Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ TÀI:
CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT
QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG VÀ QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI
1
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, nhóm chúng em xin gửi lời tri ân tới cô Nguyễn Thị Thu Trang - người đã đồng
hành cùng tụi em trong suốt môn Pháp luật đại cương, đồng thời là người trực tiếp hướng dẫn
nhóm hoàn thành tiểu luận giữa kỳ. Với bài tiểu luận đề tài: “CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP
LUẬT – QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI”,nhóm chúng em chắc chắn đã
không hoàn thiện một cách tốt nhất nếu không có cô - người đã giảng dạy tận tình và truyền
đạt những kiến thức quý báu, giúp nhóm chúng em có thêm niềm tin để hoàn thành bài luận
này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do kiến thức còn nhiều hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn
nên tiểu luận của nhóm em chắc chắn sẽ khó tránh được những thiếu sót. Tụi em rất mong
nhận được những nhận xét và góp ý từ quý thầy cô cũng như các bạn học cùng lớp để tiểu
luận của nhóm được hoàn thiện hơn.
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................2
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................................4
I. Tính cấp thiết của vấn đề.................................................................................................4
II. Mục tiêu của đề tài.......................................................................................................4
III. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................................4
IV. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án...................................................................5
NỘI DUNG................................................................................................................................5
I. QUAN HỆ PHÁP LUẬT.................................................................................................5
1. Khái niệm:.................................................................................................................5
2. Các quan điểm về quan hệ pháp luật........................................................................6
2.1 Quan điểm thứ nhất cho rằng:...............................................................................6
2.2 Quan điểm thứ hai khẳng định..............................................................................7
2.3 Quan điểm thứ ba có cách lý giải khác..................................................................7
2.4 Quan điểm thứ tư lại hiểu......................................................................................7
3. Đặc điểm...................................................................................................................8
3.1 Quan hệ pháp luật là quan hệ có tính ý chí............................................................9
3.2 Quan hệ pháp luật được hình thành, tồn tại và phát triển chủ yếu dựa trên cơ sở
pháp lý là quy phạm pháp luật......................................................................................10
3.3 Quan hệ pháp luật có nội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể..........12
3.4 Quan hệ pháp luật được bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước.........................13
4. Cấu thành quan hệ pháp luật...................................................................................13
II. CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT...........................................................................13
1. Chủ thể quan hệ pháp luật theo quan điểm truyền thống........................................14
1.1 Chủ thể là Nhà nước............................................................................................14
1.2 Chủ thể là tổ chức................................................................................................15
1.3 Chủ thể là cá nhân...............................................................................................17
2. Chủ thể quan hệ pháp luật theo quan điểm hiện đại...............................................18
2.1 Thế giới kỹ thuật số của AI.................................................................................18
2.2 Độ trễ của hệ thống pháp luật.................................................................................25
3. Kết luận và khuyến nghị đối với hoạt động nghiên cứu lập pháp...........................28
KẾT LUẬN..............................................................................................................................29
3
CÁC NGUỒN THAM KHẢO................................................................................................30
PHẦN MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
5
chúng. Việc nghiên cứu đặc điểm của các loại quan hệ pháp luật đã làm phong phú thêm lý
luận về quan hệ pháp luật, làm rõ nội dung, bản chất của các loại quan hệ pháp luật này.
Thực vậy, ở nước ta, quan hệ pháp luật đã được khoa học đại cương và khoa học pháp lý
chuyên ngành nghiên cứu ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa có hệ thống
và chưa có sự thống nhất trong nhận thức về nhiều vấn đề cụ thể , trước hết là khái niệm pháp
luật.
Quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật khác
nhau, những quan hệ xã hội này xác lập, phát triển, tồn tại hay chấm dứt dựa trên quy định
của pháp luật, các bên tham gia vào quan hệ đó là những chủ thể có quyền chủ thể và nghĩa
vụ pháp lý phát sinh được pháp luật quy định và Nhà nước sẽ bảo đảm thực hiện. Quan hệ
pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí – ý chí của Nhà nước thông qua các quy
phạm pháp luật mà nội dung của chúng được xác định bằng các điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội tôn tại trong xã hội đó vào thời diêm lịch sử nhất định. Ngoài ra, các quan hệ pháp luật
còn mang ý chí của các chủ thể tham gia vào quan hệ đó. Ý chí của các chủ thể phải phù hợp
với ý chí của Nhà nước và được thể hiện khác nhau ttong từng quan hệ cụ thể, từng giai đoạn
của nó (phát sinh, thực hiện hoặc chấm dứt). Có thể chỉ thể hiện khi phát sinh, lúc thực hiện
hay chấm dứt một quan hệ cụ thể, song ý chí của các chủ thể tham gia vào các quan hệ này
phải phù hợp với ý chí của Nhà nước thể hiện qua các quy phạm pháp luật dân sự và các
nguyên tắc chung của luật dân sự được quy định trong BLDS.
Có thể nói rằng ở đây việc xem xét các quan hệ pháp luật đã gắn liền với các quan hệ xã hội
với sự điều chỉnh của pháp luật, do đó có lý do nhất định để nhìn nhận quan hệ pháp luật là
một nội dung quan trọng. hình thức xã hội. Tuy nhiên, sẽ sai lầm khi cho rằng quan hệ là nội
dung và quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội. Thật khó giải thích trong
trường hợp một xã hội chỉ tồn tại trong một hình thức, một quan hệ. Loại quan hệ này không
thể tồn tại bên ngoài hình thức pháp lý cụ thể được xác định trong tiêu chuẩn pháp lý. Việc
không tuân thủ với biểu mẫu pháp lý này thực sự sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật. Hoặc, ví dụ,
mối quan hệ pháp lý-hình sự phát sinh khi tội phạm gây thiệt hại các mối quan hệ cá nhân
không phải là một hình thức pháp lý của các mối quan hệ cá nhân đó. Trong trường hợp này,
bản thân quan hệ pháp luật hình sự chỉ phát sinh khi có là hành vi phạm tội tác động đến
quan hệ nhân thân. Nếu không có hành vi phạm tội như vậy thì không thể phát sinh quan hệ
tội phạm. Rõ ràng, các mối quan hệ cá nhân không và không thể yêu cầu sự tồn tại của một
mối quan hệ pháp lý hình sự.
6
2.2 Quan điểm thứ hai khẳng định
Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh
Theo quan điểm này thì quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
Về bản chất, phải thừa nhận rằng quá trình điều chỉnh tạo ra hình thức pháp lý cho các quan
hệ xã hội, đồng thời tạo ra khả năng hình thành các quan hệ hiện thực. Tuy nhiên, cần phải
hiểu rằng quan hệ xã hội do pháp luật quy định và quan hệ pháp luật không hoàn toàn đồng
nhất. Quan hệ xã hội là một khái niệm chung để chỉ quan hệ giữa con người với nhau - những
con người trên một lĩnh vực hoạt động. Quan hệ xã hội xuất hiện và tồn tại một cách khách
quan cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Không phải mọi quan hệ xã hội đều bị
pháp luật điều chỉnh, nên khi nói rằng "các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh" thì rõ
ràng là sự phù hợp của pháp luật đối với một số quan hệ xã hội nhất định là rõ ràng. Hoặc là
quan hệ xã hội đã thuộc phạm vi của luật, thuộc phạm vi của luật. Trong khi đó, quan hệ
pháp luật là khái niệm chỉ thực trạng điều chỉnh của pháp luật. Quan hệ pháp luật xuất hiện
với tư cách là là kết quả của việc thực hiện và của việc áp dụng pháp luật trên thực tế và được
coi là hình thức cơ bản của việc thực hiện pháp luật. Hơn nữa, không nhất thiết phải pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội để các quan hệ pháp luật xuất hiện. Ví dụ, mặc dù nhà nước
của chúng ta đã có đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhưng nếu các nhà đầu tư thấy không
hấp dẫn, họ vẫn chưa đầu tư. Theo Giáo sư Tiến sĩ khoa học Đào Trí úc thì "điều chỉnh pháp
luật đó là việc Nhà nước dùng pháp luật, dựa vào pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
tác động theo những hướng nhất định vào các quan hệ xã hội" [85, tr. 181-182]. Điều chỉnh
pháp luật cũng có thể là dùng pháp luật để bảo vệ các quan hệ xã hội khỏi bị các hành vi vi
phạm pháp luật xâm hại tới.
7
Đó là tầm nhìn thể hiện tính hợp lý của cách tiếp cận quan hệ pháp luật từ xuất phát từ thực tế
và tính nhạy cảm của ranh giới về sự tương tác của các đặc điểm pháp lý - xã hội thông qua
các sự kiện pháp lý. Đây là một khái niệm có tính khái quát cao về mặt lý thuyết, mặc dù
thực tế không phải ai cũng có thể hiểu hoàn toàn đồng ý với quan điểm này.
Như vậy, các quan điểm trên đã cho thấy sự phức tạp của các mối quan hệ pháp lý và sự đa
dạng trong cách giải thích các hiện tượng. Tuy có cách tiếp cận khác nhau, nhưng điểm
chung là các nhà khoa học đều nhìn nhận mọi quan hệ pháp luật với tư cách là một trong
những quan hệ xã hội, một hình thức cụ thể của quá trình thực hiện pháp luật. Thông qua
phân tích và xem xét cẩn thận, chúng tôi đồng ý với quan điểm ở trên về cơ bản:
- Quan hệ pháp luật là một dạng của quan hệ xã hội.
- Các bên tham gia quan hệ pháp luật đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý.
- Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý chủ thể trong quan hệ pháp luật được đảm bảo
bằng các biện pháp nhà nước.
- Trong điều kiện văn bản quy phạm pháp luật là nguồn tạo nên cơ sở pháp lý của quan hệ
pháp luật thì sự xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật phải dựa trên quy phạm
pháp luật.
Tóm lại, việc xây dựng khái niệm quan hệ pháp luật trước hết phải khẳng định nó là một
dạng quan hệ xã hội, nhưng đó là những quan hệ xã hội phải có sự hiện diện của quyền,
nghĩa vụ pháp lý và được bảo đảm bởi nhà nước. Những quan hệ xã hội chưa có đủ các thuộc
tính trên thì chưa trở thành quan hệ pháp luật.
3. Đặc điểm
Trước hết, phải khẳng định rằng, quan hệ pháp luật một dạng quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội
là quan hệ giữa người với người được hình thành trong quá trình hoạt động tập quán sản xuất
của cải vật chất và trao đổi tình cảm. Nếu quá trình sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở tồn
tại và phát triển của xã hội loài người thì trong các quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế là quan
trọng nhất. Các quan hệ sản xuất quyết định các thuộc tính của các quan hệ khác như quan hệ
chính trị, pháp luật, đạo đức và tôn giáo. Được coi là một dạng của quan hệ xã hội, quan hệ
có những đặc thù riêng, nhưng cũng chứa đựng những đặc điểm chung của quan hệ xã hội
như:
- Hình thành tính khách quan trên cơ sở nhận thức.
- Gắn với điều kiện kinh tế - xã hội
- Có đặc điểm cá nhân và xã hội.
- Gắn với quá trình thích ứng xã hội.
Tất nhiên, ở đó không có sự đồng nhất giữa quan hệ pháp luật và quan hệ xã hội, mặc dù sự
điều chỉnh của pháp luật đó đã góp phần cải biến địa vị và môi trường vận động của xã hội cụ
thể. Sự đồng nhất này cũng không xảy ra mà càng không có sự thể hiện nội dung của quyền
và nghĩa vụ thông qua hành vi của chủ thể. Tuy nhiên, chủ thể thực hiện hành vi của mình
không chỉ xem xét sự tôn trọng pháp luật mà còn xem xét tính hợp lý tính hợp lý của quan
điểm chịu sự điều chỉnh của nhiều yếu tố xã hội khác. Thông qua sự tương tác, các quan hệ
pháp luật đóng vai trò sắp xếp trật tự các quan hệ xã hội, sắp xếp chúng phù hợp với đòi hỏi
của quá trình điều chỉnh pháp luật. Quan hệ pháp luật thể hiện sự liên kết và tác động qua lại
8
giữa các chủ thể cụ thể bằng thông qua quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này. Đây là một
trong những điểm khác biệt cơ bản giữa quan hệ pháp luật và quan hệ xã hội.
Ngoài các đặc điểm chung của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật dân sự còn mang những
đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng này xuất phát từ bản chất của các quan hệ xã hội mà
nó điều chỉnh và những đặc điểm của phương pháp điều chỉnh.
– Địa vị pháp lí của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị phụ thuộc vào các yếu tố
xã hội khác. Mặc dù trong quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các bên tham gia là các chủ thể
đối lập nhau trong việc phân định quyền và nghĩa vụ: một bên mang quyền, một bên gánh
chịu nghĩa vụ và thông thường, ữong quan hệ dân sự, các bên đều có quyền và nghĩa vụ đối
nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất đi sự bình đẳng mà nó chỉ hạn chế sự bình đẳng so
với trước khi tham gia vào quan hệ dân sự. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
các quan hệ pháp luật dân sự, các bên không được áp đặt ý chí của mình để buộc bên kia thực
hiện nghĩa vụ mà tạo điều kiện cho họ lựa chọn cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ
sao cho có lợi nhất cho các bên.
– Chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự đa dạng, bao gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ dân sự, các chủ thể độc lập với nhau về
tổ chức và tài sản. Xuất phát từ các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh là những quan hệ tài
sản và quan hệ nhân thân – những quan hệ phát sinh trong đời sống thường nhật của các cá
nhân cũng như trong các tập thể, trong tiêu dùng cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh,
cho nên, cá nhân và tổ chức đều là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:
Trong giao lưu dân sự, pháp nhân tham gia vào các quan hệ dân sự, các chủ thể này độc lập
với nhau về tổ chức và tài sản, được quyền tự định đoạt khi tham gia vào các quan hệ nhưng
buộc phải thực hiện các nghĩa vụ khi đã tham gia vào các quan hệ đó.
– Lợi ích (trước tiên là lợi ích kinh tể) là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân sự. Quan hệ
tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ và được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật đã
tạo điều kiện cho các chủ thể thông qua các biện pháp pháp lí để thoả mãn các nhu cầu vật
chất cũng như tinh thần. Sự đền bù tương đương là đặc trưng của quan hệ tài sản mang tính
chất hàng hoá – tiền tệ do luật dân sự điều chỉnh. Bởi vậy, bồi thường toàn bộ thiệt hại là đặc
trưng của trách nhiệm dân sự. Quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ tài sản, do vậy, yếu tố tài
sản là cơ sở, là tiền đề phát sinh quan hệ dân sự, cho nên bảo đảm bằng tài sản là đặc trưng
để buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của họ và bên có quyền có thể thông qua các
biện pháp bảo đảm này để thoả mãn các quyền tài sản của mình.
– Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chỉ do pháp luật quy định mà có thể tự các bên
quy định về các biện pháp cưỡng chế cụ thể và hình thức áp dụng các biện pháp cưỡng chế
đó. Nhưng đặc tính tài sản là đặc trưng cho các biện pháp cưỡng chế trong luật dân sự.
3.2 Quan hệ pháp luật được hình thành, tồn tại và phát triển chủ yếu dựa trên cơ sở
pháp lý là quy phạm pháp luật
Ở nước ta, nguồn chủ yếu tạo nên cơ sở pháp lý cho hệ thống quan hệ pháp luật là văn bản
quy phạm pháp luật. Do vậy, đa số các quan hệ pháp luật trên thực tế được hình thành, thay
đổi và chấm dứt dựa trên cơ sở pháp lý là quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật và quan
hệ pháp luật có mối quan hệ khăng khít, hữu cơ trong quá trình tồn tại. Tính xác thực, phù
hợp của quy phạm pháp luật được kiểm chứng thông qua quan hệ pháp luật, ngược lại quan
hệ pháp luật cần được quy phạm pháp luật mô hình hóa, phản ánh trước những đặc điểm, yêu
cầu cơ bản của nó. Quy phạm pháp luật có nhiều loại, chứa đựng các thông tin khác nhau
được hình thành trên nguyên lý nhận thức hiện thực khách quan của con người. Là qui tắc
hành vi, quy phạm pháp luật được coi là phương tiện để xác định các tình huống cụ thể của
hành vi có thể xảy ra trong cuộc sống. Vì vậy, nó có khả năng mô thức hóa hành vi của con
người gắn liền với các tình huống cụ thể. Còn quan hệ pháp luật là hình thức mà ở đó quy
phạm pháp luật được hiện thực hóa về mặt nội dung hay là hình thức thực hiện quy phạm
pháp luật. Trở thành một trong các điều kiện cơ bản để thiết lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật, quy phạm pháp luật cần giải quyết được mấy vấn đề lớn:
- Nêu rõ loại chủ thể có liên quan cùng với điều kiện, hoàn cảnh thực tế có thể xảy ra (phần
giả định).
10
- Yêu cầu của Nhà nước và xã hội đối với chủ thể trong hoàn cảnh đã được dự liệu trước. ở
đây mệnh lệnh thức nêu lên đòi hỏi của Nhà nước cho phép hoặc bắt buộc chủ thể được làm
gì, không được làm gì, phải làm gì, làm đến đâu. Nội dung phần này thể hiện tính quyền lực
của Nhà nước, làm xuất phát điểm cho việc cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ trong điều kiện đã
nêu đối với chủ thể (phần quy định).
- Những biện pháp xử lý mà Nhà nước có thể áp dụng đối với chủ thể nhằm bảo đảm quyền
và nghĩa vụ chủ thể hoặc bảo vệ quan hệ xã hội khỏi bị xâm hại thông qua hoạt động áp dụng
pháp luật (phần chế tài). Mặc dù quy phạm pháp luật là tiền đề cho việc hình thành, thay đổi,
chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể nhưng không phải cứ có quy phạm pháp luật là có
quan hệ pháp luật hoặc mọi quan hệ pháp luật đều được phát sinh, thay đổi và chấm dứt trên
cơ sở các quy phạm pháp luật. Trên thực tế có một số quy phạm pháp luật có nội dung không
trực tiếp đưa đến việc thiết lập quan hệ pháp luật cụ thể. Và, trong một số trường hợp đặc biệt
thì quan hệ pháp luật vẫn được phát sinh trên cơ sở nguyên tắc pháp luật chung, thậm chí
ngay cả khi không có quy phạm pháp luật điều chỉnh như: áp dụng tập quán hoặc áp dụng
tương tự pháp luật (chẳng hạn theo Điều 14 BLDS).
Ở nước ta, nguồn chủ yếu cấu thành hệ thống pháp luật về quan hệ pháp luật là được cấu
thành bởi các văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, phần lớn các mối quan hệ pháp lý được
hình thành, sửa đổi và chấm dứt trên cơ sở của một quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật
duy trì mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ trong quá trình tồn tại. Tính xác thực và sự phù hợp với
quy phạm pháp luật thông qua các mối quan hệ pháp luật, ngược lại, các mối quan hệ phải
được mô hình hóa bởi quy phạm pháp luật , phản ánh các đặc điểm và yêu cầu cơ bản của nó.
Quy phạm pháp luật có nhiều loại, chứa đựng khác nhau, được hình thành trên nguyên tắc
nhận thức của con người về hiện thực khách quan. Quy phạm pháp luật được coi là quy tắc
xử sự, là phương tiện để quy định những tình huống ứng xử nhất định có thể xảy ra trong
cuộc sống. Do đó, nó có khả năng mô hình hóa hành vi của những người liên quan trong các
tình huống nhất định. Quan hệ pháp luật là hình thức mà một quy phạm pháp luật được thực
hiện theo nội dung hoặc hình thức thực hiện quy phạm pháp luật. Hành vi pháp lý phải là một
trong những điều kiện cơ bản để phát sinh, sửa đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật và giải quyết
một số vấn đề quan trọng:
- Xác định loại chủ thể và các hoàn cảnh, điều kiện thực tế có thể xuất hiện (phần giả định).
- Yêu cầu của nhà nước và xã hội đối với chủ thể trong những điều kiện nhất định. Ở đây,
mệnh lệnh cuối thể hiện yêu cầu của tình thái cho phép hoặc bắt buộc chủ thể phải làm,
không được làm việc phải làm, ở đâu. Nội dung phần này trình bày cơ quan quyền lực nhà
nước với tư cách là điểm xuất phát để cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của chủ thể theo điều
kiện (phần thường).
- - Xử lý bằng các biện pháp mà nhà nước có thể áp dụng đối với chủ thể nhằm bảo đảm
quyền và nghĩa vụ của chủ thể hoặc để bảo vệ các quan hệ xã hội trước những vi phạm bằng
việc áp dụng pháp luật (phần chế tài). Mặc dù quy phạm pháp luật là điểm xuất phát để làm
phát sinh, sửa đổi, chấm dứt một số quan hệ pháp luật nhưng không phải quan hệ pháp luật
nào cũng có quan hệ pháp luật hoặc mọi quan hệ pháp luật đều được hình thành, phát sinh,
thay đổi và chấm dứt dựa trên quy phạm pháp luật. Trên thực tế, có một số quy định không
trực tiếp dẫn đến việc hình thành một quan hệ pháp luật cụ thể. Và trong một số trường hợp
đặc biệt, quan hệ pháp luật dựa trên các nguyên tắc của pháp luật chung vẫn xuất hiện kể cả
11
khi không có luật điều chỉnh, ví dụ: việc áp dụng tập quán hoặc áp dụng hệ thống pháp luật
tương ứng (ví dụ theo Điều 14 Bộ luật dân sự).
3.3 Quan hệ pháp luật có nội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể
Đây là đặc điểm cơ bản cho phép phân biệt rõ nét quan hệ pháp luật với các quan hệ xã hội
khác không do pháp luật điều chỉnh. Mỗi loại quan hệ pháp luật cụ thể có cơ cấu chủ thể, nội
dung khác nhau. Trong đó phạm trù quyền, nghĩa vụ pháp lý chủ thể được pháp luật qui định
rõ ràng nhằm tạo thuận lợi cho chủ thể thực hiện pháp luật, tránh hiện tượng tùy tiện lạm
dụng quyền hoặc bỏ mặc nghĩa vụ. So với các quan hệ xã hội khác, các chủ thể khi tham gia
quan hệ pháp luật có được một phương thức xử sự cụ thể, rõ ràng hơn. Điều thuận lợi đó
trước hết bắt nguồn từ đặc tính cơ bản của pháp luật là chính xác, cụ thể, nên được xem xét tỷ
mỷ trên những góc độ:
- Dung lượng quyền, nghĩa vụ.
- Phạm vi, giới hạn và mức độ cần thiết của quyền, nghĩa vụ.
- Những tiêu chí, thước đo mang tính kỹ thuật - pháp lý nhằm đánh giá, kiểm tra việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ chủ thể.
- Thời hạn, thời hiệu cần thiết cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ chính và quyền, nghĩa vụ
mới phát sinh.
- Phương thức thực hiện quyền, nghĩa vụ, khả năng thừa nhận vô điều kiện quyền, nghĩa vụ
(trong những điều kiện nhất định, ví dụ trong các quan hệ sở hữu), khả năng đối lưu quyền,
nghĩa vụ (như trong quan hệ hợp đồng mua bán). - Các biện pháp khắc phục, xử lý khi có
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của chủ thể.
- Sự phù hợp giữa các quan hệ pháp luật với nhau, với quan hệ xã hội khác và với phong tục,
tập quán, truyền thống dân tộc... Quan hệ pháp luật giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống
pháp lý và là hình thức đặc thù của quá trình thực hiện quy phạm pháp luật. Nó vừa bị qui
định bởi chính hạ tầng cơ sở vừa chịu sự chi phối, ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố khác
của kiến trúc thượng tầng xã hội. Ví dụ: Toà án xét thấy tình trạng ly hôn là trầm trọng,
không thể kéo dài thời gian chung sống và mục đích của hôn nhân không đạt được thì toà án
quyết định cho ly hôn (Điều 89 LHNGĐ). Tòa án cũng phải xem xét đến nghĩa vụ, thỏa
thuận của các bên về chia tài sản, nuôi con và các nghĩa vụ liên quan. Do đó, mặt pháp lý
của nội dung quan hệ đòi hỏi phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, trung thực, khả năng
thành hiện thực cao.
Mặt thực tiễn của nội dung quan hệ pháp luật thể hiện ở việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể. Có thể nói, đó là mặt “sống” của pháp luật và các quan hệ pháp luật
thông qua hoạt động cảnh sát tích cực của chủ thể. Đó là sự đo lường, đánh giá giữa hai mặt
nội dung của một quan hệ pháp luật nhất định. Hiệu quả của việc sử dụng quyền và nghĩa vụ
thực chất phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong mối quan hệ đa ngành và theo chiều ngang của
pháp luật với các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Ngoài ra, mặt thực tiễn của nội dung quan hệ
pháp luật là hành vi của các chủ thể trong việc thực hiện pháp luật nên đây là phương án tiết
kiệm hơn về thời gian, chi phí vật chất và công sức của các bên. Nhà nước xây dựng cơ chế
giám sát, đánh giá mặt thực của chủ thể theo bản chất của quan hệ pháp luật.
12
3.4 Quan hệ pháp luật được bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước
Việc cung cấp các nguồn lực nhà nước thường là một đặc điểm của pháp luật. Khi pháp luật
mất đi phẩm chất này thì nó cũng chẳng khác gì các nhân tố điều chỉnh xã hội khác như đạo
đức, tập quán, tín điều tôn giáo. Việc thực hiện các hành vi pháp lý dưới hình thức quan hệ
pháp luật phải được bảo đảm bằng hoạt động của nhà nước thì nó mới có hiệu lực. Tuy nhiên,
đối với các biện pháp bảo đảm của nhà nước thì phải xem xét tính tương thích với các biện
pháp bảo đảm xã hội khác, bởi vì quan hệ pháp luật là loại quan hệ xã hội bao hàm các đặc
điểm của quan hệ xã hội trong sự hình thành và phát triển của quan hệ xã hội. Hơn nữa, quy
định pháp luật là một hình thức quy định xã hội. Các biện pháp bảo đảm của nhà nước khác
nhau về hình thức, tính chất và hiệu lực. Bảo đảm quan hệ pháp luật thông qua phương tiện
nhà nước là bảo đảm về mặt pháp lý, vật chất, tổ chức, kỹ thuật, tư tưởng, v.v., tức là. tạo ra
môi trường nhà nước - xã hội để hình thành và bảo vệ cả hệ thống quan hệ pháp luật và mọi
quan hệ pháp luật. một quan hệ pháp luật nhất định. Trên thực tế, mỗi loại quan hệ pháp luật
khác nhau có phạm vi, phương thức và yêu cầu đối với sự bảo đảm này khác nhau. Thực
chất của bạo lực, áp bức, cưỡng bức không phải là tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đó là
một khía cạnh lý luận cần được quan tâm.
13
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng là chủ thể quan hệ pháp luật hạn chế theo quy định
của pháp luật.
1. Chủ thể quan hệ pháp luật theo quan điểm truyền thống
1.1 Chủ thể là Nhà nước
1.1. 1 Khái niệm, đặc điểm:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia vào một số quan hệ pháp luật dân
sự với tư cách là chủ thể đặc biệt. Tư cách chủ thể của Nhà nước không đặt ra như tư cách
chủ thể của các chủ thể khác. Nhiều cơ quan nhà nước tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh
tế với tư cách là chủ thể độc lập, bình đẳng nhưng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt trong các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự, kinh
tế nói riêng bởi các lẽ sau:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. ( Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013). Nhà nước nắm quyền lãnh đạo thống nhất,
toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước là người đại diện cho toàn dân và là một tổ chức chính trị – quyền lực.
– Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc chế độ sở
hữu toàn dân gồm: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý. Đây là tài
sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
+ Điều 200 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào
doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định
của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh tại doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.”
– Nhà nước tự quy định cho mình các quyền trong các quan hệ mà Nhà nước tham gia, trình
tự, cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ đó.
– Nhà nước là chủ thể của tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Nhà nước trực tiếp nắm quyền định đoạt tối cao đối với các tài sản mà pháp luật quy định
thuộc chế độ sở hữu toàn dân. Những tài sản có ý nghĩa quyết định đến nền tảng kinh tế của
toàn xã hội, đến an ninh, quốc phòng như: Đất đai, rừng núi, sông hồ, biển cả, các tài nguyên
thiên nhiên khác.
Nhà nước giao quyền của mình cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền quản lí các tài sản,
giao cho các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, chính trị-xã hội các tổ chức khác, cá nhân thực
hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản của Nhà nước; quy định về trình tự,
giới hạn thực hiện các quyền đó.
Nhà nước uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế như:
Ngân hàng, kho bạc, phát hành các kì phiếu, trái phiếu, công trái.
Nhà nước là chủ sở hữu các tài sản vô chủ, tài sản không người thừa kế, tài sản bị trưng thu,
trưng mua.
14
1.1.2 Năng lực của chủ thể là Nhà nước
Thể chế nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, được lập ra để thực hiện
các nhiệm vụ, công vụ do pháp luật quy định. Năng lực pháp luật của tổ chức nhà nước phát
sinh khi tổ chức được thành lập và chấm dứt sau khi tổ chức kết thúc hoạt động. Vì nó là một
thiết chế nhà nước tồn tại từ khi thành lập, nó nhất thiết phải có năng lực pháp lý, được chứng
minh bằng giấy phép thành lập của nhà nước, và chính xác hơn, thiết chế có quyền thực hiện
quyền lực nhân danh nhà nước. Mỗi thiết chế nhà nước được tạo ra đều thực hiện một chức
năng, nhiệm vụ nhất định do pháp luật quy định. Điều đó cũng có nghĩa là nó phải có điều
kiện để thực hiện nhiệm vụ của mình, tức là. phải có năng lực hành vi và năng lực hành vi
trong trường hợp này xuất hiện đồng thời với năng lực pháp luật được thể hiện trong quyết
định thành lập. cơ quan chính phủ này. Mặc dù thiết chế nhà nước có thể được thành lập ngay
cả khi không có chức năng hành chính của cơ quan nhà nước, nhưng nếu nó có quyết định
thành lập thì tính chủ thể của nó mặc nhiên phát sinh trong các quan hệ pháp luật hành chính
của nó. Vì mặc dù hoạt động quản lý hành chính không thuộc chức năng của mình nhưng
hoạt động quản lý hành chính lại cần thiết trong quá trình hoạt động của cơ quan nhà nước.
Đặc biệt là hoạt động quản lý của hành chính nhà nước trong việc đảm bảo và xây dựng hoạt
động bên trong của cơ quan (một nhóm chủ thể khác do luật hành chính điều chỉnh). Vì vậy,
pháp luật không nhất thiết phải đặt điều kiện đối với hoạt động hành chính của thiết chế này
mà thiết chế này đáp ứng yêu cầu về tính chủ thể của quan hệ hành chính - pháp luật ngay
sau khi thành lập.
15
Trường hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân dù được thành lập hợp pháp là công ty tư
nhân. Vì tài sản của doanh nghiệp tư nhân không tách biệt với tài sản cá nhân – chủ doanh
nghiệp tư nhân đó vì thế mà không có tư cách pháp nhân. Trong khi công ty TNHH, công ty
cổ phần đều có phần tài sản độc lập để chịu trách nhiệm trước pháp luật nên vì thế mà có tư
cách pháp nhân.
- Tổ chức phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
Theo điều 83 Bộ luật dân sự năm 2015, pháp nhân phải là một tổ chức có cơ cấu quản lý chặt
chẽ:
1. Pháp nhân sẽ phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan
điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định
thành lập pháp nhân.
2. Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp
luật.
Như vậy một tổ chức muốn trở thành pháp nhân sẽ phải có điều lệ công ty hoặc quyết định
thành lập pháp nhân. Trong điều lệ và quyết định thành lập phải quy định cụ thể về tổ chức,
nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành.
+ Điều lệ của pháp nhân do các sáng lập viên hoặc đại hội thành viên xây dựng và thống nhất
thông qua.
+ Pháp nhân có con dấu riêng do người đại diện của tổ chức quản lý và sử dụng.
+ Pháp nhân phải có cơ quan điều hành bao gồm các bộ phận, phòng ban được phân chia cụ
thể.
+ Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận, phòng ban được quy định rõ ràng
trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập.
+ Nếu pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì
điều lệ do cơ quan nhà nước đã thành lập.
- Tổ chức có thể nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập
+ Tổ chức có thể nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập là một trong
những điều kiện quan trọng để có tư cách pháp nhân.
+ Pháp nhân có quyền nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua người
đại diện theo pháp luật.
+ Vì pháp nhân là một tổ chức độc lập, được quyền giao dịch, xác lập quyền và nghĩa vụ nên
bắt buộc nó có thể tự nhân danh chính mình.
Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật bị bỏ tù, bị bắt giam, bị chết hoặc không còn
khả năng đại diện nữa thì pháp nhân đó có quyền bầu ra người đại diện theo pháp luật mới để
tiếp tục hoạt động. Điều đó cho thấy tư cách pháp nhân không phụ thuộc vào bất kỳ cá nhân
nào.
2. Chủ thể quan hệ pháp luật theo quan điểm hiện đại
II.1 Thế giới kỹ thuật số của AI
Sự phát triển nhanh chóng của Metaverse, tài sản không thể thay thế (NFT) và công nghệ
chuỗi khối đều có ảnh hưởng đáng kể đến quyền sở hữu trí tuệ vào năm 2022. Những tài sản
18
này và vấn đề làm thế nào để bảo vệ và thực thi việc bảo vệ những tài sản đó trên thế giới đã
là một vấn đề hóc búa đối với nhiều luật sư sở hữu trí tuệ và các cơ quan chính phủ quốc gia
và quốc tế.
Không chỉ các loại tài sản ở trên mà trong thế giới công nghệ, điện tử, viễn thông còn có một
khái niệm khá mới là Web3 vẫn còn cần nhiều lời giải.
Web 3.0 (còn được gọi là web3), là thế hệ thứ ba của dịch vụ Internet kết nối dữ liệu với
nhau theo cách phi tập trung nhằm mang lại trải nghiệm người dùng nhanh hơn và cá nhân
hóa hơn. Web 3.0 được xây dựng bằng trí tuệ nhân tạo (AI), học máy và web ngữ nghĩa,
đồng thời sử dụng hệ thống bảo mật chuỗi khối để giữ thông tin an toàn và bảo mật.
Trong Web 3.0, dữ liệu được lưu trữ và phân phối an toàn trên nhiều thiết bị, loại bỏ nhu cầu
về máy chủ tập trung. Thiết kế này giúp giảm nguy cơ rò rỉ dữ liệu lớn vì dữ liệu không còn
được lưu trữ tập trung ở một khu vực – khiến dữ liệu trở nên linh hoạt hơn và ít bị xâm phạm
hơn.
Hiện tại, đã có nhiều nhãn hiệu quốc tế được nộp, đăng ký có liên quan đến tài sản kỹ thuật
số. Đã có nhiều đơn đăng ký cho các nhãn hiệu được sử dụng độc quyền trong siêu dữ liệu và
các môi trường kỹ thuật số khác, bao gồm cả NFT.
Do đó, để đáp ứng nhu cầu giải quyết cấp bách các hồ sơ này, các tổ chức quốc tế đã ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể cho đối tượng đăng ký nhãn hiệu liên quan đến thế giới
kỹ thuật số, tài sản ảo, v.v. Văn phòng Sở hữu Trí tuệ Liên minh Châu Âu (EUIPO) đã làm rõ
phương thức đăng ký nhãn hiệu kỹ thuật số trong dự thảo Nguyên tắc năm 2023 của khu vực
này. Cụ thể, hàng hóa ảo sẽ được phân loại theo Nhóm 9 vì chúng được coi là nội dung kỹ
thuật số, với điều kiện là những hàng hóa đó được giải thích chi tiết theo tiêu chuẩn của
EUIPO.
19
2.1.1.2 Nhược điểm của Trí tuệ nhân tạo AI
Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng trí tuệ nhân tạo (AI) cũng có một số nhược điểm như sau:
• Độ chính xác và độ tin cậy: Các hệ thống AI có thể phụ thuộc vào dữ liệu huấn luyện
và đôi khi dữ liệu này có thể không đầy đủ hoặc không chính xác, dẫn đến sai sót và không
tin cậy trong dự đoán và quyết định.
• Thiếu sáng tạo và khả năng tư duy đa chiều: Các hệ thống AI hiện tại chủ yếu tập
trung vào việc giải quyết các vấn đề theo cách được lập trình sẵn, chứ không phải bằng cách
tư duy đa chiều hay sáng tạo như con người.
• Sự cạnh tranh với nhân lực: Một số người lo ngại rằng sự phát triển của AI có thể dẫn
đến thay thế nhân lực, gây ra tác động xã hội và kinh tế tiêu cực.
• Vấn đề đạo đức và pháp lý: Một số ứng dụng AI có thể liên quan đến các vấn đề đạo
đức và pháp lý, chẳng hạn như việc thu thập và sử dụng dữ liệu cá nhân, hoặc việc tạo ra các
hệ thống tự động có thể gây hại đến con người.
• Chi phí và phức tạp: Phát triển và triển khai các hệ thống AI có thể tốn kém và phức
tạp, đặc biệt là đối với các công ty và tổ chức nhỏ.
Như vậy, AI cũng có một số nhược điểm và thách thức cần được giải quyết để đảm bảo rằng
các ứng dụng AI được phát triển và triển khai một cách bền vững và có lợi cho xã hội.
21
nguồn lực vào một vấn đề phù hợp hơn mà vẫn đảm bảo chất lượng của các công việc mang
tính lặp lại.
Những tiến bộ này, đặc biệt là AI, chắc chắn sẽ hỗ trợ ngành luật hiện tại và trong tương lai,
cả gần và xa. Công nghệ dựa trên AI sẽ hỗ trợ ngành luật bằng cách tăng cường đội ngũ nhân
viên và cung cấp các giải pháp sẵn có cho lao động truyền thống do con người thực hiện.
Các công ty pháp lý ở Đông Nam Á đã sử dụng các công cụ phần mềm như SmartLaw và
AskAILA (ứng dụng dựa trên AI được đào tạo và trang bị các quy định về luật lao động của
Malaysia, cung cấp hỗ trợ ảo suốt ngày đêm) để trợ giúp nghiên cứu pháp lý, đánh giá hợp
đồng thông minh, và tư vấn pháp lý. Các ứng dụng, phần mềm hỗ trợ AI này có thể giúp các
công ty luật bằng cách nhanh chóng lướt qua hàng nghìn tài liệu và trả lời hoặc cung cấp
thông tin cho các câu hỏi pháp lý.
Tuy nhiên, loại công nghệ này vẫn chưa thực sự phổ biến vào năm 2023 ở nhiều khu vực,
một phần do chi phí cũng như nhu cầu của luật sư. Nguy cơ phải chịu trách nhiệm pháp lý do
sơ suất nghề nghiệp do lạm dụng AI mà không kiểm tra kỹ nội dung cũng là một trở ngại đối
với nhu cầu sử dụng các dịch vụ như vậy của các công ty luật mặc dù phần mềm AI có tỷ lệ
chính xác cao.
24
XVII, có hai loại toà án, một loại toà án áp dụng luật một cách cứng nhắc và loại còn lại là
toà công bằng dưới quyền của nhà vua, cho phép khắc phục sự cứng nhắc của loại toà án
kia”. Theo ông, không thể chấp nhận được nền công lý (xét xử) cơ học, máy móc vì mỗi vụ
việc là độc nhất, riêng biệt. Cho dù chúng ta có giám sát hay không thì robot cũng không có
khả năng đưa ra phán quyết công bằng53 .
Trong khi đó, Giáo sư Daniel Chen, một chuyên gia nổi tiếng về kinh tế học pháp luật ủng hộ
việc sử dụng phổ biến AI trong hệ thống tư pháp. Trong một nghiên cứu mang tên “Máy học
và pháp quyền” (Machine Learning and the Rule of Law54), học giả này chủ trương sử dụng
AI để giảm bớt các quyết định đôi khi bị sai lệch và thiên kiến của các thẩm phán. Theo đó,
AI sẽ tự học hỏi từ các quyết định, phán quyết đã được các toà án đưa ra trước đó, phân tích
và đề xuất những sửa đổi, hoàn thiện đối với những phán quyết chứa đựng những sai lệch.
Bởi vì, các phân tích của AI có thể giúp tăng tính công bằng của pháp luật. Vì nhiều nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy sự không nhất quán của các thẩm phán trong các phán quyết của
họ. Bằng cách dự đoán trước các quyết định tư pháp với độ chính xác, căn cứ vào các thuộc
tính tư pháp hoặc đặc điểm của thủ tục tố tụng, khả năng tự học hỏi và nhận thức của AI cho
phép phát hiện các trường hợp mà các thẩm phán có thể có những thiên kiến ngoài pháp luật
làm ảnh hưởng đến quyết định của họ”.
2.2.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến AI
Với khả năng tích lũy kinh nghiệm và học hỏi cũng như khả năng hành động độc lập và đưa
ra quyết định riêng lẻ, AI có thể sẽ là một đối tượng trực tiếp gây hại cho con người hoặc
những đối tượng khác. AI có thể trở thành một phương tiện để một chủ thể nào đó dùng để
gây hại, hoặc AI gây hại bằng hành động của mình. Có thể kể đến các trường hợp đối với các
tác tử thông minh như robot hay xe tự hành gây tai nạn cho con người vì một lý do nào đó
theo lập trình nằm ngoài dữ liệu.
Pháp luật các nước trên thế giới chưa quy định một cách rõ ràng về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại liên quan đến AI và do đó, các vấn đề bồi thường sẽ phải được giải quyết theo các
quy định pháp luật hiện hành 17. Nếu trong trường hợp AI tự mình gây ra những thiệt hại, thì
vấn đề xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường lại là một vấn đề nan giải.
Phần lớn luật pháp quốc gia và quốc tế đều không công nhận AI là một chủ thể của pháp luật,
điều đó có nghĩa là AI không thể chịu trách nhiệm cá nhân về những thiệt hại mà nó gây ra
18. Đa số các quốc gia căn cứ vào pháp luật hiện hành để quy trách nhiệm về một chủ thể xác
định. Pháp luật châu Âu quy định “hành vi sử dụng sản phẩm chịu trách nhiệm về những
thiệt hại xảy ra”, như vậy chủ thể sử dụng AI sẽ phải chịu trách nhiệm cho những xâm phạm
do AI gây ra 19. Pháp luật châu Âu cũng có nhiều văn bản hiện hành quy định về những vấn
đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường khi AI hoặc thực thể mang AI gây thiệt hại như luật
trách nhiệm sản phẩm theo Chỉ thị 85/374/EC, theo đó nhà sản xuất phải bồi thường thiệt hại
do những sản phẩm AI gây ra 20; trách nhiệm nghiêm ngặt của nhà sản xuất, chủ sở hữu khi
robot AI gây thiệt hại được quy định trong Quy tắc luật dân sự về robot (2015/2103 (INL))
20. Bên cạnh đó, các quy định về chế độ bảo hiểm trách nhiệm liên quan đến thiệt hại do sử
dụng xe cơ giới (Chỉ thị 2009/103/EC) điều chỉnh khi xe tự lái gây tai nạn cũng đã được ban
hành 21.
27
Thêm vào đó, Điều 12 Công ước Liên hợp quốc về sử dụng thông tin điện tử trong hợp đồng
quốc tế đã nêu rõ, một người (dù là thể nhân hay pháp nhân) thay mặt cho máy tính được lập
trình cuối cùng phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ thông báo nào được tạo bởi máy 22. Theo
cách diễn giải này thì một chủ thể khi đang sử dụng AI như một công cụ, dù có lỗi hay không
thì cũng phải bồi thường thiệt hại do AI gây ra.
Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan
đến AI. Tuy nhiên pháp luật hiện hành có những quy định có thể điều chỉnh được vấn đề bồi
thường thiệt hại liên quan đến AI như Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa 2007, sửa đổi bổ
sung 2018, hay chế định bồi thường ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015. Khi một sản
phẩm mang AI vi phạm quy định về chất lượng thì nhà sản xuất có trách nhiệm phải bồi
thường. Hay nếu xem xét những thực thể mang AI là tài sản (tài sản trí tuệ và tài sản là vật
hữu hình) thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 584 Bộ luật Dân sự chủ sở hữu, người chiếm
hữu phải bồi thường thiệt hại. Tuy vậy, những quy định này chỉ có thể áp dụng được trong
một vài trường hợp hoặc đối với những quan hệ đơn giản, ở những quan hệ phức tạp hơn thì
rất khó điều chỉnh. Ví dụ, trong trường hợp AI bị lấy cắp, sau đó AI gây thiệt hại thì sẽ như
thế nào, hay xác định trách nhiệm ra sao khi chủ sở hữu và nhà sản xuất cùng có lỗi khi AI
gây thiệt hại. Tất cả những trường hợp trên đều chưa có quy định cụ thể để áp dụng giải
quyết khi phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại liên quan đến AI.
3. Kết luận và khuyến nghị đối với hoạt động nghiên cứu lập pháp
Mặc dù AI bắt đầu được quan tâm tại Việt Nam chưa lâu nhưng với những tiềm lực sẵn có,
chúng tôi tin rằng AI sẽ phát triển rất nhanh tại Việt Nam trong tương lai. Để tận dụng được
những lợi thế do AI mang lại cho sự phát triển của nền kinh tế thì việc dự báo những thách
thức về xã hội và pháp lý cũng như đề ra những giải pháp giải quyết thách thức là điều tất
yếu phải làm. Chúng tôi xin có một vài khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, cần nghiên cứu và xác định rõ tư cách pháp lý, bản chất pháp lý của AI hướng đến
việc xây dựng khung pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật liên quan đến AI như
quan hệ về tài sản, quyền sở hữu, sở hữu trí tuệ, quan hệ lao động, bồi thường thiệt hại…
Thứ hai, về quyền sở hữu trí tuệ, cần xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho việc công
nhận và bảo hộ đối với AI. Thêm vào đó, cần công nhận những sáng chế, tác phẩm do AI tạo
ra, sửa đổi các quy định về xác định tác giả của các tác phẩm, sáng chế để tạo tiền đề cấp bản
quyền và cấp bằng sáng chế.
Thứ ba, về quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân, cần học hỏi kinh nghiệm pháp luật châu Âu để
đưa ra những quy định cụ thể về dữ liệu cá nhân, xử lý dữ diệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân và các
quy định về quyền cá nhân liên quan đến dữ liệu trên không gian mạng.
Thứ tư, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến AI, ngoài áp dụng những quy định
hiện hành để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, các nhà lập pháp cần chuẩn bị những quy
định về việc xác định chủ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cụ thể là quy định về trách
nhiệm bồi thường của nhà sản xuất, chủ sở hữu AI, người chiếm hữu hợp pháp hoặc trái phép
hệ thống AI và thực thể mang AI trong mối quan hệ không liên đới và liên đới.
28
KẾT LUẬN
Tóm lại, bài tiểu luận “CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT – QUAN ĐIỂM TRUYỀN
THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI” đã nêu rõ dù theo quan điểm nào pháp luật cũng đã quy định hết
sức rõ ràng và cụ thể về chủ thể pháp luật và chủ thể của các quan hệ pháp luật. Những quy
định này giúp các cá nhân, tổ chức xác định rõ với những đối tượng nào sẽ trở thành chủ thể
của các quan hệ phạm trù trên. Đối với chủ thể là tổ chức thì nó sẽ có năng lực hành vi pháp
luật đầy đủ khi nó được thành lập hoặc được công nhận, năng lực hành vi của tổ chức sẽ
chấm dứt khi nó bị giải thể hoặc sáp nhập. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật
của chủ thể có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó năng lực pháp luật giữ vai trò quyết định,
nó là tiền đề, là cơ sở để tạo ra năng lực hành vi pháp luật. Chủ thể không có năng lực pháp
luật trong quan hệ pháp luật nào thì đương nhiên sẽ không có năng lực hành vi pháp luật
trong quan hệ pháp luật đó.
Như vậy, pháp luật đã quy định hết sức rõ ràng và cụ thể về chủ thể pháp luật và chủ thể của
các quan hệ pháp luật. Những quy định này giúp các cá nhân, tổ chức xác định rõ với những
đối tượng nào sẽ trở thành chủ thể của các quan hệ phạm trù trên. Từ đó, điều chỉnh hoạt
động, hành vi sao cho phù hợp với các quy định, khuôn mẫu chung của pháp luật. Bởi suy
cho cùng, những quy định về chủ thể pháp luật (hoặc quan hệ pháp luật) mà Nhà nước đưa ra
đều nhằm mục đích định hướng trách nhiệm, nhiệm vụ của các cá nhân, tổ chức, hướng họ
hoạt động theo đường lối của Nhà nước về pháp luật.
Từ đó, điều chỉnh hoạt động, hành vi sao cho phù hợp với các quy định, khuôn mẫu chung
của pháp luật. Bởi suy cho cùng, những quy định về chủ thể pháp luật (hoặc quan hệ pháp
luật) mà Nhà nước đưa ra đều nhằm mục đích định hướng trách nhiệm, nhiệm vụ của các cá
nhân, tổ chức, hướng họ hoạt động theo đường lối của Nhà nước về pháp luật.
29
CÁC NGUỒN THAM KHẢO
1. Trí tuệ nhân tạo trong thời đại số: Bối cảnh thế giới và liên hệ với Việt Nam. (2023).
Retrieved 14 June 2023, from https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tri-tue-nhan-tao-
trong-thoi-dai-so-boi-canh-the-gioi-va-lien-he-voi-viet-nam-55038.htm
4. Trí tuệ Nhân tạo sẽ là mũi nhọn cho Cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam. (2023).
Retrieved 14 June 2023, from https://most.gov.vn/vn/Pages/chitiettin.aspx?
IDNews=16538
5. Trí tuệ nhân tạo và những thách thức pháp lý. (2023). Retrieved 14 June 2023, from
https://vjst.vn/vn/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=3303&tieude=tri-tue-nhan-tao-va-
nhung-thach-thuc-phap-ly.aspx
6. Một số tác động của công nghệ trí tuệ nhân tạo tới hệ thống bảo hộ sáng chế. (2023).
Retrieved 14 June 2023, from https://www.most.gov.vn/vn/Pages/chitiettin.aspx?
IDNews=17709
7. 7 thay đổi về bảo hộ sáng chế trong Luật Sở hữu trí tuệ 2022 | 7 thay doi ve bao ho sang
che trong Luat So huu tri tue 2022. (2023). Retrieved 14 June 2023, from
http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/7-thay-doi-ve-bao-ho-sang-che-trong-Luat-
So-huu-tri-tue-2022
8. Nhà văn robot Nhật sáng tác truyện dự thi toàn quốc. (2023). Retrieved 14 June 2023,
from https://vnexpress.net/nha-van-robot-nhat-sang-tac-truyen-du-thi-toan-quoc-
3376359.html
30
9. AI and the law. (2023). Retrieved 14 June 2023, from
https://www.birmingham.ac.uk/research/quest/emerging-frontiers/ai-and-the-law.aspx?
_hsenc=p2ANqtz-_-
IEMzfX4LGvPWSMobYPA59IIUBiWXTuE60N_Ejq2JEDrg5sWgKBzQENL0Me5w8
iAHJIBC
12. Texts adopted - Civil Law Rules on Robotics - Thursday, 16 February 2017. (2023).
Retrieved 14 June 2023, from https://www.europarl.europa.eu/doceo/document/TA-8-
2017-0051_EN.html
13. QUAN HỆ PHÁP LUẬT - QUAN HỆ PHÁP LUẬT PHÂN TÍCH MỘT SỐ QUAN HỆ
PHÁP LUẬT CỤ THỂ - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI - Studocu. (2023). Retrieved 13
June 2023, from https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-sai-gon/phap-
luat-dai-cuong/quan-he-phap-luat-quan-he-phap-luatphan-tich-mot-so-quan-he-phap-
luat-cu-the/27737087?
fbclid=IwAR2Fm27iAOyMou0IyeWnr7oKMNr6sn9pNcEvbU82cxkwEXv_IOHDvXN
rfks
14. Tiểu luận Khái niệm năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính. (2023).
Retrieved 13 June 2023, from https://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-khai-niem-nang-luc-
chu-the-trong-quan-he-phap-luat-hanh-chinh-37423/?
fbclid=IwAR3F5eEtTu4KI0EnWojZ8OWppZuWCyoi3O0iDfxEEKWn6te8uj9bQCZZc
Ho
15. Chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự là ai?. (2023). Retrieved 13 June 2023,
from https://lawkey.vn/chu-the-dac-biet-cua-quan-he-phap-luat-dan-su/?
fbclid=IwAR3ajgTlaQPlIQ5p6eK9-sqpB6XfFzmwfHfsKh0ULg1_IPJRMdTc8FSjiD4
31
16. Quan hệ pháp luật là gì? Yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật?. (2023). Retrieved 13 June
2023, from https://luathoangphi.vn/quan-he-phap-luat-la-gi-yeu-to-cau-thanh-quan-he-
phap-luat/
17. Luật sư Nguyễn Văn Dương. Chủ thể là gì? Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự?.
(2023). Retrieved 13 June 2023, from https://luatduonggia.vn/chu-the-cua-quan-he-
phap-luat-dan-su/?
fbclid=IwAR3FR7xfcBk98xoQ4z20CBtrjPFSIPcFOdB_VfOUtZniSqI7OLTzjdYgDis#
31_Ca_nhan
18. Luật sư Lê Minh Trường. Chủ thể của quan hệ pháp luật là gì? Ví dụ chủ thể quan hệ
pháp luật. (2023). Retrieved 13 June 2023, from https://luatminhkhue.vn/chu-the-cua-
quan-he-phap-luat-la-gi.aspx?
fbclid=IwAR2ut9lZwEr_ko2HmiGoAve5zhLxJBs35VrMvk0qa0dtclfAFANhNgubroc
19. Trí tuệ nhân tạo trong thời đại số: Bối cảnh thế giới và liên hệ với Việt Nam. (2023).
Retrieved 13 June 2023, from https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tri-tue-nhan-tao-
trong-thoi-dai-so-boi-canh-the-gioi-va-lien-he-voi-viet-nam-55038.htm
20. Nguồn: Nguyễn Ngọc Ánh. Chủ thể pháp luật là gì? Chủ thể của quan hệ pháp luật là
gì?. (2023). Retrieved 14 June 2023, from https://luatduonggia.vn/chu-the-phap-luat-la-
gi-chu-the-cua-quan-he-phap-luat-la-gi/
21. Ls. Luyện Ngọc HùngLuật sư at Luật Hùng SơnÔng Hùng đã làm việc cho Hùng Sơn
Law từ những ngày đầu thành lập và có hơn 6 năm kinh nghiệm trong việc tư vấn và
hành nghề luật sư tại Việt Nam liên quan đến các Dự án Đầu tư Nước ngoài và Trong
nước; Sáp nhập và Mua lại; Luật Doanh nghiệp; Sở hữu trí tuệ. Với những kinh nghiệm
có được luật sư Hùng chắc chắn sẽ giúp bạn giải quyết những vấn đề pháp lý đòi hỏi
chuyên môn cao. Chủ thể pháp luật là gì? Các loại chủ thể trong quan hệ pháp luật.
(2023). Retrieved 14 June 2023, from https://luathungson.vn/chu-the-phap-luat-la-
gi.html
22. Nguyễn Ngọc Ánh. Chủ thể pháp luật là gì? Chủ thể của quan hệ pháp luật là gì?.
(2023). Retrieved 15 June 2023, from https://luatduonggia.vn/chu-the-phap-luat-la-gi-
chu-the-cua-quan-he-phap-luat-la-gi/
32
BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
Đóng
góp
MSSV Họ và tên Nhiệm vụ được phân công
tỷ lệ
%
- Ưu và nhược điểm của AI
Trương Thụy Mỹ
225061177 - Ứng dụng AI trong lĩnh vực 40%
Xuân
pháp luật
- Mục lục
Nguyễn Lê Nhã - Phần mở đầu
215041773 90%
Uyên - Quan hệ pháp luật
- Tổng hợp nội dung
- Chủ thể quan hệ pháp luật theo
quan điểm truyền thống
215043529 Nguyễn Ái Văn 70%
- Làm trang bìa, trang cuối bài
tiểu luận.
- Ứng dụng AI trong lĩnh vực
pháp luật
225063061 Phan Thị Khánh Vy - Độ trễ của hệ thống pháp luật 50%
- Kết luận và khuyến nghị đối với
hoạt động nghiên cứu lập pháp
33