You are on page 1of 35

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE

TIỂU LUẬN MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


Đề tài:
So sánh và nêu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Phân tích thực trạng đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay

Giảng viên giảng dạy : ThS.GVC Nguyễn Hoàng Vân


Lớp chuyên ngành : 65A Digital Marketing CLC
Thành viên thực hiện : Nhóm 03
1. Hoàng Thị Vân Anh
2. Trần Thị Huyền Linh
3. Chu Minh Trang
4. Lê Thị Việt Trinh

Hà Nội, tháng 12 năm 2023


Trường Đại học Kinh tế quốc dân

MỤC LỤC
DANH SÁCH NHÓM....................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT.............................................................................5
A. KHÁI NIỆM...........................................................................................................5
B. NGUỒN GỐC CỦA PHÁP LUẬT........................................................................5
C. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT...........................................................................6
D. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT...................................................................8
E. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT................................................................................9
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC..............................................................................12
A. KHÁI NIỆM.........................................................................................................12
B. NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO ĐỨC.........................................................................12
C. BẢN CHẤT CỦA ĐẠO ĐỨC.............................................................................13
D. CẤU TRÚC CỦA ĐẠO ĐỨC.............................................................................14
E. VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC.................................................................................17
SO SÁNH GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT.........................................................20
A. ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC.............................20
B. SỰ KHÁC NHAU GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT....................................20
C. NHẬN XÉT CHUNG...........................................................................................22
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC...............................................23
A. KHÁI NIỆM VÀ BIỂU HIỆN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ
ĐẠO ĐỨC................................................................................................................23
B. Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC............26
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM NGÀY NAY
......................................................................................................................................27
A. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY.........................27
B. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC HIỆN NAY...........................29
C. CÁCH NUÔI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC.....................................................................31
ĐÁNH GIÁ & KẾT LUẬN..........................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................34

2
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

DANH SÁCH NHÓM


Môn học : Pháp luật đại cương
Nhóm : 03
Lớp : Digital Marketing CLC 65A
Tên đề tài : So sánh và nêu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức?
Phân tích thực trạng đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay?

STT HỌ TÊN MSV NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ

1 Hoàng Thị Vân Anh 11234566 Nghiên cứu và hoàn 100%


thiện phần Cơ sở lý
luận về Pháp luật và
Đạo đức
2 Trần Thị Huyền Linh 11232307 Nghiên cứu và hoàn 100%
- Nhóm trưởng thiện phần So sánh
giữa Đạo đức và Pháp
luật
3 Chu Minh Trang 11236776 Nghiên cứu và hoàn 100%
thiện phần Mối quan hệ
giữa Đạo đức và Pháp
luật
4 Lê Thị Việt Trinh 11232340 Nghiên cứu và hoàn 100%
thiện phần Phân tích
thực trạng đạo đức xã
hội ở Việt Nam

3
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

LỜI MỞ ĐẦU

Kính chào thầy giáo và các bạn sinh viên!

Có thể nói, vai trò của pháp luật là không thể thiếu đối với sự phát triển của loài
người. Trải dài suốt thời gian hình thành nên 5 hình thái kinh tế - xã hội, pháp luật
luôn là công cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã
hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản
lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức
đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị
mới.

Hiểu biết được pháp luật chính là chìa khóa giúp giải quyết các công việc trên mọi
lĩnh vực, ngành nghề, cũng giúp chúng ta nâng cao ý thức, hướng đến những giá trị
tích cực hơn của cuộc sống, mà bao quát và rộng hơn, chính là đạo đức.

Chính vì vậy, để hiểu rõ hơn về mối liên hệ mật thiết này giữa pháp luật và đạo đức
cũng như từ đó, hiểu thêm về sự xây dựng và phát triển xã hội trong cuộc sống hiện
đại, chúng em xin được phân tích chúng qua những cơ sở lý luận, các ví dụ nhằm rút
ra quan hệ cũng như kết luận một cách rõ ràng nhất.

Đồng thời, nhóm chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Nguyễn
Hoàng Vân - Giảng viên môn Pháp luật đại cương lớp Digital Marketing CLC 65A, đã
giúp đỡ chũng em hoàn thành bài tập lớn này!

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

4
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT


A. KHÁI NIỆM
- Ở Việt Nam hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo luật học cũng như trong
sách báo pháp lý tồn tại nhiều định nghĩa về pháp luật. Tuy nhiên, có thể nói, các định
nghĩa đó cơ bản chỉ khác nhau về câu chữ và thể hiện quan niệm về pháp luật với tư
cách là một loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn mực xã hội, pháp luật
có những điểm khác biệt cơ bản so với các loại chuẩn mực xã hội khác như đạo đức,
phong tục tập quán…
- Ta có thể hiểu theo một góc độ nhất định như sau:
Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận có
tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bắt buộc
chung thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước và được Nhà nước đảm
bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
B. NGUỒN GỐC CỦA PHÁP LUẬT
- Có khá nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh nguồn gốc của pháp luật. Tuy nhiên
về cơ bản thì có hai quan điểm chính trái ngược nhau là quan điểm duy tâm và quan
điểm duy vật
+ Theo quan điểm duy tâm thì pháp luật là sản phẩm của thượng đế (Thuyết thần
học). Thượng đế sinh ra nhà nước và tạo ra pháp luật cho nhà nước. Vì coi pháp luật
như là mệnh lệnh của thượng đế, nếu không tuân theo sẽ bị trừng phạt nên việc tuân
theo pháp luật trở thành điều bắt buộc. Dựa vào quan điểm đó mà giai cấp thống trị lợi
dụng để phục vụ cho việc cai trị của họ. Quan điểm duy tâm sai lầm ở chỗ không xem
nguồn gốc của pháp luật là xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của con
người. Vậy nên hiện nay quan điểm này được cho là không khoa học và có học thuyết
phạn tiến bộ
+ Khác với quan điểm duy tâm thì theo chủ nghĩa duy vật, đặc biệt là theo học
thuyết của chủ nghĩa Mac-Lenin thì pháp luật và nhà nước là những hiện tượng xã hội
mang tính lịch sử, cùng xuất hiện, tồn tại, phát triển và cùng tiêu vong trong những
điều kiện lịch sử nhất định.
-Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có pháp luật nhưng lại tồn tại những quy
tắc ứng xử sự chung thống nhất. Đó là những tập quán và các tín ngưỡng tôn giáo và

5
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

được coi là các quy phạm chung của xã hội. Khi lịch sử phát triển đến giai đoạn chế
độ tư hữu và xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp thì một số tập quán không còn
phù hợp để thể hiện ý chí chung của tất cả mọi người trong điều kiện xã hội có sự
phân hóa. Bên cạnh đó, do các bất đồng về quan điểm, mục tiêu, quyền lợi giữa các
giai cấp đã gây nên mâu thuẫn không thể dung hòa được. Từ đó mà Nhà nước ra đời
để duy trì trật tự xã hội và Pháp luật là nền tảng để củng cố và duy trì trật tự đó. Bởi lẽ
pháp luật ra đời cùng với nhà nước không tách rời nhà nước, đều là sản phẩm của xã
hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.

-Và sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và bổ sung thì hình thành nên pháp luật từ ba
nguồn sau:
+Nguồn thứ nhất: Thừa nhận các phong tục, tập quán đã có từ lâu phù hợp với ý chí
và lợi ích xã hội. Sau đó chính thức công khai xác nhận đó cũng là pháp luật nhà
nước, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế
+Nguồn thứ hai: Thừa nhận các quyết định có trước về một vụ việc cụ thể của cơ quan
hành chính, xét sử mà đã được nhà nước công nhận là khuôn mẫu để giải quyết những
vụ việc tương tự. Hay nói là nhà nước thừa nhận các tiền lệ pháp và án lệ của tòa án.
+ Nguồn thứ 3: Nhà nước tìm hiểu và nghiên cứu để ban hành những quy tắc xử sự
mới để điều chỉnh lại các quan hệ mới nảy sinh do sự phát triển của xã hội và sự hình
thành hệ thống văn bản pháp luật.
➔ Qua sự trình bày trên về nguồn gốc của pháp luật, ta có thể nhận ra được rằng
pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành. Pháp luật ra đời cùng nhà
nước, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực của nhà nước, duy trì nhằm bảo vệ
quyền lợi của các giai cấp, ổn định các mối quan hệ xã hội với nhau. Như vậy, pháp
luật ra đới như một yếu tố khách quan, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội để quản lí xã hội
khi có sự tranh chấp lợi ích của các giai cấp. Nhà nước chủ nó được xem là những tổ
chức quyền lực chính trị đầu tiên trong lịch sử đã cầm mốc cho sự khởi đầu lịch sử
pháp luật trên thế giới.

C. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT

6
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước, gắn với nhà nước đồng thời pháp
luật là công cụ nằm trong tay giai cấp thống trị, để thực hiện và bảo vệ quyền lợi và
địa vị thống trị của giai cấp đó. Bên cạnh đó, pháp luật còn là công cụ của nhà nước
để điều hành và quản lý xã hội, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội vì sự phát triển
chung của toàn xã hội, cộng đồng.
➔ Do vậy, xét về bản chất, pháp luật mang tính giai cấp và tính xã hội.
1.Bản chất của Pháp Luật thể hiện qua tính giai cấp:
Pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là công cụ điều chỉnh
quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội theo chiều hướng bảo vệ quyền và lợi
ích của giai cấp thống trị.
• Nói cách khác, pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền. Bởi giai cấp cầm quyền
trong xã hội luôn theo đuổi mục đích củng cố và bảo vệ quyền thống trị của mình.
• Một trong những cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để đạt được mục đích đó là
biến ý chí của giai thống trị trở thành ý chí của nhà nước, từ đó, ý chí của nhà nước sẽ
được biểu hiện thành các quy định cụ thể của pháp luật - các quy tắc xử sự có giá trị
bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện trong xã hội.
• Pháp luật là sự thể chế hóa nhằm thực hiện các mục tiêu, chính sách, đường lối chính
trị của lực lượng cầm quyền, giúp cho lực lượng thực hiện được quyền lãnh đạo của
nó đối với toàn xã hội.
• Mức độ thể hiện tính giai cấp của pháp luật phụ thuộc vào tương quan lực lượng,
tính khốc liệt của mâu thuẫn giai cấp, vào đặc điểm của sự phát triển kinh tế, truyền
thống, tôn giáo, đạo đức, bối cảnh quốc tế, lịch sử hay thậm chí là các điều kiện tự
nhiên.
* Ví dụ về bản chất giai cấp của pháp luật:
- Pháp luật chủ nô là pháp luật của giai cấp chủ nổ do giai cấp này đặt ra trước hết là
vì lợi ích của nó. Pháp luật chủ nô quy định công khai quyền lực vô hạn của chủ nô
và tình trạng vô quyền của giai cấp nô lệ.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.

2.Bản chất của pháp luật thể hiện qua tính xã hội:

7
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

• Xã hội được cấu tạo bởi nhiều thành phần, giai cấp, tầng lớp khác nhau, do vậy,
pháp luật ngoài việc chú trọng phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị
còn phải phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho các giai tầng khác trong xã hội ở một
mức độ nhất định.
•Tính xã hội của pháp luật thể hiện thực tiễn pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc tự
nhiên" trong xã hội. Các quy phạm pháp luật mặc dù do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tuy nhiên chỉ những quy
phạm nào phù hợp với thực tiễn mới được thực tiễn giữ lại thông qua nhà nước, đó là
những quy phạm "hợp lý”, “khách quan” được số đông trong xã hội chấp nhận, phù
hợp với lợi ích của đa số trong xã hội. Lực lượng cầm quyền trong xã hội muốn củng
cố và giữ gìn quyền lực của mình trong xã hội một cách bền vững thì bên cạnh việc
quan tâm tới lợi ích riêng của mình còn phải quan tâm đến lợi ích chung của cộng
đồng và xã hội, xây dựng và giữ gìn trật tự xã hội.
• Pháp luật là một trong những công cụ hiệu quả nhất để huy động sức mạnh chung
của cộng đồng cho công cuộc xây dựng và ổn định trật tự xã hội. Do vậy, pháp luật
phản ánh và thể hiện ý chí chung của xã hội. Xã hội càng phát triển, yêu cầu của nền
dân chủ càng cao thì nhu cầu thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội
bằng pháp luật càng đóng vai trò quan trọng.
* Ví dụ về bản chất xã hội của pháp luật:
- Bộ luật Hình sự cũ không quy định các chủ thể là pháp nhân thương mại nhưng do
điều kiện xã hội phát sinh thêm chủ thể này nên Bộ luật Hình sự sau này đã kịp sửa
đổi, bổ sung để phù hợp hơn với sự phát triển của xã hội

D. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT


- Pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Pháp luật mang tính quyền lực nhà nước:
Vì pháp luật do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận nên pháp luật luôn thể hiện ý chí của
Nhà nước. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự quy định bắt buộc đối với mọi cá
nhân tổ chức trong toàn xã hội và được áp dụng chung trong cộng đồng. Không có ai
hay chủ thể nào có quyền đặt ý chí chủ quan của mình vào quyết định là thực hiện hay
không mà đều cần tuân thủ nghiêm theo quy định của pháp luật.

8
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

2.Pháp luật có tính quy phạm phổ biến:


Pháp luật là khuôn mẫu, mực thước, mô hình xử sự có tính phổ biến chung. Bất kỳ ai
khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do pháp luật dự liệu thì đều xử sự theo những cách
thức mà nó đã nêu ra. Căn cứ vào pháp luật, các tổ chức và cá nhân trong xã hội sẽ
biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào khi rơi vào
một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
3. Pháp luật có tính bắt buộc chung:
Pháp luật có tính quyền lực bắt buộc chung và các quy định bắt buộc đối với mọi cá
nhân tổ chức nên được pháp luật được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện
pháp, từ tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, ở mức độ có hành vi chống đối thì sẽ áp
dụng các biện pháp cưỡng chế. Điều này đã góp phần tạo ra sự công bằng và bình
đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
4.Pháp luật có tính hệ thống:
Pháp luật có tính hệ thống vì pháp luật là hệ thống các quy phạm để điều chỉnh nhiều
loại quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống như kinh tế,
lao động, dân sự, hình sự … Tuy nhiên, các quy phạm đó không tồn tại một cách biệt
lập mà giữa những mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau để tạo nên một chỉnh thể
là hệ thống pháp luật. Có thể hiểu:
+Pháp luật có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với mọi tổ chức và cá
nhân trong xã hội, có tác động thường xuyên trên toàn lãnh thổ và trong nhiều lĩnh
vực hoạt động khác nhau của xã hội.
+Pháp luật là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Căn cứ vào pháp luật để
xác định được hành vi đó có hợp pháp hay trái pháp luật; hoạt động nào mang tính
pháp lý và hoạt động nào không mang tính pháp lý.
5.Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức:
Pháp luật thường được thể hiện trong những hình thức nhất định, có thể là tập quán
pháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. Các quy định của pháp luật
thường rõ ràng, cụ thể, đảm bảo có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trong một
phạm vi rộng.

E. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT

9
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

- Vai trò của pháp luật có thể được xem xét và nhìn nhận từ nhiều góc độ, mức độ,
khía cạnh khác nhau; tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ nhất sự tác động của chúng vào
cuộc sống, chúng ta nên đặt chúng vào trong những mối quan hệ cụ thể, đặc biệt là
trong mối quan hệ với xã hội và với nhà nước.
1. Vai trò của pháp luật đối với xã hội:
- Ngày nay, pháp luật không chỉ được nhìn nhận là của “riêng" nhà nước, công cụ để
nhà nước tổ chức và quản lí xã hội. Ngược lại, pháp luật đã trở thành “tài sản" chung
của toàn xã hội.
• Pháp luật là công cụ điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội:
Pháp luật không sinh ra các quan hệ xã hội nhưng pháp luật như là phương thức hữu
hiệu để điều tiết và định hướng các quan hệ xã hội. Pháp luật giúp con người xác định
và làm theo những quy tắc ứng xử trong khuân khổ nhất định. Pháp luật còn giúp quy
định quyền và nghĩa vụ cụ thể cho chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội. Pháp luật tạo
ra hành lang pháp lý, khuôn khổ cho các quan hệ xã hội vận hành. Nhờ có pháp luật,
các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào
là bắt buộc, hành vì nào bị ngăn cấm để từ đó có cách ứng xử phù hợp. Từ đó, chúng
góp phần điều hướng,khuyến khích, thúc đẩy các xu hướng phát triển tích cực của các
quan hệ xã hội, đồng thời đẩy lùi và loại bỏ những những quan niệm xã hội lạc hậu
gây ảnh hưởng, cản trở sự phát triển đời sống và đi trái với mục tiêu của Nhà nước.
• Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người, là cơ sở để giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong các quan hệ xã hội, từ đó, đảm bảo sự an toàn và phát
triển bền vững của xã hội:
Là một nhà nước xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ, Nhà nước ta luôn đề cao việc
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân. Và điều này được thể hiện rõ ràng
thông qua các quy phạm pháp luật khi Nhà nước công nhận các quyền tự do, dân chủ
cơ bản của con người, đồng thời đề ra những biện pháp nhằm bảo vệ quyền con người
khỏi bị xâm phạm. Pháp luật quy định cách ứng xử đúng đắn nhất cho các chủ thể, có
biện pháp xử phạt nghiêm minh với những hành vi vi phạm, gây mất an ninh, từ đó,
công dân tin tưởng pháp luật, thực hiện pháp luật một cách chủ động. Khi an ninh xã
hội được đảm bảo, đây sẽ là tiền đề vững chắc, góp phần xây dựng, duy trì nên một xã
hội dân chủ, an toàn, công bằng, văn minh và thúc đẩy sự phát triển bền vững.

10
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

2.Vai trò của pháp luật đối với nhà nước:


-Sự hợp pháp không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân nhà nước mà còn có ý nghĩa chi
phối mạnh mẽ đối với cả những lực lượng chống đối nhà nước, nhiều khi nó còn có
khả năng ngăn cản các âm mưu chính biến. Chính vì vậy, các chính quyền nhà nước
cho dù được tạo nên bằng con đường nào thì sự tồn tại của nó đều cần đến một sự hợp
pháp.
- Ngày nay, sau những cuộc đấu tranh giành chính quyền, lực lượng nào giành được
chính quyền cũng luôn tìm cách hợp pháp hoà sự tồn tại của chính quyền đó bằng
cách tổ chức bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và tổ chức bộ máy nhà nước trên
cơ sở của luật pháp.
• Pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của Nhà nước, đồng thời đảm
bảo cho tổ chức và bộ máy nhà nước được hoạt động trơn tru:
Sự hình thành và phát triển của pháp luật luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển
của Nhà nước. Chúng phản ánh ý chí, mục tiêu của giai cấp cầm quyền, hợp pháp hóa
sự tồn tại của Nhà nước, đồng thời, tạo ra thế và lực cho nhà nước, tạo cho nhà nước
tư cách và khả năng quản lý, điều hành xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định
con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, chức năng, quyền hạn của từng cơ quan, nhân
viên Nhà nước cụ thể; tạo lập các mối quan hệ hợp tác trong nội bộ, thiết lập khuôn
khổ hoạt động cho bộ máy và quy tắc ứng xử chung cho các cơ quan, nhân viên nhà
nước. Từ đó, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực Nhà
nước, hạn chế hiện tượng tham nhũng, lạm quyền, góp phần tạo nên một bộ máy Nhà
nước khoa học, tránh sự chồng chéo và hoạt động hiệu quả.
• Pháp luật là công cụ để nhà nước tổ chức và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội:
Với hệ thống các quy phạm pháp luật chặt chẽ và bao quát trên nhiều lĩnh vực: Luật
Tố Tụng Hành chính, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật kinh doanh…., pháp luật đề ra
quy chuẩn chung cho mọi mối quan hệ xã hội trong từng trường hợp và phạm vi khác
nhau. Từ đó, Nhà nước và các cơ quan liên quan dựa vào pháp luật sẽ có thể dễ dàng
giải quyết những tình huống phát sinh trong đời sống một cách nhanh chóng. Đồng
thời, nhờ có pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước được áp dụng vào
đời sống một cách dễ dàng và đồng bộ, góp phần định hướng và đảm bảo các lĩnh vực
trong đời sống hoạt động thống nhất, hiệu quả theo mục tiêu đề ra.

11
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

12
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC


A. KHÁI NIỆM
- Đạo đức là một từ Hán - Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một yếu tố trong tính cách
và giá trị của mỗi con người. Là hệ thống các quy tắc về chuẩn mực của cộng đồng và
xã hội.
- Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những công trạng tạo nên. Khi nói một người
có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức,
sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn.
- Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn
đề tốt - xấu, hơn nữa xem như là đúng - sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: lương tâm
con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo
đức. Nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ
của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
- Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh
giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội.
B. NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO ĐỨC
- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ trong tồn tại xã hội, từ những
quan hệ của con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với nhau trong cuộc sống
- Đạo đức là hệ thống những quan điểm, quan niệm, những nguyên tắc, chuẩn mực,
những giá trị của xã hội nên đạo đức thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nó
phản ánh tồn tại xã hội.
- Đạo đức ra đời và phát triển là do nhu cầu phải điều tiết mối quan hệ giữa các cá
nhân và hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan
hệ đạo đức biểu hiện quan hệ của con người, trước tiên là quan hệ trong sản xuất: “Cơ
sở kinh tế của xã hội như thế nào thì ý thức đạo đức của xã hội như thế ấy”. Khi đời
sống vật chất của xã hội biến đổi, xã hội ngày càng tiến bộ thì những quan niệm đạo
đức, những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức cũng biến đổi theo và ngày càng được
hoàn thiện. Do vậy đạo đức là hiện tượng có tính lịch sử xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch

13
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

sử khác nhau, ở mỗi giai cấp khác nhau thì có các quan điểm khác nhau về cái tốt, cái
xấu; cái thiện, cái ác, hạnh phúc và bất hạnh; về lương tâm và vô lương tâm cũng như
về nghĩa vụ, trách nhiệm... Trong lịch sử, có đạo đức của xã hội nguyên thủy, của xã
hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức của xã hội phong kiến, đạo đức của xã hội tư bản chủ
nghĩa và đạo đức của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì đạo đức cũng có tính giai cấp, nghĩa là tùy
thuộc vào vị trí xã hội, địa vị xã hội và lợi ích giai cấp khác nhau mà các quan điểm về
đạo đức cũng khác nhau. Đạo đức của giai cấp bóc lột thường đối lập với đạo đức của
quảng đại quần chúng lao động và toàn xã hội.
- Đạo đức cũng có tính kế thừa. Lênin nói rằng tính kế thừa của đạo đức phản ánh
“những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kỳ cộng đồng người nào”. Mọi thời đại đều
lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội,… và biểu dương cái thiện, sự
dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn…
- Trong xã hội không có giai cấp hoặc không có đối kháng giai cấp thì đạo đức xã hội
phù hợp với đạo đức cá nhân. Xã hội đó sẽ có được một nền đạo đức thật sự nhân đạo,
vượt lên trên mọi sự đối lập về giai cấp. Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội
cộng sản chủ nghĩa.

C. BẢN CHẤT CỦA ĐẠO ĐỨC


- Đặc trưng của đạo đức là năng lực ý thức và hành động tự nguyện, tự giác của con
người vì cái thiện.
- Lẽ tất nhiên của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người đòi hỏi con người sống
trong cộng đồng phải biết tuân thủ những nguyên tắc và những chuẩn mực do xã hội
đề ra để điều chỉnh quan hệ của mình. Có nhiều loại chuẩn mực xã hội, trong đó
những nguyên tắc chuẩn mực được thực hiện một cách tự giác nhằm điều chỉnh quan
hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác và với xã hội vì hạnh phúc của con người và
tiến bộ xã hội được gọi là những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
- Hoạt động đạo đức của con người là hoạt động bao gồm ý thức và hành vi vì cái
thiện. Đồng thời hoạt động đạo đức là hoạt động có tính tự giác và tự nguyện. Tự
nguyện, tự giác là nét đặc trưng cho xã hội loài người. Tự giác ở đây có nghĩa là hiểu
rõ công việc của mình có ích cho xã hội và sự khao khát được hành động vì lợi ích đó.

14
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Tự nguyện là thực hiện hành động không vì sự bắt buộc từ bên ngoài mà do sự tự giác
của chủ thể. Con vật với hoạt động sống bản năng không thể có được tính xã hội và
tính tự giác của con người. Tự nguyện và tự giác quan hệ chặt chẽ nhau tạo thành một
trong những cơ sở của tự do của con người. Ý thức đạo đức về lương tâm, danh dự và
lòng tự trọng,… có tính tự nguyện và tự giác cao đem lại cho con người năng lực tự
chủ , từ đó hành động một cách tự do. Đó là sức mạnh hữu hiệu của đạo đức.
- Mục đích cao cả nhất của con người và xã hội là được tự do và hạnh phúc. Để đạt
được mục đích đó con người không ngừng phấn đấu một cách tự nguyện tự giác vì lợi
ích của người khác và lợi ích của xã hội. Mặt khác hạnh phúc còn đòi hỏi có sự hài
hoà lợi ích giữa cá nhân và lợi ích của cộng đồng. Vì lẽ đó mà thước đo của đạo đức
( tiêu chuẩn giá trị của đạo đức) là tất cả những gì tích cực phù hợp với lợi ích chân
chính của con người và tiến bộ xã hội. Nói một cách khác tiêu chuẩn của đạo đức là
cái thiện, đối lập với cái thiện là cái ác

D. CẤU TRÚC CỦA ĐẠO ĐỨC


- Đạo đức vận hành như là một hệ thống tương đối độc lập của xã hội. Cơ chế vận
hành của nó được hình thành trên cơ sở liên hệ và tác động lẫn nhau của những yếu tố
hợp thành đạo đức. Khi phân tích cấu trúc của đạo đức người ta xem xét nó dưới nhiều
góc độ. Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng hạn:
• Xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo đức hợp
thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
• Nếu xét nó trong mối quan hệ giữa người và người thì người ta nhìn ra quan hệ đạo
đức.
• Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến
cái đặc thù với cái đơn chất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá
nhân.
1.Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức
- Đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức về hệ thống những nguyên tắc,
chuẩn mực, hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đều có những ranh giới của
hành vi và những quan hệ đạo đức đang tồn tại. Mặt khác, nó còn bao trùm cả những
cảm xúc, những tình cảm đạo đức con người.

15
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

- Trong quan hệ giữa người và người về mặt đạo đức đều có những ranh giới của
hành vi và giá trị đạo đức. Đó là ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ và tinh thần tập thể. Về mặt giá trị của hành vi đạo đức cũng có ranh giới:
lao động là hành vi thiện. Ăn bám bóc lột là vô nhân đạo. Ngay cả trong một hành vi
thiện mức độ giá trị của nó không phải lúc nào cũng ngang nhau, mà có những thang
bậc nhất định (cao cả, tốt, được).
- Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của
mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những qui tắc đạo đức xã
hội đặt ra; nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự
giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Trong ý thức đạo đức còn bao hàm cảm xúc,
tình cảm đạo đức của con người. Tóm lại, ý thức đạo đức (về mặt cấu trúc) gồm tri
thức đạo đức.
- Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý thức đạo
đức, là quá trình hiện thực hoá ý thức đạo đức trong cuộc sống.
- Ý thức và thực tiễn đạo đức luôn có quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau
tạo nên bản chất đạo đức con người, của một giai cấp, của một chế độ xã hội và của
một thời đại lịch sử. Ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành động thì mới đem
lại những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Nếu không có thực tiễn đạo đức thì ý
thức đạo đức không đạt tới giá trị, sẽ rơi vào trừu tượng theo kiểu các giáo lý của tôn
giáo.
- Thực tiễn đạo đức được biểu hiện như sự tương trợ, giúp đỡ, cử chỉ nghĩa hiệp, hành
động nghĩa vụ…Thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức của con người
được nảy sinh trên cơ sở của ý thức đạo đức.
2. Quan hệ đạo đức:
- Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con người,
giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức.
- Quan hệ đạo đức là một dạng quan hệ xã hội, là yếu tố tạo nên tín hiệu thực của bản
chất xã hội của con người.
- Các quan hệ đạo đức không chỉ hình thành nên giữa các cá nhân, mà còn giữa cá
nhân với xã hội, với những mặt riêng biệt của xã hội (chẳng hạn: với lao động, với văn

16
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

hoá tinh thần) trong chừng mực những mặt này liên quan đến các lợi ích chứa đựng
trong các mối quan hệ này.
- Quan hệ đạo đức được hình thành và phát triển như những qui luật tất yếu của xã
hội, nó xác định những nhu cầu khách quan của xã hội, nó “tiềm ẩn” trong các quan
hệ xã hội.
- Quan hệ đạo đức tồn tại một cách khách quan và luôn luôn biến đổi qua các thời đại
lịch sử và chính nó là một trong nhữg cơ sở để hình thành nên ý thức đạo đức. ð Tóm
lại, ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là một yếu tố tạo nên cấu
trúc đạo đức. Mỗi yếu tố không tồn tại độc lập, mà liên hệ tác động nhau, tạo nên sự
vận động, phát triển và chuyển hóa bên trong của hệ thống đạo đức.
3. Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân
- Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định, và là
phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng nhằm hình thành;
phát triển hoàn thiện tồn tại xã hội ấy.
- Đạo đức xã hội được hình thành trên cơ sở cộng đồng về lợi ích và hoạt động của cá
nhân thuộc cộng đồng. Nó tồn tại như là một hệ thống kinh nghiệm xã hội mang tính
phổ biến của đời sống đạo đức của cộng đồng.
- Đạo đức cá nhân là đạo đức của những cá nhân riêng lẻ của cộng đồng, phản ảnh và
khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng lẻ của tồn tại xã hội
của cộng đồng về lợi ích và hoạt động của các cá nhân.
- Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình, các cá nhân thu nhận đạo đức xã
hội như là hệ thống kinh nghiệm xã hội, những lí tưởng, chuẩn mực, tư tưởng, đánh
giá đạo đức đã được hình thành nên trong lịch sử cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội
thành kinh nghiệm bản thân…
- Trước mắt cá nhân đạo đức xã hội tồn tại một cách khách quan mà trong cuộc sống
của mình, cá nhân tất yếu phải nhận thức, tiếp thu và thực hiện.
- Đạo đức xã hội hay đạo đức cá nhân là sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và
cái riêng, giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất.
• Đạo đức cá nhân là sự biểu hiện độc đáo của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm
hết thảy mọi nội dung, đặc điểm của đạo đức xã hội. Mỗi cá nhân tiếp thu lĩnh hội đạo
đức xã hội khác nhau và ảnh hưởng đến đạo đức xã hội cũng khác nhau.

17
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

• Đạo đức xã hội không thể là số cộng của đạo đức cá nhân mà nó tổng hợp những
nhu cầu phổ biến được đúc kết thành những tinh hoa của đạo đức cá nhân. Nó trở
thành cái chung của một giai cấp, một cộng đồng xã hội, một thời đại nhất định, nó
được duy trì và cũng cố bằng những phong tục, tập quán, truyền thống, những di sản
văn hóa vật chất và tinh thần, được biến đổi phát triển thông qua hoạt động sản xuất
tinh thần và giao tiếp xã hội.
- Quan hệ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là quan hệ giữa những chuẩn mực
chung mang tính phát triển đặc thù trong từng xã hội với những phẩm chất hành vi
những yêu cầu cụ thể hàng ngày, quan hệ giữa lý tưởng xã hội và hiện thực của cá
nhân, giữa trí tuệ, tri thức xã hội với tình cảm, ý chí và năng lực hoạt động đạo đức cụ
thể của cá nhân.

E. VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC


- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc từ trong tồn tại xã hội đồng
thời nó cũng tác động trở lại đối với sự phát triển của tồn tại xã hội. Nó góp phần quan
trọng vào việc xây dựng mối quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội.
Đạo đức giáo dục con người, giúp họ nhận thức và điều chỉnh suy nghĩ, hành động
phù hợp với những yêu cầu xã hội. Đạo đức có những vai trò cơ bản sau đây:
1. Giáo dục con người:
- Đạo đức có tác dụng hình thành ở con người những quan điểm về bản chất của đạo
đức, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức; nhờ đó con người hiểu được điều
gì nên làm, điều gì không nên làm.
- Thông qua hoạt động đạo đức của bản thân, mỗi người tự mình càng hiểu rõ hơn
vai trò to lớn của lương tâm, của danh dự và các phẩm chất đạo đức của cá nhân đối
với sự tiến bộ của chính mình và sự tiến bộ của cộng đồng. Đó là những bài học đạo
đức mà chủ thể tự rút ra được nên chúng có giá trị sâu sắc và lâu bền. Trên cơ sở đó,
chủ thể đạo đức càng tin tưởng và tích cực làm điều thiện.
- Những tấm gương đạo đức cao cả cùng với những giá trị của nó có sức rung cảm
mạnh mẽ làm thức tỉnh những tình cảm đạo đức trong tâm hồn con người, có sức lôi
cuốn, thôi thúc con người học tập, rèn luyện vươn tới cái tốt đẹp, cái thiện. Thực tiễn
đấu tranh cách mạng cho thấy những người cộng sản là những người sáng tạo nên

18
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

những giá trị đạo đức cao cả. Đó là tinh thần chiến đấu dũng cảm, sự hy sinh quên
mình… vì tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Những tấm gương ấy có sức
thuyết phục và cổ vũ con người học tập, tu dưỡng để xứng đáng hơn nữa và đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng xã hội mới.

- Bác Hồ đã nêu tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Người coi đạo đức là
cái gốc của cán bộ, đảng viên. Noi gương của Người, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã lao
động, chiến đấu quên mình, sẵn sàng hy sinh, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân, vì lý tưởng cao đẹp của con người.
➔ Như vậy, đạo đức không những giáo dục con người mà còn giúp con người nâng
cao năng lực tự giáo dục mình. Do đó, công tác giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa góp
phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển nhân cách con người mới
2. Giúp con người nhận thức (hay còn gọi là đánh giá).
- Các quan điểm, tư tưởng đạo đức là kết quả của sự phản ánh đời sống xã hội, đồng
thời chúng còn là công cụ giúp con người nhận thức về xã hội. Chức năng nhận thức
của đạo đức thường tác động theo hai xu hướng:
❖ Hướng thứ nhất: Những quan điểm đạo đức tiến bộ, khoa học giúp con người nhận
thức, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức trong đời sống ; giúp con người đánh
giá đúng cái gì là thiện, cái gì là ác; cũng như tự đánh giá một cách đúng đắn những
suy nghĩ, hành vi của bản thân mình. Trên cơ sở đó con người định hướng một cách
đúng đắn hành vi của mình trong thực tiễn. Đồng thời thực tiễn đạo đức của nhân dân
lao động trong quá trình xây dựng xã hội mới có tác dụng nâng cao trình độ nhận thức
và năng lực đánh giá đạo đức ở mỗi người ngày càng chính xác và sâu sắc hơn.
❖ Hướng thứ hai: Ngược lại, những quan điểm sai lầm về đạo đức không những làm
cho hành động của con người dễ phạm sai lầm mà còn làm cho họ thất vọng, mất niềm
tin vào cuộc sống và nhất định sẽ dẫn tới mức giảm sút ý chí cũng như năng lực nhận
thức và hành động.
3. Giúp con người điều chỉnh hành vi:
- Trong xã hội, cần có các quy tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp bằng cách này hay cách
khác lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Cho nên điều chỉnh hành vi
của con người trong xã hội là một yêu cầu khách quan. Có nhiều quy tắc, chuẩn mực

19
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

để đều chỉnh hành vi của con người: của pháp luật, của tôn giáo, của phong tục tập
quán và của đạo đức.
- Điều chỉnh hành vi bằng đạo đức có đặc điểm là tự điều chỉnh. Sức mạnh điều chỉnh
hành vi bằng đạo đức là sức mạnh của lương tâm, sức mạnh của dư luận xã hội. Nhờ
nắm được những quan điểm đạo đức tiến bộ, hiểu rõ vai trò của đạo đức, các chủ thể
đạo đức luôn tự định hướng hoạt động của mình vào lợi ích chung, trên cơ sở đó mà
họ cũng được thỏa mãn những nhu cầu đạo đức và những lợi ích chính đáng của mình.
Để cho sự điều chỉnh có hiệu quả thì mỗi người không chỉ điều chỉnh từ trong tình
cảm và nhận thức mà điều quan trọng hơn là biến những mong muốn tốt đẹp thành
hoạt động thực tiễn. Trong đời sống, nhờ những mối quan hệ đạo đức được thiết lập
mà con người hiểu rõ mình, hiểu sâu sắc thêm những giá trị đạo đức.
➔ giáo dục, nhận thức và điều chỉnh là những vai trò đạo đức gắn bó mật thiết với
nhau. Đạo đức hình thành ở con người năng lực nhân thức, đánh giá đúng đâu là thiện,
đâu là ác. Trên cơ sở đó nâng cao năng lực tự giáo dục, biết được nghĩa vụ đạo đức
của mình và tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì cái thiện. Do vậy giáo dục đạo đức
không những có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách mà còn góp phần ổn
định và phát triển xã hội.
4. Góp phần phát triển xã hội, đất nước trở nên tốt đẹp:
- Đạo đức còn thể hiện bản sắc dân tộc trong quan hệ quốc tế, là cơ sở để mở rộng
giao lưu giữa các giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia với các dân tộc, quốc gia khác.
Đồng thời đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.

20
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

SO SÁNH GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT

A. ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC


Theo các cơ sở lý luận về đạo đức và pháp luật đã trình bày ở trên, điểm giống nhau
giữa chúng có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, đạo đức và pháp luật theo định nghĩa đều là các quy tắc xử sự chung
hoặc các chuẩn mức điều chỉnh con người trong xã hội, hướng tới một xã hội
công bằng, tích cực hơn cũng như bảo đảm hoạt động của xã hội
Thứ hai, pháp luật và đạo đức đều có tính cộng đồng, không chỉ áp dụng cho một
chủ thể hay tổ chức cụ thể mà cho tất cả các chủ thể trong quan hệ xẽ hội mà
chúng điều chỉnh.
Thứ ba, sự xuất hiện của đạo đức hay pháp luật đều có vai trò giáo dục và hướng
con người tới những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, thông qua sự thể hiện của ý
thức pháp luật và ý thức đạo đức
Cuối cùng, nguồn gốc sâu xa của cả đạo đức và pháp luật đều là từ thực tế cuộc
sống qua nhận thức của con người, được đúc kết và xây dựng qua một khoảng
thời gian nhất định và được mọi người công nhận

Có thể nói, những giá trị chung của pháp luật và đạo đức đều là những giá trị được
đúc kết ra từ nhận thức của con người về cuộc sống, đều hướng tới mực tiêu chung là
thiết lập và bảo đảm các mối quan hệ trong xã hội.

B. SỰ KHÁC NHAU GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT


1) Về nguồn gốc và hình thức thể hiện
- Dù cùng xuất phát từ nguồn gốc chung là những giá trị đức kết của con người thông
qua sự nhận thức về cuộc sống và xã hội, tuy nhiên, trong khi đạo đức vốn được
truyền bá và thể hiện qua các hình thức dân gian như chép tay hay ca dao tục ngữ thì
với pháp luật, các quy tắc xử sự trong đời sống xã hội sẽ được ghi nhận thành các quy
phạm pháp luật trình bày trong các luật và điều luật cụ thể.
- Hơn nữa, chủ thể ban hành giữa chúng cũng khác nhau. Đạo đức được biết vốn là do
ông cha ta đúc kết và truyền lại từng thế hệ trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên,

21
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

pháp luật chỉ được ban hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau khi xem
xét kĩ lưỡng và sửa đổi để phù hợp với kinh tế và xã hội của đất nước

2) Về nội dung (bản chất đánh giá) của pháp luật và đạo đức

- Đạo đức mang tính bao quát khi định hướng cho con người bằng những triết lí, quy
tắc và bài học ứng xử trong cuộc sống thông qua các hình thức nên làm, không nên
làm, hay có thể làm,... Trong khi đó, pháp luật ở đây lại mang tính cụ thể hơn thông
qua những quy chế, điều chỉnh hành vi của con người thông qua các viêc được làm
hay không được làm,..

- Ngoài ra, đạo đức khác với pháp luật ở chỗ, không đánh giá sự việc chủ yếu qua kết
quả khách quan của chúng mà còn qua những yếu tố chủ quan như tâm lí, thái độ của
cá nhân là chủ yếu
- Một ví dụ có thể kể đến để so sánh giữa đạo đức và pháp luật theo đặc điểm này đó
là giữa lời khuyên qua câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân” (đại diện cho
Đạo đức) giúp con người ta nhận ra giá trị về việc giúp đỡ và đồng cảm với người
khác, và đại diện cho pháp luật, nói cụ thể về một trong số các hành vi giúp đỡ người
khác qua Điều 132, Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội "Không cứu giúp người
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng" như sau: “1. Người nào thấy người
khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu
giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ
đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.” Ta có thể thấy, khác với đạo đức là
định hướng con người thì pháp luật đã có quy định rõ ràng về hành vi của họ.

3) Về phạm vi và phương thức điều chỉnh:


- Đạo đức sẽ xác định sự việc dứa trên những phạm vi tự nguyện hay không tự nguyện
của con người, đánh giá mặt thiện, mặt ác, cũng như dựa trên lương tâm. Pháp luật lại
xác định sự việc ấy trên phạm vi giới hạn hành động và sự trừng phạt. Chính vì vậy,
thường khi nhắc đến đạo đức, ta thường nghĩ đến sự mềm dẻo và cảm tính hơn, còn
khi nhắc đến pháp luật, ta luôn thấy sự bắt buộc và cứng rắn. Trong cuộc sống, có

22
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

nhiều tình huống vi phạm đạo đức nhưng không vi phạm pháp luật, và cũng có những
tình huống không vi phạm pháp luật nhưng chưa chắc đã đúng với đạo đức
- Đạo đức giúp giáo dục, tuyên truyền để điều chỉnh hành vi mang tính bao quát
nhưng không bị bắt buộc và cũng không có hình thức xử phạt cụ thể. Còn pháp luật có
thể giáo dục, cũng có thể cưỡng chế dưới quyền lực nhà nước, mang tính bắt buộc và
đương nhiên sẽ bị tuân theo quy định để xử lý.

4) Về kết quả và tính lâu dài:


- Đạo đức cần một thời gian dài, một quá trình để con người có thể tự quyết định và
điều chỉnh hành vi sao cho không đi ngược lại với chúng. Pháp luật thông qua hình
thức xử phạt giúp đạt kết quả trong thời gian ngắn hơn.
-Tuy nhiên, để con người hiểu và tự điều chỉnh hành vi và ý thức mang tính lâu dài
hơn là bởi điều đó đạt đến ngưỡng cao hơn trong nhận thức. Ví dụ khi con người chỉ
tuân theo Luật giao thông đường bộ là không được đi quá tốc độ thì hành vi này có thể
không được thực hiện ở những nơi vắng vẻ, không có Cảnh sát giao thông; còn nếu
bản thân đã ý thức được việc phóng nhanh vượt ẩu là gây nguy hiểm cho cả bản thân
và những người tham gia giao thông khác thì đã trở thành một phần của đạo đức,
thành tiếng chuông cảnh tỉnh bản thân mỗi khi tham gia giao thông

C. NHẬN XÉT CHUNG


- Dù có một số đặc điểm chung do mục đích hướng tới điều chỉnh hành vi của con
người trong xã hội, tuy nhiên, pháp luật và đạo đức xét về mức độ ảnh hưởng, phạm
vi,.. vẫn có một số nét khác biệt.
- Chính vì vậy, điều quan trọng là có thể cân nhắc, xem xét giữa các mặt tốt của cả
pháp luật và đạo đức để có thể áp dụng cả tính răn đe nghiêm khắc cùng với đó là tính
cảm hóa chủ thể vi phạm. Có như vậy thì việc điều chỉnh hành vi con người mới có
thể đạt đến hiệu quả tốt nhất. Đây cũng chính là bài toán khó cho các nhà làm luật
cùng như thi hành luật.

23
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC

A. KHÁI NIỆM VÀ BIỂU HIỆN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ
ĐẠO ĐỨC

Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, hỗ trợ và ảnh hưởng
lẫn nhau.

1. Tác động của đạo đức tới pháp luật:


Chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp luật. Đặc
biệt, không ít trường hợp, các cá nhân trong xã hội tuân thủ pháp luật không chỉ vì họ
hiểu các quy định của pháp luật, mà hoàn toàn xuất phát từ các quy tắc của đạo đức.
Nhiều quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi các chuẩn mực đạo đức được nhà nước sử dụng và
nâng lên thành quy phạm pháp luật. Khi xây dựng và ban hành pháp luật, nhà nước
không thể không tính tới các quy tắc chuẩn mực đạo đức. Những quy định như “Tội
không tố giác tội phạm” (Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999) là ví dụ điển hình.
Trong trường hợp tội phạm không xâm phạm an ninh quốc gia hoặc không phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng thì nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông,
bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội. Điều này
xuất phát từ quan niệm đạo đức và tâm lý của mọi người, vì không ai muốn người
thân của mình dính vào vòng tù tội.

a. Đối với việc hình thành pháp luật:


- Nhiều quan điểm đạo đức được thể chế hoá trong pháp luật, nhiều quy tắc đạo đức
phù hợp với ý chí của nhà nước được thừa nhận trong pháp luật qua đó góp phần tạo
nên pháp luật. Ví dụ như quan niệm, quy tắc đạo đức về mối quan hệ thầy trò được
thừa nhận trong giáo dục.
- Những quan niệm, quy tắc đạo đức không phù hợp với ý chí của nhà nước sẽ trở
thành tiền đề cho việc hình thành các quy phạm thay thế, từ đó cũng góp phần hình
thành nên pháp luật. Ví dụ quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong hôn nhân
trước đây trở thành tiền đề để hình thành nên quy định hôn nhân là tự nguyện trên cơ
sở giữ tình yêu nam và nữ trong luật hôn nhân và gia đình.

24
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

b. Đối với việc thực hiện pháp luật:


- Những quan niệm, quy tắc đạo đức được thừa nhận trong pháp luật góp phần làm
cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn, bởi vì chúng đã
ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân nên ngoài những biện pháp của nhà nước,
chúng còn được đảm bảo thực hiện bằng thói quen, bằng lương tâm và niềm tin của
mỗi người, bằng dư luận của xã hội. Ngược lại, những quan niệm, quy tắc đạo đức trái
với ý chí của nhà nước sẽ cản trở thực hiện pháp luật trong thực tế. Ví dụ quan niệm
trọng nam khinh nữ dẫn đến tình trạng một số người cố đẻ đến con thứ ba, thứ tư, tức
là vi phạm chính sách và pháp luật về dân số của nhà nước.
- Ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Người có
ý thức đạo đức cao trong mọi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Ngay
cả trường hợp pháp luật có những “khe hở” thì họ cũng không vì thế mà có hành vi
“lợi dụng”, để làm điều bất chính. Đối với nhiều trường hợp “đã trót” thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật, ý thức đạo đức giúp chủ thể ăn năn, hối cải, sửa chữa lỗi lầm.
Tình cảm đạo đức còn có thể khiến các chủ thể thực hiện hành vi một cách hào hứng,
nhiệt tình, tận tâm, triệt để. Ngược lại, đối với những người có ý thức đạo đức thấp thì
thái độ tôn trọng pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật cũng không cao, họ dễ có các
hành vi vi phạm pháp luật.
- Trong Bộ luật Hình sự có quy định về tình tiết giảm nhẹ, có thể miễn trách nhiệm
hình sự trong một số trường hợp cũng đã thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của Nhà
nước ta nhằm tạo cơ hội cho những người có hành vi vi phạm pháp luật có cơ hội để
hoàn lương. Như vậy, việc đưa quan niệm đạo đức vào quy định pháp luật có tác dụng
rất to lớn trong việc giáo dục nhân cách, phẩm chất của con người, đồng thời điều này
cũng thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước.

2. Tác động của pháp luật tới đạo đức:


Trong một số trường hợp, định hướng đạo đức muốn được thực hiện một cách phổ
biến trong xã hội thì phải thông qua các quy phạm pháp luật để thể hiện. Điều đó cho
thấy ở một số khía cạnh nhất định pháp luật có ưu thế nổi trội hơn so với chuẩn mực
đạo đức. Pháp luật không chỉ là sự ghi nhận các chuẩn mực đạo đức, mà còn là công
cụ phương tiện bảo vệ chuẩn mực đạo đức một cách hữu hiệu bằng các biện pháp, chế

25
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

tài cụ thể. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển các quy
tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội.
- Pháp luật có thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của các quan
niệm, quy tắc đạo đức khi chúng phù hợp với ý chí của nhà nước và được thừa nhận
trong pháp luật, bởi vì ngoài việc đảm bảo thực hiện bằng lương tâm, niềm tin, dư
luận xã hội,…chúng còn được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang
tính quyền lực nhà nước. Ví dụ như quy định cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con trong luật hôn nhân và gia đình đã góp phần củng
cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của quan niệm, quy tắc đạo đức về vấn đề này.
- Pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc, ngăn chặn sự thoái
hóa, xuống cấp của đạo đức. Bằng việc ghi nhận các quan niệm, chuẩn mực đạo đức
trong pháp luật, nhà nước bảo đảm cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực
tế. Một khi được thể chế hóa thành pháp luật, việc thực hiện những chuẩn mực đạo
đức đó trở thành nghĩa vụ của toàn thể xã hội, các cá nhân, tổ chức dù không muốn
cũng phải thực hiện theo. Đặc biệt, bằng việc xử lí nghiêm những chủ thể có hành vi
đi ngược với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật góp phần bảo vệ và giữ gìn các giá
trị đạo đức của xã hội, ngăn chặn sự tha hóa, xuống cấp của đạo đức.
- Pháp luật cũng có thể loại bỏ các chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời, cải tạo các chuẩn
mực đạo đức, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp hơn với tiến
bộ xã hội. Ví dụ quy định cấm cưỡng ép kết hôn, tảo hôn trong luật hôn nhân và gia
đình góp phần loại bỏ quan hệ đạo đức “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong hôn nhân.
- Pháp luật không chỉ ghi nhận đạo đức mà còn là phương tiện đảm bảo cho đạo đức
thực hiện trong cuộc sống thông qua các biện pháp tác động của Nhà nước. Ví dụ:
Điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 nước Việt Nam quy định: “Mục đích
và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội”. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội được mọi người thừa nhận
và tôn trọng. Quy định này đòi hỏi người xác lập giao dịch dân sự không chỉ tuân thủ
quy định pháp luật mà còn phải cân nhắc đến những quy tắc đạo đức. Như vậy, pháp
luật sẽ là yếu tố đảm bảo cho hành vi của con người phù hợp với đạo đức hơn.

26
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

B. Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC


- Qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức cho thấy giữa đạo đức
và pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Một
xã hội có nền tảng đạo đức tốt sẽ là cơ sở để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh
và tự giác. Mặt khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc giữ gìn, phát triển
nền đạo đức xã hội tốt đẹp.
- Mối quan hệ này là tương quan giữa pháp luật và đạo đức trong từng thời kỳ khác
nhau. Không phải bất cứ lúc nào sự tương quan giữa pháp luật và đạo đức cũng giống
nhau mà ở mỗi thời kỳ tùy thuộc tình hình xã hội lúc bấy giờ tương quan giữa chúng
có sự thay đổi. Hiện nay, khi chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, vấn đề
giải quyết mối tương quan giữa pháp luật và đạo đức được đặt ra là hết sức cần thiết.
Bởi vì, đạo đức tuy là vấn đề mang tính trìu tượng nhưng việc đưa đạo đức vào thực
thi và áp dụng pháp luật sẽ làm quy định của pháp luật mang tính thực tiễn cao, thể
hiện được tinh thần nhân đạo và phù hợp với ý chí của nhân dân, tránh những tác hại
về mặt tư tưởng, dẫn đến băng hoại về đạo đức. Vì thế, phải nhận thức sâu sắc vai trò
của đạo đức và các nguyên tắc xã hội khác trong việc thúc đẩy sự phát triển tiến bộ
của xã hội. Cũng chính vì thế tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Cần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý
xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.

27
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI Ở VIỆT


NAM NGÀY NAY

Đạo đức là một hình thái ý thức của xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong các quan hệ với
nhau,với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã
hội, từ đó từng bước đưa con người đạt đến chân - thiện - mĩ.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết:“Chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất
và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả
tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà
chính đời sống quyết định ý thức.” Bởi lẽ khi đạo đức là một phạm trù của ý thức, ta
có thể hiểu rằng khi xã hội thay đổi kéo theo là sự thay đổi ý thức đạo đức con người,
chúng sẽ tác động lẫn nhau làm cho xã hội loài người không ngừng tiến bộ hoặc kìm
hãm sự phát triển của xã hội.

A. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY


1. Xét về mặt tích cực: Sau khi trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài, lòng yêu nước của
dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm và được phát huy đến tận ngày nay bắt
nguồn từ tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết với quê hương, xứ sở, từ lòng tự hào, tự
tôn dân tộc. Tình yêu nước là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Một cách tự nhiên nhất của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng tình yêu ấy đã dần trở thành động lực tinh thần to lớn trong mỗi giai đoạn dựng
nước và giữ nước. Bởi vậy, sau khi đã trải qua những mất mát, đau thương của chiến
tranh đã khiến dân tộc Việt Nam yêu sự hòa bình hơn bao giờ hết, thấu hiểu hơn hết ý
nghĩa, giá trị của hòa bình bởi nỗi đau chiến tranh càng lớn thì khát vọng hòa bình
càng mãnh liệt.
Bên cạnh đó, lòng yêu thương con người ở mỗi người dân Việt Nam cũng được
phát huy lâu dài, từ đó kết thành chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn cao cả. Tinh thần
tương thân, tương ái, giúp đỡ, sẻ chia mỗi khi gặp hoạn nạn, thiên tai... được hình
thành một cách tự nhiên trong điều kiện sống với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến tranh

28
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

kéo dài. Truyền thống lâu đời “Thương người như thể thương thân”, mỗi người dân
Việt Nam luôn có cách hành xử, cách để yêu thương người khác như yêu chính bản
thân mình, vừa biểu hiện sự thấu hiểu, cảm thông cho đồng bào vừa hiểu được chính
mình, hiểu những tư tưởng cao đẹp.

2. Xét về mặt hạn chế: Thực trạng đạo đức trong xã hội Việt Nam hiện nay còn tồn
đọng nhiều mặt tiêu cực. Giữa căn phòng “lộng gió của bốn phương thời đại”, cuộc
sống và con người mỗi ngày đều thay đổi kéo theo sự biến đổi của các quy tắc, chuẩn
mực đạo đức. Với những cá nhân biết nắm bắt cơ hội, đó là điều kiện để vươn tới một
cái tôi hoàn thiện từ đó làm cho xã hội không ngừng đi lên với những mặt tích cực.
Mặt khác, một bộ phận người đã và đang có biểu hiện biến chất, băng hoại nhân cách,
điều đó đang hủy hoại sự phát triển của xã hội.

Một câu nói khá phổ biến phản ảnh rất thật tâm trạng của nhiều người chúng ta:
“Mong kinh tế như hôm nay, còn đạo đức trở lại như ngày xưa.” Hay như nhiều vị
cao niên thường tâm sự: “Thời chiến tranh, thời bao cấp mình thiếu thốn đủ thứ,
nhưng rất giàu có về tư tưởng, nhân cách, tình nghĩa, sống thanh thản chứ đâu nhiều
bức xúc như thời nay”.Nói ngắn gọn là đạo đức xã hội nước ta đang xuống cấp một
cách trầm trọng, điều đó khiến mọi người không bằng lòng và thường xuyên lo ngại -
hàng loạt các tờ báo truyền thông đưa tin về những vụ án “khủng”,đậm chất phi tính
người. Từ bạo lực gia đình, bạo lực học đường, cho tời những vụ chém giết, ám sát
nhau,…có những người sẵn sàng thực hiện những hành vi “máu lạnh” để giải quyết
các mâu thuẫn trong gia đình, với bạn bè và người thân . Sự xuống cấp ấy được một
số trí giả phát biểu rằng: “Đạo đức xuống cấp ở mức đáng báo động!” “Thực trạng
xuống cấp của văn hóa đạo đức xã hội đă ở mức độ nguy hiểm.”

Thứ nhất là những tư tưởng lệch lạc: Trong nền kinh tế đang bị đồng hóa bởi
tiền tệ, con người đang đánh giá vị thế của nhau qua số tiền kiếm được, ngày càng
nhiều người cố gắng tìm cách kiếm nhiều tiền nhất có thể. Việc tôn sùng đồng tiền
một cách mù quáng nên ngày nay càng nhiều người sống vì đồng tiền cho rằng “tiền là
trên hết” hay chính là lúc đồng tiền lên ngôi đạo đức sẽ xuống cấp - những giá trị về
mặt tình cảm giữa người và người đã và đang dần bị mai một theo năm tháng, những
vụ án chém giết nhau chỉ vì tranh giành tài sản - tiền làm mờ con mắt, hành vi bạo lực

29
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

trái pháp luật sẽ được phát huy và xã hội sẽ “bùng nổ” bởi tệ nạn, đạo đức con người
dần bị tha hóa.
Thứ hai là phát triển kinh tế chưa song hành với đạo đức: Nhờ vận hành theo cơ
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua nhiều năm nay, nước ta đạt
được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế và an sinh xã hội, đời sống của nhân dân được
cải thiện đáng kể so với trước. Những sự xuống cấp về đạo đức hiện lên rất rõ trong
lĩnh vực này qua những đại án hình sự và nhiều vụ án kinh tế khác mà người chịu sự
trừng phạt của pháp luật nằm trong một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về
mặt tư tưởng chính trị, hành xử và lối sống.Vẫn là sức mạnh của đồng tiền đặt trên tất
cả, cán bộ đảng viên suy thoái tư tưởng tìm mọi cách để trục lợi, nạn quan liêu xảy ra
khắp nơi- rời xa quần chúng, xa rời thực tế. Việc phát triển kinh tế chưa song hành với
đạo đức con người điều này chưa thể tạo nên một xã hội bền vững, chưa thể thực hiện
được nhiệm vụ xây dựng con người mà Đảng ta vẫn luôn đặt lên hàng đầu: “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược
phát triển”
Thứ ba là công nghệ điện tử đang đầu độc tuổi thơ của thế hệ trẻ: Thời đại 4.0
mở ra một kỷ nguyên công nghệ hiện đại phát triển, bên cạnh lợi ích giúp chúng ta
trong việc sản xuất và hỗ trợ đời sống cá nhân thì việc cho thế hệ trẻ tiếp cận quá sớm
với công nghệ gây nên suy thoái rất lớn về mặt tư tưởng và hành vi. Một bộ phận giới
trẻ quá sa đà, nghiện ngập vào các trò chơi bạo lực trên mạng, dẫn đến một số vụ gây
án nghiêm trọng do ảo giác chơi game mang lại. Bên cạnh đó, một số nền tảng mạng
xã hội như Tik Tok, Facebook, Youtube đã và đang phổ biến toàn cầu, bên cạnh
những nội dung tích cực thì hàng loạt các nội dung lừa đảo, văn hóa phẩm đồi trụy, kỳ
thị vùng miền…đang hiện hữu và rất dễ dàng để cho một đứa trẻ đang sở hữu một
chiếc smartphone có thể tiếp cận được. Công nghệ điện tử là con dao hai lưỡi, nó
không xấu và cũng không tốt cho thế hệ trẻ tùy theo cách tiếp cận và cha mẹ, người
thân chính là ngọn đuốc sáng giúp những đứa con của mình đi đúng đường cần đi.

B. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC HIỆN NAY


Bên cạnh những mặt tích cực cần phát huy và gìn giữ, ta cũng cần đề ra các giải pháp
để khắc phục các mặt hạn chế của vấn đề đạo đức còn tồn đọng ngày nay:
1. Để hạn chế cũng như xóa bỏ hoàn toàn các tư tưởng lệch lạc, các chủ thể gia
30
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

đình, trường học, xã hội đều có trách nhiệm thúc đẩy và truyền đạt những tư tưởng
đúng đắn cho trẻ em từ đó sẽ đóng góp vào việc củng cố đạo đức. Bởi trẻ em chính là
tương lai của đất nước, muốn giải quyết vấn đề liên quan đến nhận thức cần phải củng
cố ngay từ đầu, khi ăn vào gốc rễ thì tương lai một xã hội văn minh, hạnh phúc sẽ mở
ra.
Để làm được điều đó, mỗi người trước tiên phải là một thành viên có hiếu trong
gia đình và là một học sinh tốt trong nhà trường, thì sau đó mới trở thành thành viên
có ích của xã hội. Những đức tính tốt đẹp cần phải được thẩm thấu vào tâm hồn từ tấm
bé đến lúc trưởng thành, đó là: “Thờ cha kính mẹ”, “Chị ngã em nâng”, “Trên kính
dưới nhường”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, “Một sự nhịn là chín sự lành”,
“Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Kính thầy yêu bạn”,
“Cô giáo là mẹ hiền”, “Kính lão đắc thọ”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong
một nước phải thương nhau cùng”.... Những câu ca dao, tục ngữ vô cùng đúng đắn
của ông cha ta từ xưa vẫn luôn răn dạy con cháu, nên mỗi người phận làm con cháu
của thế hệ sau hay thế hệ sau nữa cần duy trì và phát huy.

2. Bên cạnh đó, xây dựng, phát triển kinh tế cần song hành với mặt đạo đức. Hồ
Chủ Tịch từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ
nghĩa”. Người cũng nói: “Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức
thì không thành người”. Chính vì vậy, để xây dựng một xã hội chủ nghĩa, văn minh,
chính trực, con người mà chúng ta cần có là con người chính trị và đạo đức. Đồng
thời, không thể không xem trọng những yếu tố khác góp phần tạo nên con người cụ
thể như cá tính, sở thích, ước muốn… của họ. Thời kỳ mới, cần có hệ giá trị chuẩn
mực mới về văn hóa, đạo đức cho con người. Đây là vấn đề lớn, rất lớn nhưng ta chưa
làm được. Đạo đức của con người đặc biệt là cán bộ đảng những người cầm cân nảy
mực phải có lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, lao động sáng tạo, ham thích học
tập, có trách nhiệm, có ý thức tổ chức kỷ luật, hướng về nhân dân và tôn trọng ý kiến
của nhân dân…Phải gạt bỏ đi những tập tục cổ hủ không còn phù hợp với thời đại,
đồng thời trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp đã trở thành đạo đức, lối sống
và bản sắc dân tộc.

31
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

3. Với trẻ em, ở tuổi ăn, tuổi lớn, tuổi tò mò thì sẽ không tránh được sự tìm tòi
khám phá nhưng sự tìm tòi khám phá đó cần bị giới hạn và phải lành mạnh và bổ ích.
Để làm được điều đó, cần phải thiết lập được mối quan hệ bền vững giữa gia đình -
nhà trường - xã hội, tạo cho trẻ một môi trường sống lành mạnh, hạn chế sử dụng
công nghệ máy móc để trẻ được phát triển tự nhiên, năng động. Mặt khác, mỗi thành
phần gia đình - nhà trường - xã hội phải trở thành một mắt xích gương mẫu, hiểu tâm
lý học sinh và có sự quyết tâm giúp đỡ trẻ trở thành công dân tốt, từ đó tạo cho trẻ
không gian được chăm sóc chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống, trong học tập thay
vì đưa cho trẻ chiếc smartphone vô hồn và biến tuổi thơ của chúng trở nên vô nghĩa và
lạc lối.

C. CÁCH NUÔI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC


Việc nuôi dưỡng đạo đức là một quá trình liên tục và đòi hỏi sự cam kết và chăm sóc
tỉ mỉ của từng cá nhân, đối tượng . Dưới đây là một số điều cần làm để nuôi dưỡng
đạo đức tốt

1. Gương mẫu: Là một tấm gương mẫu tích cực cho người khác bằng cách thực hiện
các hành động đạo đức trong cuộc sống hàng ngày.

2 . Truyền thống và tôn giáo: Tham gia các buổi lễ, sự kiện tôn giáo để tăng cường ý
thức về đạo đức.

3. Phê phán xây dựng: Khi bạn phải phê phán, hãy tập trung vào hành vi và hành động
cụ thể thay vì đánh giá tính cách của người khác.

4. Khuyến khích sự độc lập: Giúp trẻ phát triển khả năng đưa ra quyết định đúng đắn
và tự chủ

5. Khuyến khích suy nghĩ về hậu quả của hành động của mình: Điều này sẽ lường
trước được rủi ro xảy ra và tránh được các rủi ro đó.

6.Tạo cơ hội thảo luận: Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của mọi người, giúp bản thân
cải thiện về mặt đạo đức và hoàn thiện bản thân.

7 Thực hành lòng biết ơn: Dạy cho bản thân và mọi người trong gia đình biết ơn
những điều tích cực trong cuộc sống.

32
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

8. Tình cảm gia đình: Xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ giữa các thành viên trong gia
đình

9. Phát triển lòng lòng từ thiện: Khuyến khích bản thân và mọi người trong gia đình
tham gia các hoạt động thiện nguyện

Tóm lại : Quá trình nuôi dưỡng đạo đức là một hành trình dài hơi và đòi hỏi sự kiên
nhẫn, sự hiểu biết và sự nhất quán trong hành động hàng ngày. Nỗ lực tạo nên thành
công, khi bạn có đạo đức, cuộc sống sẽ trở nên hạnh phúc và tốt đẹp.

33
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

ĐÁNH GIÁ & KẾT LUẬN

Với cơ sở lý luận về đạo đức và pháp luật nhằm rút ra các mối liên hệ và thực trạng
mối liên hệ đó, có thể nhận thầy Pháp luật và Đạo đức luôn có mối quan hệ tác động
qua lại cũng như thúc đẩy lẫn nhau. Chính vì vậy, việc nhận ra những mặt tốt của cả
Đạo đức và Pháp luật để thúc đẩy chúng phù hợp với thục trạng hiện nay của Việt
Nam chính là một phần vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo xã hội.

Bằng việc nhận biết được thực trạng, cùng với đó là những rủi ro mà chúng ta phải đối
mặt trong thời đại mới như hiện nay, chúng ta càng phải thêm chú trọng vào những
giá trị đạo đức mang tính truyền thống tốt đẹp, tích cực. Từ đó, đổi mới giáo dục, nâng
cao ý thức cộng đồng và lý tưởng sống cho thế hệ trẻ của đất nước.

34
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị Quốc gia.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
Pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính
trị Quốc gia sự thật.
5. Hoàng Thị Kim Quế (2013), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nhà
nước pháp quyền và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Luật học, 3.
6. Thành Duy (1995), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức, đạo đức và lợi ích công dân, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 3.
7. Hoàng Văn Tuệ (2007)Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật
trong quản lý xã hội
8. Trần Công Huyền (2019),Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức, Tạp chí Xây
dựng Đảng điện tử
9. Trần Ngọc Đường (2016), Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, Tạp chí Tuyên giáo
10. Đặng Công Thành (2017), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
11. Trương Nguyên Tuệ (2019), Suy nghĩ về thực trạng đạo đức hiện nay, Bản
quyền của Hội Cựu chiến binh TP.HCM.
12. TSHK Đặng Huy Trinh (2022), Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về quan
hệ giữa tư duy và tồn tại trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Tạp chí điện tử lý
luận chính trị.

35

You might also like