một hành động có chủ đích nhằm
đe dọa, tấn công hoặc gây tổn thương đến một hoặc nhiều thành viên khác trong gia
đình. Điều này có thể bao gồm lạm dụng tinh thần, lạm dụng tình dục, đánh đập, đe dọa
bằng vũ khí hoặc những hình thức khác.

26
Tuy nhiên, bạo lực trong gia đình không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe vật lý của nạn
nhân mà còn gây ra những tác động tâm lý nghiêm trọng. Những người bị bạo lực trong
gia đình có thể cảm thấy bất lực, lo lắng và bị suy nhược tinh thần. Họ cũng có thể phát
triển những vấn đề tâm lý như trầm cảm, lo âu và suy giảm tự tôn. Để ngăn chặn và giải
quyết vấn đề bạo lực trong gia đình, cần có sự hỗ trợ từ cả cộng đồng và chính phủ. Đầu
tiên, người dân cần được nâng cao nhận thức về tác hại của bạo lực trong gia đình và có
thể báo cáo các hành động bạo lực đến cơ quan chức năng. Chính phủ cũng có trách
nhiệm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và điều trị cho nạn nhân bạo lực trong gia đình, cũng
như thiết lập các quy định pháp luật và áp dụng chúng đầy đủ để đảm bảo sự an toàn
cho tất cả các thành viên trong gia đình.

Tóm lại, bạo lực trong gia đình là một vấn đề nghiêm trọng và cần được xử lý một cách
cẩn thận và đúng đắn để đảm bảo sự an toàn và tránh những hậu quả đáng tiếc cho tất cả
các bên liên quan.

27

You might also like