You are on page 1of 113

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là


công trình nghiên cứu hoàn toàn của tôi dưới sự
hộ trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
về Luận văn này nếu có sự tranh chấp.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Duy


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH .......... 5
1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH ........................................................................ 5
1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học .................................................... 5
1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học ................................................. 7
1.1.3. Gia đình theo quan điểm luật học ..................................................... 9
1.2. VAI TRÒ VÀ CÁC CHỨNG NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI HIỆN NAY............................... 15
1.3. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ .............. 18
1.3.1. Đạo đức ........................................................................................... 18
1.3.2. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán ............................................... 20
1.3.3. Yếu tố kinh tế - xã hội – khoa học kỹ thuật .................................... 21
1.3.4. Yếu tố tôn giáo .............................................................................. 21
1.4. KHÁI QUÁT SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT HN&GĐ VỀ GIA
ĐÌNH QUA CÁC THỜI KỲ ....................................................................... 23
1.4.1. Gia đình theo quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam ......... 23
1.4.2. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc . 26
1.4.3. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam từ Cách mạng tháng
Tám đến nay ............................................................................................. 28
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VỀ GIA ĐÌNH THEO LUẬT
HN&GĐ NĂM 2014....................................................................................... 33
2.1. QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG..................................................... 33
2.1.1. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng ............................................. 34
2.1.2. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng ................................................... 44
2.1.3. Chấm dứt hôn nhân ......................................................................... 65
2.2. QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON ................................................. 76
2.2.1. Việc xác định cha, mẹ, con ............................................................. 76
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con ......................................... 84
2.3. QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN KHÁC TRONG GIA ĐÌNH 89
2.3.1. Quan hệ giữa anh, chị, em với nhau ............................................... 89
2.3.2. Mối quan hệ giữa ông bà và cháu ................................................... 91
2.3.3. Quan hệ giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu ruột ...................... 93
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA ĐÌNH
TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2014 VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 95
3.1. THỨC TIỄN THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA
ĐÌNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2014 .......... 95
3.2. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ GIA ĐÌNH ................................................................................. 98
KẾT LUẬN ................................................................................................... 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 108
 
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện tầm
quan trọng của gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng
con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới
tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành
khoa học có cách nhìn khác nhau, nghiên cứu về gia đình với những mục tiêu
khác nhau. Nói đến gia đình là nói đến các thành viên gia đình cùng chung
sống, đùm bọc và giúp đỡ nhau. Dưới góc độ pháp lý, nghiên cứu về gia đình
nhằm xác định thành viên gia đình, mối quan hệ giữa những thành viên gia
đình để từ đó quy định nghĩa vụ và quyền tương ứng đối với mỗi thành viên.
Trải qua các thời kỳ khác nhau thành viên gia đình cũng có sự thay đổi nhất
định. Tuy nhiên, xác định quan hệ gia đình vẫn dựa trên các mối quan hệ
chính là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.
Theo pháp luật hiện hành, quan hệ gia đình được hiểu theo nghĩa rất hẹp.
Chẳng hạn, quan hệ hôn nhân chỉ được hiểu là quan hệ giữa người nam và
người nữ có đăng ký kết hôn. Quan hệ huyết thống dường như cũng chỉ được
hiểu là quan hệ giữa những người có cùng huyết thống về trực hệ và những
người có họ trong phạm vi ba đời. Trong quan hệ nuôi dưỡng cũng chỉ có
quan hệ giữa cha mẹ và các con của người nhận nuôi với người con nuôi. Các
thuật ngữ mà trong đời sống hàng ngày người Việt Nam vẫn sử dụng như
quan hệ họ hàng, thân thích, thân thuộc.
Trước thực tiễn đó đòi hỏi phải nghiên cứu để làm sáng tỏ về gia đình phải có
sự nghiên cứu và tìm hiểu về, để từ đó xây dựng những quy phạm pháp luật
điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình, sao cho các hành vi của các thành

1
 
viên gia đình phải đúng chuẩn mực đạo đức xã hội. Nghiên cứu đề tài “Gia
đình trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam” để phục vụ cho mục đích đó.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều học giả nghiên cứu về gia đình, không chỉ có riêng
ngành luật mà nhiều ngành khoa học khác cũng tham gia vào vấn đề này.
Trong lĩnh vực pháp luật, chuyên ngành Luật Hôn nhân và gia đình đã có
nhiều bài viết về các khía cạnh của gia đình như: Quan hệ nhân thân giữa vợ
chồng; quan hệ cha mẹ con, … Một số đề tài hiện đã đề cập đến thành viên
gia đình như: Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam , Tập I
– Gia đình , NXB Trẻ TP.HCM của TS.Nguyễn Ngọc Điện (2002); Việt Nam
dân luật lược giảng – Luật gia đình. Quyển tập 1, tập 1 của Vũ Văn Mẫu
(1973); ... Tuy nhiên, những tác phẩm này còn phân tích một cách rời rạc và
chưa tạo ra cách nhìn có hệ thống về gia đình
Đây là công trình nghiên cứu về gia đình một cách có hệ thống và hoàn chỉnh,
có sự so sánh đối chiếu với một số ngành khoa học khác, có sự kết hợp giữa
lý luận và thực tiễn để đưa ra được sự điều chỉnh của pháp luật về gia đình
một cách phù hợp nhất. Công trình là cái nhìn xuyên suốt các quy phạm pháp
luật quy định về thành viên gia đình trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu vấn đề lý luận chung về gia đình, cơ sở
để phát sinh, hình thành gia đình, mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ của các
thành viên gia đình theo quy định của pháp luật. Đồng thời nghiên cứu thực
tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên gia đình, từ
đó làm rõ những điểm đã đạt được, vướng mắc hạn chế cần hoàn thiện
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận gia đình
từ nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là từ góc độ luật HN&GĐ . Nghiên cứu
về các mối quan hệ tạo thành gia đình theo luật HNGĐ Việt Nam năm 2014,

2
 
trên cơ sở phân tích, so sánh với các quy định điều chỉnh quan hệ gia đình
trong các văn bản pháp luật trước đây. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy định điều chỉnh về gia đình trong cuộc sống hiện tại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận về gia đình theo quan điểm
luật học mà chủ yếu là luật HNGĐ. Những quy định của pháp luật điều chỉnh
về gia đình và các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Thực tiễn
thực hiện các quy định của pháp luật về gia đình
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, vấn đề gia đình được xem xét, nghiên cứu theo
Luật HN&GĐ năm 2014 theo 3 mối quan hệ cơ bản tạo thành gia đình là
quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con và quan hệ giữa các
thành viên khác trong gia đình. Trong quá trình nghiên cứu có sự so sánh, đối
chiếu với các quy định điều chỉnh về gia đình trong hệ thống pháp luật HNGĐ
Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá về hiệu quả điều chỉnh, việc áp dụng các
quy định hiện hành về gia đình để phát hiện những điểm vướng mắc, bất cập
và đưa ra các đề xuất, kiến nghị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp ..để thực hiện các
mục tiêu đã đặt ra
6. Tính mới và đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương đối toàn diện, có hệ
thống về sự điều chỉnh của pháp luật về gia đình từ góc độ lý luận và thực
tiến theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3
 
- Luận văn đã: phân tích khái quát trên cơ sở khoa học để xây dựng khái niệm
gia đình và thành viên gia đình, cũng như khắc họa được những chức năng cơ
bản của gia đình trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, để từ đó làm rõ cơ sở
xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình
hiện nay một cách hiệu quả..
- Đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh gia đình về
tính khả thi, hiệu quả điều chỉnh cũng như những vướng mắc, bất cập còn tồn
tại cần khắc phục, sửa đổi
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số lý luận chung về gia đình
Chương 2. Nội dung điều chỉnh về gia đình theo luật hôn nhân gia đình
năm 2014
Chương 3. Thực tiễn thực hiện các quy định về gia đình trong luật hôn
nhân gia đình Việt Nam và một số kiến nghị

4
 
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH

1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH


1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học
Triết học nghiên cứu gia đình trong quá trình phát triển của lịch sử và các
hình thái kinh tế - xã hội. Theo quan điểm triết học, hôn nhân và gia đình
không ngừng vận động và phát triển. Theo C.Mac – Ph.Anghen thì có ba hình
thức hôn nhân chính tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nhân loại: Ở
thời đại mông muội có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man có chế độ hôn
nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh có chế độ một vợ một chồng [2 tr55-129].
Gia đình là một phạm trù lịch sử, các hình thái và chức năng của gia đình
là do tính chất của quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội cũng như trình độ phát
triển văn hóa của xã hội quyết định. Trong lịch sử đã trải qua bốn hình thái
gia đình, đó là gia đình huyết tộc, gia đình pu-na-lu-an, gia đình cặp đôi, gia
đình một vợ một chồng.
Gia đình huyết tộc là hình thái gia đình đầu tiên trong lịch sử. Lúc này
các tập đoàn hôn nhân đều phân theo thế hệ: Trong phạm vi gia đình, tất cả
ông và bà đều là vợ chồng với nhau; các con của ông bà tức là các người cha
và các bà mẹ cũng là vợ chồng với nhau; đến lượt con cái của những người
này tức là cháu của ông bà cũng hợp thành một nhóm vợ chồng thứ ba; đến
lượt con cái của những người con ấy là chắt của ông bà nói đầu tiên lại hợp
thành nhóm vợ chồng thứ tư. Như vậy, những người cùng thế hệ là vợ chồng
của nhau, những người khác thế hệ không có quyền và không có nghĩa vụ vợ
chồng với nhau.
Gia đình pu-na-lu-an: Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định,
một hay nhiều nhóm chị em gái trở thành hạt nhân của một cộng đồng, còn

5
 
những anh em trai cùng mẹ của họ lại trở thành hạt nhân của một cộng đồng
khác. Bằng cách này mà từ hình thái gia đình huyết tộc đã xuất hiện hình thái
gia đình pu-na-lu-na. Theo hình thái gia đình pu-na-lu-an, một số chị em gái
cùng mẹ hay xa hơn đều là vợ chung của những người chồng chung, trừ
những anh em trai của những người này. Khi các anh em trai cùng có vợ
chung thì họ trở thành chồng chung. Lúc đó, những người này không cần coi
nhau là anh em mà gọi nhau là “người bạn đường” hay “người cùng hội cùng
thuyền”. Một cách tương tự, một số anh em trai cùng mẹ hoặc xa hơn, đều lấy
chung một số vợ không phải là chị em gái của họ và những người vợ ấy đều
gọi nhau là pu-na-lu-a. Đây là hình thức cổ điển của một kết cấu gia đình có
đặc trưng là: Chung chồng, chung vợ với nhau trong phạm vi một gia đình
nhất định, nhưng phải loại trừ những anh em trai của các người vợ, đồng thời
cũng loại trừ những chị em gái của những người chồng.
Gia đình cặp đôi: Một loại hình thức kết hôn từng cặp, lúc bấy giờ, trong
số những người vợ của mình, người đàn ông có một vợ chính, và trong số
nhiều người chồng khác, anh ta là người chồng chính của người đàn bà ấy. Do
thị tộc ngày càng phát triển và những nhóm “anh em trai” và “chị em gái”
không còn có thể lấy nhau được nữa ngày càng nhiều, càng mở rộng và phát
triển hơn nữa thì tất cả những người bà con họ hàng cùng dòng máu đều
không được lấy nhau. Trong tình trạng cấm kết hôn ngày càng phức tạp thì
chế độ quần hôn ngày càng không thể thực hiện được, chế độ ấy đang bị gia
đình cặp đôi ngày càng lấn át và thay thế. Một người đàn ông sống với một
người đàn bà với một sự gắn bó với nhau rất lỏng lẻo, mối liên hệ vợ chồng
vẫn có thể bị bên này hay bên kia cắt đứt một cách dễ dàng và con cái lúc này
cũng chỉ thuộc về người mẹ.
Gia đình một vợ một chồng: Gia đình một vợ một chồng nảy sinh từ gia
đình cặp đôi, nó đánh dấu cho buổi ban đầu của thời đại văn minh. Gia đình

6
 
ấy dựa trên sự thống trị của người chồng, nhằm chủ đích là làm cho con cái
sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng không ai tranh cãi được và sự rõ ràng về dòng
dõi đó là cần thiết, vì những đứa con đó sau này sẽ được thừa hưởng tài sản
của người cha với tư cách là người kế thừa trực tiếp. Gia đình một vợ một
chồng khác với gia đình cặp đôi ở chỗ là quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn
nhiều, hai bên không còn có thể tùy ý bỏ nhau được nữa.
Qua bốn hình thái gia đình trên ta thấy triết học không nghiên cứu gia
đình cụ thể ở từng giai đoạn mà nghiên cứu sự vận động và phát triển của nó
theo các hình thái kinh tế - xã hội. Các hình thái gia đình cũng vận động và
phát triển theo quy luật của sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế -
xã hội.
1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học
Rất nhiều ngành cùng tham gia nghiên cứu về gia đình cố gắng đưa ra
khái niệm về gia đình như các nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học, văn
hóa… nhưng chưa có ngành nào nghiên cứu về gia đình nhiều như ngành xã
hội học. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về gia
đình. Tùy vào từng lĩnh vực nghiên cứu mà mỗi nhà khoa học lại có một khái
niệm gia đình riêng phù hợp với lĩnh vực mà mình nghiên cứu. Có thể nói,
chưa có ngành nào lại đưa ra nhiều khái niệm gia đình như ngành xã hội học.
Trong Tập bài giảng Xã hội học của Trường Đại học luật Hà nội, nhóm
tác giả đã nêu hai khái niệm về gia đình để phục vụ cho việc giảng dạy:
Gia đình là một thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột
thịt (hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là một phạm trù biến đổi mang
tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia đình là trường
học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội [8 tr335].
Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), là hình thức tổ chức xã hội
quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ

7
 
huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và
người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung [8 tr335].
Môn Xã hội học được giảng dạy ở trường Đại học luật là môn học nhằm
mục đích giúp người học hiểu biết hơn về xã hội nhằm nhanh chóng tiếp cận
hiểu biết pháp luật. Thực hiện ba chức năng cơ bản là chức năng nhận thức,
chức năng thực tiễn và chức năng tư tưởng. Khái niệm gia đình được nhóm
tập thể đưa ra cũng không nằm ngoài ba chức năng trên. Do đó, hai khái niệm
trên của tập thể tác giả đã chưa phản ánh một cách đầy đủ về gia đình. Ngoài
hai khái niệm trên thì còn có những khái niệm khác nhau của các tác giả xã
hội học khác khi nghiên cứu về gia đình.
Trong cuốn “Gia đình trong bối cảnh đổi mới”, gia đình được định nghĩa
như sau: Gia đình là một nhóm người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân,
huyết thống, hoặc quan hệ nuôi dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ
hôn nhân, cùng chung sống, có chung ngân sách [31 tr114]. Do trong thực
tiễn tồn tại nhiều loại mô hình gia đình nên việc nghiên cứu gia đình và giới
trong thời kỳ đổi mới nhằm thực hiện quản lý xã hội của các nhà quản lý cũng
chỉ nghiên cứu những gia đình mang tính chất tiêu chuẩn. Do vậy, khái niệm
nêu trên cũng chưa thực sự đầy đủ và bao quát hết mọi gia đình trong xã hội.
Khi nghiên cứu xã hội học về “Một số lĩnh vực nghiên cứu của xã hội
học”, nhóm tác giả đã đưa ra khái niệm về gia đình cho lĩnh vực mình nghiên
cứu như sau. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù,một nhóm xã hội nhỏ
mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi,bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách
nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các thành
viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người
[35 tr310]. Khái niệm do tác giả đưa cũng chưa phản ánh đầy đủ về gia đình

8
 
bởi hình thức gia đình rất đa dạng. Khái niệm này khá tương đồng với quy
định tại khoản 10 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Mặc dù chưa có một khái niệm chung về gia đình nhưng các nhà xã hội
học đều ghi nhận gia đình là một nhóm xã hội nhỏ, trong đó các thành viên có
quan hệ quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng,
cùng chung sống. Bởi tính đa dạng của gia đình mà làm cho bất cứ một khái
niệm nào về gia đình cũng trở nên lỏng lẻo, điều này đã tạo nên nhiều tranh
luận giữa các nhà khoa học, nó đã và đang thách thức các nhà khoa học xã hội
học đưa ra một định nghĩa đầy đủ về khái niệm gia đình.
Xã hội học coi gia đình là một thể chế xã hội luôn vận động và phát triển.
Vì gia đình là một thể chế nên mỗi con người từ khi sinh ra đã đặt vào những
quan hệ nhất định. Gia đình là một cơ thể sống, nằm trong quá trình phát triển
không ngừng, gắn với sự phát triển chung của xã hội. Khi xã hội phát triển, sự
phân chia lao động càng được đẩy mạnh, gắn liền với quá trình công nghiệp
hóa và đô thị hóa sẽ dẫn đến sự xé nhỏ gia đình, từ gia đình lớn trong đó có
nhiều thế hệ chuyển sang gia đình nhỏ chỉ có bố mẹ và con cái. Sự phát triển
từ gia đình gia trưởng sang gia đình hạt nhân trở thành một quá trình có tính
quy luật.
Nhìn chung thì các nhà xã hội học vẫn nhìn nhận gia đình là một thiết
chế xã hội gồm những người dựa trên ba mối quan hệ truyền thống là quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng mà chưa có nhà xã hội
học nào mở rộng ba mối quan hệ trên khi nghiên cứu về gia đình.
1.1.3. Gia đình theo quan điểm luật học
1.1.3.1. Gia đình theo luật La Mã
Nhà nước La Mã rộng lớn ra đời, phát triển và tồn tại trong một thời kỳ
dài của lịch sử. Sự xuất hiện gia đình La Mã là một hiện tượng xã hội tự nhiên
mà theo đó Nhà nước luôn có những quy định nhằm điều chỉnh quan hệ hôn

9
 
nhân và gia đình theo từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Do trải qua nhiều
thời kỳ khác nhau nên những quy định trong các thời kỳ cũng có nhiều sự
khác nhau.
Qua nghiên cứu của nhiều học giả, gia đình La Mã là loại hình gia đình
phụ hệ với quyền lực của người chủ Pater familias. Đó là sự thống nhất giữa
vợ, con cái, họ hàng, kẻ làm thuê và nô lệ dưới sự điều khiển của gia chủ.
Pater familias – chủ hộ theo chế độ hôn nhân và gia đình La Mã – là thể nhân
có toàn quyền (manus) duy nhất trong gia đình. Pater familias tập trung trong
tay mọi quyền lực và quyết định tất cả mọi vấn đề liên quan đến mọi thành
viên gia đình. Chủ gia – Pater familias trong gia đình La Mã là công dân đầy
đủ quyền hạn. Thuật ngữ familia lúc đầu được dùng để chỉ nô lệ trong thành
phần kinh tế gia đình, sau đó được dùng để gọi tất cả những gì thuộc về kinh
tế gia đình: Tài sản và lực lượng lao động, lực lượng lao động trong gia đình
La Mã bao gồm vợ, con, họ hàng, nô lệ, kẻ làm thuê.
Chế độ gia đình La Mã cổ xưa cũng như chế độ quyền sở hữu lúc đó còn
mang dấu ấn của một hình thái đầu tiên, tiền nhà nước – chế độ công xã
nguyên thủy mà đặc điểm cơ bản là sở hữu chung về phương tiện sản xuất và
sản phẩm lao động. Cùng với sự xuất hiện của nhà nước đã xảy ra sự phân
hóa tài sản trong thị tộc: Quyền lực dần dần rơi vào tay những gia đình giàu
có mà đứng đầu những gia đình này là các gia chủ đầy quyền lực. Lúc đầu gia
chủ có quyền lực như nhau (manus) đối với vợ, con, nô lệ, đồ vật. Sau đó
quyền lực nói trên được tách riêng thành quyền lực đối với vợ (manus mariti)
và quyền đối với con cái (manus patria potertas). Gia đình đối ngẫu với sự
phụ thuộc vào một gia chủ đã là sự biểu hiện rõ nhất về quyền lực gia chủ
Pater familias. Trong trường hợp con gái đã đi lấy chồng thì không còn quan
hệ với gia đình đối ngẫu nữa.

10
 
Vào thời cổ xưa quyền lực của gia chủ là vô hạn. Tuy nhiên, dần dần
quyền lực đó cũng bắt đầu có những giới hạn nhất định, manus Pater familias
– nội dung quyền lực của chủ hộ qua từng thời kỳ tồn tại phát triển của nhà
nước La Mã cũng thay đổi. Tư cách của những người phụ thuộc vào gia chủ
đã được công nhận trong luật dân sự, những thành viên gia đình về sau đã có
quyền tư pháp. Sự suy yếu quyền lực của gia chủ là hậu quả của những biến
đổi các quan hệ sản xuất của sự tan rã gia đình phụ hệ, sự phát triển thương
mại và tiếp theo là sự khẳng định vai trò của những thành viên lớn tuổi trong
gia đình, những người này đã có sự độc lập tương đối. Quan hệ họ hàng dần
dần đã thay thế cho các quan hệ đối ngẫu. Như vậy, hình thái gia đình La Mã
là hình thái chuyển tiếp của chế độ gia đình phụ hệ với đặc thù quyền lực tập
trung trong tay chủ hộ.
Với các đặc trưng của thời kỳ bấy giờ nên khái niệm gia đình trong thời
kỳ La Mã theo các tư liệu lịch sử cổ đại là sự liên minh, liên kết giữa chồng,
vợ, con, những người thân thuộc ruột thịt và cả nô lệ dưới quyền của chủ hộ
[6 tr39].
Từ khái niệm trên của gia đình La Mã cho ta thấy trong gia đình của
người La Mã có các thành viên: Chủ hộ, vợ, con cái, họ hàng, nô lệ và người
làm thuê. Trong đó chủ hộ (pater familias) là người có quyền lực tuyệt đối,
những thành viên khác trong gia đình như vợ, con cái, những người thân
thuộc ruột thịt và nô lệ được coi là lực lượng lao động trong gia đình.
1.1.3.2. Gia đình theo pháp luật Việt Nam
Luật học nhìn nhận gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ
với nhau do có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng.
Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng, là tiền đề để xây dựng gia
đình. Khoản 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 giải thích: “Hôn

11
 
nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”. Quan hệ hôn nhân giữa
hai bên nam, nữ được xác lập khi tuân thủ các quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và phải được đăng ký tại cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kết hôn. Như vậy, khi một người nam và một người nữ
kết hôn với nhau thì giữa hai người này tồn tại quan hệ hôn nhân và hai người
trở thành những thành viên của gia đình.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con; ông bà và cháu; cụ
và chắt; cô, dì, chú, bác, cậu và cháu; anh chị em với nhau… phát sinh do sự
kiện sinh đẻ. Cụ là người sinh ra ông bà và các anh em của ông bà, thế hệ ông
bà là thế hệ tiếp theo của cụ; ông bà là người sinh ra cha mẹ và các anh em
của cha mẹ như cô dì chú bác cậu, thế hệ này lại là thế hệ tiếp theo của ông
bà; đến lượt cha mẹ là người sinh ra các con, các con trở thành thế hệ tiếp
theo của cha mẹ. Do giữa những người này có những sự kiện là sinh đẻ để tạo
ra thế hệ tương lai hoặc cùng được sinh ra từ một gốc, nên giữa họ có quan hệ
huyết thống với nhau.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ phát sinh do sự kiện nuôi con nuôi. Do
việc nhận nuôi con nuôi, người nhận con nuôi được gọi là cha mẹ nuôi và
người được nhận làm con nuôi được gọi là con nuôi. Người con nuôi trở
thành thành viên gia đình của người nuôi, bình đẳng với những người con đẻ
của người nuôi. Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định: “Kể từ ngày
giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa
vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha
mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp
luật về hôn nhân gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp
luật có liên quan”. Theo quy định trên người con nuôi có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân và gia
đình. Người con nuôi sẽ bình đẳng với mọi người con khác trong gia đình về

12
 
quyền và nghĩa vụ. Những người này có quan hệ với nhau do cùng quan tâm,
chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, cùng nhau xây dựng
kinh tế gia đình và cũng cùng nhau vun đắp phát triển khối tài sản chung của
gia đình. Trong trường hợp, nếu một trong số những người này có khối tài sản
riêng thì người đó phải đóng góp tài sản để duy trì đời sống chung phù hợp
với thu nhập, khả năng thực tiễn của mình. Những thành viên gia đình là
những người tích cực trong việc giúp đỡ nhau về mặt tinh thần, là chỗ dựa
tinh thần của nhau, là nơi động viên, an ủi những thành viên khác tốt nhất khi
gặp khó khăn, thất bại trong cuộc sống. Đồng thời, gia đình cũng là nơi để các
thành viên gia đình chia sẻ thành công của nhau một cách chân tình nhất. Các
thành viên gia đình có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, nghĩa vụ của
người này là quyền của người kia và ngược lại.
Không phải gia đình nào cũng có đầy đủ các mối quan hệ nêu trên,
trong từng trường hợp cụ thể, gia đình có thể chỉ có một mối quan hệ như chỉ
có quan hệ hôn nhân hoặc chỉ có quan hệ nuôi dưỡng, cũng có thể có hai, ba
hoặc có nhiều mối quan hệ.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 không giải thích về gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
tại khoản 10 Điều 8 đã giải thích: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó
với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật
này”.
Theo Từ điển luật học thì gia đình là: “Tập hợp những người gắn bó với
nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật Hôn
nhân và gia đình.Gia đình Việt nam thường bao gồm nhiều thế hệ cùng chung
sống như: ông bà, cha mẹ, con cháu… Họ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn

13
 
nhau về vật chất và tinh thần, sinh đẻ hay nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ
của Nhà nước và xã hội. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế
hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau nhằm giữ gìn và phát huy
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt nam. Gia đình có các chức năng cơ
bản: 1) chức năng sinh đẻ; 2) chức năng giáo dục; 3) chức năng kinh tế. Bên
cạnh chức năng cơ bản đó, gia đình còn phải thực hiện chức năng quan tâm
và chăm sóc người cao tuổi” [1 tr282]. Giải thích trên về gia đình tương đồng
với khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Từ điển đã giải
thích ngắn gọn về gia đình Việt Nam trong đó có các thành viên của nhiều thế
hệ chung sống, chăm sóc và giúp đỡ nhau, cùng với đó là nêu lên chức năng
cơ bản của gia đình.
Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của Trường Đại học luật Hà Nội đã
đưa khái niệm về gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình như sau: “Gia đình
theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết của nhiều người dựa
trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, có quyền và nghĩa vụ tương
ứng với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây
dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội”.
Khái niệm gia đình trên theo Luật Hôn nhân và gia đình, mục đích để giảng
dạy môn Luật Hôn nhân và gia đình do đó khái niệm gia đình này phù hợp
với quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Như vậy các khái niệm gia đình trên đều chưa bao quát được các trường
hợp trong thực tiễn khi nghiên cứu về thành viên gia đình. Trong thực tiễn,
gia đình không chỉ có ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng
mà còn có những mối quan hệ khác phát sinh từ ba mối quan hệ trên. Để phục
vụ cho việc nghiên cứu đề tài, em mạnh dạn đưa ra khái niệm gia đình của
mình:

14
 
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng hay những người không có ba mối
quan hệ trên nhưng từ ba mối quan hệ đó mà cùng sống chung với nhau, làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa những người này với nhau theo quy
định của pháp luật.
1.2. VAI TRÒ VÀ CÁC CHỨNG NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI HIỆN NAY
Gia đình là một hiện tượng xã hội có tính chất tự nhiên. Bất cứ xã hội nào
cũng đều có gia đình, tập hợp các gia đình để hình thành nên xã hội. Ngược
lại, xã hội muốn tồn tại và phát triển thì cần có gia đình. Theo quy luật tự
nhiên, mỗi người khi sinh ra đều có gia đình, lớn lên trong gia đình đó. Khi
trưởng thành lại thành lập một gia đình mới. Gia đình hình thành và phát triển
không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người, theo quy luật, thế hệ này
đến thế hệ khác hình thành nên các gia đình theo quy luật phát triển của xã
hội, mang tính chất tự nhiên. Lấy hiện tượng ấy làm căn bản, Luật Hôn nhân
và gia đình tất nhiên phải chú trọng đến các điều kiện tự nhiên hơn là đến ý
chí các đương sự. Nói một cách khác, vai trò của ý chí chỉ được pháp luật
công nhận, một khi các điều kiện tự nhiên được hội đủ.
Gia đình có địa vị rất quan trọng và thường được coi là nền tảng quốc gia.
Trên nguyên tắc, các vấn đề liên quan đến gia đình thường có tính chất cưỡng
chế: Các thành viên gia đình không thể tự ý thỏa thuận gạt bỏ các điều khoản
ấy được. Mỗi gia đình được coi là một tế bào của xã hội. Để góp phần xây
dựng quốc gia vững mạnh thì mỗi gia đình phải vững mạnh. Để xây dựng gia
đình vững mạnh thì mỗi thành viên gia đình phải có cách xử sự phù hợp. Để
mọi người trong gia đình nói riêng và trong cả cộng đồng xã hội nói chung có
cách xử sự phù hợp thì cần có những quy định chung cho cách xử sự đó. Do
đó, bất kỳ quốc gia nào cũng đều dùng pháp luật để điều chỉnh vấn đề gia

15
 
đình và bắt buộc mọi người trong xã hội phải tuân theo. Nếu có bất cứ thành
viên nào không tuân theo thì phải chịu những chế tài do pháp luật dự liệu.
Chẳng hạn, Luật Hôn nhân và gia đình quy định nữ từ 18 tuổi trở lên được
đăng ký kết hôn thì khi nữ chưa được 18 tuổi thì các bên không được thỏa
thuận kết hôn khi chưa đạt độ tuổi luật định.
Trong gia đình, luân thường đạo lý là yếu tố quan trọng giữ vững trật tự
gia đình mà ở đó mỗi thanh viên gia đình phải tuân theo. Trong mỗi cộng
đồng hay dân tộc đều đỏi hỏi phải có đạo đức, luân thường đạo lý của cộng
đồng, dân tộc đó, song chưa có nơi nào luân thường đạo lý lại được thể hiện
rõ nét như trong gia đình. Trong mỗi gia đình thì luân thường đạo lý như một
đạo luật thường trực trong mỗi thành viên của gia đình, thậm chí nó còn là
của chung một cộng đồng xã hội hay của cả một quốc gia. Lịch sử nhân loại
chứng tỏ rằng nền tảng và tổ chức gia đình chỉ bền vững, nếu được căn cứ vào
một nền đạo lý nghiêm chỉnh. Cũng vì lẽ ấy, ở các quốc gia mà gia đình có
một tổ chức bền vững, các điều khoản trong luật gia đình thường cũng có thể
coi như những quy chế trong đạo lý. Các điều được quy định trong luật có
tính chất luân thường đạo lý như vợ chồng chung thủy, con cái phải thương
yêu kính trọng ông bà, cha mẹ đã nói lên điều đó.
Ở bất kỳ thiết chế xã hội nào thì gia đình cũng có các chức năng cơ bản sau:
Chức năng sinh đẻ (hay còn gọi một cách khác là chức năng tái sản xuất
con người): Là chức năng quyết định, đảm bảo duy trì và phát triển thế hệ
tương lai. Gia đình, là nơi các thế hệ tiếp theo được sinh ra, tồn tại và phát
triển, là nơi tái sản xuất ra con người để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
gia đình và xã hội. Chức năng sinh đẻ giúp con người duy trì nòi giống từ thế
hệ này sang thế hệ khác, đảm bảo một mạch sống liên tục của con người trên
hành tinh, duy trì sự phát triển và ổn định của xã hội loài người. Nếu không
thực hiện chức năng sinh đẻ, gia đình một ngày nào đó bị tuyệt vong do thế hệ

16
 
trước chết đi, không còn thế hệ sau để thay thế. Nhìn rộng ra cả một dân tộc,
nếu các gia đình không thực hiện chức năng sinh đẻ thì các gia đình dần dần
sẽ bị lụi tàn, dẫn đến dân tộc đó cũng không thể tồn vong. Tương tự như vậy,
quốc gia bị diệt vong nếu các gia đình trong quốc gia đó không thực hiện
chức năng sinh đẻ. Nói một cách khác, chức năng sinh đẻ có tính chất quyết
định sự tồn vong của một dân tộc, một quốc gia và nói rộng ra là của cả loài
người.
Chức năng giáo dục: Là chức năng chủ yếu của gia đình, nó rất quan
trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách của các thế hệ trong gia
đình, đặc biệt là thế hệ trẻ. Giáo dục trong gia đình phải kết hợp với giáo dục
nhà trường và giáo dục ngoài xã hội. Tuy nhiên, gia đình là môi trường giáo
dục đầu tiên đối với mỗi con người. Gia đình là nơi mỗi con người từ khi sinh
ra được học những bài học đầu tiên, trong quá trình hình thành và phát triển
con người được các thành viên gia đình đó giáo dục, chỉ dạy những điều
đúng, sai để nhận thức và hình thành nên nhân cách của con người. Do vậy,
gia đình thực hiện chức năng giáo dục có hiệu quả hay không phụ thuộc vào
nhận thức của các thế hệ đi trước. Trong mỗi gia đình, nhận thức về các sự
vật, hiện tượng trong xã hội cũng có thể không giống nhau, đặc biệt là các thế
hệ đi trước. Thế hệ trước nhận thức một cách đúng đắn thì sẽ truyền lại cho
thế hệ sau sự nhận thức đó, thế hệ sau có cơ hội tiếp thu tư tưởng đúng đắn.
Ngược lại, nhận thức sai lầm của thế hệ trước có thể dẫn đến việc truyền thụ
những nhận thức sai lầm đó cho thế hệ sau. Do đó, nhân cách của con người
được hình thành và phát triển thông qua chức năng giáo dục của gia đình, gia
đình có chức năng giáo dục để hình thành tư duy của các thành viên gia đình
đó một cách đúng đắn, phù hợp với các chuẩn mực của xã hội.
Chức năng kinh tế: Gia đình được coi như một đơn vị kinh tế cơ bản, độc
lập của xã hội. Mỗi gia đình trong xã hội điều tham gia vào quá trình lao động

17
 
sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Của cải vật chất này trước hết dùng để nuôi
sống các thành viên gia đình, sau nữa là làm giàu cho xã hội. Mỗi gia đình là
một đơn vị kinh tế, trong đó đa phần các thành viên gia đình tham gia vào quá
trình sản xuất để tạo ra khối tài sản chung cho cả gia đình. Khối tài sản chung
này trước hết được dùng vào việc phục vụ nhu cầu chung của tất cả các thành
viên gia đình, sau đó là tạo ra tài sản dự trự cho gia đình. Các thành viên gia
đình tùy theo khả năng và năng lực của từng người có trách nhiệm tạo dựng
khối tài sản ngày càng lớn hơn. Trong một cộng đồng cùng chung sống nhưng
các gia đình điều có cách tạo dựng kinh tế cho gia đình hoàn toàn độc lập với
các gia đình khác và độc lập với cộng đồng xã hội. Ngoài đảm bảo cơ sở vật
chất, kinh tế gia đình còn góp phần tích cực vào việc gia đình thực hiện các
chức năng xã hội như sinh đẻ, nuôi dạy, giáo giục các thành viên gia đình.
Như vậy, chức năng kinh tế giúp gia đình tạo dựng cơ sở vật chất để đảm bảo
cuộc sống của các thành viên, giúp thực hiện tốt các chức năng khác của gia
đình.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ
1.3.1. Đạo đức
Đạo đức là gì? Là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm, lối
sống, danh dự, trách nhiệm, và những quy tắc đánh giá mang tính phổ biến
chung của một cộng đồng xã hội, làng, xã, hay thậm chí là trong phạm vi dân
tộc. Xã hội loài người từ khi có chế định gia đình cho đến nay luôn luôn tồn
tại quan niệm về đạo đức, lối sống mang đặc trưng riêng cửa từng hình thái,
kiểu mẫu gia đình, dòng tộc, làng xã. Do đó, dưới góc độ nghiên cứu pháp lý
đạo đức được xem như điều lệ của doanh nghiệp hay luật bất thành văn của
cộng đồng người nhất định nào đó. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, đặc
trưng của cộng đồng xã hội mà có sự khác nhau về quan niệm đạo đức, lối

18
 
sống. Nhưng, ở bất kỳ giai đoạn, cộng đồng hay dân tộc nào quan niệm về
đạo đức, sự tồn tại của đạo đức luôn có sự tác động, chi phối tới sự hình thành
và phát triển của gia đình - Tế bào xã hội. Sự tác động, chi phối của đạo đức
tới sự hình thành và phát triển của gia đình trong các giai đoạn lịch sử được
thể hiện cụ thể trong các khía cạnh như:
+ Đạo đức là văn hóa, là nền tảng cho văn hóa gia đình: Trong một cộng đồng
xã hội, dòng tộc, các quan niệm về đạo đức đã được thừa nhận chung luôn
luôn tồn tại và tác động tới sự hình thành của gia đình. Gia đình không thể
tách rời xã hội, càng không thể đi ngược lại văn hóa chung của xã hội. Do đó
sự tồn tại của đạo đức như sợi chỉ kết nối cộng đồng, kết nối các gia đình
trong phạm vi đó kết nối lại với nhau. Các hình thái gia đình cũng từ đạo đức,
quan niệm về cái hay cái đẹp mà hình thành, phát triển qua các giai đoạn lịch
sử.
+ Đạo đức, điểm chung của cộng đồng, làng xã: Sự hình thành của gia đình từ
trước tới nay luôn nằm trong mối quan hệ với xã hội, cồng đồng. Như chính
khái niệm về đạo đức được thừa nhận trong khoa học gia đình từ trước đến
nay. Đạo đức là quan niệm chung về lối sống, thiện ác, tốt, xấu..nói chung của
xã hội, được cả cộng đồng, xã hội đó công nhận và tuân theo. Gia đình trong
sự tồn tại và phát triển của mình không thể đi ngược lại với đa số điểm chung
đã được công nhận đó.
Sự tác động của đạo đức tới sự phát triển và hình thành của gia đình tồn tại ở
những hướng và khía cạnh đối lập nhau. Có những quan niêm đạo đức tồn tại
và là cơ sở cho các quan hệ gia đình tốt đẹp, bên cạnh đó luôn tồn tại những
quan niệm về đạo đức mang tính cổ hủ, lạc hậu sẽ tác động tiêu cực tới hình
thái gia đình. Do đó, trong cộng đồng, giai đoạn lịch sử nào cũng cần phát
huy những quan niệm tốt, hợp lý về đào đức và xóa bỏ dần những quan niệm

19
 
có tính tiêu cực để gia đình không ngừng hoàn thiện và tốt đẹp trong quan hệ
với đạo đức.
1.3.2. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán
Cũng giống như yêu tố đạo đức, trong mối quan hệ qua lại, sự tác động
tới quá trình hình thành và tồn tại của yếu tố văn hóa, xã hội, phong tục tập
quan cũng đóng một vai trò tác động vô cùng to lớn. Yếu tố văn hóa, phong
tục tập quán cũng có những tác đông tích cực hay tiêu cực tới sự phát triển
của gia đình. Văn hóa, phong tục tập quán thường có sự phân hóa, khác biệt
và sâu sắc hơn đạo đức. Do đó, sự tác đông của yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán cũng để lại những dấu ấn sâu sắc hơn.
Bản thân xã hội Việt Nam trong thời cổ đại nói riêng và thế giới nói chung đã
trải qua chế độ mẫu hệ cho tới chế độ trọng nam khinh nữ trong quan hệ gia
đình. Những chế độ đó của gia đình xuất phát từ yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán. Sự tồn tại của gia đình trong môi trường văn hóa khác biệt sẽ có những
đặc điểm khác nhau, thời điểm khác nhau tạo nên những gia đình khác nhau
tại một thời điểm nhất định, gia đình tồn tại trong thời điểm, không gian, địa
điểm đó.
Yếu tố văn hóa thể hiện trình độ của xã hội tại thời điểm, không gian, địa
điểm nhất định bao gồm nhiều gia đình, xã hội tạo nên những gia đình mang
đặc trưng văn hóa trong thời điểm và địa điểm nhất định đó. Nền văn hóa phát
triển chung tự thân mỗi gia đình trong nền văn hóa đó là một giá trị văn hóa
riêng cộng lại. Ngược lại văn hóa đặc sắc, lối sống riêng của từng gia đình có
sự tiến bộ, phát triển mang tính tích cực cho sự phát triển cho nền văn hóa xã
hội nói chung. Các nền văn hóa, đặc trưng văn hóa làng xã tồn tại ở nước ta từ
trước đến nay đã tác động không nhỏ tới ý thức, lối sống sinh hoạt văn hóa
của từng gia đình. Đó chính là sự tác động của yếu tố văn hóa tới sự hình
thành, tồn tại của gia đình nói chung.

20
 
Yếu tố phong tục tập quán được hiểu như những sinh hoạt chung được lặp đi
lặp lại truyền từ đời này sang đời khác ở một vùng miền, một khoảng thời
gian riêng biệt. Chính sự tồn tại của phong tục tập quá tạo nên nếp sống gia
đình, mọi người trong gia đình cùng đi theo phong tục tập quán đó hình thành
nên phong tục tập quán của gia đình
1.3.3. Yếu tố kinh tế - xã hội – khoa học kỹ thuật
Không có môi trường nào có những điều kiện độc đáo để ảnh hưởng
đến hành vi của con người bằng gia đình khi gia đình là môi trường giáo dục
đầu tiên và suốt đời, khi gia đình có được tính thiêng liêng trong bản năng
làm cha mẹ, làm con…của tất cả mọi người
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững là một quá trình
không đơn giản mà là một sự khẳng định giá trị của nhiều thành viên, của
những trụ cột gia đình với hàng lọat các yêu cầu có tính nguyên tắc, trong
đó, các yếu tố tâm lý-giáo dục có vai trò không nhỏ. Thông thường, gia đình
hạnh phúc luôn thể hiện được tính bền vững của nó, tuy vậy xây dựng gia
đình hạnh phúc và bền vững vẫn có những yếu tố tác động qua lại cần chú ý.
Trong quá trình phát triển, gia đình luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của
các nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự hạnh phúc hay nguy cơ tan vỡ của
các gia đình có thể bắt đầu từ nhiều nguyên nhân bên trong và bên ngòai gia
đình. Các nguyên nhân bên ngòai có tầm quan trọng đặc biệt với sự phát
triển bền vững của các gia đình vì xã hội đang không ngừng phát triển và có
những biến đổi nhanh chóng trên các bình diện kinh tế-xã hội-văn hóa…,
trong đó có những nhân tố lành mạnh và không lành mạnh có ảnh hưởng lớn
đến gia đình
1.3.4. Yếu tố tôn giáo
“Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
” và “đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội

21
 
mới... ”. Như vậy, tôn giáo có thể được xem như một nguồn lực cả về tinh
thần, vật chất và hoàn toàn có thể tham gia đóng góp vào sự phát triển xã hội.
Quan hệ giữa gia đình Việt Nam và tôn giáo, tín ngưỡng thể hiện ở ba
phương diện:
- Gia đình là một đơn vị xã hội trực tiếp thực hành các sinh hoạt tôn giáo,
tín ngưỡng;
- Gia đình gián tiếp lưu giữ, bảo lưu các hình thức sinh hoạt tôn giáo
thông qua chức năng giáo dục, nuôi dưỡng, bảo vệ và hình thành nhân
cách cho con người;
- Gia đình tham gia vào quá trình điều chỉnh, định hướng tư duy tôn
giáo, phát triển các giá trị tôn giáo cho các thành viên của mình.
Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những hoạt động mà gia đình
thường xuyên và liên tục tiến hành để chăm lo cho đời sống tinh thần và tâm
linh của mỗi con người, cũng như là điểm tựa tinh thần cho con người mỗi khi
lâm vào khủng hoảng. Vì vậy, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo phổ biến trong
hoạt động tâm linh, tinh thần của gia đình Việt Nam. Điều này có yếu tố lịch
sử lâu đời từ ứng xử của người Việt Nam là cầu quốc thái dân an, nó có
nguồn gốc từ bối cảnh nền văn minh nông nghiệp lệ thuộc vào tự nhiên; xã
hội lại chịu nhiều biến động của nạn binh đao, xâm lược; đất nước nằm ở khu
vực vành đai biển Thái Bình Dương là nơi ngã tư của các luồng khí hậu ảnh
hưởng đến môi trường sống của con người. Việc tổ chức các sinh hoạt tôn
giáo, tín ngưỡng từ quy mô gia đình đến quy mô quốc gia là một trong những
hoạt động hướng đến sự an lành, yên ổn của người Việt Nam. Các sinh hoạt
này được tổ chức từ khi một con người được sinh ra đến khi mất đi; trong các
sự kiện lớn của gia đình như xây nhà, lễ cưới, đám ma, giỗ...; khi trong nhà có
người bị bệnh, cũng như trong các sự kiện của quốc gia, làng xã, dân tộc như
xuất quân đánh giặc, cầu quốc thái dân an, cầu mùa màng bội thu, cúng Thành

22
 
hoàng, cúng cơm mới... Phần lớn các gia đình Việt Nam đều thờ cúng tổ tiên,
thờ thổ thần hoặc thổ công, thờ ở nhà mồ... Các tôn giáo như Phật giáo, Thiên
chúa giáo,... đã tồn tại ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ với sự tham gia của
những dòng họ, gia đình qua nhiều thế hệ. Chính vì vậy, gia đình cũng là nơi
lưu giữ các hình thức sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng và lưu truyền nó qua
nhiều thế hệ.
Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong gia đình Việt Nam không chỉ nhằm
củng cố niềm tin của con người với thần linh, cầu mong sự che chở của các
lực lượng phi phàm mà còn có vai trò như sợi dây kết nối giữa quá khứ với
hiện tại, giữa con người với môi trường thiên nhiên, giữa các thành viên trong
gia đình với gia tộc, giữa gia đình với cộng đồng làng xã, giữa các vùng lãnh
thổ, và làm thành nét nổi bật trong phương thức ứng xử giữa con người với tự
nhiên và xã hội.
1.4. KHÁI QUÁT SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT HN&GĐ VỀ
GIA ĐÌNH QUA CÁC THỜI KỲ
1.4.1. Gia đình theo quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam
Trước năm 1945, nước ta đã trải qua một thời kỳ dài lịch sử với nhiều
triều đại phong kiến thay thế nhau cai trị. Các tư liệu về luật cổ đến nay không
còn nhiều do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước thời kỳ Pháp thuộc nước ta
có hai bộ luật tiêu biểu của triều đại phong kiến là Quốc triều hình luật được
ban hành dưới thời Lê và Hoàng Việt luật lệ được ban hành dưới thời
Nguyễn. Trước khi tìm hiểu về thành viên gia đình trong thời kỳ này, ta đi tìm
hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến đến pháp luật Việt Nam trước năm 1945 và
một số đặc trưng của pháp luật giai đoạn này đã có ảnh hưởng đến thành viên
gia đình.
Thứ nhất, pháp luật thời kỳ này được quyết định bởi điều kiện kinh tế -
xã hội phong kiến. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng nên nó

23
 
chịu ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế - xã hội của thời kỳ này. Trong xã hội
phong kiến, sự phân hóa giàu nghèo rất sâu sắc, đặc biệt là hai giai tầng trong
xã hội lúc bấy giờ, giai cấp phong kiến và giai nông dân. Điều này dẫn đến
thành viên gia đình của hai giai tầng xã hội này cũng rất khác nhau. Cùng với
sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội là chế độ trọng nam khinh nữ đã ảnh
hưởng đến pháp luật thời kỳ này là bất bình đẳng giữa nam và nữ, vai trò của
người chồng được đề cao và quyền lực gia đình tập trung trong tay người
chồng.
Thứ hai, pháp luật thời kỳ này chịu ảnh hưởng không nhỏ của Nho giáo
và pháp luật Trung Hoa. Nho giáo đã vào Việt Nam rất sớm, nhưng mãi đến
những năm 1460 nhờ vua Lê Thánh Tông mà Nho giáo đã trở thành một tôn
giáo lớn và cũng trở thành nền tảng tư tưởng thời bấy giờ. Nho giáo đã giúp
giai cấp thống trị củng cố địa vị thống trị được vững chắc hơn. Tư tưởng của
Nho giáo đã được nhà làm luật của thời kỳ này đưa vào các quy định của
pháp luật và các chế định về hôn nhân và gia đình cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Do đó, các quy định về hôn nhân và gia đình cũng chịu chung tư
tưởng này. Trong thời kỳ phong kiến, nước ta nhiều lần bị Trung Hoa đô hộ,
thêm vào đó nhà làm luật cũng đã tham khảo hệ thống luật Trung Hoa để soạn
thảo nên đã bị ảnh hưởng những tư tưởng của luật này, nhưng các Bộ luật của
ta thời bấy giờ đã được lọc bỏ, sửa đổi và sáng tạo đi rất nhiều để phù hợp với
văn hóa, phong tục tập quán của người Việt Nam. Cũng vào thời kỳ này, văn
hóa Trung Hoa đang có ảnh hưởng rất lớn đối với rất nhiều nước trong đó có
Việt Nam.
Thứ ba, pháp luật thời kỳ này chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán.
Phong tục tập quán ảnh hưởng đến pháp luật không kém gì ảnh hưởng của
Nho giáo vì nhiều nguyên nhân khác nhau như trình độ dân trí thấp, người
dân gắn liền với đồng ruộng và lũy tre làng nên ít giao lưu với thế giới bên

24
 
ngoài. Những kiến thức thế hệ sau có được là do học hỏi từ ngay chính những
người của thế hệ trước trong làng về các quy phạm đạo đức, lối sống… nên hệ
tư tưởng của họ trở thành phong tục tập quán điều chỉnh các hành vi trong gia
đình.
Do những yếu tố ảnh hưởng trên mà pháp thời kỳ này có những nét đặc
trưng có ảnh hưởng đến thành viên gia đình là thừa nhận và bảo vệ chế độ đa
thê cùng với bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông trong gia đình.
Ở nước ta, tục nhiều vợ (đa thê) đã có từ lâu đời. Điều này là do quan
niệm có nhiều con là có phúc và phúc là điều đầu tiên để chúc nhau; cần con
trai để nối dõi tông đường; để có thêm lao động, gia đình quan lại giàu có thì
đây là hãnh diện. Trong quan niệm của người xưa, việc người đàn ông có
nhiều vợ là chuyện bình thường “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ
có một chồng”. Do đó, trong nhà vào thời bấy giờ, nhất là những nhà giàu có,
thường có rất nhiều vợ; không chỉ lấy vợ hai mà còn lấy vợ ba, vợ tư… Ngoài
vợ ra, người đàn ông còn có thể có thêm nàng hầu và cũng có thể có nhiều
nàng hầu trong nhà.
Quyền gia trưởng được pháp luật phong kiến bảo vệ nên người cha,
người chồng là chủ gia đình có nhiều ưu thế. Gia trưởng là người đứng đầu
trong gia đình đối với tất cả mọi người cùng chung sống trong nhà, kể cả
những người có quan hệ bằng hợp đồng như người hầu, người học nghề…
con cháu ở cùng nhà với ông bà nội, cha mẹ thì phải thuộc quyền gia trưởng
trong nhà. Với quy định này, những người thuộc quyền quản lý của gia trưởng
đều là thành viên của gia đình. Gia đình phong kiến được chia thành hai mô
hình: Đại gia đình và tiểu gia đình. Đại gia đình là một mô hình gia đình lớn,
gồm một tập thể những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay
quan hệ nuôi dưỡng cùng chung sống với nhau mấy đời liên tiếp, trong đại gia
đình có nhiều thế hệ cùng chung sống, thậm chí đến năm đời gọi là “ngũ đại

25
 
đồng đường”. Tiểu gia đình là mô hình gia đình nhỏ gồm có vợ chồng và con
cái. Mô hình gia đình cổ phổ biến là đại gia đình, gồm các tôn thuộc như các
cụ, ông bà, cha mẹ, chú bác và ty thuộc như con, cháu, chắt.
Như vậy, do ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế - xã hội, Nho giáo và pháp
luật Trung Hoa cũng như ảnh hưởng tập quán mà đặc trưng của gia đình Việt
Nam lúc bấy giờ phổ biến là đại gia đình. Trong gia đình đó đặt dưới sự quản
lý của người gia trưởng là các thành viên của gia đình. Thành viên của gia
đình gồm các bậc bề trên gọi là tôn thuộc và các bậc bề dưới gọi là ty thuộc.
Điểm đặc biệt trong các thành viên của gia đình thời bấy giờ là có nhiều
người được gọi là vợ, ngoài vợ còn có nàng hầu những người này đều có quan
hệ hôn nhân. Trong các con có con chính hay có giá thú mà sinh ra, con
hoang, con nuôi. Ngoài những thành viên gia đình có quan hệ như trên thì
trong gia đình còn có những thành viên khác như người hầu, người học
nghề…
1.4.2. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
Thời Pháp thuộc, thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp chia
nước ta thành ba miền Bắc, Trung, Nam. Vì vậy, có ba bộ luật được áp dụng
để điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ. Ở Bắc Kỳ, áp dụng các quy định trong
bộ dân luật Bắc Kỳ (1931). Trung kỳ áp dụng bộ dân luật Trung Kỳ (1936) và
ở Nam Kỳ áp dụng các quy định trong bộ dân luật Giản yếu (năm 1883)
Về kỹ thuật lập pháp, ba bộ luật này đều ảnh hưởng từ Bộ Dân luật
pháp. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình tập
hợp thành một chế định của Luật dân sự. Về mặt nội dung, xét một cách tổng
quát, Bộ dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung Kỳ phản ánh nhiều nét phong tục
tập quán truyền thống của Việt Nam về HN&GĐ. Bộ dân luật Giản yếu chịu
ảnh hưởng của bộ luật Pháp năm 1804 cho nên có nhiều cách tân theo quan
điểm các nhà làm luật phương Tây.

26
 
Chẳng hạn trong bộ dân luật Giản yếu có điểm tiến bộ như trong điều
kiện kết hôn đã trao cho người kết hôn quyền được phép ưng thuận. Đặc biệt
còn quy định cụ thể kết hôn phải khai trước Hộ lại như: tên, tuổi và chỗ ở của
người kết hôn; họ tên cha mẹ và chủ hôn, người mai mối nếu có. Sau đó
người nói trên cùng Hộ lại cùng ký tên và đóng dấu làng. Điều này cho phép
suy đoán rằng về mặt hình thức kết hôn pháp luật thời kỳ này đã có sự phân
định giữa nghi thức truyền thống và nghi thức dân sự. Tuy nhiên tựu trung lại,
chế độ hôn nhân gia đình do nhà nước thực dân – phong kiến quy định trong
các bộ luật vẫn duy trì nét cơ bản của thời kỳ phong kiến trước đó ví dụ như:
Bộ dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung Kỳ đã quy dịnh cho vợ chồng tự do lập
hôn ước, chế độ tài sản pháp định chỉ đặt ra khi vợ chồng không lập hôn ước.
Theo chế độ này, tài sản chung của vợ chồng bao gồm tất cả của cải. hoa lợi
của chồng cũng như của vợ, không kẻ tài sản đó được tạo ra trước hay trong
thời kỳ hôn nhân.
Tập dân luật Giản yếu không thừa nhận người vợ có tài sản riêng, do đó
không thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và chồng mà toàn bộ tài sản trong gia
đình đều thuộc quyền sở hữu duy nhất của người chồng…
Như vậy, trong chế độ cũ, chế độ tài sản của vợ chồng thể hiện sự bất bình
đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ chồng trong gia đình
Có thể thấy, pháp luật thời kỳ Pháp thuộc thực chất là sự chuyển tiếp về
nội dung các quy định pháp luật thời kỳ phong kiến. Bởi lẽ, nội dung các quy
định pháp luật phong kiến khá phù hợp với chính sách “nô dịch, ngu dân” của
thực dân Pháp. Mặt khác, các quy định của pháp luật phong kiến đã ăn sâu
vào thói quen, cách ứng xử của người dân Việt Nam, cho nên các nhà cầm
quyền Pháp cũng không chủ chương phá vỡ nó. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật
lập pháp, pháp luật thời kỳ này ít nhiều ảnh hưởng pháp luật Pháp.

27
 
1.4.3. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam từ Cách mạng tháng
Tám đến nay
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta đã trải quan nhiều giai
đoạn khác nhau của lịch sử, thời kỳ đấu tranh chống thực dân, thời kỳ chống
đế quốc xâm lược. Đứng trước muôn vàn khó khăn về kinh tế, chính trị nhưng
Nhà nước ta đã không ngừng ban hành các văn bản pháp luật để ổn định đời
sống chính trị cho nhân dân. Trong những văn bản pháp luật đó thì Luật Hôn
nhân và gia đình được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Điều này
được thể hiện qua lời dạy của Bác Hồ vào tháng 4 năm 1959: “Luật hôn nhân
và gia đình là Luật liên quan đến mọi người trong xã hội. Sau Hiến pháp, nó
quan trọng thứ nhì, cho nên phải tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được
góp ý về nội dung và kỹ thuật thể hiện” [37 tr45]. Từ năm 1945 đến nay có thể
chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954, Giai đoạn tiếp
theo là từ năm 1954 đến năm 1975, Giai đoạn cuối là từ năm 1975 đến nay.
Tương ứng với từng giai đoạn này của lịch sử ta đi tìm hiểu về thành viên gia
đình trong các thời kỳ này theo quy định của pháp luật
Giai đoạn nước ta trải qua thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đây
là giai đoạn nước ta vô cùng khó khăn về mọi mặt. Quan hệ sản xuất phong
kiến vẫn tồn tại, việc xóa bỏ các tàn tích phong kiến lạc hậu không dễ dàng.
Các chế độ hôn nhân và gia đình lạc hậu ăn sâu vào trong đời sống và tiềm
thức của nhân dân. Thêm vào đó, thực dân Pháp lại âm mưu trở lại xâm lược
nước ta một lần nữa. Năm 1946 kháng chiến chống Pháp đã bùng nổ. Đứng
trước tình hình đó Nhà nước ta chưa ban hành một đạo luật cụ thể nào để điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Thay vào đó Sắc lệnh 90 – SL ngày
10/10/1945 quy định vẫn cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật
cũ có chọn lọc, theo nguyên tắc không trái với lợi ích của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa và lợi ích của nhân dân lao động. Cùng với đó tiến hành

28
 
phong trào “vận động đời sống mới” để vận động nhân dân tự nguyện xóa bỏ
những hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hôn nhân và gia đình. Năm
1946, bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành. Điều 9 Hiến
pháp 1946 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”,
đây là cơ sở pháp lý để giải phóng phụ nữ và đấu tranh xóa bỏ các chế độ hôn
nhân và gia đình lạc hậu. Một biểu hiện rất rõ lúc bấy giờ là phụ nữ đã tham
gia vào các công việc xã hội đồng thời cũng thoát khỏi những ràng buộc của
chế độ đại gia đình phong kiến. Năm 1950, Nhà nước ta đã ban hành hai Sắc
lệnh điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình là Sắc lệnh 97 về sửa đổi một số
quy lệ và chế định trong dân luật, Sắc lệnh 159 quy định về vấn đề ly hôn. Hai
Sắc lệnh này đã góp phần không nhỏ vào cuộc cách mạng văn hóa, xóa bỏ chế
độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, giải phóng con người và thúc đẩy
sự phát triển của xã hội.
Như vậy, với việc chưa ban hành một văn bản pháp luật cụ thể về hôn
nhân và gia đình, cùng với việc cho phép vận dụng những quy định trong
pháp luật cũ có chọn lọc, cho thấy đây còn là thời kỳ cách mạng văn hóa đấu
tranh tư tưởng cho việc xóa bỏ các tàn tích lạc hậu. Do đó, những thành viên
gia đình trong thời kỳ này đã có nhiều sự thay đổi, nhiều người đã thoát khỏi
sự ràng buộc trước đây trong tư tưởng cũ để tham gia vào các công việc xã
hội, đặc biệt là phụ nữ. Điểm thay đổi nhiều nhất giữa các thành viên gia đình
là vấn đề tư tưởng, tư tưởng về gia trưởng và đa thê đã từng bước bị xóa bỏ.
Một thành viên gia đình vào thời kỳ này mới được thừa nhận trở thành thành
viên gia đình so với trước đây là người con hoang. Điều 9 Sắc lệnh 97 – SL
quy định: “Người con hoang vô thừa nhận được phép thưa trước toà án để
truy nhận cha hoặc mẹ của mình”. Với quy định này thì người con hoang khi
được truy nhận cha mẹ thì trở thành thành viên của gia đình. So với Điều 174
Bộ dân luật Bắc Kỳ: “Phàm con hoang vô thừa nhận thì không được phép

29
 
thưa trước tòa án để truy nhận gốc tích cha mẹ là ai” thì đây là một sự thay
đổi lớn, vì điều này đã ngăn cấm người con hoang trở thành thành viên của
gia đình.
Đây là giai đoạn đất nước ta thực hiện hai nhiệm vụ Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Mặc dù năm 1954 cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng nước ta vẫn
tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị hoàn toàn khác
biệt. Miền Bắc đã trải qua một số sự kiện làm thay đổi sâu sắc đời sống các
gia đình trong xã hội là cuộc cải cách ruộng đất năm 1957, ban hành Hiến
pháp năm 1959, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Điều 24 Hiến pháp
năm 1959 ghi nhận: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình
đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
gia đình. Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam
giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được
nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ
quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà
giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”. Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959 ghi nhận bốn nguyên tắc: Nguyên tắc hôn nhân tự do và
tiến bộ; nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; nguyên tắc nam nữ bình
đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình; nguyên tắc bảo vệ
quyền lợi của con cái. Những sự kiện này đã khẳng định bản chất pháp luật
của nhà nước dân chủ cộng hòa, mục đích là để phục vụ lợi ích của nhân dân
lao động. Quyền lợi của các thành viên gia đình được bảo đảm và được Nhà
nước bảo vệ. Từ các quan hệ ngoài xã hội cho đến các quan hệ trong gia đình,
bình đẳng nam nữ đã được đưa lên một tầm cao mới. Người phụ nữ trước đây
chỉ biết phục tùng thì nay đã có các quyền như nam giới. Không chỉ có người
vợ trong gia đình mà quyền lợi của các con cũng đã được ghi nhận và bảo vệ.

30
 
Như vậy quan hệ giữa các thành viên gia đình đã có nhiều thay đổi,
người vợ từ người “vô năng lực về mặt hộ” đã trở thành người có quyền năng
đầy đủ như người chồng “Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về mọi
mặt” [21 Điều 12] Không chỉ người vợ mà các con cũng được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ quyền lợi, giữa cha mẹ và con đã được ghi nhận “Cha mẹ có
nghĩa vụ thương yêu, nuôi nấng, giáo dục con cái. Con cái có nghĩa vụ kính
yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ” [21 Điều 17], các con trong gia đình cũng
không còn sự phân biệt con trai hay con gái “Con trai và con gái có quyền lợi
và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình” [21 Điều19].
Không giống với miền Bắc, Miền Nam lúc này đặt dưới chính quyền
Ngụy Sài Gòn cũng đã ban hành các văn bản pháp luật như: Luật gia đình
1959, Sắc luật số 15/64, Bộ dân luật năm 1972. Các văn bản pháp luật này
đều cho thấy đã nghiêm cấm chế độ đa thê, nhưng vẫn quy định chế độ bất
bình đẳng giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền gia trưởng, phân biệt đối xử giữa
các con… Một trong những quy định không phù hợp với thực tiễn là cấm ly
hôn. Với những quy định này thì quan hệ giữa các thành viên gia đình cũng
đã có nhiều thay đổi so với thời kỳ phong kiến. Nhưng quan hệ giữa các thành
viên gia đình nhìn chung vẫn là sự bất bình đẳng, do đó không thể tránh khỏi
sư xâm phạm quyền lợi giữa các thành viên.
Đây là giai đoạn nước ta hoàn toàn độc lập, kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VI đã thống nhất đặt tên
nước, cùng với đó Nghị quyết 76/1977/CP của Hội đồng chính phủ quy định
về việc thực hiện pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước.
Năm 1980, Quốc hội khóa VI, kỳ hợp thứ 7 đã chính thức thông qua bản
Hiến pháp thứ ba. Bản Hiến pháp này dành bốn Điều 38, 47, 63, 64 để quy
định về các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. Lúc
này tình hình đất nước đã có nhiều thay đổi, nhiều quan hệ xã hội nói chung

31
 
và quan hệ trong gia đình nói riêng đã không còn như những năm 1959. Luật
Hôn nhân và gia đình 1959 đã hoàn thành vai trò của nó. Đòi hỏi của thực tiễn
cần có luật hôn nhân và gia đình mới phù hợp để thúc đẩy xã hội phát triển.
Năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình mới được thông qua, gọi là Luật Hôn
nhân và gia đình 1986. Luật Hôn nhân và gia đình 1986 đã kế thừa luật hôn nhân
và gia đình 1959. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 được xây dựng trên năm
nguyên tắc, một số nguyên tắc đã được sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Đó là:
Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ; nguyên tắc hôn nhân một vợ, một
chồng; nguyên tắc vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con; bảo
vệ bà mẹ và trẻ em. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã góp phần vào sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa thật sự dân chủ,
hòa thuận, hạnh phúc và bền vững, góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Luật Hôn nhân và gia đình 1986 đã dành một chương VIII với 6
điều quy định chế độ đỡ đầu, với những quy định này thì trong gia đình người
nhận đỡ đầu có thêm một thành viên nữa là người được đỡ đầu.
Tình hình trong nước và thế giới thay đổi nhanh chóng đã tác động
không nhỏ đến các quan hệ hôn nhân và gia đình. Thêm vào đó, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986 ban hành vào đầu thời kỳ đổi mới, sau hơn 10
năm thực hiện, thực tiễn cho thấy đã có nhiều vướng mắc trong giải quyết
tranh chấp, điều này đòi hỏi cần phải sửa đổi Luật Hôn nhân gia đình cụ thể
và toàn diện hơn cho phù hợp với tình hình mới. Năm 1992, Quốc hội đã ban
hành Hiến pháp mới, Hiến pháp năm 1992 này đã dành năm điều là 30, 35,
40, 63, 64 để quy định về chế độ hôn nhân và gia đình. Trên cơ sở pháp lý này
luật hôn nhân và gia đình đã được ban hành năm 2000 và mới đây nhất là luật
hôn nhân và gia đình đã được ban hành năm 2014 tiếp tục kế thừa và phát
triển hệ thống luật hôn nhân và gia đình trước đây. Nhiều quy định trong luật
hôn nhân và gia đình thể hiện tính phù hợp trong nền kinh tế thị trường.

32
 
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VỀ GIA ĐÌNH THEO LUẬT
HN&GĐ NĂM 2014

2.1. QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG


Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa
vụ và quyền về nhân thân và tài sản. Ở mỗi thời kỳ, quan hệ này được pháp
luật điều chỉnh khác nhau, nó thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Ví dụ, nếu trước
cách mạng tháng Tám 1945, có sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, kéo theo đó
là sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, còn sau năm sự kiện cách mạng tháng
Tám thành công, nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời, Hiến pháp đầu tiên
của nước ta 1946 đã khẳng định “ đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện”. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên khẳng định quyền bình đẳng giữa
nam và nữ, là cơ sở pháp lý xác nhận quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Và
từ đó đến nay, pháp luật nước ta đã có các quy định nhằm xây dựng một xã
hội ngày càng văn minh, phát triển. Trong đó, luật hôn nhân gia đình cũng
không nằm ngoài mục tiêu trên, các quy định đều nhằm hướng tới gia đình ấm
no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững, các thành viên trong gia đình
bình đẳng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Điều này thể hiện rất rõ nét trong
các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng, giữa các
thành viên trong gia đình. Đây là một trong những điểm cơ bản nhất, thể hiện
sự tiến bộ của chế độ hôn nhân và gia đình trong thời kỳ mới.
Vợ và chồng trước hết là những công dân của quốc gia, chỉ khác hơn là
giữa họ có sự kiện kết hôn, dẫn đến quan hệ giữa họ cũng một số khác biệt so
với quan hệ giữa công dân với công dân. Chính vì lẽ đó, nghĩa vụ và quyền
của vợ chồng trước hết bao gồm đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân,
thêm vào đó thì còn có các quyền và nghĩa vụ với nhau, với gia đình và xã
hội.

33
 
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đặc biệt được luật hôn nhân và gia
đình 2014 quan tâm, thể hiện rất rõ ở việc luật dành phần lớn các điều điều
chỉnh trong luật này. Cụ thể luật đã đưa ra các vấn đề cơ bản sau:
- Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
- Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
- Chấm dứt hôn nhân
2.1.1. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
Quan hệ nhân thân của vợ chồng bao gồm quyền và nghĩa vụ nhân thân
giữa vợ và chồng, nó là những quyền và nghĩa vụ liên quan đến lợi ích tinh
thần gắn liền với nhân thân của vợ chồng, nó phát sinh trên cơ sở kết hôn, và
tồn tại suốt trong thời kỳ hôn nhân, không phụ thuộc vào yếu tố tài sản, không
định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho người khác được mà
chính vợ và chồng sẽ là những người thực hiện, nó cũng được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ. Các quyền và nghia vụ đó bao gồm cả tình yêu, sự hòa thuận,
sự tôn trọng lẫn nhau, việc xử sự trong gia đình, quan hệ đối với cha mẹ, các
con và những thành viên khác trong gia đình. Việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ này nhằm bảo đảm thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tinh thần trong đời
sống vợ chồng. Chính vì lẽ đó, khi điều chỉnh quan hệ này, thường kết hợp
giữa các quy định của pháp luật và những quy tắc đạo đức và lẽ sống trong xã
hội. Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã thể hiện rất rõ điều đó bằng việc đưa
ra các quyền và nghĩa vụ vợ chồng phải yêu thương, đùm bọc, chung sống,
tôn trọng nhau trong các vấn đề của cuộc sống. Dựa trên những quy định đó,
sau đây tác giả sẽ phân tích các quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng
theo luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
- Vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình
Quyền bình đẳng là một trong những quyền cơ bản của công dân được
quy định rất rõ trong hiến pháp của nước ta từ hiến pháp 1946 và nó vẫn được

34
 
thể hiện trong hiến pháp mới nhất của nước ta ở thời điểm hiện nay là hiến
pháp năm 2013 tại điều: Điều 16
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Và để cụ thể hóa điều luật trên, nói rõ hơn quyền bình đẳng giữa vợ và chồng,
luật hôn nhân gia đình 2014 quy định rất rõ ràng tại Điều 17. Bình đẳng về
quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt
trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được
quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan.
Điều này hoàn toàn phù hợp với một xã hội văn minh và nhất là định hướng
phát triển xã hội của nước ta là phát triển xã hội theo chế độ xã hội chủ nghĩa,
mọi người đều bình đẳng với nhau, không có sự phân biệt giữa đàn ông và
đàn bà, không có sự phân biệt giữa các giai cấp.... Ngoài ra, quy định này
cũng còn có một ý nghĩa rất quan trọng đó là đảm bảo sự công bằng giữa công
dân với công dân, giữa vợ và chồng, xóa bỏ quan điểm cổ hủ lạc hậu từ thời
phong kiến đó là đàn ông thì có nhiều quyền hơn đàn bà, chồng có nhiều
quyền hơn vợ, chồng thì thường là đối tượng được phục vụ và ngược lại, vợ là
đối tượng phải phục vụ chồng. ..
Quy định trên thể hiện trong việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc và quyết định
về các vấn đề liên quan đến mọi mặt trong gia đình như nhân thân, tài sản, các
thành viên khác trong gia đình. Bình đẳng nghĩa là tôn trọng ý kiến của nhau,
khi có một vấn đề nào đó xảy ra thì cần có sự thảo luận để nhất trí đưa ra một
kết luận mà không phải là một người quyết định mà không cần phải hỏi ý kiến
của người khác, mọi người đều có quyền có tiếng nói riêng, đưa ra ý kiến cá
nhân của mình. Pháp luật cũng đã cụ thể hóa một số trường hợp vợ chồng cần

35
 
phải cùng nhau đồng ý thì mới có hiệu lực pháp luật như : các giao dịch liên
quan đến tài sản chung của vợ chồng thì phải được cả hai đồng ý thể hiện
bằng văn bản thì giao dịch mới có giá trị pháp lý.
Ngoài ra, bình đẳng của vợ chồng còn thể hiện trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ đối với con. Trong suốt các quy định của luật hôn nhân gia đình
2014 thì có thể nhận thấy là không thấy bất kỳ một quy định nào nói rằng vợ
hay chồng có nhiều quyền hay nghĩa vụ hơn đối với con cái của họ mà xuyên
suốt luật thì thấy rằng hai người phải cùng nhau có nghĩa vụ nuôi dạy con cái
trưởng thành, thành những người có ích cho xã hội. Điều này cũng có nghĩa là
vợ và chồng đều bình đẳng trong việc nuôi dạy và giáo dục con cái. Không
phải là một người đã kiếm tiền nuôi gia đình thì không có nghĩa vụ nuôi dạy,
chăm sóc con và người còn lại thì phải có nghĩa vụ nuôi dạy, chăm sóc con
mà hai người dù ai đi làm, hay ở nhà thì đều bình đẳng với nhau trong việc
nuôi dạy con cái.
Theo quy định của luật thì vợ chồng còn bình đẳng với nhau trong việc thực
hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Hai người phải cùng nhau
thực hiện mà không thể bắt ép một người phải thực hiện, mà phải tạo điều
kiện cho nhau để thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Điều này cũng nhằm mục
đích xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc. Với việc thực hiện kế hoạch
hóa gia đình sẽ giúp cho các cặp vợ chồng có điều kiện để trông nom, chăm
sóc, giáo dục tốt những đứa con của mình.
Vợ chồng còn bình đẳng về vấn đề ly hôn.
Tại Điều 51 Luật hôn nhân gia đình có quy định. Quyền yêu cầu giải quyết ly
hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Như vậy, đã khẳng định cả hai người đều có quyền đưa ra yêu cầu ly hôn khi
cảm thấy hôn nhân giữa họ không đạt được mục đích. Tuy nhiên, nếu như

36
 
nhìn xuống phía dưới tại khoản 3 của điều 51 lại có quy định Chồng không có
quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang
nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Cũng có thể nhiều người thắc mắc là trong vấn
đề này không có sự bình đẳng bởi trường hợp trên thì người chồng không
được ly hôn trong khi người vợ được phép dù người chồng cảm thấy rằng hôn
nhân của mình không hạnh phúc, muốn chấm dứt hôn nhân để giải thoát cho
nhau. Nếu hiểu theo quan điểm trên là hoàn toàn không chính xác bởi mục
đích của quy định này là nhằm bảo vệ người phụ nữ và trẻ em, vốn là những
người yếu hơn trong xã hội.
Vợ chồng bình đẳng trong vấn đề lựa chọn nơi cư trú, đại diện cho nhau
Vợ và chồng còn bình đẳng với nhau trong các vấn đề khác như lựa chọn nơi
cư trú, đại diện cho nhau trong các giao dịch. Đối với vấn đề lựa chọn nơi cư
trú, tại điều 20 luật hôn nhân gia đình 2014 có khẳng định, vấn đề này được
hai bên thỏa thuận mà không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một yếu tố nào khác,
Nghĩa là người chồng hay người vợ đều không thể ép buộc nhau phải sống ở
nhà vợ hay nhà chồng hay là một địa điểm khác. Đối với vấn đề đại điện cho
nhau thì vợ và chồng đều có thể thỏa thuận đại diện cho nhau thực hiện các
giao dịch mà không phải là người chồng đương nhiên được quyền đại diện
cho người vợ, người vợ thì không có quyền thay mặt người chồng thực hiện
thay chồng hoặc ngược lại. Hai người hoàn toàn có quyền và bình đẳng với
nhau trong vấn đề này khi thỏa thuận được với nhau và theo quy định của
pháp luật.
Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc,
giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
Đây chính là nội dung của khoản 1 điều 19 luật hôn nhân gia đình 2014 với
tiêu đề Tình nghĩa vợ chồng. Nghĩa vụ này phản ánh trách nhiệm tình cảm
giữa vợ và chồng. Cụ thể:

37
 
Trước hết để có thể là vợ, là chồng của nhau trên phương diện pháp lý thì hai
người phải tự nguyện đăng ký kết hôn, đây là một điều kiện tiên quyết để hai
cá nhân có thể thành vợ chồng và được pháp luật công nhận và bảo vệ quan
hệ của họ. Hai người đến với nhau, kết hôn với nhau hướng tới mục tiêu là
xây dựng một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, vì
vậy, điều dễ hiểu là họ phải thực hiện những nghĩa vụ trên, nếu không thì có
thể nói rằng gia đình sẽ khó mà tồn tại được. Cơ sở để xác lập quan hệ vợ
chồng là tình yêu thương giữa nam và nữ. Đến một thời điểm nào đó, hai
người cảm thấy đủ sự yêu thương, hiểu nhau, thông cảm cho nhau ... thì họ
quyết định xác lập quan hệ hôn nhân và trở thành vợ chồng của nhau. Khi đã
trở thành vợ chồng thì tình cảm yêu thương đó cũng cần phải được duy trì thì
mới có thể đảm bảo cho sự bền vững của cuộc hôn nhân giữa họ. Và một
trong những điều khá quan trọng và quyết định việc hôn nhân có bền vững
hay không đó chính là hai người có chung thủy với nhau hay không. Trong xã
hội hiện nay, ngoại tình đang là một trong những vấn nạn của xã hội và dường
như nó xuất hiện ngày càng nhiều và theo số liệu của một cuộc điều tra thì
ngoại tình là nguyên nhân phổ biến thứ ba khi vợ chồng ly hôn và 55% số
người được hỏi nói rằng ngoại tình là nguyên nhân gây ra sự ly hôn của vợ
chồng. Ngoài ra việc ngoại tình cũng sẽ vi phạm quy định về chế độ một vợ
một chồng được pháp luật bảo vệ và là hành vi vi phạm đạo đức, bị xã hội lên
án mạnh mẽ.
Vợ chồng phải tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia
sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Những việc này thể hiện ở chính
hành vi, cách xử sự và thái độ của họ đối với nhau. Vợ chồng phải có ý thức
chăm lo cho gia đình, phải biết san sẻ mọi việc, giảm bớt gánh nặng cho nhau.
Ngày nay, dường như con người cũng bận rộn hơn, có nhiều việc phải làm
hơn vì vậy, vợ chồng cần phải biết giúp đỡ nhau làm những công việc xã hội

38
 
cũng như việc gia đình. Nếu như ở thời kỳ trước, phụ nữ thường thì chỉ có
những công việc nhà, đồng áng thì hiện nay, phụ nữ đã có nhiều việc phải làm
hơn, không chỉ là những công việc trong gia đình mà còn có những công việc
ngoài xã hội, phụ nữ cũng tham gia rất nhiều trong các lĩnh vưc chính trị, văn
hóa xã hội. Vì vậy, người chồng càng cần phải quan tâm, giúp đỡ người vợ để
họ có thể làm tốt việc ở mọi vị trí, cả trong công việc gia đình và xã hội.
Đây không chỉ là nghĩa vụ về mặt pháp lý mà còn là nghĩa vụ đạo đức. Quy
định này khẳng định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng và cũng nhằm ngăn
chặn hành vi đánh đập, xâm phạm thân thể nhân phẩm của nhau, hành vi quan
hệ ngoài hôn nhân của những người đang có vợ, có chồng. Điều này cũng
nhằm mục đích bảo vệ hôn nhân của vợ chồng.
- Tự do lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng.
Đây là một trong những quyền được giữ nguyên so với luật hôn nhân gia đình
2000. Tại luật hôn nhân gia đình 2014 quy định: Điều 20. Lựa chọn nơi cư trú
của vợ chồng
Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng
buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính.
Quy định này cũng nhằm xóa bỏ tập quán lạc hậu “ thuyền theo lái, gái theo
chồng” xuất hiện từ xưa. Ở xã hội trước, người vợ không có quyền quyết định
về chỗ ở mà hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình chồng, phụ thuộc vào người
chồng. Theo quy định này thì hai người hoàn toàn có quyền thỏa thuận về
việc hai người sẽ sống ở đâu, nó có thể là nhà vợ, nhà chồng, ở trong nước, ở
nước ngoài … Nếu vợ chồng có nơi ở chung sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau nuôi dạy con.
Nếu vì lý do nghề nghiệp mà vợ chồng không thể có nơi cư trú chung thì mỗi
người có quyền tự do lựa chọn nơi cư trú của mình. Một điều chú ý nữa là
việc hai vợ chồng ở chung hay ở riêng cũng không ảnh hưởng tới việc vợ

39
 
chồng thực hiện các nghĩa vụ đối với nhau, với con cái và chăm lo xây dựng
gia đình.
Một điểm mới của luật hôn nhân gia đình 2014 với các luật hôn nhân gia đình
trước đó thì có thể thấy, tại luật mới này thì đã quy định rõ hai vợ chồng có
nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác
hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. Điều này được
hiểu là vợ chồng phải sống cùng nhau, trừ trường hợp đặc biệt, do công việc,
học tập, chính trị mà không thể sống cùng nhau. Việc quy định như vậy có thể
thấy khá hợp lý bởi việc chung sống cùng nhau giúp cho hai người có điều
kiện để chăm sóc, giúp đỡ nhau, thể hiện tình cảm, sự quan tâm lẫn nhau, con
cái và gia đình, giúp cho hôn nhân bền vững và có lẽ cũng chính vì vậy mà
người xưa có câu “ xa mặt cách lòng” để nói về việc này.
- Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng
Trong điều 20 của hiến pháp nước ta năm 2013 có quy định: Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm. Điều 37 Bộ luật dân sự 2005 cũng có quy định: “Danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. Và
tại điều 21 luật hôn nhân gia đình là luật riêng điều chỉnh các quan hệ trong
hôn nhân gia đình cũng có quy định “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ
gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.”
Trong quan hệ vợ chồng, khi còn yêu thương nhau thì mọi điều xảy ra trong
cuộc sống đều có thể chấp nhận và bỏ qua cho nhau. Nhưng khi có những
mâu thuẫn thì danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau không những không được
tôn trọng mà còn có thể bị xâm phạm. Ngoài ra, pháp luật còn nghiêm cấm vợ

40
 
chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của nhau. Quy định này nhằm khẳng định vị thế của người vợ trong gia đình,
ngăn chặn các hành vi bạo lực gia đình đối với người phụ nữ, không chỉ là
bạo lực thể xác mà cả những bạo lực về mặt tinh thần. Thực tế hiện nay có rất
nhiều người phụ nữ, người vợ bị người chồng đánh đập, chửi bới, xúc phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm và sự việc chỉ được xử lý khi đã có những
hậu quả rất nghiêm trọng xảy ra. Vì vậy, cần phải có những quy định nghiêm
khắc hơn và cần phải vận động cho mọi người biết về quyền và nghĩa vụ này
để biết cũng như nghiêm túc thực hiện tránh những sự việc đáng tiếc có thể
xảy ra.
- Vợ chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau
Tại Hiến pháp nước ta năm 2013 có quy định rât rõ ràng về quyền và nghĩa vụ
của công dân trong vấn đề tự do tín ngưỡng: Điều 24
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Theo đó thì mọi công dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp
với mình, không ai có quyền bắt ép ai phải theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào
cả. Và đối với luật hôn nhân gia đình 2014 quy định Điều 22. Tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng
Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau.
Đây là cơ sở pháp lý nhằm ngăn cản hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của
vợ chồng đối với nhau. Người chồng hay người vợ không được bắt ép người
còn lại phải theo tôn giáo của mình mà phải đảm bảo, tôn trọng tín ngưỡng,
tôn giáo của nhau. Tuy nhiên, việc sinh hoạt tôn giáo phải trong khuôn khổ

41
 
của pháp luật cho phép, không được gây trở ngại cho việc thực hiện các nghĩa
vụ của vợ chồng, cũng không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt gia đình. Thực
tiễn cho thấy nhiều người lợi dụng danh nghĩa vợ chồng, một bên đã cấm
hoặc cản trở quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của bên kia.
- Vợ chồng có quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các
hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Quyền này cũng là sự cụ thể hóa một trong những quyền cơ bản của công dân
được ghi nhận trong hiến pháp. Việc quy định như vậy sẽ giúp gắn kết tình
cảm, phát huy được sở trường của bản thân, tạo ra sự thoải mái, tự do, bình
đẳng giữa hai vợ chồng. Trong trường hợp vợ chồng không thể thống nhất
được với nhau về việc lựa chọn nghề nghiệp thì có thể chọn giải pháp phù hợp
với hoàn cảnh thực tế của gia đình. Vợ, chồng không chỉ giúp đỡ nhau chọn
lựa nghề nghiệp mà còn giúp đỡ nhau học tập, nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn, chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao mức sống và cống hiến cho
sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Ngày nay không chỉ nam giới mà
phụ nữ ngày càng tham gia nhiều vào các công việc xã hội, do sự phát triển
của xã hội, những công việc này đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ.
Do đó, việc học tập và nâng cao trình độ không chỉ cho bản thân người học
mà đây còn là trách nhiệm của vợ, chồng đối với xã hội. Vợ, chồng không chỉ
giúp đỡ nhau trong việc lựa chọn nghề nghiệp và học tập mà còn tạo điều kiện
cho nhau tham gia các công việc xã hội mà vợ, chồng có nguyện vọng và khả
năng. Việc tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội là quyền cơ
bản của mỗi công dân, quyền này thường bị xâm phạm trong đời sống gia
đình do nhiều lý do. Để khẳng định quyền này của mỗi cá nhân trong đời sống
gia đình, luật hôn nhân và gia đình đã khẳng định vợ, chồng có nghĩa vụ tôn
trọng quyền này của nhau, đồng thời tạo điều kiện cho nhau thực hiện quyền
này.

42
 
- Vợ chồng có quyền đại diện cho nhau trước pháp luật.
Điều 62 Bộ luật dân sự 2005: “Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân
sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ
là người giám hộ”. Điều này còn được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
cụ thể tại mục 2 chương III. Điều 24 :2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau
xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ
luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ
chồng. Trong trường hợp vì lý do nào đó một bên không trực tiếp tham gia
giao dịch khi giao dịch đó đòi hỏi phải có sự đồng ý của cả vợ chồng thì vợ,
chồng có thể ủy quyền cho bên kia xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao
dịch đó. Quy định này hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn trong các
quan hệ dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Một mặt quy định
này đảm bảo được sự kiểm soát cả vợ và chồng đối với khối tài sản chung,
mặt khác quy định cũng cho phép các giao dịch dân sự được thực hiện một
cách dễ dàng hơn khi một bên đã thể hiện ý chí của mình đối với giao dịch đó.
Quy định này còn cho phép vợ chồng là người giám hộ đương nhiên của nhau
khi một bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự. Mọi giao dịch của
người mất năng lực hành vi dân sự đều do vợ hoặc chồng của người đó xác
lập, thực hiện. Quan hệ của vợ chồng là một loại quan hệ đặc biệt, quan hệ
này được Nhà nước ghi nhận và buộc họ phải có trách nhiệm với nhau khi
một bên mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp phải giám hộ thì vợ
chồng được ưu tiên là người giám hộ của nhau. Đây không chỉ là nghĩa vụ
pháp lý của vợ chồng đối với nhau mà còn là yêu cầu về đạo đức.
Nếu trong các luật hôn nhân gia đình trước, để giải quyết trường hợp ly hôn
giữa một bên bị mất năng lực hành vi dân sự thì rất khó, nhận thấy đây là một
điểm bất cập và cần phải giải quyết nên luật hôn nhân gia đình 2014 đã có
những quy định để giải quyết trường hợp này như sau. Trường hợp liên quan

43
 
đến tài sản, và một số vấn đề nhân thân thì vợ và chồng có thể đại diện cho
nhau thực hiện, nhưng đối với vấn đề ly hôn này thì trong trường hợp một
người bị mất năng lực hành vi dân sự thì tòa án sẽ chỉ định người khác làm
người đại diện hợp pháp cho họ để giải quyết vụ việc.
Qua phần phân tích trên có thể nhận thấy luật hôn nhân gia đình 2014 đã có
rất nhiều quy định nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, vừa
tạo hành lang pháp lý, vừa giúp các bên gắn kết, yêu thương nhau và ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật.
2.1.2. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng bao gồm chế độ tài sản của vợ chồng,
quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản của nhau. Tại luật hôn
nhân gia đình 2014, pháp luật đã có sự tiến bộ, đổi mới, khắc phục được một
số điểm chưa phù hợp của luật hôn nhân gia đình 2000. Cụ thể như sau:
- Chế độ tài sản của vợ chồng:
Ngay từ điều 28 luật hôn nhân gia đình 2014 đã khẳng định: Vợ chồng có
quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa
thuận. Như vậy, có thể thấy, luật hôn nhân gia đình 2014 đã cho phép vợ chồng có
thêm chế độ tài sản theo thỏa thuận ngoài chế độ theo luật định.
Chế độ tài sản theo luật định thì vợ chồng có thể có tài sản chung, có tài
sản riêng, tùy thuộc vào sự hình thành, thời điểm chúng được tạo ra.
Tài sản chung của vợ chồng
Đối với loại tài sản này, luật đã quy định rất rõ những loại tài sản là tài sản
chung như sau: Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường
hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng

44
 
được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được
dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ
chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ,
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi
là tài sản chung.
Như vậy, có thể nhận thấy những tài sản chung của vợ chồng có những
đặc điểm sau:
- Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những
tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Có thể thấy mọi tài sản
được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nếu các bên không có thỏa thuận nào
khác thì đều được coi là tài sản chung của vợ chồng cho dù tài sản đó là do ai
tạo ra.
Trong điều luật trên thì có thể thấy, luật hôn nhân gia đình chưa nêu rõ
ra "Những thu thập hợp pháp khác" gồm những khoản nào. Tuy nhiên dựa
theo quy định của pháp luật khác liên quan thì có thể hiểu những thu nhập
hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ở đây được hiểu là tiền
thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được hoặc tài
sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247,

45
 
248, 249, 250, 251 và 252 Bộ luật dân sự... trong thời kỳ hôn nhân. Những tài
sản như vậy là để đảm bảo duy trì cho cuộc sống hàng ngày của cả hai vợ
chồng, giúp gia đình tồn tại và phát triển được và nhằm đạt được chức năng,
nhiệm vụ, mục đích của gia đình.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng. Điều này được hiểu là quyền sử dụng đất được hình
thành trong thời kỳ hôn nhân thì đều là tài sản chung và cả vợ và chồng sẽ là
người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó, điều này đồng
nghĩa với việc khi thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất
này thì phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, cũng xuất phát
từ quyền có tài sản riêng của vợ chồng, luật pháp cũng quy định trong trường
hợp này, quyền sử dụng đất tuy được hình thành trong thời kỳ hôn nhân
nhưnng vẫn thuộc tài sản riêng của vợ chồng. Trường hợp đó là vợ, chồng
được thừa kế riêng, được tặng cho rieng hoăc có được thông qua giao dịch
bằng tài sản riêng. Bởi trong thực tế có nhiều trường hợp bố mẹ của vợ hoặc
chồng muốn cho con ruột của mình mà không muốn cho con dâu/con rể được
hưởng tài sản của mình hay ngược lại... Có thể thấy rằng đây cũng là một việc
hoàn toàn phù hợp với đạo đức xã hội, pháp luật, đảm bảo quyền tự do định
đoạt tài sản của chủ sở hữu, ý chí, mong muốn chủ quan của người cho tặng
tài sản, người để lại di chúc nên việc quy định như vậy là hợp lý và hợp tình.
Đối với trường hợp thông qua giao dịch bằng tài sản riêng, điều này được
hiểu rằng, việc người vợ hoặc người chồng sử dụng khoản tiền riêng, tài sản
riêng của mình để thực hiện giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất thì họ
cũng phải có quyền đối với quyền sử dụng đất do mình bỏ tiền riêng của mình
ra để chuyển nhượng. Ngoài ra, quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được
trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có
thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì mãi mãi nó là tài sản riêng của vợ

46
 
hoặc chồng, nó không thể chuyển hóa thành tài sản riêng mặc dù có thể sau
khi kết hôn, hai vợ chồng vẫn sinh sống, lao động, làm việc trên nhà và đất đó
thì cũng không đồng nghĩa với việc nó là tài sản chung của vợ chồng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Nghĩa là vợ
chồng có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản chung. Điều này cũng thể hiện rất rõ trong Điều 29
luật hôn nhân gia đình 2014. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ
chồng
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập,
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động
trong gia đình và lao động có thu nhập.
Hai vợ chồng dù có người tạo ra thu nhập, người không tạo ra thu nhập
thì đều bình đẳng trong việc sử dụng tài sản chung. Quy định này là để đảm
bảo cho việc hai vợ chồng luôn tôn trọng nhau, tránh sự phân biệt giữa người
làm ra thu nhập và người ở nhà, không làm có thu nhập, bảo vệ người vợ ở
nhà chăm sóc gia đình, không tạo ra thu nhập, và để chống lại quan điểm
người làm ra tiền có quyền tiêu nhiều tiền còn người làm ra ít tiền hoặc không
làm ra tiền thì có ít hoặc không có quyền tiêu nhiều,tạo ra sự công bằng giữa
vợ chồng.
- Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Thực tiễn cho thấy ở nước ta hiện nay, chỉ
có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy
chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử
dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản
khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi
tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Điều này

47
 
dẫn đến việc khi tranh chấp xảy ra khi chia tài sản chung của vợ và chồng thì
nếu nó là tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng lại được hình thành trong
thời kỳ hôn nhân thì người đó phải chứng minh được nó là tài sản riêng của
mình mà không mặc nhiên được công nhận rằng mình đứng tên trên giấy
chứng nhận sở hữu tài sản thì nó là tài sản riêng của mình và không có nghĩa
vụ chứng minh còn trong trường hợp không chứng minh được nó là tài sản
riêng thì nó được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản riêng của vợ chồng
Quyền có tài sản riêng là một trong những quyền con người, không ai,
nhà nước nào có thể làm mất đi quyền đó. Và đối với vợ chồng, dù họ có mối
quan hệ rất thân thiết nhưng họ vẫn có quyền có tài sản riêng, không phụ
thuộc vào chồng, hay bất kỳ ai khác. Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã có
những quy định rất chi tiết về loại tài sản này như sau:
- Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Theo quy định tại Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thì: "Tài sản riêng
của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng theo quy định; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ,
chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của
vợ, chồng.”
Ngoài ra: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư
kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng
khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản
chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu
cầu Toà án giải quyết.”
Và “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài
sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi

48
 
chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ
chồng..”
- Theo đó mỗi bên vợ hoặc chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt và có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung. Chính vì đây là tài sản riêng của mỗi người nên họ có toàn quyền đối
với tài sản này và đương nhiên người còn lại không có quyền khi không được
vợ hoặc chồng cho phép, trừ những hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là
nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự
đồng ý của chồng( khoản 4 điều 44 luật hôn nhân gia đình 2014), hoặc trường
hợp giao dịch liên quan đến nhà ở là nơi ở duy nhất của cả hai vợ chồng thì
chủ sở hữu nhà ở phải đảm bảo chỗ ở cho vợ chồng mà không thể nói rằng
mua nhà xong là xong, còn việc hai vợ chồng ở đâu thì là việc của họ.
- Tài sản riêng của vợ, chồng được quy định tại điều 43 luật hôn nhân
gia đình bao gồm:
+ Tài sản của vợ, chồng gồm có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng
cho vợ, chồng theo quy định; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng
và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ,
chồng.
+ Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài
sản riêng của vợ, chồng.
Ngoài ra, tác giả muốn lưu ý về tài sản riêng trong một số trường hợp
sau:
+ Những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản riêng của mỗi bên;
trừ trường hợp sự thỏa thuận đó là căn cứ rõ ràng là nhằm tẩu tán tài sản hoặc
trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng đối với người khác.

49
 
+ Đối với những đồ nữ trang trong ngày cưới mà cha mẹ cho con (
vàng, kim khí quý…) thì cần xác định theo nguyên tắc: nếu cha mẹ tuyên bố
cho riêng thì đó là tài sản riêng, nếu bố mệ tuyên bố cho chung cả hai vợ
chồng thì đó là tài sản chung. Tuy nhiên, trên thực tế, giải quyết những trường
hợp liên quan đến vấn đề này không hề dễ dàng bởi lúc cho con thì hai người
chỉ nói miệng, ít khi thực hiện cho bằng văn bản nên việc chứng minh cũng
không hề dễ dàng.
Những quy định về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng và tài sản
chung của vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự tôn trọng
quyền sở hữu cá nhân của công dân nói chung và vợ chồng nói riêng; tôn
trọng sự độc lập của vợ chồng trong việc tham gia vào các mối quan hệ xã hội
khác ngoài hôn nhân và gia đình đồng thời khẳng định một cách nhất quán
trong việc tiếp cận về bình đẳng giới xét về cả mặt lý luận và thực tiễn của
việc ghi nhận pháp luật trong cuộc sống.
- Chuyển hóa tài sản chung và tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Chuyển hóa từ tài sản chung sang tài sản riêng. Trường hợp này xảy ra
khi vợ chồng thực hiện việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Hai
bên có thể thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung thành tài sản
riêng theo quy định tại điều 38 luật hôn nhân gia đình 2014. Thỏa thuận này
phải được lập thành văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng
hoặc theo luật định. Trong trường hợp hai bên không thể thỏa thuận được thì
có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Và kể từ thời
điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản, hoặc là ngày lập văn
bản hoặc việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định hoặc ngày
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc chia tài sản chung
chính thức có hiệu lực. Kể từ thời điểm này, phần tài sản được chia, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài

50
 
sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài
sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Và trong trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng này thì quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa
vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung
có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào việc chia tài sản chung của vợ chồng
cũng có hiệu lực mà việc chia này phải đảm bảo ngoại trừ các trường hợp sau
được quy định tại điều 42 luật hôn nhân gia đình 2014:
1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp
pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân
sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự
và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Vì đây là sự thỏa thuận của hai bên nên pháp luật cũng cho phép tại
một thời điểm nào đó trong hôn nhân, hai bên muốn chấm dứt hiệu lực của
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì cũng giống như lúc thực
hiện việc chia, hai bên cũng phải lập thỏa thuận về việc chấm dứt hoặc phải
được Tòa án công nhận.
Chuyển hóa từ tài sản riêng sang tài sản chung: Cũng xuất phát từ
quyền tự do của vợ chồng, trước khi kết hôn, hai bên có thể có những khối tài
sản riêng của riêng mình thì tại bất kỳ một thời điểm nào đó trong hôn nhân,

51
 
hai bên đều có thể nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ
chồng. Việc nhập tài sản này phải được thực hiện theo thỏa thuận của vợ
chồng, và kể từ thời điểm nhập tài sản này có hiệu lực, tài sản riêng sẽ trở
thành tài sản chung của vợ chồng và các nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng
sẽ được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác. Vợ hoặc chồng hoàn toàn có quyền nhập một số hoặc toàn bộ tài sản
riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Và để đảm bảo chắc
chắn thì thỏa thuận này cũng cần được lập bằng văn bản để tránh tranh chấp
xảy ra khi ly hôn hoặc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Thực tế thì có
nhiều trường hợp xảy ra, lúc tình cảm của vợ chồng tốt đẹp, có nói rằng sẽ
nhập một hoặc một số tài sản riêng của mình vào tài sản chung, nhưng lại
không lập thành văn bản, không thực hiện đăng ký thay đổi chủ sở hữu tài
sản. Và khi có mâu thuẫn xảy ra, hai vợ chồng ly hôn thì rất khó để chứng
minh đó là tài sản chung của hai vợ chồng.
- Chế độ tài sản theo thỏa thuận
Trải qua gần 15 năm thực hiện, Luật HN&GĐ năm 2000 đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với tình hình kinh tế, văn hóa - xã
hội Việt Nam hiện nay. Do đó nhằm bắt kịp xu hướng và giải quyết các mong
muốn, nguyện vọng chính đáng của vợ chồng, lần đầu tiên trong lịch sử pháp
luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (hay còn gọi là hôn ước) đã được
ghi nhận: “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định
hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận…” (Khoản 1 Điều 28). Chính vì vậy,
trong bài này, tác giả xin trình bày rõ hơn về chế độ tài sản mới này.
Thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận là một sự thay đổi lớn về tư
tưởng lập pháp của Nhà nước ta. Các nhà lập pháp cho rằng: việc áp đặt một
chế độ tài sản trong hôn nhân cho tất cả các cặp vợ chồng là cứng nhắc,

52
 
không đáp ứng được nhu cầu của một số cặp vợ chồng muốn thực hiện một
chế độ tài sản phù hợp với tình trạng kinh tế của họ và gia đình; quy định của
Luật hôn nhân gia đình năm 2000 không đảm bảo quyền tự định đoạt của
người có tài sản được quy định trong Hiến Pháp và BLDS; nhiều Bộ, ngành
địa phương đã có ý kiến cho rằng việc lập thỏa thuận về tài sản trước hôn
nhân là cần thiết, là cách ứng xử công bằng và tiến bộ, giúp giảm thiểu xung
đột và tiết kiệm được án phí tranh tụng trong trường hợp ly hôn; pháp luật của
hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều quy định về các chế độ tài sản của
vợ chồng khác nhau (chế độ tài sản theo luật định và chế độ tài sản theo thỏa
thuận)…. Vì vậy, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được Luật hôn
nhân gia đình năm 2014 thừa nhận song song với chế độ tài sản của vợ chồng
theo luật định.
Để hướng dẫn các quy định của Luật hôn nhân gia đình năm 2014,
Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân gia đình năm
2014. Trong đó, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được quy định
tương đối cụ thể và chặt chẽ.
Các nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận do vợ
chồng quyết định. Luật hôn nhân gia đình năm 2014 không đưa ra những điều
khoản cụ thể cho các nội dung của chế độ tài sản này. Tuy nhiên, để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ tài sản và giải quyết tranh chấp, Luật
quy định thỏa thuận của vợ chồng phải xác định những nội dung cơ bản, bao
gồm: xác định tài sản của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài
sản; phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản và các nội dung khác có
liên quan. Tuy nhiên, đây không phải là quy định về điều kiện có hiệu lực của
thỏa thuận của vợ chồng. Như đã nêu ở mục trước, trường hợp thỏa thuận của

53
 
vợ chồng không đầy đủ hoặc không rõ ràng thì áp dụng các quy định chung
và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định.
Xác định tài sản của vợ chồng
Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định nội dung của chế độ tài sản
của vợ chồng bao gồm các vấn đề về tài sản của vợ chồng, trong đó xác định
tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng của vợ, của chồng
(điểm a, khoản 1 Điều 48).
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân gia đình năm 2014 hướng dẫn:
“Điều 15. Xác định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
1. Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các
nội dung sau đây:
a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của
vợ, chồng;
b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài
sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều
thuộc tài sản chung;
c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ,
chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu
riêng của người có được tài sản đó;
d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
2. Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải phù hợp với quy định tại
các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu vi phạm,
người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa
thuận vô hiệu theo quy định tại Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình.”

54
 
Điều luật này cho thấy nhà làm luật đã dự liệu trước trong trường hợp
vợ chồng chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận thì việc xác định tài sản
của vợ chồng có thể theo một trong các hướng sau:
+ Thứ nhất, tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản
riêng của vợ, chồng. Việc xác định căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng hoàn toàn do hai bên vợ, chồng tự thỏa thuận, pháp luật không
đưa ra bất kỳ quy định nào trong trường hợp này. Tuy nhiên, các bên có thể
thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản mà vợ, chồng
tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có được từ trước
khi kết hôn hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân
(không kể là động sản hay bất động sản) là tài sản riêng của vợ chồng.
+ Thứ hai, giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà
tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn
nhân đều thuộc tài sản chung.
Chế độ tài sản này có ưu điểm là đơn giản trong việc xác định tính chất
của tài sản cũng như những khoản nợ và mang đậm tính cộng đồng trong gia
đình. Chế độ tài sản này thường phù hợp với loại gia đình truyền thống, luôn
đặt lợi ích chung của gia đình, nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục các con lên
hàng đầu. Nhưng chế độ này không mang lại sự công bằng giữa vợ chồng,
không đảm bảo quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ chồng khi
tham gia các giao dịch dân sự cũng như quyền tự định đoạt của vợ, chồng đối
với những tài sản mà theo bản chất là tài sản riêng của vợ chồng…Hơn nữa,
chế độ tài sản này dễ làm nảy sinh quan hệ hôn nhân với mục đích của một
bên là chiếm hữu tài sản của bên kia. Do đó, chế độ cộng đồng toàn sản
thường ít được các cặp vợ chồng lựa chọn.

55
 
+ Thứ ba, giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do
vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở
hữu riêng của người có được tài sản đó.
Chế độ tài sản này chỉ ghi nhận sự tồn tại của hai khối tài sản riêng của
mỗi bên. Đây là chế độ tài sản đơn giản, mỗi bên vợ chồng đều toàn quyền
quản lý, định đoạt tài sản của riêng mình, không tồn tại khối tài sản chung
(với điều kiện tài sản của các bên vẫn phải đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia
đình). Chế độ tài sản tạo cho vợ chồng sự tự chủ cao, phù hợp với những cặp
vợ chồng có nhiều tài sản riêng mà đều tham gia các hoạt động kinh doanh,
thương mại, cần tránh những rủi ro có thể gây ra cho gia đình từ thất bại của
công việc kinh doanh của cá nhân. Tuy nhiên, đây là chế độ tài sản thiếu tính
cộng đồng, không mang lại sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình.
Những gia đình chỉ có một bên vợ hoặc chồng tham gia hoạt động kinh doanh
và người còn lại không trực tiếp hoạt động tạo ra tài sản không nên lựa chọn
chế độ tài sản này để tránh sự thiệt thòi cho một bên khi chế độ tài sản chấm
dứt
+ Ngoài ra, tài sản của vợ chồng có thể được xác định theo các thỏa
thuận khác của vợ chồng. Theo đó, vợ chồng có thể hoàn toàn tự do thỏa
thuận về tài sản của mình, đưa ra các căn cứ làm xác lập, thay đổi, chấm dứt
quyền sở hữu tài sản phù hợp với điều kiện và nguyện vọng của vợ, chồng
nhưng không trái pháp luật, đảm bảo đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
và không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người khác.
Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
Bên cạnh việc xác định tài sản của vợ chồng, nội dung chế độ tài sản
của vợ chồng không thể thiếu vấn đề quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với
tài sản.

56
 
Đối với chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, Luật chỉ quy định
chung: “1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:…b)
Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao
dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia
đình;…”(điểm b khoản 1 Điều 48) mà chưa có hướng dẫn cụ thể nào thêm.
Theo đó, vợ, chồng có toàn quyền tự do thỏa thuận với nhau về việc quản lý,
sử dụng, định đoạt tài sản, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ chồng đối với
tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung hợp nhất; quyền và nghĩa vụ tài
sản của vợ chồng đối với giao dịch có liên quan (phải tuân theo nguyên tắc
bảo đảm lợi ích hợp pháp của gia đình, vợ, chồng, các thành viên khác trong
gia đình và người khác). Việc pháp luật không có quy định cụ thể vấn đề này
càng thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của vợ, chồng. Chỉ có
một nội dung cụ thể mà pháp luật “gợi ý” thỏa thuận đó là nghĩa vụ về “tài
sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Tài sản đó có thể được các
bên thỏa thuận trích từ khối tài sản chung hoặc từ tài sản riêng của vợ, chồng.
Vợ chồng có thể tự do thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với tài sản chung và tài sản riêng theo ý chí của hai bên, theo nhu cầu,
hoàn cảnh kinh tế của gia đình... Vợ chồng cũng có thể thỏa thuận tương tự
theo một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản theo pháp luật. Bởi
trong chế độ tài sản theo pháp luật, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy
định tương đối cụ thể và hợp lý về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài
sản chung và tài sản riêng tại các Điều 35, 36, 37, 44, 45. Chẳng hạn như:
“Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa

57
 
tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định
tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không
vì nhu cầu của gia đình;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng”
(Điều 45).
Thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản phải đảm
bảo không xâm phạm đến lợi ích của người thứ ba. Để bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình, pháp luật quy định:
“Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải phù hợp với quy định tại các
Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu vi phạm, người có
quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận vô hiệu
theo quy định tại Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình” (khoản 2 Điều 15 -
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP).
“Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp
dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho
người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa
vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo
quy định của Bộ luật Dân sự” (Điều 16 - Nghị định số 126/2014/NĐ-CP).
Như vậy, với chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, các quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản như việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản, thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch với người thứ ba… hoàn
toàn do vợ chồng thỏa thuận quyết định. Thỏa thuận này phải bảo đảm đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình và bảo đảm lợi ích hợp pháp của người có
liên quan.
Phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản

58
 
Trong chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, viêc phân chia tài
sản được Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định: “…Trong trường hợp chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn
được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì
áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các
điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết” (khoản 1 Điều 59).
Căn cứ vào đó, việc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận cũng thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt tài
sản của vợ chồng. Vợ chồng hoàn toàn có thể thỏa thuận phân chia tài sản
theo những nguyên tắc riêng được thống nhất bởi hai bên. Thỏa thuận về
nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản giúp Tòa án giải
quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng một cách nhanh chóng và dễ dàng
hơn. Khi tranh chấp xảy ra, căn cứ vào các thỏa thuận đã được các bên thống
nhất, Tòa án có thể dễ dàng xác định đâu là khối tài sản chung của vợ chồng,
đâu là tài sản riêng của vợ, chồng, cách thức phân chia cụ thể các khối tài sản
này.
Chỉ khi vợ chồng thỏa thuận không đầy đủ hoặc có thỏa thuận nhưng
thỏa thuận đó không rõ ràng thì mới áp dụng tương ứng các nguyên tắc phân
chia tài sản của chế độ tài sản pháp định được quy định cụ thể trong Luật hôn
nhân gia đình năm 2014. Với chế độ tài sản theo pháp luật, nếu khi chấm dứt
chế độ tài sản mà vợ, chồng không thỏa thuận được thì tài sản được phân chia
như sau: “2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến
các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như
lao động có thu nhập;

59
 
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không
chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng
hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên
kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ
trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật
này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài
sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần
giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình” (khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 Luật hôn nhân
gia đình năm 2014).
Tóm lại, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định vợ, chồng có thể
tự do thỏa thuận các nội dung của chế độ tài sản theo thỏa thuận xoay quanh
vấn đề quan hệ sở hữu tài sản, trong đó đưa ra một số gợi ý như chế độ cộng
đồng toàn sản, chế động cộng đồng tạo sản hay chế độ biệt sản… Mặc dù vợ
chồng được tôn trọng quyền tự do thỏa thuận nội dung của chế độ tài sản theo
thỏa thuận nhưng vẫn phải tuân thủ các quy định chung về chế độ tài sản giữa
vợ chồng như các nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng, quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, lợi
ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình và người

60
 
có liên quan… nhằm đảm bảo việc thỏa thuận của vợ chồng đúng quy định
của pháp luật và đảm bảo quyền lợi cho người khác.
Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng
Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cho phép thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng sau khi đã được xác lập vẫn có thể sửa đổi, bổ sung:
“ 1. Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản.
2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài
sản theo thỏa thuận được áp dụng theo quy định tại Điều 47 của Luật này”
(Điều 49).
Căn cứ vào quy định trên, mặc dù văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng phải được lập trước khi kết hôn, nhưng trong thời kỳ hôn nhân,
vợ chồng vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản này.
Luật quy định như vậy dựa trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thỏa thuận của
vợ chồng về chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân.
Việc sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận của
vợ chồng cũng phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực
giống như văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ban đầu. Theo
pháp luật về công chứng thì việc sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng phải được thực hiện tại nơi vợ chồng đã công chứng thỏa thuận
về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn:
“Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã
được công chứng được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng đã thực
hiện việc công chứng đó và do công chứng viên tiến hành. Trường hợp tổ
chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng chấm dứt hoạt
động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì công chứng viên của tổ
chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thực hiện việc

61
 
sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch” (khoản 2 Điều 51 Luật công
chứng năm 2014).
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định cụ thể hơn về một số vấn đề
liên quan đến sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng như
sau:
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được
áp dụng thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ
sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế
độ tài sản theo luật định.
2. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ
chồng phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”
(Điều 17).
Nghị định cũng quy định về hậu quả pháp lý của việc sửa đổi, bổ sung
nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng:
“1. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ
chồng có hiệu lực từ ngày được công chứng hoặc chứng thực. Vợ, chồng có
nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan theo
quy định tại Điều 16 của Nghị định này.
2. Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm việc sửa đổi, bổ
sung chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác” (Điều 18).
Căn cứ vào những điều luật trên, có thể thấy nhà làm luật mặc dù quy
định việc lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng phải được thực hiện trước khi
kết hôn (vợ, chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì phải thể hiện sự
lựa chọn này bằng văn bản trước khi kết hôn), nhưng hoàn toàn không bắt
buộc thỏa thuận này phải được thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Ngoài
sửa đổi, bổ sung một phần nội dung chế độ tài sản đã thỏa thuận, vợ chồng

62
 
còn có thể sửa đổi toàn bộ nội dung hay chính là lập một thỏa thuận mới trong
thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng còn có thể thỏa thuận áp dụng các quy định của
pháp luật về chế độ tài sản pháp định, thỏa thuận này không làm thay đổi loại
chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn là chế độ tài sản theo thỏa thuận. Việc
sửa đổi, bổ sung này phải được thông báo cho người thứ ba biết trong những
trường hợp pháp luật quy định để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Luật hôn nhân gia đình 2014 cho phép vợ chồng sửa đổi, bổ sung chế
độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nhưng lại hoàn toàn không quy định
về thời gian khoảng bao lâu sau khi xác lập thì chế độ tài sản này có thể được
sửa đổi, bổ sung? Luật cũng không quy định vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ
sung thỏa thuận về chế độ tài sản bao nhiêu lần, mỗi lần cách nhau bao nhiêu
lâu?
Tác giả cho rằng, việc đưa ra một thời hạn nhất định để thực hiện việc
sửa đổi, bổ sung, cũng như hạn chế số lần sửa đổi, bổ sung và giới hạn thời
gian giữa các lần sửa đổi, bổ sung thỏa thuận (một cách hợp lý) trong thời
điểm hiện tại là tương đối khó và thiếu tính khả thi. Chính quan điểm trên
cũng không chỉ ra được khoảng thời gian cụ thể mà sau đó vợ chồng có thể
thay đổi nội dung thỏa thuận cũng như số lần thay đổi và khoảng cách thời
gian giữa chúng. Khoảng thời gian “1 (hoặc 2) năm” là rất chung chung, và
quan điểm này hoàn toàn không đưa ra được bất kỳ căn cứ cụ thể nào cho
việc xác định khoảng thời gian đó.
Theo quan điểm của tác giả, việc thay đổi thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng đã được các nhà làm luật dự liệu tương đối hợp lý. Trường hợp
vợ chồng “tùy tiện” thay đổi nội dung thỏa thuận là rất hiếm xảy ra, bởi mỗi
lần thay đổi thỏa thuận, vợ chồng đều phải lập thành văn bản có công chứng
hoặc chứng thực. Thêm vào đó, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và Nghị
định số 126/2014/NĐ-CP đã quy định tương đối cụ thể về vấn đề bảo vệ

63
 
quyền lợi của người thứ ba liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa
thuận. Do vậy, việc hạn chế số lần thay đổi cũng như thời hạn giữa các lần
thay đổi thỏa thuận về tài sản của vợ chồng để bảo vệ quyền lợi của người thứ
ba là không thực sự cần thiết. Hơn nữa, việc các nhà làm luật không ấn định
một khoảng thời gian và số lần cụ thể cho việc thay đổi thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng phải chăng thể hiện sự tôn trọng tối đa quyền tự do thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng.
Như vậy, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 ghi nhận chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận một cách khá chặt chẽ (về thời điểm xác lập, về
hình thức thể hiện thỏa thuận…) nhưng cũng tương đối linh hoạt (về nội dung
thỏa thuận, về sửa đổi, bổ sung thỏa thuận…). Có thể nói rằng, việc lựa chọn
quy định như trên của các nhà làm luật là hợp lý, bảo đảm phù hợp với các
quy định khác của pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, vừa tiếp
thu học hỏi kinh nghiệm của pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
Theo định nghĩa về cấp dưỡng được quy định tại khoản 24 điều 3 luật
hôn nhân gia đình 2014. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp
tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống
chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong
trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người
gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng có thể phát sinh trong
các trường hợp sau:
- Nghĩa vụ cấp dưỡng trong thời kỳ hôn nhân chỉ được đặt ra khi vợ
chồng không cùng chung sống, một trong hai bên do mất khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình nên rơi vào tình trạng khó khăn, túng

64
 
thiếu, đồng thời, bên kia không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ quan tâm, chăm
sóc giữa vợ và chồng, không đóng góp chi tiêu cho gia đình. Việc làm này
chính là thể hiện sự quan tâm, yêu thương, chăm sóc nhau và nâng cao trách
nhiệm giữa vợ chồng.
- Khi hôn nhân chấm dứt bằng ly hôn, về nguyên tắc nghĩa vụ và quyền
quan tâm, chăm sóc bao gồm cả nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ chồng sẽ phát
sinh kể từ thời điểm kết hôn và chấm dứt khi hôn nhân kết thúc. Tuy nhiên,
do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà pháp luật đã qui định khi vợ
chồng ly hôn thì hai người vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau trong trường
hợp đặc biệt. Cụ thể tại Điều 115. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi
ly hôn
Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý
do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.
Điều này thể hiện được tình cảm, trách nhiệm, tình nghĩa vợ chồng đối
với nhau, giúp đỡ nhau khi người kia ốm yếu, không có khả năng nuôi sống
bản thân.
2.1.3. Chấm dứt hôn nhân
Nếu như kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly
hôn có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Kểtừ
thời điểm chấm dứt hôn nhân, vợ chồng sẽ chấm dứt quan hệ hôn nhân trước
pháp luật. Theo quy định thì có một số trường hợp chấm dứt hôn nhân: ly hôn
hoặc một trong hai bên hoặc cả hai bên chết hoặc bị tuyên bố là đã chết.
Ly hôn
Khi đời sống hôn nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một
giải pháp cần thiết cho cả đôi bên vợ chồng. Ly hôn giải phóng cho các cặp
vợ chồng và những thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn
bế tắc trong cuộc sống. Ngày nay, việc ly hôn diên ra ngày càng phổ biến và

65
 
các sự việc xảy ra cũng rất đa dạng, phức tạp hơn. Và để đáp ứng được điều
đó, luật hôn nhân gia đình 2014 đã có những điều chỉnh phù hợp hơn với vấn
đề này.
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định của
Tòa án. Vì vậy, khi đưa ra được bản án, quyết định này, tòa án cần xem xét
đến tình trạng hôn nhân của vợ chồng có thỏa mãn các căn cứ ly hôn hay
không. Khi giải quyết vụ việc ly hôn thì Tòa án cần phải giải quyết ba vấn đề
sau: quan hệ hôn nhân, quan hệ tài sản và con chung. Cả hai vợ chồng đều có
quyền được đưa ra yêu cầu ly hôn hoặc hai bên thuận tình ly hôn.
Căn cứ cho ly hôn theo yêu cầu của hai bên, thuận tình ly hôn
Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong
trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự
nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của
vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được
hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và
con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”.
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trong trường
hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng
khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn
nhân, cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng
ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Nếu một trong hai bên hoặc
cả hai bên bị cưỡng ép ly hôn, hay hai bên ly hôn giả tạo nhằm một mục đích
nào đó thì đều bị pháp luật nghiêm cấm.
Cũng trong Điều 55, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong việc
thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ
chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản,

66
 
việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo
quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được
hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ
và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly hôn và thỏa thuận đó không
được chấp nhận.
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn
phải tiến hành hoà giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và
đoàn tụ với nhau. Có nhiều trường hợp trên thực tế, hai vợ chồng đồng thuận
ly hôn, nhưng khi được tòa án hòa giải thì lại quay về sống với nhau bởi
nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn đến ly hôn
hay thuận tình ly hôn cũng là do tình cảm của vợ chồng bị rạn nứt, một trong
hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia đình hay vì tự ái cá nhân
hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình. Việc làm này có ý
nghĩa rất lớn bởi nó có thể giúp hai vợ chồng cho mình thêm một cơ hội để
quay về chung sống với nhau. Tòa án là một người thứ ba, có thể đưa ra sự
giải thích, phân tích đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công tác
hòa giải để khuyên họ nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứ cho nhau để quay lại
chung sống với nhau thì họ đã hiểu ra và quay lại đoàn tụ chung sống với
nhau và Tòa án cũng không phải giải quyết về các vấn đề kéo theo như con và
tài sản. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn thì Toà
án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản
hoà giải thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 10, Điều 186, Điều 187 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2004). Còn khi hoà giải không thành, các bên thực sự tự nguyện ly hôn
nhưng không thoả thuận được về việc chia tài sản hoặc việc trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì Toà án lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ
không thành và về những vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả

67
 
thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời
mở phiên Toà xét xử theo thủ tục chung (điểm d, khoản 2, Điều 179 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004).
Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ
chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được
chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không
thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều
51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng,
vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào
một trong ba căn cứ sau đây:
Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa
giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về
việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

68
 
Trước tiên, khi có yêu cầu ly hôn của vợ, chồng, Toà án phải tiến hành
điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác định tình
trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải quyết. Nếu
tình trạng vợ chồng có đủ căn cứ cho ly hôn thì Tòa án sẽ xem xét để giải
quyết ly hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung điểm mới căn cứ cho
ly hôn khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và
nghĩa vụ của vợ, chồng. “Bạo lực gia đình” là căn cứ để giải quyết cho ly hôn.
Bởi qua thực tế giải quyết các vụ án ly hôn của Toà án cho thấy số vụ ly hôn
có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao và là nguyên nhân dẫn đến ly
hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này.
Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất
nghiêm trọng của nó, có nhiều nguyên do dẫn đến tình trạng này. Có trường
hợp do cuộc sống vật chất quá khó khăn, ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại
tình, tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh
đập, ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ
chồng ly hôn, có trường hợp dẫn đến án mạng. Bên cạnh đó, đối với những vi
phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng...
là lý do để ly hôn thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận định
chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
hôn nhân không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn. “Bạo lực gia đình” ở
đây nên hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là không chỉ có bạo lực về mặt thể xác
mà còn có bạo lực về mặt tinh thần.
Một điểm mới nữa của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là đã đưa
yếu tố lỗi để xem xét cho ly hôn, qua đó thể hiện sự tiếp thu quy định của một
số nước trên thế giới khi có sự kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố
lỗi để giải quyết việc ly hôn.

69
 
Qua đó, có thể thấy rằng việc đưa ra những nguyên nhân của hôn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
của hôn nhân không đạt được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hôn “vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng” trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý rõ
ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là
một quy định rất tiến bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp
năm 2013 về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Điều này cũng tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật
khi giải quyết việc ly hôn trong cả nước.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của
hôn nhân không đạt được”. “Tình trạng trầm trọng”, “mục đích hôn nhân
không đạt được” ở đây vẫn được hiểu theo quy định của nghị định Điểm a
Mục 8 Nghị quyết 02/2000/NĐ-HĐTP như sau:
a.1 Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như
người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan,
tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường
xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và
uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức,
đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã
được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ

70
 
quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại
tình;
a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo
dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức
trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã
được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình
hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi
ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống
chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ
chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau
phát triển mọi mặt."
Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và nữ muốn chung sống
với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững trên cơ
sở giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Con người tiến tới hôn nhân với mục đích
mong muốn có được một cuộc sống hạnh phúc, ấm no, tương trợ lẫn nhau. Do
vậy, khi mục đích hôn nhân “không đạt được” thì quan hệ hôn nhân cũng khó
mà tồn tại được, nghĩa là khi đó hai vợ chồng không còn tình nghĩa, yêu
thương nhau, không thể sống chung với nhau dưới một mái nhà, không còn
một mục đích chung nữa…. Khi đó chấm dứt hôn nhân được giải quyết bằng
việc ly hôn.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên
bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Khi một người
biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông

71
 
báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có
tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất
tích….” Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy
định về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một
trong hai người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của
người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly
hôn.”.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng, nó được tạo ra bởi hai
người, hai người chung sống với nhau, lo lắng, chăm lo cho nhau và tạo ra
một gia đình, và khi chỉ còn một người thì những quyền này sẽ không còn nữa
và nó đã mất hẳn đi một phần quan trọng của quan hệ hôn nhân. Vì vậy, sẽ
thật không công bằng khi người vợ hoặc người chồng không thể chấm dứt
hôn nhân khi người còn lại mất tích, không có tin tức gì, trong khi họ hoàn
toàn có quyền kết hôn với người khác, giải thoát mình bởi cuộc hôn nhân cũ,
có quyền đi tìm hạnh phúc mới cho mình. Việc quy định như vậy là hoàn toàn
hợp lý.
Trường hợp, người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Tòa án
tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, Tòa án chỉ giải quyết
ly hôn khi có bằng chứng chứng minh được chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai
năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về chồng/vợ, mặc dù đã áp dụng
đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã
chết. Việc tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp
phần bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng như các chủ thể có liên quan. Nó không
chỉ giải quyết về liên quan đến quyền và nghĩa vụ nhân thân mà còn liên quan
đến các quyền và nghĩa vụ về tài sản khác nữa. Việc xác định đúng điều kiện

72
 
và hậu quả pháp lí của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các
chủ thể, đồng thời góp phần thực hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp
luật trong tuyên bố các cá nhân mất tích.
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã
ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần
phải giải phóng chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có yêu cầu
được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị tòa án tuyên bố mất tích.
Thứ ba, đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2
Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc
chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia
Theo đó, theo quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình thì có thể xin
ly hôn thay cho người thân và luật cũng quy định cụ thể về lý do xin ly hôn,
trong đó bạo lực gia đình là một lý do, căn cứ để người chồng hoặc người vợ
có quyền yêu cầu tòa án cho ly hôn. Cụ thể tại Khoản 2, Điều 51 trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định như sau: 2. Cha, mẹ, người thân
thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do
bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ
của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh
thần của họ.
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu
tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ, người
thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên
vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình

73
 
do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tinh thần của họ.
Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường hợp mong muốn xin ly hôn
thay cho người thân bị mất năng lực hành vi mà không được do trước đây chỉ
quy định việc ly hôn phải do chính đương sự (vợ, chồng) yêu cầu, trong khi
họ lại bị mất năng lực hành vi dân sự dẫn đến không có năng lực hành vi tố
tụng dân sự, không đủ điều kiện để xin ly hôn. Chính điều này đã dẫn tới thực
trạng có rất nhiều trường hợp vợ hoặc chồng muốn ly hôn nhưng lại Tòa án
không thể tiến hành giải quyết được, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều
năm với nguyên nhân duy nhất là do người vợ hoặc chồng bị mất năng lực
hành vi dân sự.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp này các nhà làm luật yêu cầu cha, mẹ,
người thân thích khác của vợ hoặc chồng cần phải chứng minh được việc
người chồng hoặc vợ bị mất năng lực hành vi dân sự phải là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả thì
quy định này là không cần thiết bởi chỉ cần khi một bên vợ, chồng bị tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
thì lúc này cuộc hôn nhân đã không còn hạnh phúc, xét về góc độ tình cảm thì
mục đích ban đầu của hôn nhân không đạt được nên cần phải giải quyết ly
hôn cho hai bên khi có yêu cầu của người thân của họ, tránh sự ràng buộc, bế
tắc, chứ không cần thiết phải có hậu quả là nạn nhân của bạo lực gia đình do
chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tinh thần của họ như quy định của luật.
Vậy nên, nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
cũng như góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật thì các nhà lập pháp

74
 
cần xem xét lại quy định trên nhằm điều chỉnh một cách thấu đáo nội dung
này.
Luật hôn nhân gia đình 2014 đã đưa ra các căn cứ ly hôn giải quyết
được nhiều đã góp phần giải quyết tốt nhiều án ly hôn, giải phóng cho nhiều
cuộc hôn nhân thoát khỏi những bế tắc. Để từ đó, ly hôn không chỉ đơn thuần
là làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những
mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và
vững chắc trong một xã hội văn minh.
Trường hợp một bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết.
Theo quy định tại điều 65 luật hôn nhân gia đình, trong trường hợp này
thì hôn nhân giữa vợ chồng cũng được coi là chấm dứt mà không phụ thuộc
vào ý chí có muốn hay không của người còn lại. Quan hệ hôn nhân giữa vợ và
chồng là quan hệ nhân thân, vì vậy, khi một trong hai người chết hoặc bị
tuyên bố là đã chết thì các quyền nhân thân của vợ hoặc chồng cũng chấm dứt
trong đó có quan hệ hôn nhân.
Thời điểm chấm dứt hôn nhân của vợ chồng là kể từ thời điểm vợ hoặc
chồng chết hoặc xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định
của Tòa án( điều 65 luật hôn nhân gia đình 2014).
Đối với trường hợp khi một người bị tuyên bố là đã chết thì điều này
tòa án dựa vào các suy đoán người đó đã chết qua các căn cứ quy định trong
bộ luật dân sự mà không thể khẳng định chắc chắn người đó đã chết về mặt
sinh học. Và trên thực tế có người bị tòa án tuyên bố là đã chết sau đó lại trở
về và pháp luật cũng đã có quy định về việc này như sau:
Điều 67. Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết
mà trở về
1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà
vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn

75
 
nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định
cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì
quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng
của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập
sau có hiệu lực pháp luật.
Quy định này đảm bảo quyền lợi cho vợ hoặc chồng, nếu người bị
tuyên bố là đã chết trở về và được tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố là đã
chết thì sẽ có hai khả năng xảy ra, nếu người vợ hoặc chồng đã kết hôn với
người khác thì quan hệ hôn nhân mới có hiệu lực pháp luật, nếu vợ hoặc
chồng chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân giữa họ vẫn có hiệu
lực pháp luật.
2.2. QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON
2.2.1. Việc xác định cha, mẹ, con
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì quan hệ giữa cha mẹ con
được xác định trên các căn cứ phát sinh sau: sự kiện sinh đẻ thông thường,
mang thai hộ và nuôi con nuôi. Vấn đề mang thai hộ là một trong những điểm
mới của luật hôn nhân gia đình 2014. Nó giúp giải quyết và đáp ứng được
những tình hình thực tế hiện nay.
- Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ con phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ.
Trong đời sống xã hội, việc một người phụ nữ sinh con, cho dù là kết
quả của hôn nhân hợp pháp hay không hợp pháp với một người đàn ông là cơ
sở làm phát sinh quan hệ giữa cha mẹ và con. Đó là mối liên hệ huyết thống
tự nhiên theo quy luật sinh học. Quan hệ cha mẹ con phát sinh không phụ
thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp. Từ đây sẽ
phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong quan hệ mẹ con,
cha con. Đồng thời nó còn là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các tranh
chấp về việc xác định quan hệ cha mẹ con trong thực tế, đảm bảo quyền và lợi

76
 
ích hợp pháp của cha mẹ con. Ví dụ: các tranh chấp về nuôi dưỡng, cấp
dưỡng, thừa kế giữa cha mẹ và con, cũng như các thành viên khác trong gia
đình được bảo đảm bằng pháp luật khi quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con
được xác lập.
Theo quy định của luật hôn nhân gia đình 2014, xác lập quan hệ cha mẹ
con trong trường hợp sinh đẻ có đưa ra nguyên tắc xác định cha mẹ con trong
các trường hợp sinh tự nhiên, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, trong
trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Đối với trường hợp sinh con tự nhiên, người sinh con ra đương nhiên được
coi là người mẹ của đứa con, còn đối với việc xác định người cha thì trong
trường hợp sinh con trong giá thú thì con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Điều này có thể hiểu rằng cho dù con có được thành thai trước hoặc trong
thời kỳ hôn nhân của vợ chồng thì bằng phương pháp suy đoán, người chồng
đương nhiên là cha của đứa trẻ. Ngoài ra, trong thực tế người vợ có thể mang
thai nhiều hơn 280 ngày nên pháp luật cũng có quy định Con được sinh ra
trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con
do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 88 Luật hôn nhân gia
đình 2014. Như trên đã trình bày thì thời điểm chấm dứt hôn nhân ở đây được
hiểu là thời điểm bản án, quyết định của Tòa án về việc ly hôn của vợ chồng
có hiệu lực hoặc kể từ thời điểm người cha chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết mà không phải là thời điểm hai bên không chung sống với nhau. Trên
thực tế có nhiều trường hợp hai vợ chồng ly thân một thời gian dài trước khi
bản án, quyết định ly hôn chính thức có hiệu lực. Tuy nhiên trong khoảng thời
gian trong vòng 300 ngày sau khi hôn nhân chấm dứt thì người vợ sinh con
thì theo quy định trên người chồng vẫn được coi là cha của đứa bé do người
vợ sinh ra. Đối với trường hợp sinh con ngoài giá thú thì Con sinh ra trước

77
 
ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp người cha không nhận con thì nó là con riêng của vợ và
sau này, người con có quyền yêu cầu Tòa án xác định người đó là cha mình
khi chứng minh được. Và khi người cha không nhận con thì phải có chứng cứ
chứng minh được người con đó không phải là con của mình mà là con của
một người khác.
Xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản.
Xã hội ngày càng phát triển và đi kèm theo đó là khoa học công nghệ
cũng có những bước tiến rất lớn nhằm hồ trợ được các mong muốn cho mọi
người. Và một trong số đó chính là việc giúp cho ước muốn của những cặp vợ
chồng, những người phụ nữ không lập gia đình có con. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề khá tế nhị và ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con nên
tùy từng trường hợp thì pháp luật đưa ra các cách xác định cha mẹ con khác
nhau.
- Trong trường hợp cặp vợ chồng sinh con bằng hình thức này thì việc
xác định cha mẹ con được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của luật hôn
nhân gia đình, nghĩa là được áp dụng như trường hợp sinh con tự nhiên.
- Trường hợp người phụ nữ độc thân sinh con bằng phương pháp kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản thì người này sẽ là mẹ của đứa trẻ.
Một điểm đáng lưu ý trong vấn đề này chính là quyền và nghĩa vụ của
cha, mẹ con là không làm phát sinh giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho
phôi và người con được sinh ra. Đều này được hiểu là giữa họ sẽ không có
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con với nhau. Người cha, người mẹ và người
con không thể yêu cầu cơ quan chức năng xác định ai là cha, mẹ, con của
mình để thực hiện quyền và nghĩa vụ cả về nhân thân và tài sản.
Xác định con trong trường hợp mang thai hộ

78
 
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã chính thức thừa nhận và cho phép mang
thai hộ với mục đích nhân đạo (cụ thể từ Điều 93 đến Điều 98), song phải
được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
Ngày 22/1/2016 vừa qua, nước ta đã có em bé đầu tiên được sinh ra bằng
phương thức mang thai hộ, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với nước ta, nó
không chỉ khẳng định trình độ khoa học kỹ thuật của nước ta mà còn đem đến
niềm vui, hy vọng của rất nhiều ông bố, bà mẹ không thể mang thai nhưng
vẫn có những đứa con của mình và nó thể hiện, pháp luật đã đi vào cuộc sống.
Theo quy định, các cặp vợ chồng vì lý do nào đó không thể tự sinh con
có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện theo điều 95 của
luật, gồm: 2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều
kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể
mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Và đồng thời với đó, người mang thai hộ cũng phải có các điều kiện
sau: 3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai
hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả
năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý
bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

79
 
Luật chỉ thừa nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mà không
phải vì mục đích thương mại, cũng chính vì lẽ đó mà luật đã quy định người
mang thai hộ là những người thân thích của vợ hoặc chồng. Và Người thân
thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về
trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời( khoản 19 điều 3 luật hôn nhân
gia đình 2014). Những nhà làm luật cho rằng người thân thích của vợ và
chồng là người giúp vợ chồng có được mong muốn có con mà họ không thể
thực hiện được về mặt tình nghĩa mà không phải tiền bạc hay bất kỳ mục đích
nào khác. Trước khi thực hiện thủ tục mang thai hộ thì cả vợ chồng và người
mang thai hộ đều phải được kiểm tra sức khỏe cũng như được tư vấn về y tế,
pháp lý, tâm lý để đảm bảo họ sẽ thực hiện theo đúng quy định của pháp luật
và hiểu đúng tính chất của việc mang thai hộ.
Một điểm đáng chú ý là việc sinh con do mang thai hộ không tính vào
số con (của người mang thai hộ) bởi con là của cặp vợ chồng người mang thai
hộ. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì bên mang
thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Còn
nếu bên mang thai hộ từ chối giao con, thì bên nhờ mang thai hộ có quyền
yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con. Trong trường hợp bên nhờ
mang thai hộ chết, thì con được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản
của bên nhờ mang thai hộ…
Hình thức của thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được
quy định tại điều 96 luật hôn nhân gia đình như sau: a) Lập thành văn bản có
công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho
nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận
thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Việc ủy quyền cho người thứ ba không được công nhận. Trong trường hợp
thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ

80
 
được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người
có thẩm quyền của cơ sở y tế này; b) Có thông tin đầy đủ về bên nhờ mang
thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên; c) Quyền, nghĩa vụ về
hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian
mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và
nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho
bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ; d) Trách nhiệm dân sự trong
trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.
Theo quy định của điều 97 quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo được :
(i) Người mang thai hộ, vợ chồng người mang thai hộ (sau đây gọi
là bên mang thai hộ) có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức
khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con đến khi giao đứa trẻ cho bên nhờ
mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ theo thỏa thuận;
(ii) Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định
của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ
cho bên nhờ mang thai hộ. Thời gian hưởng chế độ thai sản ít nhất là 60 ngày
kể từ ngày sinh. Việc mang thai hộ không bị ràng buộc về thực hiện chính
sách dân số, kế hoạch hóa gia đình đối với lần mang thai hộ;
(iii) Trong trường hợp có khó khăn về bảo đảm sức khỏe sinh sản,
bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ
trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức
khỏe và sự phát triển của thai nhi phù hợp với quy định của pháp luật y tế về
chăm sóc sức khỏe sinh sản, người phụ nữ mang thai hộ có quyền quyết định
về việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp
luật y tế về chăm sóc sức khỏe sinh sản.

81
 
Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
(i) Trong trường hợp bên mang thai hộ có khó khăn về chi trả các
chi phí thực tế trong chăm sóc sức khỏe sinh sản thì bên nhờ mang thai hộ
phải hỗ trợ những chi phí thực tế đó;
(ii) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra, ngay cả trong trường
hợp bên mang thai hộ chưa giao con cho họ. Người mẹ nhờ mang thai hộ
được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo
hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi;
(iii) Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong
trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con, không nhận con hoặc vi
phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con theo quy định của Luật này, nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ
thì phải bồi thường theo thỏa thuận; không có thỏa thuận thì theo quy định
của Bộ luật dân sự;
(iv) Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con vẫn được
hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ;
(v) Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác
của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của
Luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.
Quan hệ giữa cha mẹ và con phát sinh trên nuôi dưỡng: nhận nuôi
con nuôi
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội, một chế định đã xuất hiện từ
lâu trong lịch sử pháp luật Việt nam và các nước trên thế giới. Nuôi con nuôi
là việc xác lập quan hệ cha mẹ con giữa người nhận nuôi con nuôi và người
được nhận làm con nuôi; dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia
quan hệ nuôi con nuôi.

82
 
Chế định nuôi con nuôi ở nước ta được xác lập lần đầu tiên trong luật
hôn nhân và gia đình từ năm 1959. Nó đảm bảo lợi ích của người con nuôi,
đồng thời đảm bảo lợi ích của người nhận nuôi con nuôi( điều 24 luật hôn
nhân gia đình 1959, điều 34 luật năm 86, điều 67 luật 2000, luật nuôi con nuôi
2010. Sở dĩ luật hôn nhân gia đình 2014 không có sự xuất hiện về vấn đề nuôi
con nuôi nữa là do trước đó vào năm 2010, quốc hội nước ta đã ban hành luật
nuôi con nuôi để điều chỉnh về vấn đề này, vì vậy sẽ thật thiếu xót nếu không
nói đến quan hệ giữa cha mẹ và con mà không nói đến quan hệ giữa cha, mẹ
nuôi với con nuôi.
Theo quy định của pháp luật thì việc nuôi con nuôi có mục đích Điều 2.
Mục đích nuôi con nuôi
Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền
vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con
nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
Bằng sự kiện đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và được cơ quan này xác nhận thì mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi chính thức được xác lập.
Theo Luật Nuôi con nuôi khoản 24 Điều 3 thì: “Nuôi con nuôi là việc
xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được
nhận làm con nuôi. Cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con
nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Con nuôi là người được
nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đăng ký”. Khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập thì con nuôi
trở thành thành viên gia đình người nhận con nuôi. Người con nuôi và cha mẹ
nuôi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con. Người con nuôi bình đẳng
với những người con của cha mẹ nuôi. Một vấn đề đặt ra là tư cách thành viên
gia đình mà người con nuôi được trao cho chỉ được duy trì với hai điều kiện:

83
 
Quan hệ giữa cha mẹ nuôi - con nuôi được duy trì và cha mẹ nuôi còn sống.
Thiếu một trong hai điều kiện này thì người con nuôi hoàn toàn trở thành
người ngoài đối với gia đình của người nuôi. Xét ở điều kiện thứ nhất quan hệ
giữa cha mẹ nuôi – con nuôi được duy trì. Ở điều kiện thứ hai là cha mẹ nuôi
còn sống, nếu cha mẹ nuôi không còn sống thì quan hệ giữa cha mẹ nuôi và
con nuôi chấm dứt. Về quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác của gia
đình cha mẹ nuôi: Tư cách thành viên của người con nuôi không được trọn
vẹn so với tư cách của các thành viên khác trong gia đình do quan hệ huyết
thống. Do quan hệ giữa người con nuôi và những thành viên khác trong gia
đình được phát sinh từ sự kiện nuôi con nuôi. Vậy nếu cha mẹ nuôi không còn
sống, tức quan hệ nuôi con nuôi không còn, thì quan hệ giữa con nuôi và các
thành viên khác trong gia đình cũng sẽ chấm dứt.
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con
Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
Theo Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha mẹ có nghĩa
vụ và quyền sau:
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập,
giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành
người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình
trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả

84
 
năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội.
Nghĩa vụ và quyền yêu thương, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con là
nghĩa vụ và quyền chung của cha mẹ. Nghĩa vụ và quyền này mang tính chất
tự nhiên, là quyền cao quý và thiêng liêng của cha mẹ, được thể hiện qua hành
vi, cử chỉ, tình cảm, thái độ đối với con. Nghĩa vụ này không chỉ đối với con
chưa thành niên, mà con đã thành niên nhưng có nhược điểm về thể chất và
tâm thần thì cha mẹ vẫn còn nghĩa vụ đối với con theo quy định của pháp luật.
Cha mẹ có nghĩa vụ cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên
hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Cha mẹ có quyền và nghĩa
vụ giáo dục con, giáo dục ở đây được hiểu tập hợp các biện pháp mà cha mẹ
có nghĩa vụ và quyền để thực hiện cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của
con về trí tuệ, tài năng, đạo đức, nhân cách sống và hướng nghiệp cho con.
Chẳng hạn như cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia
đình đầm ấm, hòa thuận, cha mẹ chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập,
cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề, cha mẹ có thể nhờ cơ quan hữu quan giúp
đỡ để thực hiện việc giáo dục con, cha mẹ làm tấm gương tốt cho con về mọi
mặt để con học tập và noi theo. Việc giáo dục con không chỉ thực hiện trực
tiếp là cha mẹ giáo dục con cái mà còn được thể hiện thông qua cha mẹ chăm
lo và tạo điều kiện cho con học tập.
Ngoài việc yêu thương, chăm sóc giáo dục và nuôi dưỡng con thì cha
mẹ cũng là người có quyền và nghĩa vụ bảo vệ lợi ích hợp pháp của con. Cha
mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám
hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật. Cha mẹ là người có nghĩa vụ
bồi thường những thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất

85
 
năng lực hành vi dân sự gây ra. Trong trường hợp này, tuy từng trường hợp
cha mẹ có thể nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Cha mẹ cũng là người quản lý và định đoạt tài sản riêng
của con theo quy định của pháp luật. Pháp luật hiện hành cho phép cha mẹ
quản lý tài sản của con dưới mười lăm tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự.
Đồng thời, pháp luật cũng cho phép cha mẹ quản lý tài sản của con dưới mười
lăm tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến
nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.
Ngoài ra, theo quy định thì cha mẹ còn có nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho
con khi không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, con chưa thành niên, con đã
thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng
vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Điều này thể hiện trách nhiệm của cha mẹ
đối với con cái của mình.
Cha mẹ cũng không được phân biệt các con mà đều phải yêu thương
đùm bọc, chăm sóc các con như nhau, tránh tình trạng “ trọng nam khinh nữ”.
Việc làm này sẽ giúp các con được bình đẳng với nhau và cảm nhận được tình
thương yêu của cha mẹ đối với mình.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ còn có quyền được nhận
di sản thừa kế của con khi con chết trước cha mẹ.
Ngoài ra, luật còn đưa ra quyền và nghĩa vụ giữa cha dượng, mẹ kế và
con riêng như: khi sống cùng nhau thì vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
người cha, người mẹ ruột đối với con. Trong trường hợp có quan hệ nuôi
dưỡng giữa cha dượng, mẹ kế và con riêng thì cha dượng, mẹ kế còn có
quyền được nhận di sản của con riêng khi con riêng chết trước.

86
 
Nghĩa vụ và quyền của con.
Kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia
đình 1986, luật hôn nhân và gia đình năm 2000, luật hôn nhân gia đình
2014 quy định: Điều 70. Quyền và nghĩa vụ của con
1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp
pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và
giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
2. Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng
cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
3. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có
quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.
Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi
và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em.
4. Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú,
học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt
động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của
mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia
đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia
đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với
khả năng của mình.
5. Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào
tài sản của gia đình.
Quy định này không chỉ là căn cứ pháp lý cho mối quan hệ giữa cha mẹ
và con mà còn thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc được gìn giữ trong
mỗi gia đình.

87
 
Con phải yêu quý, kính trọng, biết ơn và hiếu thảo với cha mẹ. Yêu
quý, kính trọng, biết ơn và hiếu thảo với cha mẹ không chỉ là nghĩa vụ và
quyền của con mà còn là bổn phận của con đối với cha mẹ. Đây là nghĩa vụ
và quyền tự nhiên của con, nghĩa vụ và quyền này là truyền thống tốt đẹp
được lưu giữ trong mỗi gia đình Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Pháp luật hiện hành nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc
phạm cha mẹ. Nếu người con thực hiện việc ngược đãi, hành hạ, xúc phạm
cha mẹ thì theo quan điểm người Việt thì đây là một trong hai đại tội “nhất
bất trung, nhì bất hiếu” sẽ bị xã hội lên án gay gắt. Con có nghĩa vụ nghe lời
khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, gìn giữ truyền thống, danh dự gia đình.
Con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền định đoạt tài sản
riêng, trong trường hợp con định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản
để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ. Điều này cho thấy vai trò của
cha mẹ đối với con chưa thành niên, con phải lắng nghe lời khuyên bảo đúng
đắn của cha mẹ, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Ở đây phải hiểu lời khuyên
bảo của cha mẹ phải đúng đắn, truyền thống gia đình phải phù hợp với các
chuẩn mực chung của xã hội.
Con phải có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng cha mẹ. Nghĩa vụ phụng
dưỡng cha mẹ đã có từ lâu đời trong truyền thống người Việt Nam, đây được
xem như con đền đáp một phần công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Khi con từ
đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời
sống chung của gia đình, nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết
yếu của gia đình. Luật lao động cho phép người từ đủ mười lăm tuổi trở lên
được tham gia lao động và ký hợp đồng lao động (khoản 20 Điều 6), khi con
tham gia lao động thì có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu thiết yếu chung của
gia đình, có thu nhập ở đây cũng phải được hiểu là không nhất thiết tham gia
lao động mà có thể có thu nhập khác. Ngoài quy định bố dượng, mẹ kế và con

88
 
riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau
thì pháp luật hiện hành quy định con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình. Quy định này không
chỉ ngăn cản hành vi xâm phạm giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế với nhau
mà còn quy định trách nhiệm của con riêng khi sống chung với bố dượng, mẹ
kế.
Cha mẹ con là những đối tượng có mối quan hệ khăng khít nhất chính
và xét về mặt đạo đức thì con cũng có nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho cha mẹ
khi con đã thành niên không sống chung, cha, mẹ không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình. Điều này chính là biểu hiện của sự báo
hiếu, kính trọng, trả ơn cho những người đã nuôi dưỡng, giáo dục mình để
mình có được như ngày hôm nay. Tuy nhiên trên thực tế thì có nhiều trường
hợp người con có hiếu vẫn biếu cha mẹ những khoản tiền hàng tháng hoặc có
những hành động báo hiếu khác và ngược lại, trên thực tế vẫn có rất nhiều
trường hợp con bất hiếu, không những không cấp dưỡng cho cha mẹ mà còn
đánh đập, bắt ba mẹ phải kiếm tiền để mình ăn chơi. Những hành vi này cần
phải được lên án và pháp luật xử lý nghiêm minh.
Cũng giống như quyền thừa kế của cha mẹ thì con cũng có quyền nhận
được di sản thừa kế từ cha mẹ khi cha mẹ chết.
Đối với cha dượng, mẹ kế, con riêng cũng có những quyền và nghĩa vụ
giống con ruột với cha ruột, mẹ ruột khi sống cùng nhau và cũng được hưởng
đi sản thừa kế khi chứng minh được quan hệ nuôi dưỡng.
2.3. QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN KHÁC TRONG GIA ĐÌNH
2.3.1. Quan hệ giữa anh, chị, em với nhau
Anh chị em là quan hệ được xác lập trên yếu tố huyết thống . Anh chị
em là những thành phần không thể thiếu trong một gia đình, bởi thực tế cho
thấy các gia đình thường có từ hai người con trở lên, chính vì vậy, luật hôn

89
 
nhân gia đình 2014 vẫn kế thừa và ghi nhận về quyền và nghĩa vụ của anh chị
em với nhau. Cụ thể được quy định tại Điều 105. Quyền, nghĩa vụ của anh,
chị, em
Anh, chị, em có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ
hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con.
Có thể thấy rằng, pháp luật quy định trên phù hợp với truyền thống của
người Việt. Anh chị em có quyền nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không
còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, chăm sóc giáo dục
con. Như vậy, có thể hiểu anh chị em trong gia đình chỉ phải nuôi dưỡng nhau
khi không còn cha mẹ hay cha mẹ không có điều kiện trông nom, chăm sóc
nhau. Nhưng xét về mặt đạo đức, anh chị em luôn có nghĩa vụ đùm bọc, nuôi
dưỡng nhau dù còn cha mẹ hay không còn cha mẹ, cha mẹ có điều kiện chăm
sóc, nuôi dưỡng con hay không,
Nhưng trong quan hệ pháp lý, quan hệ nuôi dưỡng giữa anh chị em với
nhau chỉ hình thành trong điều kiện cha mẹ không còn hoặc không có khả
năng nuôi dưỡng, có ít nhất một trong số anh chị em là người chưa thành niên
hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao
động và không có tài sản tự nuôi mình. Trong trường hợp bố mẹ không còn
hoặc bố mẹ đi làm ăn xa, không có điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng con cái thì
vấn đề đặt ra là các anh chị em phải biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, chăm
sóc nhau để cùng nhau lớn lên, cùng nhau phát triển.
Ngoài ra, anh chị em còn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo quy định
tại điều 112 luật hôn nhân gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em
Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng
lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên

90
 
không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên
không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng
lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; em đã thành niên không sống
chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Tất cả những quy định trên thể hiện được trách nhiệm, nghĩa vụ giữa
các thành viên trong gia đình là phải luôn đùm bọc, quan tâm, thương yêu,
giúp đỡ nhau nhất là những khi khó khăn, thiếu thốn, thể hiện tình anh em,
máu mủ.
Anh, chị, em còn có nghĩa vụ và quyền giám hộ cho nhau theo quy định tại
Điều 59 BLDS: Điều 61. Theo quy định trên thì anh chị ruột có nghĩa vụ là
người giám hộ cho em chưa thành niên không còn cả cha và mẹ, không xác
định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha,
mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người em chưa thành niên đó. Nếu
anh chị không thể thỏa thuận được thì anh cả hoặc chị cả sẽ là người giám hộ,
nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị
tiếp theo là người giám hộ. Khi đó thì anh chị sẽ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của ngườ giám hộ đối với em chưa thành niên.
Ngoài quy định tại luật hôn nhân gia đình, anh chị em còn có các quyền
và nghĩa vụ khác theo quy định của bộ luật dân sự. Cụ thể đó là quyền được
nhận di sản thừa kế của nhau.
2.3.2. Mối quan hệ giữa ông bà và cháu
Trong gia đình Việt Nam hiện nay hình thức mô hình gia đình ba thế hệ
gồm ông bà, cha mẹ và con đang là mô hình mẫu rất phổ biến. Từ “ông bà
nội, ông bà ngoại” và “cháu nội, cháu ngoại” đã giới hạn rất nhiều so với từ
ông, bà và cháu được hiểu trong thực tế và cách xưng hô của người Việt Nam.

91
 
Ông bà nội là người sinh ra cha của người cháu; ông bà ngoại là người sinh ra
mẹ của người cháu. Ngược lại thì cháu nội là con đẻ của con trai ông bà; cháu
ngoại là con đẻ của con gái ông bà. Nghĩa vụ và quyền giữa ông bà nội, ông
bà ngoại và cháu nội, cháu ngoại được thừa nhận ngay cả trong trường hợp
ông bà không sống chung với cháu. Thực tế trong gia đình có ba thế hệ thì
ông bà nội chiếm đa số, trong phong tục thờ cúng của người Việt Nam và
quan điểm của dân gian “hết nội đến ngoại” cũng đã nói lên điều này. Điều
luật không phân biệt nghĩa vụ và quyền của ông bà nội hay ông bà ngoại, quy
định như vậy là hoàn toàn hợp lý để tránh trường hợp làm thức dậy quan điểm
phong kiến lạc hậu. Cũng giống như nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với
con thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền đối với cháu. Ông bà
nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu,
sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu ( khoản 1 điều 104 luật hôn
nhân gia đình 2014). Đối với các cháu chưa thành niên hoặc các cháu đã
thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng thì
ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. Nghĩa vụ và quyền
này của ông bà nội, ông bà ngoại chỉ đặt ra khi cháu không có người nuôi
dưỡng, trong trường hợp cháu có người nuôi dưỡng thì ông bà nội, ông bà
ngoại không phải thực hiện nghĩa vụ và quyền này. Cũng giống như nghĩa vụ
và quyền của con đối với cha mẹ thì các cháu có bổn phận kính trọng, chăm
sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại( khoản 2 điều 104).
Ngoài quyền và nghĩa vụ được quy định như trên thì ông bà và cháu
còn có quyền và nghĩa vụ giám hộ nhau theo quy định của pháp luật: Trong
trường hợp không có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột không có đủ
điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người
giám hộ (khoản 2 điều 61). Theo quy định này thì ông bà nôi, ông bà ngoại là

92
 
người có quyền giám hộ cho cháu khi cháu cần được giám hộ. Khi làm người
giám hộ cho cháu, ông bà nội, ông bà ngoại có đầy đủ các nghĩa vụ và quyền
của người giám hộ theo quy định của pháp luật về giám hộ. Ngược lại, cháu
cũng có thể trở thành người giám hộ cho ông bà nội, ông bà ngoại khi ông bà
không có con phụng dưỡng. Quy định việc giám hộ giữa ông bà nội, ông bà
ngoại và cháu là hoàn toàn phù hợp với đạo lý, truyền thống của gia đình Việt
Nam. Và cũng giống như quan hệ giữa cha mẹ con, anh chị em ruột thì ông bà
và cháu cũng có quyền được thừa kế di sản của nhau.
2.3.3. Quan hệ giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu ruột
Có thể nói khi xác định cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu ruột thì pháp
luật dựa trên phương pháp suy đoán. Những người này có thể là anh, chị, em
ruột của mẹ đứa trẻ được sinh ra. Việc quy định về quyên và nghĩa vụ như
vậy để nhằm nâng cao tình thân giữa những người có cùng huyết thống. Và
ông cha ta đã có câu, “ Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì” có thể thấy rằng quan
hệ khăng khít giữa họ với nhaukhi cha mẹ không còn thì những người chú,
người dì như những người cha, người mẹ thứ hai của con. Vì vậy, pháp luật
có những quy định điều chỉnh về quan hệ giữa họ là hoàn toàn hợp lý. Và cụ
thể, theo Điều 106 luật hôn nhân gia đình: Cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa
vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp người cần được nuôi dưỡng không còn
cha, mẹ, con, ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột hoặc còn nhưng
những người này không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Như vậy, có thể thấy, quyền và nghĩa vụ về nuôi dưỡng nhau của cô, dì,
chú, cậu, bác ruột và cháu ruột chỉ xuất hiện khi những người này không còn
cha, mẹ, con hoặc không có khả năng lao động để tạo ra thu nhập nuôi sống
chính bản thân mình, những người này không có người chăm sóc, chu cấp về
mặt kinh tế. Và quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng của cô, dì, chú, cạu, bác ruột với

93
 
cháu ruột xuất hiện ngay cả khi ở cùng nhau hoặc không ở cùng nhau. Người
cô, dì … không thể nói rằng không nuôi dưỡng cháu khi cháu không ở cùng
mà đây là quyền và nghĩa vụ phải thực hiện đối với cháu khi cháu không còn
cha mẹ, con, ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột cũng không thể nuôi
dưỡng cho cháu. Điều này đảm bảo cho cháu luôn được những người họ hàng
yêu thương, chăm sóc nhất là khi những đưa trẻ này thiếu đi tình thương của
cha mẹ, ông bà, anh chị. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 114 luật hôn nhân
gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột
1. Cô, dì, chú, cậu, bác ruột không sống chung với cháu ruột có nghĩa
vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã
thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
2. Cháu đã thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột
có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác ruột trong trường hợp người
cần được cấp dưỡng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
Ngoài ra, cô, dì, chú, bác, cậu ruột còn là người giám hộ cháu khi
không còn cha mẹ, anh chị em ruột, ông bà nội, ông bà ngoại theo quy định
tại điều 61 BLDS. Và còn một quyền không thể thiếu giữa họ đó chính là
quyền thừa kế tài sản của nhau. Điều 676 BLDS:
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

94
 
CHƯƠNG 3.
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA ĐÌNH TRONG
LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2014 VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ
3.1. THỨC TIỄN THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA
ĐÌNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2014
Trong thực tiễn thực hiện các quy định trong luật hôn nhân gia đình Việt
Nam 2014 bên cạnh những kết quả đạt được thì còn nhiều bất cập và vướng
mắc nhất là trong việc giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình nói chung và
vụ án ly hôn nói riêng. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng về
vấn đề này nhưng còn mang tính chung chung, thiếu cụ thể, chi tiết. Nội dung
căn cứ ly hôn chưa được định lượng nên nhận định của thẩm phán khi giải
quyết vụ việc chưa thống nhất, đồng bộ. Trong một số trường hợp, có sự
nhầm lẫn giữa căn cứ ly hôn với nguyên nhân ly hôn và động cơ ly hôn, dẫn
đến không bảo đảm quyền lợi của vợ chồng, gia đình và xã hội.
Bất cập trong việc áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ việc ly
hôn
Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý và chỉ khi có các điều kiện đó thì Tòa án mới
có thể giải quyết ly hôn[…………….].
Thứ nhất, bất cập trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân
trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của vợ hoặc chồng
Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ
hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án
giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích hôn nhân không đạt được”. Đây là một quy định mới, mang tính khái

95
 
quát cao. Tuy nhiên, việc quy định về căn cứ ly hôn thể hiện yếu tố tình cảm
vẫn còn chung chung. Khi giải quyết các trường hợp cụ thể, với sự đa dạng
của cuộc sống, thì mỗi cặp vợ chồng, mỗi vụ án ly hôn thường có mâu thuẫn
cũng như hoàn cảnh không giống nhau. Trong khi đó, không có căn cứ rõ
ràng để xác định thế nào là “làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”, thế
nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nên việc xem xét, đánh giá căn cứ trên
là rất khó khăn, vướng mắc.
Chính vì vậy, thực tiễn có những trường hợp cùng một vụ việc nhưng có
nhiều cách lý giải khác nhau khi áp dụng pháp luật. Ví dụ:
- Vụ án ly hôn giữa ông Lê Văn K và bà Nguyễn Thị X
Ông Lê Văn K và bà Nguyễn Thị X kết hôn năm 1984, hôn nhân do cả hai tự
nguyện có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu khi kết hôn, ông bà sống có hạnh
phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân là do ông K đã
nhiều lần có quan hệ với người phụ nữ khác, về nhà đối xử tệ bạc với bà X.
Nhưng nay bà X cũng không đồng ý ly hôn. Tại bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân đã bác đơn xin ly hôn của ông K và bà X.
Ở đây, Ông K có quan hệ ngoại tình được Tòa án cấp sơ thẩm xác định là căn
cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm lập luận rằng, ông K có quan
hệ ngoại tình mà lại là người đứng đơn xin ly hôn, còn bà X thì không đồng ý
ly hôn; ông K cho rằng bà X thường hay la cà, nói xấu chồng con nhưng cũng
không chứng minh được điều đó, như vậy, nhận định không có cơ sở để chấp
nhận yêu cầu xin ly hôn.
- Vụ án ly hôn giữa anh Ngô Thanh B và chị Nguyễn Thị L
Anh Ngô Thanh B và chị Nguyễn Thị L kết hôn hợp pháp và có đăng ký kết
hôn vào năm 2002. Sau khi cưới, hai vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng cách
đây khoảng 04 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị L

96
 
trình bày là do anh B thường xuyên đánh chị, ngoài ra, anh B có quan hệ tình
cảm với người phụ nữ khác. Chị L và anh B không còn sống chung từ tháng
9/2014 cho đến nay.
Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị L và anh B ngày càng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không còn đạt được, nên
căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án đã xét xử
chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Ngô Thanh B.
Tóm lại, thông qua các bản án trên cho thấy, cùng là hành vi ngoại tình
nhưng cách giải quyết của các cấp Tòa án, các thẩm phán lại khác nhau. Vì
pháp luật quy định không rõ ràng, cụ thể các căn cứ ly hôn, nên thực tiễn xét
xử phụ thuộc hoàn toàn vào thẩm phán, có thể cùng một hiện tượng nhưng có
nhiều cách lý giải khác nhau, từ đó hướng giải quyết vụ việc cũng khác nhau.
Do vậy, cần thiết phải lượng hóa bằng các tiêu chí cụ thể căn cứ ly hôn để áp
dụng vào thực tiễn.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ, chồng đã ly thân trên thực tế
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định ly thân là căn cứ cho ly
hôn. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, các Tòa án thường đánh giá ly thân là căn
cứ để giải quyết cho ly hôn.
Ví dụ: Chị T và anh M không còn sống chung từ tháng 6/2009 cho đến nay.
Trong khoảng thời gian này, hai vợ chồng không thể đoàn tụ được. Chị T và
anh M cũng không còn quan tâm và trách nhiệm với nhau. Tại phiên tòa giải
quyết ly hôn, chị T vẫn yêu cầu được ly hôn. Trong vụ án này, chị T và anh M
đã có thời gian ly thân dài, không quan tâm và trách nhiệm với nhau, không
cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tòa án đã mở phiên hòa giải tạo điều
kiện cho vợ chồng anh chị có giải pháp đoàn tụ, nhưng anh M vắng mặt. Xét
thấy mâu thuẫn gia đình trầm trọng nên Tòa án giải quyết theo hướng cho ly
hôn.

97
 
Vấn đề này không được luật quy định nên đã gây khó khăn trong cả việc xác
định vợ, chồng nào đó có trong tình trạng ly thân hay không. Mặt khác, không
xác định được thời gian ly thân, nên việc giải quyết án ly hôn thường phải kéo
dài khiến cho nhiều đương sự gặp khó khăn trong việc xây dựng cuộc sống
mới.
Thứ ba, trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành
án phạt tù
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa quy định căn cứ ly hôn trong
trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù. Vì vậy, trường hợp vợ
hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù thì không
đủ cơ sở giải quyết cho ly hôn[3]. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn.
3.2. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ GIA ĐÌNH
Có thể thấy rằng luật hôn nhân gia đình 2014 đã có những sửa đổi đáng
kể, nhằm khắc phục những điểm chưa hoàn thiện của luật hôn nhân gia đình
2000 và điều chỉnh các quan hệ trong gia đình phù hợp với thực tế hiện nay
hơn. Tuy nhiên, thời gian áp dụng luật cũng chưa nhiều và qua quá trình
nghiên cứu luật hôn nhân gia đình 2014, tác giả có một số đề xuất nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật như sau:
Thứ nhất, cần lượng hóa nội dung tiêu chí về căn cứ ly hôn theo quy định tại
khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Ngoại tình là một trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy giữa vợ
chồng, là hành vi trái với đạo đức xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định: Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Trước

98
 
đây, theo Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa quy định trường hợp ngoại tình và một bên bỏ nhà đi quá
hai năm không có duyên cớ chính đáng là một trong những căn cứ để Tòa án
cho ly hôn.
Do đó, cần bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn khi vợ hoặc chồng có
hành vi ngoại tình vào Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, cụ
thể như sau:
“Trường hợp một bên vợ hoặc chồng có hành vi ngoại tình lặp đi lặp lại nhiều
lần hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà vẫn tiếp tục vi
phạm hoặc có văn bản của cơ quan điều tra là có dấu hiệu tội phạm (tội vi
phạm chế độ một vợ, một chồng) nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Hành vi ngoại tình của vợ hoặc chồng gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả
nghiêm trọng có thể là gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của bên
còn lại, làm cho gia đình tan vỡ.
Trường hợp vợ hoặc chồng có hành vi ngoại tình và bỏ nhà đi quá hai năm mà
không có tin tức, không có trách nhiệm với gia đình, không cùng nhau xây
dựng mục đích hôn nhân làm cho quan hệ vợ chồng rạn nứt”.
Thứ hai, cụ thể hóa quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly
hôn
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cần bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn
khi vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình, cụ thể như sau:
“Trong trường hợp chồng hoặc vợ có hành vi bạo lực gia đình thì vợ hoặc
chồng được Tòa án giải quyết cho ly hôn khi có căn cứ sau:
Đối với hành vi bạo lực vật chất: Vợ, chồng thường xuyên đánh đập, ngược
đãi, hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ luôn bị giày vò về mặt tình

99
 
cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích, tổn hại
đến sức khỏe mà chưa đến mức xử lý về hình sự hoặc đã bị xử phạt vi phạm
hành chính.
Đối với bạo lực tinh thần: Vợ, chồng bị chửi bới, sỉ nhục, xâm phạm danh dự,
nhân phẩm và uy tín.
Hành vi bạo lực của vợ, chồng được lặp đi lặp lại nhiều lần, đã được chính
quyền địa phương nhắc nhở hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có
văn bản của cơ quan điều tra có dấu hiệu tội phạm (tội ngược đãi vợ; tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội bức tử)
nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam cần công nhận ly thân và xem ly thân là một
trong những căn cứ để cho ly hôn
Căn cứ ly hôn do ly thân: “Trong trường hợp vợ chồng đã sống ly thân hơn 3
năm mà vẫn không thể quay về với nhau để chung sống hạnh phúc hoặc sống
ly thân hơn 3 năm theo quyết định của Tòa án thì Tòa án giải quyết cho ly hôn
mà không phải xem xét, đánh giá thực trạng quan hệ vợ chồng và các bên
không phải chứng minh tình trạng trầm trọng của hôn nhân”.
Thứ tư, cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và
đang chấp hành án phạt tù
Cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp
hành án phạt tù, cụ thể như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người
đang chấp hành án phạt tù yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”.
Kiến nghị này xuất phát từ những lý do sau:
Một là, chúng ta nên học hỏi pháp luật nước ngoài trong việc quy định trường
hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù. Ví
dụ, pháp luật Thái Lan quy định: “Vợ hoặc chồng đã bị Tòa án kết án có phán
quyết cuối cùng và bị tù hơn một năm vì phạm tội mà không có bất cứ sự

100
 
tham gia, đồng tình hoặc hay biết của người kia và sự chung sống như vợ
chồng gây cho người kia phải chịu đựng thiệt hại hoặc quấy nhiễu quá đáng”.
Ngoài ra, luật hôn nhân và gia đình hiện hành nên kế thừa những quy định của
pháp luật trước đây về căn cứ ly hôn. Tại Sắc lệnh số 159/SL ngày
17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: Một
trong những căn cứ ly hôn là trường hợp một bên vợ hoặc chồng can án phạt
giam. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện quyền được
ly hôn khi một bên vợ, chồng có đạo đức không tốt, vi phạm pháp luật. Quy
định này cũng có ý nghĩa răn đe những người là vợ, chồng chuẩn bị phạm tội
phải suy nghĩ, đắn đo khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả
của nó đối với chính mình.
Hai là, gia đình có các chức năng cơ bản: Chức năng kinh tế, giáo dục, duy trì
nòi giống và thỏa mãn nhu cầu sinh lý, tình cảm. Khi một người đang chấp
hành án phạt tù thì không thực hiện được nghĩa vụ giữa vợ chồng. Vì vậy, họ
không thể duy trì hạnh phúc gia đình, không có trách nhiệm với gia đình,
không cùng nhau xây dựng mục đích của hôn nhân cũng như trong việc chung
tay nuôi dưỡng con cái. Việc duy trì hôn nhân chỉ là hình thức bên ngoài. Mặt
khác, người đang chấp hành án phạt tù thì không thể chăm lo được về đời
sống vật chất cũng như tinh thần cho gia đình, người phạm tội có thể là người
mất tư cách, có đạo đức xấu ảnh hưởng đến việc giáo dục con cái.
- Cần đưa ra quy định để xác định hành vi “vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng” là như thế nào bởi theo quy định hiện nay chỉ nêu ra
mà chưa đưa ra cách xác định. Hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn hành
vi vi phạm nghĩa vụ vợ chồng nào được xác định là hành vi vi phạm nghiêm
trọng. Việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm tùy thuộc vào
thái độ của bên vợ hoặc chồng bị vi phạm quyền, nghĩa vụ và đánh giá chủ
quan của từng thẩm phán khi giải quyết yêu cầu ly hôn. Trước hết, tính chất

101
 
nghiêm trọng của hành vi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng sẽ do vợ
chồng tự xác định để yêu cầu ly hôn trên cơ sở nhận thức, đánh giá chủ quan
của vợ, chồng. Vì vậy, ở mỗi thời điểm khác nhau, hoặc với mỗi cặp vợ
chồng khác nhau, hoặc thậm chí giữa vợ và chồng thì với cùng một hành vi vi
phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, có thể có những đánh giá khác nhau về
mức độ nghiêm trọng của hành vi đó; liệu có nghiêm trọng đến mức dẫn đến
hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được hay không. Chẳng hạn, Điều 19 Luật
HN-GĐ năm 2014 qui định “Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy,
tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các
công việc trong gia đình…”. Thực tế, ở nhiều cặp vợ chồng, công việc nội
trợ, chăm sóc con cái trong gia đình đều do người vợ thực hiện, người chồng
bỏ mặc, không chia sẻ, giúp đỡ vợ mình. Hành vi của người chồng được xác
định là vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng. Tuy nhiên, ở mỗi gia đình khác nhau
thì việc đánh giá tính chất nghiêm trọng của hành vi này lại khác nhau. Có
người vợ thì cho rằng đây là thiên chức của người phụ nữ trong gia đình và
chấp nhận hành vi này của người chồng. Có người vợ lại cảm thấy hành vi
này của người chồng thể hiện sự thờ ơ, bỏ mặc gia đình, không yêu thương vợ
con nên không thể chấp nhận được hành vi của người chồng, quan hệ vợ
chồng trở nên căng thẳng. Một ví dụ khác là trường hợp một bên vợ hoặc
chồng ngoại tình. Thực tế tùy từng gia đình khác nhau mà tình trạng vợ chồng
lại khác nhau. Có những gia đình, chồng hoặc vợ của người ngoại tình có thể
tha thứ cho lỗi này của vợ, chồng mình để tiếp tục chung sống hạnh phúc. Có
những cặp vợ chồng khác lại lâm vào tình trạng căng thẳng, mâu thuẫn,
không thể tiếp tục chung sống khi phát hiện hành vi ngoại tình của chồng, vợ
mình. Có thể thấy, tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm quyền, nghĩa
vụ của vợ, chồng được xác định trên cơ sở thái độ, tình cảm của vợ, chồng đối

102
 
với hành vi vi phạm đó. Chính thái độ, tình cảm đó là yếu tố quyết định đối
với việc liệu hôn nhân có lâm vào tình trạng trầm trọng hay không. Tuy nhiên,
khi giải quyết yêu cầu ly hôn thì chủ thể có thẩm quyền đánh giá tính chất
nghiêm trọng của hành vi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng lại là thẩm
phán giải quyết vụ án ly hôn. Do luật không có một căn cứ cụ thể cho mức độ
nghiêm trọng của hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ nên sẽ rất dễ dẫn tới
việc thẩm phán đánh giá tính chất nghiêm trọng đó bằng kinh nghiệm, nhận
thức chủ quan của mình, gây ra sai lầm trong đánh giá giải quyết yêu cầu ly
hôn. Vì vậy, cần thống nhất căn cứ đánh giá tính chất nghiêm trọng của hành
vi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng thông qua tình huống thực tế cũng
như thái độ, tình cảm thực tế của từng cặp vợ chồng đối với hành vi vi phạm
quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Nên quy định về trường hợp một bên bị truy nã không rõ tung tích trong một
khoảng thời gian dài. Thực tế thì việc vợ, chồng liên tục vắng mặt trong thời
gian dài, không chăm lo cho đời sống chung không chỉ tồn tại khi vợ hoặc
chồng bị tuyên bố mất tích. Theo báo cáo tổng kết của ngành Tòa án thì hiện
nay ngành Tòa án nhân dân nhận được rất nhiều đơn yêu cầu ly hôn của một
bên đề nghị ly hôn với người đang bị truy nã do vi phạm pháp luật, nhưng
Luật HN-GĐ không có qui định cho ly hôn trong trường hợp này nên Tòa án
phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Điều đó đã ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn.
Theo một số văn bản hướng dẫn trước đây thì đối với trường hợp một bên vợ,
chồng bị truy nã thì chồng hoặc vợ của họ áp dụng căn cứ ly hôn trong trường
hợp một bên vợ, chồng mất tích thông qua thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố
mất tích trước yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề này vẫn còn đang
có nhiều tranh cãi, các Tòa vẫn còn chưa có sự thống nhất về quan điểm về
việc tuyên bố mất tích đối với người đang bị truy nã (Theo Tạp chí Tòa án

103
 
nhân dân các số 07/2009, 08/2009, 09/2009, 13/2009, 23/2010) nên việc giải
quyết ly hôn đối với trường hợp này vẫn có vướng mắc. Trong trường hợp
một bên vợ, chồng bị truy nã trong thời gian dài mà không có tin tức gì thì dễ
dẫn đến việc tình cảm vợ chồng phai nhạt dù không có hành vi bạo lực gia
đình hay vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Khi giữa vợ
chồng không còn tình cảm yêu thương gắn bó nữa thì hôn nhân tồn tại chỉ còn
mang tính hình thức. Việc vợ, chồng của họ muốn chấm dứt đời sống chung
là mong muốn phù hợp với bản chất của ly hôn. Do đó, cần tạo cơ sở pháp lí
cho phép vợ chồng ly hôn trong trường hợp này thông qua việc qui định một
bên vợ, chồng bị truy nã là căn cứ ly hôn theo yêu cầu một bên.
Nên quy định cụ thể Về nội dung sửa đổi, bổ sung có phải tuân thủ điều kiện
nào hay không để phù hợp với các quy định khác. Điều 49 của Luật HN&GĐ
năm 2014 và Điều 17 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đều chỉ quy định về
hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận (phải giống thỏa thuận ban
đầu là bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực). Theo tác giả, nên quy
định Điều 49 Luật HN&GĐ năm 2014 nên được hoàn thiện theo hướng:
“Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng
1. Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản.
2. Hình thức, nội dung sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài
sản theo thỏa thuận được áp dụng lần lượt theo quy định tại Điều 47, Điều 48
của Luật này.”
Và để hướng dẫn chi tiết hơn, Điều 17 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cũng
nên được chỉnh sửa: “Sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ
chồng
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp
dụng thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ

104
 
sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế
độ tài sản theo luật định.
2. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng phải
được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Nội dung của
thỏa thuận sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản phải tuân theo khoản 2 Điều 15
của Nghị định này”.
* Về tổ chức thực hiện các quy định của luật hôn nhân gia đình 2014 cần thực
hiện một số biện pháp:
- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền như Tòa án,
thẩm phán, công chứng viên, cán bộ tư pháp cơ sở…trong việc đảm bảo thực
hiện các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định mới của luật như
mang thai hộ, về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Bên cạnh đó,
cần bồi dưỡng năng lực chuyên môn, kiến thức nghiệp vụ, hoàn thiện tổ chức
nói chung và cá nhân cán bộ có thẩm quyền tổ chức thực hiện .
- Phổ biến pháp luật sâu rộng, nâng cao trình độ dân trí để người dân hiểu và
thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật. Đặc biệt hướng dẫn, tuyên
truyền cho người dân về các quy định mới của pháp luật, các quyền và nghĩa
vụ của các thành viên trong gia đình. Ví dụ như giúp người dân hiểu được ý
nghĩa của việc lựa chọn thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận, việc mang thai hộ giúp rất nhiều cho các cặp vợ chồng hiếm muộn,
không có khả năng sinh con…

105
 
KẾT LUẬN
 

Luận văn đưa ra một cách nhìn mới về gia đình mà không bị bó hẹp, giới
hạn bởi ba quan hệ là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng.
Để đưa ra được khái niệm về gia đình, tác giả đã tìm hiểu quan điểm của
các ngành khoa học về gia đình như triết học, xã hội học và luật học, cùng với
đó là phân tích quan điểm của những ngành khoa học này khi nghiên cứu về
gia đình. Từ những quan điểm đó kết hợp với thực tiễn để xây dựng khái niệm
về gia đình và gia đình sao cho phù hợp với thực tiễn. Khi tìm hiểu về gia
đình không thể không tìm hiểu vị trí và chức năng của gia đình, gia đình có
vị trí và chức năng xã hội vô cùng quan trọng, chức năng xã hội của gia đình
có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong và phát triển của xã hội. Các quy định về
gia đình của các nước rất rộng, nhưng phù hợp với văn hóa và bao quát được
hầu hết các quan hệ gia đình phát sinh trong thực tiễn xã hội của nước đó. Tác
giả đã đi tìm hiểu xuyên suốt quá trình lịch sử pháp luật Việt Nam quy định
về pháp luật hôn nhân gia đình. Qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử, pháp
luật quy định về gia đình cũng có nhiều thay đổi, sự thay đổi này thường theo
hướng tích cực và đã dần dần từng bước xóa bỏ các quan niệm lạc hậu, các
quyền lợi của thành viên gia đình được ghi nhận và bảo đảm.
Thực tiễn xác định tác giả đi sâu phân tích nội dung điều chỉnh về gia
đình theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Mối quan hệ giữa các thành
viên gia đình. Trong quan hệ vợ chồng không chỉ có quan hệ nhân thân mà
còn có quan hệ tài sản và việc chấm dứt hôn nhân. Trong quan hệ cha mẹ con
cũng không giới hạn ở sự kiện sinh đẻ và sự kiện nuôi con nuôi mà còn có
những quan hệ cha mẹ con do hôn nhân đưa lại như quan hệ giữa cha mẹ
chồng và con dâu, cha mẹ vợ với con rể; do nuôi con nuôi nhưng không đăng

106
 
ký, mang thai hộ... Trong quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình như
ông bà và cháu. Quan hệ anh chị em trong thực tiễn cũng được xác định rất
rộng chẳng hạn như anh em rể, chị em dâu sống cùng nhà. Ngoài những quan
hệ trên thì trong thực tiễn còn có những quan hệ khác như qua hệ giữa cụ và
chắt, cô, dì, chú, bác, cậu và cháu ruột hay cháu họ.
Hoàn thiện các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình là cơ sở để từng
cá nhân thành viên gia đình có thể nâng cao nhận thức, thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình đối với các thành viên khác trong các quan hệ về nhân
thân và đặc biệt là quan hệ tài sản đúng pháp luật, tránh nảy sinh các tranh
chấp. Đồng thời pháp luật hoàn thiện cũng giúp nâng cao trình độ của các cán
bộ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, giúp cho công tác tuyên truyền và
phổ biến pháp luật thuận lợi hơn, công tác giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình được chính xác hơn.
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về gia đình, thành viên gia đình,
tài sản chung của gia đình, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình đối
với tài sản chung từ đó chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại, những thiếu sót; tìm
ra những nguyên nhân của những hạn chế để đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và
gia đình.

107
 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ tư pháp (2007), Từ điển luật học, NXB Tư Pháp – NXBTĐ Bách


Khoa, Hà Nội
2. C.Mác và Ph.Ăng – Ghen toàn tập, Tập 21. Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của Nhà nước, NXB Chính Trị Quốc Gia
3. Dân luật Bắc kỳ - 1931
4. Dân luật giản yếu - 1883
5. Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa (2003), Giáo trình luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam , NXB Công An Nhân Dân
6. Đại học quốc gia Hà Nội (1994), Luật La Mã
7. Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật La Mã.
8. Đại học luật Hà Nội (2001), Tập bài giảng Xã hội học, NXB Công An
Nhân Dân
9. Đại từ điển Tiếng việt (1999) , NXB Văn hóa thông tin
10. Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật – 1936
11. Hoàng Việt luật lệ (1994), NXB Văn Hóa Thông Tin
12. Chủ tịch chính Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh 97 – SL.
Ngày 22/5/1950
13. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh 159 – SL.
Ngày 17/11/1950
14. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh 90 – SL.
Ngày 10/10/1945
15. Quốc hội Nước VNDCCH (1946), Hiến pháp
16. Quốc hội Nước VNDCCH (1959), Hiến pháp
17. Quốc hội Nước CHXHCNVN (1980), Hiến pháp
18. Quốc hội nước CHXHCNVN (1992), Hiến pháp

108
 
19. Quốc hội nước CHXHCNVN (2005), Bộ luật dân sự
20. Quốc hội nước CHXHCNVN (2002), Bộ luật lao động
21. Quốc hội nước VNDCCH (1959), Luật hôn nhân và gia đình
22. Quốc hội nước CHXHCNVN (1986), Luật hôn nhân và gia đình
23. Quốc hội nước CHXHCNVN (2000), Luật hôn nhân và gia đình
24. Quốc hội nước CHXHCNVN (2014), Luật hôn nhân và gia đình
25. Quốc hội nước CHXHCNVN (2010), Luật nuôi con nuôi
26. Quốc hội nước CHXHCNVN (2007), Luật phòng chống bạo lực gia
đình
27. Quốc hội nước CHXHCNVN (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10
28. Quốc triều hình luật(1991), NXB Pháp Lý
29. Nhập môn Xã hội học (1993), NXB Khoa Học Xã Hội
30. Trường Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam, NXB Công an Nhân dân
31. Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội XI, Ban soạn thảo luật phòng,
chống bạo lực gia đình (2007), Luật phòng, chống bạo lực gia đình của
một số nước trên thế giới, NXB Tư Pháp.
32. Viện khoa học xã hội việt nam – viện gia đình và giới (2009), Nghiên
cứu gia đình và giới thời kỳ đổi mới. NXB Khoa học xã hội.
33. LS,Ths Nguyễn Văn Cừ - Ths Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, NXB Chính trị
Quốc gia
34. TS.Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam , Tập I – Gia đình , NXB Trẻ TP.Hồ Chí Minh
35. ThS.Đinh Thị Mai Phương (2005), Tìm hiểu pháp luật Việt Nam và
những quy định của Đài Loan về quan hệ hôn nhân và gia đình, NXB Tư
Pháp

109
 
36. GS. Phạm Tất Long – TS. Lê Ngọc Hùng (1999), Xã hội học, NXB Giáo
Dục.
37. Vũ Văn Mẫu (1973), Việt Nam dân luật lược giảng – Luật gia đình.
Quyển tập 1, tập 1.
38. LG.Ngô Văn Thâu (2005), Pháp luật về hôn nhân và gia đình trước và
sau cách mạng tháng tám , NXB Tư Pháp.
39. GS.Lê Thi (2009), Sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hôn
nhân gia đình giữa các thế hệ người Việt Nam hiện nay, NXB Khoa Học
Xã Hội.
40. Nguyễn Thị Thùy (2010), Chế độ hôn nhân và gia đình trong cổ luật
Việt Nam – Nhìn từ góc độ lịch sử và so sánh.
41. www.ubmvgiadinh.org. Gia đình truyền thống Việt Nam – GS.Nguyễn
Văn Canh
42. www.tinmoi.vn. Hôn nhân đồng tính cấm hay cho?

110
 

You might also like