You are on page 1of 21

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BỘ MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


----------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


***
CHẾ ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

MÃ MÔN HỌC: GELA220405


THỰC HIỆN: NHÓM 12
LỚP: THỨ 3 TIẾT 5-6
GVHD: TH.S VÕ THỊ MỸ HƯƠNG
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2022-2023

Nhóm: 12 ( Lớp thứ 3 – Tiết 5-6)


Tên đề tài: Chế định về phòng vệ chính đáng theo quy định của bộ luật hình sự Việt
Nam - Lý luận và thực tiễn.
TỈ LỆ %
STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN
HOÀN THÀNH

1 Nguyễn Quang Duy 21144162 100%

2 Trần Thị Ngọc Minh 22116118 100%

3 Nguyễn Văn Minh Tâm 21144447 100%

4 Đỗ Chí Công 21144155 100%

5 Nguyễn Chiến Công 21144156 100%

Ghi chú:

- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.

- Trưởng nhóm: Đỗ Chí Công SĐT: 0837166227

Nhận xét của giáo viên

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….
Ngày 09 tháng 05 năm 2023
MỤC LỤC

MỤC LỤC............................................................................................................................. 1

A. PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 3

1. Lí do chọn đề tài......................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................4
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài................................................................4
6. Kết cấu đề tài...........................................................................................4
B. NỘI DUNG................................................................................................................... 5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG THEO


QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...................................5
1.1. Khái niệm và định nghĩa phòng vệ chính đáng trong pháp luật
Việt Nam.......................................................................................................5

1.2. Bản chất của phòng vệ chính đáng.................................................5

1.3. Vai trò và tầm quan trọng của phòng vệ chính đáng trong bảo vệ
quyền lợi và tài sản của cá nhân, tổ chức..................................................6

1.4. Quy định về phòng vệ chính đáng trong bộ luật hình sự Việt
Nam 6

1.5. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng.........................................7

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN CHẾ ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG


VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ
CHÍNH ĐÁNG.................................................................................................8
2.1. Tình hình thực tế về phòng vệ chính đáng tại Việt Nam, những
vụ việc liên quan đến phòng vệ chính đáng và hệ quả của chúng...........8

5
2.1.1. Tình hình thực tế về phòng vệ chính đáng tại Việt Nam..............8

2.1.2. Những vụ việc liên quan đến phòng vệ chính đáng và hệ quả của
chúng.............................................................................................................8

2.2. Những vấn đề còn tồn đọng trong việc chế định phòng vệ chính
đáng 9

2.2.1. Về chế định phòng vệ trước.............................................................9

2.2.2. Vấn đề áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự...............................................9

2.2.3. Vấn đề phương tiện và phương pháp của người phòng vệ và


người xâm hại khi thực hiện quyền phòng vệ.........................................10

2.2.4. Vấn đề xác định thế nào là Phòng vệ chính đáng và Vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng...................................................................11

2.2.5. Vấn đề về Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với các trường
hợp Phạm tội trong khi thi hành công vụ...............................................12

2.2.6. Trường hợp Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với Phạm
tội do tinh thần bị kích động mạnh..........................................................15

2.3. Phương hướng hoàn thiện chế định về phòng vệ chính đáng.....15

2.4. Những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả của phòng vệ
chính đáng trong thực tiễn.......................................................................16

C. KẾT LUẬN.................................................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................18

6
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việc thiết lập các chế định về phòng vệ chính đáng là một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi, tài sản và tính mạng của người
dân. Phòng vệ chính đáng được hiểu là việc tự vệ trong tình huống phải đối mặt với tội
phạm hoặc nguy hiểm đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của mình hoặc người
khác mà pháp luật cho phép và hạn chế đối với quyền và tự do của người khác. Việc
thực hiện chính đáng các biện pháp phòng vệ cũng góp phần vào việc giảm thiểu tội
phạm và bảo đảm an ninh trật tự xã hội.
Tuy nhiên, việc thiết lập chế định về phòng vệ chính đáng không phải là dễ dàng. Điều
này liên quan đến nhiều khía cạnh pháp lý, bao gồm quyền tự vệ, giới hạn hành vi tự
vệ, trách nhiệm của cơ quan chức năng trong việc thực hiện chính đáng các biện pháp
phòng vệ... từ đó giúp nâng cao hiệu quả công tác phòng vệ chính đáng và tăng cường
sự hiểu biết về quyền tự vệ của người dân.
Thông qua việc học tập trên lớp cũng như thời gian tìm hiểu từ trang mạng xã hội uy
tín, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài “chế định về phòng vệ chính đáng
theo quy định của bộ luật hình sự Việt Nam- lí luận và thực tiễn” để nghiên cứu,
làm đề tài kết thúc học phần môn Pháp luật đại cương, chúng em nhận thấy đây là một
đề tài có tính cấp bách và quan trọng, đóng góp tích cực vào sự phát triển của pháp
luật và công tác bảo vệ an ninh trật tự xã hội của đất nước trong thời đại hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu nghiên cứu, đánh giá và phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự Việt
Nam về phòng vệ chính đáng, cùng với việc khảo sát và phân tích thực tiễn áp dụng
các quy định này trong hoạt động thực tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đưa ra các
giải pháp, đề xuất cải tiến về chế định phòng vệ chính đáng để đáp ứng tốt hơn với yêu
cầu của thực tiễn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định pháp luật về phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, cùng
với các trường hợp thực tiễn liên quan đến hoạt động phòng vệ chính đáng. Bên cạnh

7
đó là các chính sách và giải pháp của nhà nước trong việc xây dựng và quản lý hệ
thống phòng vệ chính đáng tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, khảo sát thực địa, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu
và đưa ra những nhận xét, đánh giá.Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống,
kết hợp khái quát và mô tả, phân tích và tổng hợp để đưa ra kết luận và đề xuất
giải pháp cải tiến.
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự hiểu biết và cải tiến hệ thống chế định
phòng vệ chính đáng. Nghiên cứu giúp đánh giá mức độ hiệu quả của các quy định và
thực tiễn áp dụng của phòng vệ chính đáng trong hoạt động công tác an ninh trật tự, từ
đó đề xuất các giải pháp cải tiến và nâng cao hiệu quả công tác phòng vệ chính đáng.
Ngoài ra, nghiên cứu còn góp phần nâng cao chất lượng và tính hiệu quả của hoạt
động phòng vệ chính đáng tại Việt Nam, đồng thời đưa ra những kiến thức và kinh
nghiệm có giá trị cho ngành tư pháp, giáo dục pháp luật và các cơ quan chức năng có
liên quan.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, bài tiểu luận của chúng em bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phòng vệ chính đáng theo quy định của bộ luật hình sự
Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn chế định về phòng vệ chính đáng
Chương 3: Giải pháp để hoàn thiện chế định về phòng vệ chính đáng

8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và định nghĩa phòng vệ chính đáng trong pháp luật Việt
Nam
Căn cứ theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định:Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích
chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ
chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các
lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

1.1.
1.2. Bản chất của phòng vệ chính đáng

Bản chất của Phòng vệ chính đáng là nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp đồng thời ngăn
chặn hành vi tấn công bằng cách gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công. Chính do
mục đích của Phòng vệ chính đáng là bảo vệ lợi ích hợp pháp nên mặc dù người có
hành vi phòng vệ gây nên thiệt hại khách quan về hình sự nhưng được loại trừ trách
nhiệm hình sự.

Phòng vệ chính đáng là việc bảo vệ và giữ vững các giá trị đạo đức, luân lí, pháp luật,
đảm bảo an ninh, trật tự và sự công bằng cho cộng đồng.
Ý nghĩa của phòng vệ chính đáng là đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của xã
hội, tạo môi trường sống tốt đẹp cho mọi người và đảm bảo quyền lợi của từng cá
nhân, cộng đồng.
Các đặc điểm của phòng vệ chính đáng bao gồm:
+ Được thực hiện bởi các tổ chức, cơ quan, lực lượng được quy định bởi pháp
luật.
+ Tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của cá nhân và cộng đồng.
+ Tuân thủ các nguyên tắc đạo đức, luân lí, pháp luật và có tính công bằng, minh
bạch.

9
+ Được thực hiện để bảo vệ các giá trị cộng đồng, bảo vệ an ninh, trật tự và đảm
bảo sự phát triển bền vững của xã hội

1.3. Vai trò và tầm quan trọng của phòng vệ chính đáng trong bảo vệ quyền
lợi và tài sản của cá nhân, tổ chức

- “Tự bảo vệ quyền lợi và tài sản của cá nhân và tổ chức: Phòng vệ chính đáng là một
quyền tự nhiên và cơ bản của con người, giúp bảo vệ quyền lợi và tài sản của cá nhân
và tổ chức trước những hành vi xâm phạm, mất cắp hay tổn hại từ các bên thứ ba.
- Giúp cải thiện an ninh và trật tự xã hội: Phòng vệ chính đáng giúp ngăn chặn những
hành vi xâm phạm, tấn công hoặc phá hoại đối với cá nhân và tổ chức. Nó có tác dụng
giữ vững trật tự, an ninh xã hội, góp phần vào sự phát triển ổn định và bình yên của đất
nước.
- Góp phần vào công tác phòng chống tội phạm: Phòng vệ chính đáng cũng là một
biện pháp phòng chống tội phạm hiệu quả. Việc có những người được huấn luyện và
trang bị đầy đủ kiến thức về phòng vệ chính đáng sẽ giúp cho họ có khả năng phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội.

- Giúp nâng cao ý thức pháp luật và tư tưởng về tự vệ chính đáng: Phòng vệ chính
đáng còn giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về quyền tự vệ, hành vi tự vệ và các biện
pháp tự vệ khác. Điều này có thể giúp nâng cao ý thức pháp luật của cộng đồng và góp
phần vào việc xây dựng một xã hội văn minh, đúng luật và công bằng.

1.4. Quy định về phòng vệ chính đáng trong bộ luật hình sự Việt Nam

Hiện nay pháp luật Việt Nam chỉ quy định việc thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng
là nghĩa vụ của người thi hành công vụ. Còn đối với công dân thì chưa xác định tính
chất pháp lý của phòng vệ chính đáng là quyền hay là nghĩa vụ pháp lý. Người thực
hiện phòng vệ phải luôn chú ý tuân thủ đến hành vi sao cho phù hợp với quy định về
phòng vệ chính đáng. Vì nếu vượt quá điều kiện của phòng vệ chính đáng người đó sẽ
bị xử lí theo quy định của pháp luật Việt Nam.

10
Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự quy định hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Đồng thời, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự

Tuy nhiên, điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cũng quy định người phạm tội
trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ được xem xét đó là tình
tiết giảm nhẹ khi truy cứu trách nhiệm hình sự.

1.5. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng

- Điều kiện thứ nhất: Có hành vi xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích
của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức

- Điều kiện thứ hai: Hành vi xâm hại vào quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ phải
đang xảy ra.

- Điều kiện thứ ba: Thiệt hại gây ra của hành vi phòng vệ phải cho chính người có
hành vi xâm hại.

- Điều kiện thứ tư: Hành vi chống trả lại hành vi xâm hại là cần thiết.

1.4. Một số tội danh do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

 Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội
Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ

11
chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị
phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm.
Ngoài ra tùy theo tình tiết tăng nặng có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN CHẾ ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG VÀ


GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
2.1. Tình hình thực tế về phòng vệ chính đáng tại Việt Nam, những vụ việc liên
quan đến phòng vệ chính đáng và hệ quả của chúng

2.1.1. Tình hình thực tế về phòng vệ chính đáng tại Việt Nam

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, tuy nhiên nếu hành vi chống trả rõ ràng
quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và người có hành vi
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Có thể thấy
ranh giới giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là vô
cùng mong manh và trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về vấn
đề này.
Trên thực tế khi một người rơi vào tình huống nguy hiểm, bị xâm hại về tính mạng,
sức khỏe và tài sản nghiêm trọng, đa số người bị xâm hại không thể kiểm soát được
hành vi của bản thân, không đủ bình tĩnh để quyết định chống trả lại hành vi xâm hại
như thế nào để không vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.  Bên cạnh đó, để xác
định hành vi chống trả có tương xứng với hành vi xâm hại hay không, có quá đáng hay
không thì phải xét toàn diện những tình tiết liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi
phòng vệ như khách thể cần bảo vệ, mức độ thiệt hại, cường độ của sự tấn công… Vì
vậy, có rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng.

2.1.2. Những vụ việc liên quan đến phòng vệ chính đáng và hệ quả của chúng.

12
Tình hình phòng vệ chính đáng tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức và vấn đề cần
được giải quyết. Việc tăng cường minh bạch và trách nhiệm của cơ quan chức năng,
đảm bảo tính công bằng và chính đáng trong quá trình thực thi pháp luật là rất quan
trọng để nâng cao sự tin tưởng của người dân và tăng cường phòng vệ chính đáng
trong xã hội.

2.2. Những vấn đề còn tồn đọng trong việc chế định phòng vệ chính đáng

2.2.1. Về chế định phòng vệ trước

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước (phòng vệ từ
xa), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như:
đấu dòng điện vào cánh cửa để phòng trộm, dùng bẫy để đề phòng người gian...Nếu
việc phòng vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho
người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm
thông thường .Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt
hại cho đúng người phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giảm nhẹ
đáng kể. 
Ví dụ: Gia đình Trần Văn N thường xuyên bị mất trộm gà, N đã nhiều đêm thức
trắng để phục bắt người trộm nhưng không được, N bèn lấy một đoạn giây thép
buộc vào cánh cửa chồng gà và cho dòng điện 220 Vol chạy qua. Để bảo đảm an
toàn cho những người trong gia đình mình, N dặn mọi người phải cẩn thận trước khi
đi ngủ mới được đấu điện vào và sáng thức dậy phải rút điện ra. Đến đêm thứ 9 thì
Bùi Văn T vào trộm gà và bị điện giật chết, trên tay T còn cầm một bao tải trong
đựng 4 con gà. Mặc dù N bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Giết người theo
khoản 2 nhưng Toà án chỉ phạt N 3 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt) nhưng vẫn được nhân dân đồng tình, thậm chí còn có ý kiến cho rằng không
nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N vì người bị chết là “đáng đời”.
Ở đây có vấn đề mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật với các hành vi nguy hiểm cho xã
hội, cũ giống như trường hợp về mắc điện để phòng trộm thì nếu có gây hậu quả
nghiêm trọng thì vẫn phải tra cứu trách nhiệm hình sự .Pháp luật của một số vẫn có
quy định trong một số trường hợp phòng vệ trước không phải bị truy cứu trách

13
nhiệm hình sự. Nếu ở nước ta không công nhận hành vi phòng vệ trước thì cũng nên
quy định trong một số trường hợp vi phạm do phòng vệ trước có thể được giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự tùy theo mức độ nguy kiểm. 

2.2.2. Vấn đề áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự
Điểm c khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự 2015 có quy định Phạm tội do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Hiện nay có ý kiến cho rằng việc quy định tình tiết phạm tội trong trường hợp vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ tại điểm c khoản 1 Điều 51
bộ luật hình sự là không cần thiết bởi vì người phạm tội đã bị kết án về một trong
các tội liên quan đến hành vi phòng vệ được quy định trong bộ luật hình sự là tình
tiết định tội, định khung thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 51. 
Quy định phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một
tình tiết giảm nhẹ vẫn cần thiết, bởi vì thực tiễn xét xử có một số vụ án giết người
hoặc cố ý gây thương tích thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
nhưng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi chống trả với hành vi
phòng vệ chưa thuộc trường hợp quy định tại Điều 126 (Tội giết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội) hoặc Điều 136 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội) mà thuộc trường hợp tội phạm Giết người quy
định tại Điều 123 hoặc Cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 bộ luật hình sự
thì người phạm tội vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là
phải xác định trường hợp nào là dấu hiệu định tội quy định tại Điều 126 và Điều 136
bộ luật hình sự, còn trường hợp nào chỉ là tình tiết giảm nhẹ định tại điểm c khoản 1
Điều 51 bộ luật hình sự? Đây là vấn đề rất khó xác định cần phải có hướng dẫn của
các cơ quan có thẩm quyền.

14
2.2.3. Vấn đề phương tiện và phương pháp của người phòng vệ và người
xâm hại khi thực hiện quyền phòng vệ
Trong các văn bản hướng dẫn về hành vi của người phòng vệ trước đây có nêu
"người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng, quá đáng".
Hành vi phòng vệ thể hiện một quyền của con người đó là quyền được bảo vệ tính
mạng, sức khỏe và được pháp luật bảo vệ và khuyến khích thực hiện. Vì vậy, khi có
hành vi xâm hại thì người phòng vệ có quyền tự bảo vệ mình, do người phòng vệ
không có sự đề phòng trước nên về phương tiện, phương pháp sử dụng để đối phó
của người phòng vệ đối với người xâm hại thông thường không bằng sự nguy hiểm
do phương tiện, phương pháp do người xâm hại gây ra cho người phòng vệ nhưng
trong nhiều trường hợp cũng có thể hơn, vì thế không bắt buộc là phải ngang bằng
nhau. 
2.2.4. Vấn đề xác định thế nào là Phòng vệ chính đáng và Vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng
Trong thực tiễn xét xử, các trường hợp có nhiều khó khăn trong việc phân biệt, đánh
giá giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong các
trường hợp:
Bên xâm hại có hành vi xâm hại nghiêm trọng đến tài sản, còn bên phòng vệ có
hành vi giết người, làm chết người hoặc gây thương tích nặng cho người có hành vi
xâm hại: Đối với trường hợp mà bên xâm hại có hành vi xâm hại đến tài sản (trộm
cắp thông thường) thì hành vi của người phòng vệ đánh bị thương kẻ tấn công được
coi là tương xứng và cần thiết , nếu phát hiện có kẻ trộm đang vào nhà để thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản thì việc đánh tên trộm là việc mà mọi người cho là bình
thường. Tuy nhiên, nếu người phòng vệ lại có hành vi giết chết hoặc gây thương tích
nặng cho kẻ xâm hại thì trong thực tiễn xét xử, hành vi đó bị coi là vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng (Trừ một số trường hợp mà hành vi trộm cắp mang tính
chất nguy hiểm như hành vi lẻn vào lấy cắp ở một nơi được bảo vệ đặc biệt). Trong
thực tiễn xét xử, đối với các vụ án xâm phạm đến tài sản của nhà nước thì tính chất
phòng vệ chính đáng thường được chấp nhận dễ dàng hơn so với trường hợp tài sản
bị xâm hại là tài sản riêng của công dân.

15
Bên xâm hại có hành vi xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm
còn bên phòng vệ có hành vi giết người, làm chết người hoặc gây thương tích nặng
cho người có hành vi xâm hại: Đối với những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm thì việc xem xét, đánh giá hành vi phòng vệ chính đáng hay vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng thông thường được vận dụng như sau:

- Đối với những hành vi xâm phạm đến nhân phẩm của người phụ nữ (chẳng hạn
như hiếp dâm) thì mặc dù người phụ nữ có hành vi chống trả và gây ra cái chết hoặc
gây ra thương tích nặng cho kẻ tấn công thì thực tiễn xét xử vẫn dễ chấp nhận việc
chống trả là cần thiết và là phòng vệ chính đáng. 
- Nếu người tấn công có hành vi xâm hại và cố ý gây thương tích thậm chí có thể đe
dọa không những cho sức khỏe mà còn đe dọa tính mạng của người khác, còn hành
vi phòng vệ là gây chết người hoặc gây thương tích nặng cho kẻ tấn công, thì cần
phải cân nhắc, so sánh phương tiện, phương pháp mà các bên đã sử dụng, tương
quan lực lượng và khả năng của các bên, hoàn cảnh thực tế khi xảy ra sự việc. Trong
trường hợp mà hành vi tấn công xâm hại đến sức khỏe, tính mạng thì khi phân biệt
giữa cần thiết và không cần thiết, cần phải chú ý đến tình trạng tinh thần của người
phòng vệ bị tấn công đột ngột kích động, người phòng vệ không phải bao giờ cũng
có khả năng lường được một cách chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi xâm hại và lựa chọn phương cách phòng vệ cho thật tương xứng. Tuy nhiên,
trong thực tế vấn đề này là hết sức phức tạp đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng
phải nắm vững lý luận về phòng vệ chính đáng, phải thu thập và đánh giá đầy đủ
mọi chứng cứ có liên quan đến vụ án để từ đó mới có thể đưa ra những quyết định
chính xác.

Vấn đề xác định thế nào là phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng theo quy định tại Điều 22 bộ luật hình sự thực tế rất khó khăn, trên thực
tiễn xét xử vẫn có những nhận thức rất khác nhau. Trên thực tế hiện nay, không chỉ
có hành vi xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng mà đang nổi lên việc xâm phạm đến
quyền sở hữu về tài sản sau đó đi liền với sự xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ đối
với người bị xâm phạm. Ví dụ như nạn “cẩu tặc”, cướp giật, trộm cắp khi bị phát
hiện các đối tượng này thường có những hành động nguy hiểm như đánh, chém, bắn

16
bằng súng tự tạo nhằm thoát thân, lấy cho bằng được tài sản. Chính vì lẽ đó, chế
định phòng vệ chính đáng cần được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng trong việc áp dụng
vào thực tiễn.

2.2.5. Vấn đề về Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với các trường hợp
Phạm tội trong khi thi hành công vụ
Một trong những vấn đề mà thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng vệ chính đáng đặt
ra, đó là việc phân biệt giữa phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với
các trường hợp phạm tội trong khi thi hành công vụ. Trong thực tế, những trường
hợp gây án mạng hoặc gây thương tích nặng trong khi thi hành nhiệm vụ xảy ra khá
nhiều, chủ yếu là những trường hợp gây chết người hoặc gây thương tích nằm ngoài
sự mong muốn của những người này, tuy nhiên cũng có một số trường hợp có thái
độ cố ý trực tiếp, những sự việc xảy ra trong khi họ thi hành lệnh bắt người, dẫn giải
tội phạm… Tính nguy hiểm của hành vi cũng ở những mức độ khác nhau: Có khi là
hết sức nguy hiểm (như xả súng bắn hàng loạt vào một nhóm tội phạm ma tuý bị
truy nã đang chạy trốn) nhưng có những trường hợp ở mức độ bình thường như là
bắn cảnh cáo về phía người vi phạm nhưng không may đã làm chết người hoặc gây
thương tích. Có trường hợp người thực thi nhiệm vụ nổ súng để bảo vệ mình hoặc
bảo vệ người khác trước hành vi tấn công của người phạm tội, một số trường hợp
khác người thực thi nhiệm vụ nổ súng vào người đang phạm pháp (ví dụ: đang lấy
trộm, cướp giật…), có những trường hợp việc gây tai nạn là để đối phó với việc nạn
nhân chạy trốn hoặc kháng cự, không tuân theo lệnh của người thực thi nhiệm vụ
dẫn giải, có khi là để đối phó với việc nạn nhân vừa phạm pháp vừa chạy trốn, hoặc
chạy trốn để hoàn thành việc phạm pháp (ví dụ vừa cướp vừa chạy trốn). Tuy nhiên,
cũng có những trường hợp người thực thi nhiệm vụ sử dụng vũ khí vì quá cẩu thả,
không suy nghĩ tới hậu quả nghiêm trọng do hành vi của mình gây ra hoặc đơn giản
là khi người này say rượu. Phần lớn các trường hợp, động cơ của người thực thi
nhiệm vụ là muốn thi hành nhiệm vụ, muốn người phạm pháp không thể thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Mặc dù vậy, vẫn có những trường hợp người thực thi
nhiệm vụ có động cơ cá nhân như muốn thỏa mãn sự bực tức vì thái độ của nạn
nhân hoặc đơn giản chỉ là muốn tỏ ra mình có một uy quyền nhất định đối với nạn
nhân.

17
Theo quy định của bộ luật hình sự, bên cạnh các tội: Giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
(Điều 126 bộ luật hình sự), Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 bộ luật hình sự), còn có Tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 bộ luật hình sự) và Tội gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137
bộ luật hình sự). Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải phân biệt để định tội danh
cho đúng trường hợp nào là phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn
trường hợp nào là phạm tội trong khi thi hành công vụ. Cũng cần phải khẳng định ở
đây, nếu nạn nhân có hành vi vi phạm mang tính chất nhỏ nhặt, nạn nhân tuân thủ
mệnh lệnh của người có thẩm quyền nhưng do hống hách, có thái độ coi thường tính
mạng, sức khỏe của người khác mà người có thẩm quyền lại có hành vi gây thương
tích hoặc làm chết nạn nhân thì trường hợp này đương nhiên không được coi là vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng cũng như phạm tội trong khi thi hành công vụ mà
phải bị coi là trường hợp phạm tội thông thường. 
Để phân biệt giữa phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và phạm tội
trong khi thi hành công vụ trong trường hợp bị cáo là người đang thi hành công vụ,
cần làm rõ:

- Nếu hành vi gây thiệt hại cho nạn nhân là nhằm ngăn chặn sự tấn công của nạn
nhân gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người thi hành công vụ hay người
khác hoặc việc gây thiệt hại đó nhằm ngăn chặn nạn nhân có một hành vi xâm hại
cho một lợi ích nào đó của xã hội trường hợp này nếu không cần thiết thì là phạm tội
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Nếu hành vi gây thiệt hại là nhằm ngăn chặn một người phạm pháp trốn tránh pháp
luật như : bỏ chạy, kháng cự không tuân theo (không có sự tấn công gây nguy hiểm
cho tính mạng hoặc sức khỏe của người thực thi nhiệm vụ hay người khác), trong
trường hợp này nếu không cần thiết thì là phạm tội trong khi thi hành công vụ.

Tuy nhiên, nếu người thực thi nhiệm vụ sử dụng vũ khí và đã gây thiệt hại cho sức
khỏe, tính mạng của những người trốn tránh chưa chấm dứt tội phạm thì vấn đề trở

18
nên phức tạp hơn nhiều. Ví dụ: Hành vi của một người công an gặp một kẻ đang
móc túi người khác, người công an đã hô đứng lại và bắn chỉ thiên nhưng tên trộm
vẫn cầm cả ví tiền hòng chạy trốn cho nên người công an đã bắn chết tên trộm.
Hành vi của người công an trong trường hợp này mang tính chất phòng vệ hay thi
hành công vụ? Chính vì vậy, về vấn đề này cần có sự hướng dẫn cụ thể của các cơ
quan có thẩm quyền để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được chính xác và
thống nhất.
2.2.6. Trường hợp Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với Phạm tội
do tinh thần bị kích động mạnh
Theo tinh thần của Chỉ thị số 07/Tòa án nhân dân tối cao ngày 22/12/1983 và Nghị
quyết 02/HĐTP - TANDTC ngày 05/01/1986 thì hành vi nguy hiểm cho xã hội là
hành vi đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho
những lợi ích cần bảo vệ, hành vi đó bắt đầu và chưa kết thúc. Trường hợp hành vi
xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là phòng vệ.
Nhưng nếu trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc sau đó tiếp tục xâm phạm đến
lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì người chống trả vẫn được xem là phòng vệ. 
Ví dụ: Tâm đánh Dũng, Dũng tức quá chạy về lấy dao chạy vào nhà chém Tâm
nhưng Tâm đỡ được, Dũng tức vì không chém được Tâm lại bị Tâm xô ngã Dũng
liền xông tới đánh mẹ của Tâm đang nằm liệt trên giường, Tâm dùng khúc cây đánh
mạnh vào đầu Dũng vài hôm sau Dũng chết. Trong trường hợp này mặc dù hành vi
xâm phạm của Dũng đối với Tâm đã kết thúc nhưng tiếp sau đó là hành vi của Dũng
xâm hại tới sức khỏe của mẹ Tâm, Tâm vì bảo vệ mẹ nên đã lấy khúc cây gần đó
chống trả lại hành vi của Dũng, hành vi của Tâm cũng được xem là hành vi phòng
vệ chính đáng. Trên thực tế, hành vi này rất dễ bị lầm lẫn với hành vi phạm tội trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của
nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 135 của bộ luật hình sự 2015. Phạm tội trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối
với người thân thích của người chống trả, còn phòng vệ chính đáng người phòng vệ
chống trả lại sự xâm hại của nạn nhân đối với lợi ích cần bảo vệ, lợi ích bảo vệ có
thể là của bản thân hay lợi ích của người khác. Do đó, khi xét hành vi nguy hiểm
cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho

19
những lợi ích cần bảo vệ thì pháp luật chưa quy định rõ trường hợp phòng vệ như
trên.

2.2. Phương hướng hoàn thiện chế định về phòng vệ chính đáng

Để hoàn thiện chế định về phòng vệ chính đáng tại Việt Nam, có thể áp dụng các
phương hướng sau:

- Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và nâng cao năng lực cho các cơ quan chức năng,
cán bộ và nhân viên liên quan đến phòng vệ chính đáng.
- Tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm trong quá trình phòng vệ chính đáng. Các
cơ quan chức năng cần đảm bảo các quy trình thẩm định và giám sát được thực hiện
đúng quy định và công khai.
- Tăng cường kiểm soát và kiểm tra độc lập trong quá trình phòng vệ chính đáng,
nhằm đảm bảo tính minh bạch và đúng quy định trong các quy trình phòng vệ.
- Đảm bảo các quyền của người dân trong quá trình yêu cầu phòng vệ chính đáng.
Điều này có thể bao gồm việc cung cấp thông tin, hỗ trợ tư vấn, bảo vệ an toàn cho
người yêu cầu phòng vệ chính đáng.
- Tăng cường hỗ trợ và bảo vệ cho các nhà hoạt động dân quyền trong quá trình phòng
vệ chính đáng.
- Tăng cường quản lý và giám sát các hoạt động phòng vệ chính đáng, đồng thời đảm
bảo sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan chức năng để giải quyết các vụ việc liên
quan đến phòng vệ chính đáng.
- Đưa ra các biện pháp phạt và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật liên quan
đến phòng vệ chính đáng.
- Tăng cường thông tin, giáo dục và nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng vệ
chính đáng và những hệ quả của việc bỏ qua phòng vệ chính đáng.
Hoàn thiện chế định về phòng vệ chính đáng là một công việc rất quan trọng, cần sự
phối hợp, đồng thuận và nỗ lực của cả chính phủ, cộng đồng và các tổ chức xã hội để
đảm bảo quyền lợi và an toàn cho người dân và những người bảo vệ chính đáng.

2.4. Những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả của phòng vệ chính đáng trong
thực tiễn

20
Từ những phân tích lý luận và thực tiễn, để công tác xác định giới hạn phòng vệ chính
đáng được chính xác và hiệu quả hơn tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến phòng vệ chính đáng, cụ thể hóa
từng trường hợp được quyền phòng vệ. Ban hành hướng dẫn cụ thể về phòng vệ chính
đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng để tránh gây khó khăn cho các cơ
quan chức năng và các đối tượng tham gia trong công tác phòng chống tội phạm. Đặc
biệt, trong văn bản ban hành cần phải giải quyết chi tiết, mang tính định lượng, dễ xác
định các điều kiện của phòng vệ chính đáng đặc biệt là điều kiện về xác định mức độ
“tương xứng”. Thật vậy, trong khi các điều kiện khác trong việc xác định phòng vệ
chính đáng được quy định khá chi tiết và dễ xác định thì quy định về tính “tương
xứng” lại mang tính định tính và rất khó xác định được ranh giới chính xác. Điều này
gây rất nhiều khó khăn cho công tác thực tiễn.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác đào tạo tập huấn nâng cao trình độ cán bộ, các cơ quan
chức năng, thường xuyên tổng hợp các trường hợp phòng vệ chính đáng để từ đó có
thể nhìn nhận ra những ưu khuyết điểm của vấn đề này. Cũng như kịp thời đưa ra định
hướng sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Việc này giúp hệ
thống hoá và thống nhất cách hiểu và vận dụng các quy định về điều kiện xác định
phòng vệ chính đáng trong phạm vi cả nước.
Thứ ba, tăng cường cơ sở vật chất, hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ cho công
tác giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án điều tra như các công cụ dùng để
xác minh tính chất, mức độ của các tình tiết hình sự.

21
C. KẾT LUẬN
Phòng vệ bản thân khi bị tấn công là rất quan trọng, và để được bảo vệ bởi pháp luật,
chúng ta cần tuân thủ các chế định và quy định về phòng vệ chính đáng đã được đưa
ra. Những quy định này đã được hoàn thiện thông qua quá trình cải cách và đổi mới,
và là kết quả của sự hợp tác giữa nhân dân và đảng.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số bất cập và lỗ hổng trong các quy định của pháp luật.
Hy vọng rằng trong quá trình sửa đổi và cập nhật sắp tới, chúng ta sẽ khắc phục được
những điểm này. Phòng vệ cho bản thân khi bị tấn công là đúng, nhưng phòng vệ như
thế nào, phòng vệ trong khoảng giới hạn nào,...và các điều luật của nhà nước quy định
ra sao. Bài thuyết trình bên trên đã giải đáp phần nào thắc mắc của mọi người. Chúng
em mong rằng mọi người có thể thêm chút thời gian để tìm hiểu thêm về chế định này,
sẽ có 1 lúc nào đó mà mọi người sẽ cần đến kiến thức này, điều này là thật sự cần thiết
đối với mỗi người chúng ta vì khi tìm hiểu sẽ cho mọi người có thêm kiến thức đê bảo
vệ quyền lợi cá nhân của bản thân.
Qua quá trình học tập và nghiên cứu từ các nguồn uy tín, chúng em đã đạt được những
thành quả trong việc trình bày vấn đề bảo vệ bản thân khi bị tấn công và cách phản
kháng để được bảo vệ bởi pháp luật. Tuy nhiên, bài tiểu luận chắc chắn có nhiều thiếu
sót nên em mong nhận được sự góp ý từ cô để bài của chúng em có thể hoàn thiện hơn.

22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/tong-hop-20-ban-an-ve-phong-ve-
chinh-dang-va-vuot-qua-gioi-han-phong-ve-chinh-dang-2620
2. https://tapchitoaan.vn/phong-ve-chinh-dang-thuc-tien-va-mot-so-kien-
nghi5456.html
3. https://lsvn.vn/mot-so-van-de-ve-phong-ve-chinh-dang-va-nang-cao-nang-luc-
hieu-qua-cua-viec-ap-dung-che-dinh-nay-trong-thuc-tien.html
4. https://lawkey.vn/phong-ve-chinh-dang/
5. https://luatsux.vn/phong-ve-chinh-dang-luat-hinh-su-2015-quy-dinh-ra-sao/
6. http://luatviet.net.vn/khai-niem-va-dieu-kien-cua-phong-ve-chinh-dang/
n20170524045758754.html
7. https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/thoi-su-phap-luat/tu-
van-phap-luat/41001/the-nao-la-phong-ve-chinh-dang-va-vuot-qua-gioi-han-
phong-ve-chinh-dang
8. https://lsvn.vn/ban-ve-phong-ve-chinh-dang-theo-quy-dinh-cua-blhs-nam-
20151658849010.html

23

You might also like