You are on page 1of 112

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ THÙY DƢƠNG

PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG KH¤NG KHÝ

ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ THÙY DƢƠNG

PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG KH¤NG KHÝ

ë VIÖT NAM HIÖN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc pháp luật


Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - 2017
MỤC LỤC

Trang phụ bìa


Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƢỜNG KHÔNG KHÍ. ................................................................... 5
1.1. Khái niệm về môi trƣờng không khí, ô nhiễm môi trƣờng
không khí và bảo vệ môi trƣờng không khí. ..................................... 5
1.1.1. Khái niệm về môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không khí ...... 5
1.1.2. Nguyên nhân ô nhiễm môi trường không khí...................................... 10
1.2. Quan điểm chung về vị trí và vai trò của pháp luật trong việc
bảo vệ môi trƣờng không khí ở Việt Nam hiện nay. ...................... 12
1.2.1. Khái niệm, vị trí và vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường không khí... 12
1.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc điều chỉnh pháp luật bảo vệ môi
trường không khí ở Việt Nam hiện nay ............................................... 21
1.3. Đánh giá chung về pháp luật bảo vệ môi trƣờng không khí ......... 25
CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM ........ 37
2.1. Khung pháp luật về bảo vệ môi trƣờng không khí ........................ 37
2.1.1. Chế định pháp luật về các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi
trường không khí.................................................................................. 44
2.1.2. Chế định pháp luật về đánh giá môi trường và đánh giá tác động
môi trường. .......................................................................................... 53
2.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về môi trường không khí. ....................... 60
2.1.4. Công tác thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp môi
trường không khí.................................................................................. 69
2.2. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi
trường không khí.................................................................................. 80
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ
môi trường không khí .......................................................................... 80
2.2.2. Trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hành
vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí ............................. 86
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG KHÔNG
KHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ..................................................... 91
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trƣờng
không khí. ........................................................................................... 91
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trƣờng không
khí ở Việt Nam hiện nay.................................................................... 95
3.2.1. Hoàn thiện các quy định tiêu chuẩn, kỹ thuật quốc gia về môi
trường không khí.................................................................................. 95
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động môi trường không khí.......97
3.2.3. Hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường công tác quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường không khí ................................................. 98
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong bảo vệ
môi trường không khí ........................................................................ 100
3.2.5. Hoàn thiện các cơ chế thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
không khí. .......................................................................................... 103
KẾT LUẬN .................................................................................................. 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, khoa học ngày càng tiên
tiến, đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì việc được sống
trong một môi trường không khí trong lành lại trở nên khó khăn hơn. Bởi quá
trình sinh sống và phát triển của con người không tránh khỏi tác động xấu gây
ảnh hưởng tới môi trường, trong đó có môi trường không khí. Không khí
không chỉ có vai trò quan trọng đối với con người và sinh vật trên trái đất mà
nó còn là một thành phần không thể thiếu trong môi trường và hệ sinh thái.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định một trong bốn vấn đề quan
trọng và cấp thiết nhất đối với thế giới là môi trường và hệ sinh thái. Nhưng
có một hiện trạng hiện nay đang diễn ra đó là môi trường của chúng ta đang bị
ô nhiễm và suy thoái trầm trọng, đó không chỉ là vấn đề riêng lẻ của một quốc
gia hay một khu vực mà nó đã trở thành vấn đề toàn cầu. Thực trạng phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới trong thời gian qua đã có
những tác động lớn đến môi trường, đã làm cho môi trường sống của con
người bị thay đổi và ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ô nhiễm môi trường không
khí có tác động xấu đối với sức khoẻ con người (đặc biệt là gây ra các bệnh
đường hô hấp), ảnh hưởng đến các hệ sinh thái và biến đổi khí hậu (hiệu ứng
"nhà kính", mưa axít và suy giảm tầng ôzôn),... Công nghiệp hoá càng mạnh,
đô thị hoá càng phát triển thì nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí
càng nhiều, áp lực làm biến đổi chất lượng không khí theo chiều hướng xấu
càng lớn, yêu cầu bảo vệ môi trường không khí càng quan trọng.
Nước ta trong những năm gần đây mặc dù vấn đề môi trường đã được
quan tâm chú trọng nhưng môi trường không khí là một vấn đề khó quản lý
nhất trong lĩnh vực môi trường. Việt Nam đã sử dụng nhiều công cụ, thực
hiện nhiều biện pháp khác nhau để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường

1
không khí, trong đó pháp luật được đánh giá là công cụ có hiệu quả nhất.
Thông qua pháp luật, Nhà nước đã tác động đến các chủ thể khi họ có hành vi
tác động đến môi trường không khí, qua đó định hướng cho các chủ thể thực
hiện hành vi có lợi hơn cho môi trường không khí, góp phần bảo vệ môi
trường không khí. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua
bên cạnh một số kết quả đạt được vẫn còn đó những hạn chế chưa khắc phục
do việc am hiểu và chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân còn yếu kém.
Bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề thực thi
pháp luật còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ các vấn đề nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về bảo
vệ môi trƣờng không khí ở Việt Nam hiện nay” làm công trình nghiên cứu
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Có thể nói, gần đây chưa có một đề tài nghiên cứu toàn diện, quy mô về
pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay. Năm 2005 có
khóa luận tốt nghiệp của sinh viên hệ cử nhân trường Đại học Quốc Gia Hà
Nội “Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay” của sinh
viên Nguyễn Thị Thu Huyền nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nhận định sơ bộ
các quy định của pháp luật hiện hành, năm 2001 có luận văn thạc sỹ của Vũ
Thị Duyên Thủy với đề tài “Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam hiện nay – Thực trạng và hướng hoàn thiện”, đề tài đã nghiên cứu, đánh
giá toàn diện về pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam nhưng kể
từ khi Luật hiến pháp, Luật bảo vệ môi trường và các luật chuyên ngành khác
có liên quan được sửa đổi, bổ sung bằng những quy định mới cụ thể hơn thì
chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về vấn đề
“Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay”. Do đó việc
nghiên cứu đề tài trên của tôi là không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào trước đây.

2
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là: Các vấn đề lý luận về pháp luật
bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay; văn bản luật thực định của
Việt Nam về bảo vệ môi trường không khí. Thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp
luật về bảo vệ môi trường không khí. Luận văn đã phân tích nội dung các quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay, tìm
hiểu thực trạng áp dụng các quy định này trên thực tiễn từ đó đưa ra một số
giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ
môi trường không khí ở Việt Nam trong thời gian tới.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu về những chế định chủ yếu của pháp luật
bảo vệ môi trường không khí, làm rõ vai trò điều chỉnh pháp luật đối với việc
bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay. Luận văn không đi sâu vào
các vấn đề kinh tế xã hội có liên quan đến môi trường không khí mà chỉ lấy vấn
đề này làm cơ sở để xác định vị trí, vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi
trường không khí ở nước ta. Phạm vi thời gian của những vấn đề được nghiên
cứu trong luận văn được giới hạn trong các năm 2006, năm 2014, năm 2015.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về pháp
luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện mục
đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về pháp luật bảo vệ môi trường
không khí ở Việt Nam
- Phân tích nội dung pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam, từ đó đánh giá những thành tựu, hạn chế của pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí

3
- Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, luận
văn đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về
bảo vệ môi trường không khí.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm phương pháp
lôgic, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và
tổng hợp để nghiên cứu cơ sở lý luận khoa học, hoàn thiện hệ thống lý luận
pháp lý. Các phương pháp được sử dụng một cách linh hoạt để đảm bảo hiệu
quả và tính thuyết phục của việc nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm có ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về pháp luật bảo vệ môi trường không khí.
1.1. Khái niệm về môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không
khí và bảo vệ môi trường không khí.
1.2. Quan điểm chung về vị trí, vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ
môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Những nội dung chủ yếu của pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Khung pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
2.2. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi
trường không khí.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo
vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở
Việt Nam hiện nay.

4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ.

1.1. Khái niệm về môi trƣờng không khí, ô nhiễm môi trƣờng
không khí và bảo vệ môi trƣờng không khí.
1.1.1. Khái niệm về môi trường không khí, ô nhiễm môi trường
không khí
Môi trường là một khái niệm có nội hàm rộng, được định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau. Theo nghĩa rộng thì môi trường là tất cả các nhân tố tự
nhiên và xã hội cần thiết duy trì cho sự sinh sống, sản xuất của con người,
như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan
hệ xã hội...
Theo nghĩa hẹp thì môi trường bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội
trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người mà không xét tới tài
nguyên thiên nhiên.
Nhìn chung có thể hiểu môi trường là một tập hợp các yếu tố tự nhiên
và vật chất nhân tạo có mối quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người,
có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và
thiên nhiên.
Trong lĩnh vực pháp lý môi trường được hiểu như là mối liên hệ giữa
con người và tự nhiên, đó là những yếu tố, hoàn cảnh và tự nhiên bao quanh
con người. Luật bảo vệ môi trường 2014 định nghĩa môi trường như sau: “Môi
trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với
sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”[17, Điều 3, Khoản 1].
Theo quy định này, môi trường được hiểu là một hệ thống các yếu tố tự
nhiên và nhân tạo có liên quan trực tiếp đến con người, sinh vật. Do vậy, khi

5
nói tới môi trường bao giờ chúng ta cũng phải xác định chủ thể của môi
trường và những yếu tố bao quanh nó với ý nghĩa là những yếu tố cấu thành
môi trường. Xét dưới góc độ tự nhiên, con người chỉ có thể tồn tại, phát triển
trong những điều kiện tự nhiên thích hợp, toàn bộ nguồn năng lượng để duy
trì sự tồn tại, phát triển của con người đều được cung cấp bởi môi trường.
Không khí “là hỗn hợp khí gồm có Nitơ chiếm 78.9%, oxy chiếm
20.59%, Acgong chiếm 0.93%, đioxit cacbon chiếm 0.32% và một số hiếm
khí khác như Nêon, Hêli, Mêtan, Kripton. Ở điều kiện bình thường của độ ẩm
tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1.3% thể tích không khí”[23, Trang 235].
Môi trường không khí là môi trường vô cùng quan trọng trong sự sinh
tồn và phát triển của nhân loại. Là loại môi trường rất nhạy cảm, rất dễ biến
đổi và lan truyền, sự lan truyền này không ở trong phạm vi một vài quốc gia,
có thể lan rộng khắp các châu lục. Do đó việc giữ gìn môi trường không khí
không chỉ đem lại một môi trường trong lành và sạch đẹp cho chính quốc gia
đó mà nó còn góp phần quan trọng trong việc giữ gìn môi trường chung của
thế giới.
Nếu trong môi trường không khí có lẫn một số loại khí chất khác có
gây ảnh hưởng đến đời sống của con người, của động vật và thực vật thì môi
trường không khí đó bị coi là ô nhiễm. Khi đó ô nhiễm không khí được hiểu
là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần
không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó
chịu, làm giảm tầm nhìn xa (do bụi)
Theo phương diện pháp lý, căn cứ vào khái niệm về “ô nhiễm môi
trường” được quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 thì ô
nhiễm môi trường được hiểu là sự biến đổi của các thành phần môi trường
không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường
gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.[14, Điều 3, Khoản 8]. Như

6
vậy, có thể thấy khi trong môi trường có sự xuất hiện của một chất lạ hoặc có
sự biến đổi nhất định của các khí chất có trong môi trường không khí thì tùy
theo mức độ biến đổi mà nó không còn phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật và
tiêu chuẩn môi trường đã đề ra thì môi trường không khí lúc này đang ở mức
báo động.
Thực tế cho thấy khi môi trường không khí bị ô nhiễm nó không những
tác động xấu tới sức khỏe của con người, thiệt hại về kinh tế mà còn ảnh
hưởng đến biến đổi khí hậu. Nhiều chương trình nghiên cứu cũng đã cho thấy
biến đổi khí hậu không chỉ thuần túy do tác động của tự nhiên mà còn do tác
động của con người thông qua việc sử dụng các loại nhiên liệu hóa thạch
trong sản xuất công nghiệp, giao thông, vận tải, nông nghiệp, kéo theo lượng
phát thải khí nhà kính CO2 không ngừng gia tăng nhanh, góp phần gây nên
biến đổi khí hậu. Bởi vậy, ô nhiễm môi trường không khí thường gây ra
những hậu quả cụ thể như sau:
 Ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.
Ô nhiễm không khí có những ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, đặc biệt
đối với đường hô hấp. Khi môi trường không khí bị ô nhiễm, sức khỏe con
người bị suy giảm, quá trình lão hóa trong cơ thể diễn ra nhanh; các chức
năng của cơ quan hô hấp suy giảm, gây ra các bệnh hen suyễn, viêm phế
quản, tim mạch…và làm giảm tuổi thọ của con người. Các nhóm cộng đồng
nhạy cảm nhất với ô nhiễm không khí là người cao tuổi, phụ nữ mang thai, trẻ
em dưới 14 tuổi, người đang mang bệnh, người lao động thường xuyên phải
làm việc ngoài trời…Mức độ ảnh hưởng của từng người tùy thuộc vào tình
trạng sức khỏe, nồng độ, loại chất và thời gian tiếp xúc với môi trường ô
nhiễm. Không chỉ ở Việt Nam mà một số nước trên thế giới tình trạng ô
nhiễm môi trường cũng đang diễn ra ở mức đáng báo động. Ví dụ như mức độ
ô nhiễm không khí ở Trung Quốc tăng cao k lục. Vào tháng 11 2015, Tổ

7
chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết, mức độ khói bụi tại Trung Quốc đã cao
hơn gấp 50 lần so với mức khuyến cáo an toàn của tổ chức. Một con số chắc
chắn s khiến nhiều người còn giật mình hơn về mức độ ô nhiễm tại Trung
Quốc, đó là 4.000 người chết mỗi ngày do ô nhiễm tại Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng đã tiến hành đóng cửa nhiều nhà máy, trường học, hạn
chế các công trình xây dựng và nhiều hoạt động vui chơi giải trí khác từ ngày
8-10 12 2015. Mặc dù, Bắc Kinh đã phải trải qua khá nhiều các đợt ô nhiễm
khủng khiếp nhưng đây là lần đầu tiên thủ đô Trung Quốc ban hành một lệnh
cấm ở mức độ cao đến như vậy. [31]
Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể về tác hại do ô nhiễm môi
trường không khí, môi trường đến sức khỏe con người, tuy nhiên các bệnh lý
liên quan đến ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng, nhất là ở trẻ em hiện nay
đang là thực trạng rất đáng lo ngại.
 Ảnh hưởng đối với động thực vật
Ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng nặng nề cho tất cả sinh vật bởi thực
vật rất nhạy cảm đối với ô nhiễm không khí. Các chất SO2, NO2, ozon, fluor,
chì… gây hại trực tiếp cho thực vật khi đi vào khí khổng, làm hư hại hệ thống
giảm thoát nước và giảm khả năng kháng bệnh. Bên cạnh đó, ô nhiễm không
khí ngăn cản sự quang hợp và tăng trưởng của thực vật; giảm sự hấp thu thức
ăn, làm lá vàng và rụng sớm.
Đa số cây ăn quả rất nhạy đối với HF - hợp chất fluorua (đây là hợp
chất được sinh ra do quá trình sản xuất hóa chất). Khi tiếp xúc với nồng độ
HF lớn hơn 0,002 mg m3 thì lá cây bị cháy đốm, rụng lá. Mưa acid còn tác
động gián tiếp lên thực vật và làm cây thiếu thức ăn như Ca và giết chết các vi
sinh vật đất. Nó làm ion Al được giải phóng vào nước làm hại rễ cây (lông
hút) và làm giảm hấp thu thức ăn và nước.

8
Ðối với động vật, nhất là vật nuôi, thì fluor gây nhiều tai họa hơn cả.
Chúng bị nhiễm độc do hít trực tiếp và qua chuỗi thức ăn.
 Gây thiệt hại kinh tế.
Thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng đến sức khỏe, bao gồm các khoản chi
phí: Khám, chữa bệnh, thiệt hại cho sản xuất và nền kinh tế. Dự án “Điều tra,
thống kê, đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe cộng
đồng” do Cục bảo vệ môi trường (2007) tiến hành tại hai tỉnh Phú Thọ và
Nam Định cho kết quả ước tính thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí tác
động đến sức khỏe trên đầu người mỗi năm trung bình là 295.000 đồng.[32]
Giả thiết, tổn thất về kinh tế do ô nhiễm không khí tác động đến sức
khỏe đối với người dân Hà Nội và TP Hồ Chí Minh tương tự như người dân ở
Phú Thọ và Nam Định thì Hà Nội với 6,5 triệu dân, mỗi ngày thiệt hại 5,3 t
đồng và TP Hồ Chí Minh với 7 triệu dân, mỗi ngày thiệt hại 5,7 t đồng.
Thực tế, môi trường không khí ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Đà Nẵng bị ô nhiễm cao hơn so với các tỉnh khác nên thiệt hại về
kinh tế do ô nhiễm không khí thực tế còn cao hơn con số nêu trên.
 Ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu
Ô nhiễm không khí cũng đang ảnh hưởng tới điều kiện sinh sống của
con người, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái. Ảnh hưởng tổng hợp nhất là
đối với sự biến đổi khí hậu. Vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra và
trái đất đang nóng lên là do các hoạt động của con người chứ không phải
thuần túy do biến đổi khí hậu tự nhiên. Do các hoạt động của con người, đặc
biệt là việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, gas) trong công nghiệp,
giao thông vận tải, nông nghiệp… lượng phát thải các loại khí nhà kính, đặc
biệt là C02 không ngừng tăng nhanh và tích lũy trong thời gian dài, gây ra
hiện tượng hiệu ứng nhà kính, làm biến đổi khí hậu toàn cầu. Kéo theo nó là ô

9
nhiễm không khí ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn, khiến cho số người
chết tăng dần theo mỗi năm.
Từ việc hiểu được tác hại do ô nhiễm môi trường gây ra, chúng ta cần
phải có những biện pháp và cách thức nhất định để bảo vệ môi trường. Theo
quy định tại Khoản 3 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 thì hoạt động bảo
vệ môi trường được hiểu là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác
động xấu đến môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy
thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.
Như vậy bảo vệ môi trường không khí không chỉ là vấn đề riêng của
mỗi cá nhân nào đó mà nó trở thành vấn đề chung của toàn quốc gia, mỗi cá
nhân cần tự ý thức được việc giữ gìn, cải thiện môi trường sống hàng ngày để
từ đó góp phần chung tay bảo vệ môi trường chung của toàn nhân loại.
1.1.2. Nguyên nhân ô nhiễm môi trường không khí.
Hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường không khí đang được dư luận đặc
biệt quan tâm, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến không khí bị ô nhiễm, nhưng
các hoạt động công nghiệp và giao thông vận tải đang là nguyên nhân gây ô
nhiễm hàng đầu ở nước ta, ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng theo sự phát
triển công nghiệp. Sự gia tăng sản xuất công nghiệp và sự lưu thông xe có
động cơ đã thải vào không khí một số lượng ngày càng lớn khói, độc và các
chất ô nhiễm khác. Ngoài ra còn do khá nhiều yếu tố tiêu biểu khác mà chính
nền văn minh hiện đại ngày nay mang lại, chẳng hạn: gia tăng sản xuất năng
lượng, luyện kim, sản xuất, sử dụng hóa chất trong nông nghiệp, các cơ sở
hóa dầu, đốt rác. Ô nhiễm môi trường do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Trước hết là do các nguồn tự nhiên:
- Ô nhiễm do hoạt động của núi lửa: hoạt động của núi lửa phun ra một
lượng khổng lồ các chất ô nhiễm như tro bụi, khí, có tác hại nặng nề và lâu
dài tới môi trường.

10
- Ô nhiễm do cháy rừng: cháy rừng do các nguyên nhân tự nhiên cũng
như các hoạt động thiếu ý thức của con người, cháy rừng ảnh hưởng rất nặng nề
tới môi trường không khí, sản sinh ra chất ô nhiễm, độc hại như khói, bụi, khí
- Ô nhiễm do bão cát: hiện tượng bão cát thường xảy ra ở những vùng
đất trơ và khô không có lớp phủ thực vật ngoài việc gây ra ô nhiễm bụi, nó
còn làm giảm tầm nhìn do bụi.
- Ô nhiễm do đại dương: Do quá trình bốc hơi nước biển kéo theo một
lượng muối bị gió đưa vào đất liền. Không khí có nồng độ muối cao s có tác
hại tới vật liệu kim loại, làm cho kim loại mất đi tính bền, nhanh bị hoen gỉ.
- Ô nhiễm do phân hủy các chất hữu cơ trong tự nhiên: Do quá trình lên
men các chất hữu cơ khu vực bãi rác, đầm lầy s tạo ra các khí độc hại, các
hợp chất gây mùi hôi khó chịu và thậm chí có cả các vi sinh vật.
Thứ hai do các nguồn nhân tạo:
- Ô nhiễm do sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: ví dụ các
nhà máy sản xuất hóa chất, sản xuất giấy, luyện kim loại, nhà máy nhiệt điện
(sử dụng các nhiên liệu than, dầu …).
- Hoạt động nông nghiệp: sử dụng phân bón, phun thuốc trừ sâu diệt cỏ.
- Dịch vụ thương mại: chợ buôn bán.
- Sinh hoạt: nấu nướng phục vụ sinh hoạt hàng ngày của con người (gia
đình, công sở…).
- Vui chơi, giải trí: khu du lịch, sân bóng … Các nguồn trên có thể coi
là các nguồn cố định.
Tùy vào các nguồn gây ô nhiễm mà trong quá trình hoạt động thải vào
môi trường các tác nhân ô nhiễm không khí khác nhau về thành phần cũng
như khối lượng.

11
1.2. Quan điểm chung về vị trí và vai trò của pháp luật trong việc
bảo vệ môi trƣờng không khí ở Việt Nam hiện nay.
1.2.1. Khái niệm, vị trí và vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường
không khí.
Luật bảo vệ môi trường là công cụ pháp lý quan trọng nhằm giữ gìn,
bảo vệ môi trường phục vụ cho phát triển bền vững, bảo đảm quyền được
sống trong môi trường trong lành của toàn thể nhân dân theo tinh thần Hiến
pháp năm 2013. Đây là một lĩnh vực pháp luật tương đối mới không chỉ đối
với hệ thống pháp luật Việt Nam mà còn cả đối với hệ thống pháp luật của
nhiều nước đang phát triển khác.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển nhanh chóng của tình hình kinh tế,
xã hội cũng như các vấn đề môi trường nảy sinh thời gian qua như tác động
của biến đổi khí hậu, an ninh môi trường, an ninh sinh thái đòi hỏi pháp luật
về bảo vệ môi trường phải được cập nhật, bổ sung với các giải pháp đồng bộ,
đủ mạnh, có tính đột phá cho nên mặc dù ra đời muộn hơn so với các ngành
luật khác nhưng lại có sự phát triển rất nhanh do nhu cầu bảo vệ môi trường
được đặt ra cấp bách. Đến nay, không chỉ Việt Nam mà hầu hết các nước đều
đã và đang xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi
trường theo hướng ngày càng hoàn chỉnh và đầy đủ, trong đó có các quy định
về bảo vệ môi trường không khí.
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình. Do đó, pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực
để hướng dẫn cách cư xử cho mọi người trong xã hội, giúp cho mọi chủ thể
trong xã hội đều có thể tìm được cách cư xử phù hợp với ý chí, mong muốn
của nhà nước và giúp nhà nước quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật tự xã

12
hội. Các lĩnh vực đời sống xã hội mà pháp luật điều chỉnh bao trùm rộng
khắp, trong đó có môi trường.
Cùng với khái niệm môi trường và không khí đã nêu ở trên ta có thể
suy ra định nghĩa pháp luật về bảo vệ môi trường không khí như sau:
“Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí là tổng hợp các quy
phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát
sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể sử dụng hoặc tác động
đến môi trường không khí hoặc các quan hệ giữa các chủ thể và môi
trường không khí trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác
nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường không khí vì lợi
ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau” [9, trang 15]
Pháp luật đã quy định một hệ thống các quy tắc để bảo vệ môi trường
bằng việc thể chế hóa các chính sách, kế hoạch của Đảng, nhà nước trong công
tác bảo vệ môi trường và quy định các biện pháp, nhân lực,... để đảm bảo thực
hiện các chính sách, kế hoạch đó. Chính vì thế, pháp luật về bảo vệ môi trường
đã trở thành một công cụ hữu hiệu để quản lý và bảo vệ môi trường.
Các quan hệ xã hội mà các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường
không khí điều chỉnh, bao gồm:
- Quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động tới
môi trường không khí.
- Quan hệ về các hoạt động quản lý nhà nước về môi trường không khí.
- Quan hệ về các biện pháp khắc phục suy thoái, ô nhiễm, phòng chống
sự cố môi trường không khí.
- Quan hệ về giải quyết tranh chấp môi trường không khí.
- Quan hệ về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí.
Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở nước ta có một số đặc
điểm sau đây:

13
- Có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rộng, đa dạng, phức tạp bao gồm
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng, tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên; các quan hệ xã hội liên quan đến việc phòng, chống, khắc
phục suy thoái môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không khí, sự cố môi
trường; các quan hệ xã hội liên quan đến quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
không khí; quan hệ về hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường không khí.
- Chứa đựng các loại quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác
nhau, như Luật hiến pháp, hành chính, hình sự, dân sự….
- Có hình thức thể hiện phong phú, gồm các văn bản luật và văn bản
dưới luật do nhiều loại cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe con người, tới môi
trường và hệ sinh thái của mỗi quốc gia. Do đó mục tiêu cần đặt ra đối với
mỗi nước không chỉ là phát triển kinh tế hài hòa mà còn phải gìn giữ xã hội từ
sự cân bằng tốt nhất của môi trường thiên nhiên, trong đó có yêu cầu đảm bảo
môi trường không khí được trong lành. Vì vậy bảo vệ môi trường không khí
là thật sự cần thiết và cấp bách. Một trong những hình thức bảo vệ môi trường
không khí là thông qua pháp luật. Đó là một hình thức có vị trí đặc biệt quan
trọng trong hệ thống pháp luật cũng như môi trường và hệ sinh thái.
Trước hết có thể thấy do nhu cầu của cộng đồng được sống trong môi
trường trong lành: không khí là nguồn cung cấp oxi cần thiết cho hoạt động
bình thường của các sinh vật trên trái đất (con người), vì vậy việc bảo vệ
không khí trong lành là mối quan tâm của con người vì chất lượng cuộc sống.
Do đó cần thiết phải có biện pháp, cách thức nhất định để bảo vệ môi trường,
trong đó pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ môi trường.
Thứ hai, do sự tác động tới môi trường không khí của các hoạt động
phát triển của con người, đặc biệt từ sau bùng nổ của cách mạng công nghệ và
khoa học kỹ thuật; sự phát triển kinh tế đã kéo theo nhiều tác động to lớn đến

14
môi trường không khí: khí thải công nghiệp, khí thải giao thông vận tải, khí
thải từ rác thải sinh hoạt.
Thứ ba, do tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình bảo vệ môi trường không khí vì hoạt động bảo vệ môi trường không khí
không phải là trách nhiệm của riêng Nhà nước mà nó là trách nhiệm của cả
cộng đồng nên cần phải có pháp luật để bảo đảm cho các quan hệ xã hội phát
sinh trong hoạt động đó được ổn định và phù hợp với yêu cầu của bảo vệ môi
trường không khí.
Thứ tư, bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí
nói riêng được thực hiện bởi sự kết hợp giữa nhiều biện pháp khác nhau như:
biện pháp chính trị, biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học-công nghệ, biện
pháp giáo dục và biện pháp pháp lý. Nhưng các biện pháp đó chỉ được thực
hiện dựa trên quy định của pháp luật; nói cách khác, pháp luật là cơ sở để thực
thi các biện pháp đó một cách có hiệu quả trên thực tế bởi pháp luật được sử
dụng để tác động trực tiếp tới hành vi của người gây ô nhiễm môi trường nhằm
hạn chế những tác động xấu mà họ có thể gây ra cho môi trường cũng như
khuyến khích họ thực hiện các hành vi có lợi hơn cho môi trường không khí.
Như vậy, bảo vệ môi trường không khí là tất yếu, phù hợp với các yêu
cầu khách quan của đời sống xã hội. Bảo vệ môi trường không khí có thể
được thực hiện dựa trên sự kết hợp của nhiều biện pháp khác nhau, song
không thể thiếu công cụ pháp luật. Đây là công cụ bảo đảm tính thống nhất, là
cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động khác để bảo vệ môi trường không khí.
* Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam hiện nay
Thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội đòi hỏi phải có các chuẩn mực
trong mọi hành vi ứng xử, giao tiếp cho mọi thành viên trong xã hội tuân
theo. Những văn bản quy định những nguyên tắc như vậy người ta gọi là văn

15
bản quy phạm pháp luật, được nhà nước đảm bảo thực hiện. Các văn bản quy
phạm pháp luật về môi trường cũng chính là những quy tắc xử sự chung nằm
trong khuôn khổ pháp luật.
Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật bảo vệ Việt Nam, pháp luật
bảo vệ môi trường cũng có các vai trò của pháp luật nói chung và cũng có
những vai trò riêng của nó. Đó là pháp luật trong quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực bảo vệ môi trường, là cơ sở pháp lý cho việc quy định cơ cấu tổ chức
của các cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường, là cơ
sở pháp lý cho hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường, và là cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ môi trường.
Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường không khí được thể hiện
như sau:
- Pháp luật quy định các quy tắc xử sự cho con người khi tác động đến
môi trường không khí. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính chất
bắt buộc chung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống các quy phạm này tạo khuôn khổ cho hoạt
động xã hội, chứa đựng các quy tắc cấm đoán hoặc bắt buộc chung và tác
động, điều chỉnh tới các quan hệ xã hội khi ở vào những hoàn cảnh nhất định
chứ không phải chỉ áp dụng đối với một nhóm, một đối tượng nào đó.
Trong bảo vệ môi trường không khí, pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, chính con người trong quá trình khai thác các yếu tố trong môi trường
đã làm mất cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm. Pháp luật với tư cách là hệ thống
các quy phạm quy định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, xác định rõ
nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ môi trường không khí của các tổ chức, cá
nhân. Theo đó các chủ thể này bắt buộc phải thực hiện hoặc không được thực
hiện những gì mà pháp luật quy định. Chính tính quy tắc và bắt buộc chung
này đã tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm cho các chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ

16
môi trường không khí được thống nhất và đặc biệt là họ biết được mình làm
gì, cần phải làm gì và không được phép thực hiện những hành vi nào để bảo
vệ môi trường không khí một cách hiệu quả nhất.
Pháp luật đã định hướng các hành vi con người theo hướng có lợi cho
môi trường, đảm bảo các hành vi của con người không xâm hại tới môi
trường, hạn chế những tác hại, ngăn chặn suy thoái và ô nhiễm môi trường.
Có thể nói, pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết các hành vi của các
thành viên trong xã hội có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá trình sử
dụng hoặc tác động vào môi trường không khí. Con người buộc phải sử dụng
môi trường không khí tuân thủ theo đúng những tiêu chuẩn nhất định do pháp
luật quy định thì s hạn chế những tác hại, ngăn chặn được suy thoái môi
trường không khí.
- Pháp luật quy định các chế tài ràng buộc con người thực hiện những
quy định của pháp luật để bảo vệ môi trường không khí
Trong thực tế các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh tế xã hội thường
chỉ chú ý tới lợi ích của mình mà bỏ qua lợi ích chung của môi trường, cộng
đồng, bỏ qua nghĩa vụ phải thực hiện với môi trường và không tự giác thực
hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường. Chẳng hạn, khi thực hiện nghĩa vụ đánh
giá tác động môi trường, các chủ dự án thường không thấy trước lợi ích của
mình do đó luôn tìm cách lẩn tránh nghĩa vụ pháp lý với môi trường. Khi đó,
chế tài mà pháp luật quy định đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi
ích của chính tổ chức, cá nhân và lợi ích chung lâu dài của xã hội. Các chế tài
đó không chỉ là biện pháp trừng phạt vi phạm pháp luật môi trường, ngăn
ngừa, giáo dục cải tạo chủ thể vi phạm mà còn răn đe chủ thể khác để họ tự
giác tuân theo các quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, qua đó ngăn
ngừa và hạn chế tác động xấu do con người gây ra cho môi trường.

17
Như vậy trách nhiệm bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường
không khí nói riêng không phải của riêng ai mà nó là trách nhiệm chung của cả
cộng đồng, nhưng có một số chủ thể trong khi tiến hành hoạt động phát triển vì
quyền lợi của họ không thống nhất với lợi ích chung của cả cộng đồng, họ
thường chỉ hướng tới đảm bảo lợi ích của cá nhân mà bỏ qua lợi ích chung của
toàn xã hội nên pháp luật đã có những quy tắc xử sự nhất định để điều chỉnh
hành vi này sao cho phù hợp với lợi ích chung của cả cộng đồng. Các chế tài đó
chính là nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể khác, bảo vệ lợi ích
chung của toàn cộng đồng, bảo vệ lợi ích lâu dài của môi trường, góp phần
phục hồi một môi trường không khí trong lành vốn có của nó.
Thông qua việc quy định các chế tài này, pháp luật phần nào củng cố
được vị thế, vai trò của mình trong trong sự nghiệp bảo vệ môi trường không
khí. Vấn đề ô nhiễm môi trường không khí hoặc việc gây ra các tác nhân xấu
làm ảnh hưởng đến môi trường không khí s phần nào được giảm thiểu. Hơn
nữa pháp luật quy định các chế tài không chỉ là biện pháp trừng phạt thích
đáng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí mà
thông qua đó còn nhằm ngăn ngừa sự tiếp tục vi phạm pháp luật môi trường
của họ và cải tạo giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật môi trường của chính các
chủ thể đó. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa trong việc răn đe các chủ thể khác,
giúp họ ý thức được sự tôn trọng các quy tắc xử sự do pháp luật môi trường
quy định khi họ có hành vi tác động vào môi trường không khí, qua đó nhằm
ngăn ngừa và hạn chế những tác động xấu đối với môi trường nói chung và
môi trường không khí nói riêng. Vì vậy ý thức tôn trọng pháp luật bảo vệ môi
trường của con người s ngày càng được nâng cao.
- Pháp luật là cơ sở pháp lí cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các
cơ quan quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí.

18
Pháp luật đã có vai trò to lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt động cho các
tổ chức, cơ quan bảo vệ môi trường. Cụ thể là nhờ có pháp luật, nhà nước xây
dựng và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Việc
ban hành các văn bản pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan này thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, đảm bảo hoàn thành tốt
công tác quản lý Nhà nước đối với môi trường. Pháp luật cũng phân chia
nhiệm vụ giữa các cơ quan, tránh việc quản lý chồng chéo, đồng thời tạo ra sự
phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, nâng cao hiệu quả của quản
lý Nhà nước về môi trường.
- Vai trò pháp luật thể hiện ở việc ban hành tiêu chuẩn môi trường
Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất
lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng các chất gây ô nhiễm trong chất
thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và
bảo vệ môi trường.
Thông qua pháp luật mà các tiêu chuẩn môi trường s được các tổ chức,
cá nhân tuân thủ nghiêm ngặt khi khai thác, sử dụng các yếu tố của môi
trường. Đồng thời các tiêu chuẩn môi trường cũng là cơ sở pháp lý cho việc
xác định các hành vi vi phạm luật môi trường và truy cứu trách nhiệm với
những hành vi đó.
- Pháp luật quy định khen thưởng, ủng hộ những hành vi bảo vệ môi
trường
Tại khoản 2, điều 63, Hiến Pháp 2013 quy định : " Nhà nước khuyến
khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới,
năng lượng tái tạo". Qua đó, pháp luật quy định tổ chức, cá nhân có thành
tích trong hoạt động bảo vệ môi trường, phát hiện sớm và báo cáo kịp thời các
dấu hiệu sự cố môi trường, khắc phục sự cố môi trường, suy thoái môi trường,
ngăn chặn các hành vi hu hoại môi trường thì được khen thưởng.

19
- Pháp luật tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ hợp tác quốc tế về
bảo vệ môi trường không khí
Hợp tác quốc tế về môi trường là một trong những nội dung quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường được đề cập trong Luật bảo vệ môi trường, và
là giải pháp quan trọng trong các chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia về
môi trường. Trong những năm qua, hợp tác quốc tế về môi trường đã hình
thành và phát triển mạnh m , đóng góp tích cực cho thành công chung của các
hoạt động bảo vệ môi trường ở nước ta do đó vấn đề bảo vệ môi trường ngày
nay không còn là vấn đề của riêng mỗi quốc gia mà nó đã trở thành vấn đề có
tính quốc tế bởi chính tính toàn cầu của ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường ở quốc gia này s ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường của các quốc gia lân cận, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí.
Khi không khí bị ô nhiễm ở một quốc gia nhất định các chất ô nhiễm s bị giữ
lại, người ta không thể gom riêng vùng không khí đã bị ô nhiễm để xử lý mà
nó s có ảnh hưởng đến các quốc gia khác bởi sự vận chuyển tầm xa của các
khí bị ô nhiễm. Vì thế trong bảo vệ môi trường không khí sự hợp tác giữa các
quốc gia càng trở nên hết sức cần thiết. Hợp tác quốc tế ở đây không thể đơn
thuần là sự hợp tác giữa các cá nhân hoặc giữa các tổ chức của các quốc gia
khác nhau với nhau mà chính là quan hệ hợp tác giữa các quốc gia. Thông
qua sự hợp tác, Việt Nam có được nhiều lợi thế để bảo vệ, phát triển môi
trường không khí, như; được hỗ trợ về vốn, về công nghệ, về kinh nghiệm
quản lý và về thị trường. Tăng cường hợp tác quốc tế sâu rộng là một trong
những phương thức nâng cao vị trí và hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế,
để hình ảnh Việt Nam luôn hướng đến sự phát triển bền vững, tăng trưởng
xanh và là thành phố sinh thái để lại dấu ấn đậm nét trong lòng bạn bè quốc
tế.

20
Ví dụ: Nhằm giúp Việt Nam cải thiện môi trường, hình thành công
nghiệp môi trường và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Tổ chức xúc tiến
thương mại Nhật Bản đã phối hợp với Hội môi trường đô thị Việt Nam thực
hiện chương trình hợp tác, đề cử chuyên gia kỹ thuật sang hướng dẫn, đào tạo
cho các công ty thành viên của hội, thu gom, quản lý và xử lý chất thải.
Qua những phân tích trên ta thấy biện pháp pháp luật có vai trò vô cùng
quan trọng đối với hoạt động bảo vệ môi trường. Nó đã tạo hành lang pháp lí
để các chủ thể trong xã hội thực hiện đầy đủ, triệt để các quy phạm pháp luật,
đồng thời thể hiện được sự quan tâm của nhà nước tới vấn đề môi trường
ngày càng được nâng cao
1.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc điều chỉnh pháp luật bảo vệ
môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay
1.2.2.1. Tính hệ thống và đồng bộ của pháp luật
Để đáp ứng được các đòi hỏi của xã hội, hệ thống pháp luật bảo vệ môi
trường không khí ở Việt Nam phải bảo đảm tính khoa học. Về mặt nội dung,
trước tiên, tính hệ thống và đồng bộ của pháp luật về bảo vệ môi trường
không khí đòi hỏi pháp luật đó phải bảo đảm sự nhất quán. Điều này thể hiện
ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực bảo vệ môi trường
không khí đều phải thống nhất trong việc xác lập hành vi nhất định, những
quan hệ xã hội cơ bản phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí
phải được quy định đầy đủ và toàn diện. Tránh tình trạng tồn tại những điểm
chưa thống nhất trong cùng hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không
khí. Ví dụ: Điểm c khoản 7 Điều 17 mâu thuẫn với Điều 14 về đối tượng đánh
giá môi trường chiến lược:
Điểm c, khoản 7, Điều 17 quy định các đánh giá môi trường chiến lược
đối với dự án thuộc thẩm quyền của UBND và HĐND tỉnh có quyền tổ chức
Hội đồng thẩm định.

21
Điều 14 chỉ đề cập tới các đối tượng đánh giá môi trường chiến lược
thuộc thẩm quyền thẩm định của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ,
ngành liên quan mà không đề cập đến đối tượng ở điểm c, khoản 7, Điều 17.
Về phương diện hình thức, tính hệ thống và đồng bộ của hệ thống pháp
luật bảo vệ môi trường không khí còn được thể hiện qua cấu trúc, cách sắp
xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp luật. Cũng là các quy
phạm cùng điều chỉnh về một quan hệ pháp luật bảo vệ môi trường, nhưng
tính hệ thống đòi hỏi những quy phạm pháp luật về môi trường được quy định
trong Hiến pháp phải có giá trị pháp lý cao nhất, sau với đến những quy phạm
pháp luật được chứa đựng trong các bộ luật và luật, thứ nữa mới đến các quy
phạm pháp luật chứa đựng trong các VBQPPL khác. Như vậy, dưới góc độ
này, tính hệ thống của pháp luật bảo vệ môi trường không khí phải bảo đảm
trên hai mức độ: một là sự thống nhất trong chính luật bảo vệ môi trường
không khí, hai là tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
1.2.2.2. Tính minh bạch và khả thi của pháp luật bảo vệ môi trường
không khí ở Việt Nam.
Ngoài tính hệ thống và đồng bộ đã nêu trên thì hệ thống pháp luật về
bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam cần phải đảm bảo tính minh bạch và
khả thi. Tức là nội dung của văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí phải rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu để tất cả mọi người đều nắm
bắt được các quyền và nghĩa vụ của mình để tuân thủ nghiêm túc và thực hiện
đúng theo các quy định của pháp luật. Do đó hệ thống pháp luật về bảo vệ
môi trường không khí cần phải thiết lập thêm cơ chế công khai hóa, dân chủ
hóa trong hoạt động bảo vệ môi trường bởi hoạt động bảo vệ môi trường s
khó đạt được hiệu quả nếu thiếu sự tham gia rộng rãi, tích cực của người dân.
Bên cạnh đó cần tích cực xây dựng hệ thống pháp luật có tầm hiệu lực
pháp lý cao hơn để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo

22
vệ môi trường không khí. Để làm được điều này, pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí cần phải tuân theo những yêu cầu sau:
Thứ nhất các nội dung được quy định trong hệ thống văn bản pháp luật
về bảo vệ môi trường không khí phải phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội
hiện tại. Nếu văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí phản ánh
chính xác, kịp thời những vấn đề thực tiễn của môi trường không khí đang
diễn ra hàng ngày thì nó s tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển nền kinh tế- xã
hội, đồng thời các nội dung của văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường
không khí cũng mang tính khả thi cao hơn.
Thứ hai, các nội dung đó phải phù hợp với đường lối chính sách của
Đảng, lợi ích chung của xã hội. Với tư cách là phương tiện cơ bản của Nhà
nước trong quản lý, các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
phải có nội dung phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình thể chế hóa thành pháp luật hoặc trong việc tổ chức thực
hiện trên thực tế các đường lối, chính sách đó, có như vậy mới bảo đảm thực
hiện có hiệu quả và mới bảo vệ hữu hiệu lợi ích cơ bản của các tầng lớp xã
hội. Bởi vậy, khi văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí đảm bảo
được lợi ích chung của đa số tầng lớp trong xã hội thì hệ thống pháp luật về
bảo vệ môi trường s được tự giác thực hiện và nhờ đó có khả năng tác động
cao hơn.
1.2.2.3. Tính phù hợp với Luật pháp quốc tế.
Các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí không chỉ
phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, với hệ thống pháp
luật quốc gia mà còn phải phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về
bảo vệ môi trường. Trong xu hướng hội nhập và hợp tác hiện nay, vấn đề này
luôn đòi hỏi phải được chú trọng và trong những giới hạn có thể hệ thống
pháp luật quốc gia cần phải phù hợp với các công ước, điều ước và thông lệ

23
quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Hệ thống pháp luật về bảo vệ
môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay phải được xây dựng phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế đã tham gia, tiếp
thu và sử dụng có hiệu quả lý luận, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các
nước khác trên thế giới.
So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là nước tham
gia nhiều các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Việc tham gia các công
ước này mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích thiết thực không chỉ về môi
trường mà còn cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Đồng thời thể hiện
mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề về
môi trường toàn cầu. Mặt khác, Việt Nam s có cơ hội nhận được sự hỗ trợ
quốc tế về kỹ thuật, tài chính góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường không
khí, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc
tế là cơ hội tốt để gia tăng các sức ép môi trường đối với các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh dịch vụ. Buộc các doanh nghiệp phải cải thiện chất lượng
môi trường trong sản xuất kinh doanh của mình để đáp ứng với các yêu cầu
của nền kinh tế hội nhập.
1.2.2.4. Tính hợp hiến
Theo Điều 63 Hiến pháp 2013 quy định: “Tổ chức, cá nhân gây ô
nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng
sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt
hại” [15, Điều 63]. Như vậy theo quy định của hiến pháp thì các tổ chức cá
nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường cần phải xử lý nghiêm minh và có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do đó các văn bản pháp luật về lĩnh vực môi
trường không khí cần có những quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể đối
với từng trường hợp trong từng hoàn cảnh nhất định có hành vi gây ô nhiễm,
hủy hoại môi trường không khí để phù hợp với quy định của Hiến pháp. Nội

24
dung các quy phạm pháp luật trong bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ
môi trường không khí nói riêng không được trái hoặc mâu thuẫn với Hiến
pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc, hiệu lực pháp lý của văn bản, tạo
thành một hệ thống thống nhất về tên gọi với thứ bậc cao thấp khác nhau theo
quy định của Hiến pháp. Tính hợp hiến không chỉ được xác định trên cơ sở
những lời văn, những quy định cụ thể mà còn trên cơ sở tinh thần, tư tưởng,
nguyên tắc của Hiến pháp.
Nói chung việc điều chỉnh pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở
Việt Nam hiện nay cần phải đảm bảo các yêu cầu trên trong hoạt động của bộ
máy nhà nước nói chung, trong các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
áp dụng pháp luật nói riêng là một nguyên tắc, yêu cầu khách quan, tất yếu
của mọi Nhà nước. Không những thế, đây còn là căn cứ để đánh giá hiệu quả,
hiệu lực trong hoạt động của bộ máy Nhà nước, có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, góp phần hoàn thiện bộ máy nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.
1.3. Đánh giá chung về pháp luật bảo vệ môi trƣờng không khí
Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay đang được quan tâm và đặt ưu tiên
hàng đầu trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xã hội không chỉ
riêng đối với Việt Nam mà đối với cả các quốc gia trên thế giới. Bởi l , môi
trường là một điều kiện tất yếu bảo đảm cho sự phát triển bền vững của tất cả
các quốc gia. Ngày nay việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo ra
năng suất và sản lượng phải bảo đảm sự cân đối với việc duy trì, bảo vệ và
nuôi dưỡng nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau. Trong xu
thế ấy, Việt Nam cũng đang tiến hành hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi
trường, cùng với việc nỗ lực tham gia các công ước quốc tế, cũng như tích
cực nội luật hoá các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ môi

25
trường hiệu quả hơn. Cụ thể các ưu điểm của hệ thống pháp luật bảo vệ môi
trường như sau:
- Trước hết Luật bảo vệ môi trường năm 2014 ra đời đã kế thừa các nội
dung của Luật bảo vệ môi trường năm 2005, đồng thời khắc phục những hạn
chế, bất cập của Luật bảo vệ môi trường năm 2005; hệ thống pháp luật quy
định về bảo vệ môi trường không khí đã phát triển cả nội dung lẫn hình thức,
điều chỉnh tương đối đầy đủ các yếu tố tạo thành môi trường không khí; luật
hóa chủ trương của Đảng, bổ sung một số nội dung mới về bảo vệ môi trường
nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.
Việt Nam cũng đã xây dựng được hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật tương đối toàn diện về bảo vệ môi trường không khí. Rà soát các quy
định về bảo vệ môi trường không khí chúng ta có thể thấy, những quan hệ xã
hội cơ bản phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí đã được
quy định khá đầy đủ và toàn diện. Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường có thể kể đến đó là các quan hệ xã hội sau:
- Các quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ môi
trường không khí.
- Các quan hệ giữa một bên là các cá nhân, tổ chức với một bên là Nhà
nước phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước về môi trường không khí.
- Các quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau phát sinh do ý chí của
các bên bên cạnh các quy định pháp luật quy định các biện pháp về bảo vệ
môi trường không khí, Việt Nam cũng xây dựng được hệ thống các văn bản
tương đối toàn diện điều chỉnh việc khai thác, sử dụng các loại tài nguyên,
khoáng sản quan trọng. Đây cũng là một điểm thể hiện tính toàn diện của hệ
thống quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí.
- Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường
không khí cũng đã được ban hành, làm cơ sở pháp lý cho việc xác định trách
nhiệm, nghĩa vụ của chủ thể trong việc bảo vệ môi trường không khí. Các quy

26
định pháp luật đã chú trọng tới khía cạnh toàn cầu của vấn đề môi trường; xác
định rõ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải chỉ trách
nhiệm riêng của nhà nước.
- Chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí đã được
tập trung vào một đầu mối thống nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường. Điều
này dẫn đến việc giải quyết và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi
trường không còn rườm rà.
- Thành tựu tiếp theo của pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở
nước ta chính là việc bước đầu thiết lập được cơ chế công khai hóa, dân chủ
hóa trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí. Hoạt động bảo vệ môi
trường không khí s khó đạt được hiệu quả mong muốn nếu như thiếu cơ chế
huy động sự tham gia rộng rãi của người dân vào hoạt động bảo vệ môi
trường. Để đáp ứng yêu cầu dân chủ hóa quá trình bảo vệ môi trường, Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 đã bổ sung nhiều quy định quan trọng góp phần
thể hiện tính công khai, dân chủ trong hoạt động bảo vệ môi trường.
- Việt Nam đã xây dựng được hệ thống chế tài xử lý vi phạm pháp luật
môi trường không khí tương đối đầy đủ. Có 3 loại biện pháp chế tài cơ bản
mà pháp luật thường sử dụng để điều chỉnh hành vi của các tổ chức, cá nhân
trong xã hội đó là chế tài dân, chế tài hành, chế tài hình sự. Cho đến nay, có
thể nói, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí đã có cả 3 loại chế tài này.
- Bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường không khí, Việt Nam đã từng bước tham gia các điều ước
quốc tế về môi trường… Việc gia nhập các công ước này là tiền đề quan trọng
cho việc hội nhập của pháp luật Việt Nam với những tiêu chuẩn và quy phạm
của pháp luật quốc tế.
- Việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 là một bước tiến lớn
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí nước ta

27
đáp ứng các yêu cầu mới của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Có thể nói, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống chính sách bảo vệ môi
trường tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, vấn đề ô nhiễm môi trường chưa
được kiểm soát tốt, phần lớn do việc giám sát thực thi chính sách thiếu hiệu
quả và việc xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe. Các văn bản còn
yếu về khả năng thích ứng với các biến động xảy ra đã đến các tình trạng các
cơ quan quản lý thực sự lúng túng trong nhiều trường hợp vì thiếu các quy
định pháp luật để xử lý. Các cơ quan hoạch định chính sách bị động trong
việc lập kế hoạch ban hành văn bản pháp luật để quản lý tốt môi trường
không khí, có nhiều quy định mâu thuẫn giữa các văn bản. Việc quy định như
vậy dẫn đến tình trạng khó áp dụng và vận dụng trong thực tiễn. Do đó, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, từ thực trạng tổ chức thi hành các văn bản
pháp luật về quản lý nhà nước và việc bảo vệ môi trường cho thấy hệ thống
pháp luật về bảo vệ môi trường không khí vẫn tồn tại một số hạn chế nhất
định. Có thể chỉ ra một số hạn chế của hệ thống pháp luật về môi trường
không khí là:
Thứ nhất, các quy phạm về bảo vệ môi trường không khí trong các văn
bản
quy phạm pháp luật còn khá chung chung, đặc biệt là trong các văn bản
quy phạm pháp luật chuyên ngành khác rất mờ nhạt, khó thực hiện.
Thứ hai, chưa có sự gắn kết chặt ch giữa các quy định về phát triển
kinh tế với các quy định về bảo vệ môi trường không khí. Yếu tố môi trường
chưa thực sự được coi trọng và tính đến nhiều trong quá trình xây dựng và
ban hành luật như các vấn đề về thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế bởi
những đòi hỏi bức xúc về phát triển kinh tế. Hầu hết các văn bản quy phạm
pháp luật về kinh tế còn chưa tính đến chi phí môi trường trong sản xuất kinh

28
doanh. Còn thiếu những công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường không khí
như lệ phí môi trường, thuế môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền…
làm cho công tác bảo vệ môi trường không phát huy được sự kích thích từ góc
độ kinh tế đối với những chủ thể sử dụng các thành phần môi trường cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái.
Thứ ba, thiếu thiết chế thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường không
khí, cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật quốc gia cũng như thực hiện các cam
kết quốc tế, điều ước quốc tế về môi trường không khí chưa cao.
Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không
khí liên quan đến từng thành phần môi trường hay điều chỉnh những hoạt
động của con người lên môi trường không khí được ban hành chưa đồng bộ,
còn chậm cả về mặt thời gian ban hành và nội dung của các quy định.
Thứ tư, các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức nhưng chưa có một cơ chế
pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên,
ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái: Các chế tài chưa thích hợp và chưa đủ
mạnh để trừng trị và răn đe những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá
tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh hầu như còn hình thức. Các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường,
sinh thái vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.
Thứ năm, chưa có đủ các văn bản quy phạm pháp luật để huy động sự
tham gia, đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường
không khí. Với các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay thì việc bảo vệ môi
trường không khí dường như chỉ là việc của các cơ quan quản lý chứ chưa
thực sự trở thành “sự nghiệp của toàn dân” như các văn bản của Đảng.
Thực tế quá trình áp dụng Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng cho
thấy, do thiếu quy phạm xử lý mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi trường và

29
các đạo luật có liên quan mà trong trường hợp có sự chồng lấn, mâu thuẫn
giữa các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường (hoặc các văn bản hướng dẫn
luật này) với các quy định trong các đạo luật khác (hoặc các văn bản hướng
dẫn các đạo luật này) thì việc chọn quy phạm nào để áp dụng cho hợp lý có
khá nhiều vướng mắc.
* Những tồn tại, bất cập trong một số nhóm quy phạm cụ thể
- Quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường
không khí: Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí là một bộ
phận quan trọng trong hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, đó
là những quy định, chuẩn mực, giới hạn mà các nhà quản lý căn cứ vào đó để
quản lý môi trường không khí, nó là công cụ chủ yếu trong quản lý môi
trường không khí. Hiện nay, phần lớn các tiêu chuẩn môi trường không khí đã
được chuyển đổi thành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường không khí.
Tuy nhiên, một số quy chuẩn đã tỏ ra không phù hợp với thực tế và trình độ
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Mặt khác, chưa có sự phân biệt trong
việc áp dụng quy chuẩn môi trường không khí giữa các dự án đầu tư với các
cơ sở đang hoạt động; mặc dù được ban hành tương đối nhiều, nhưng các tiêu
chuẩn, quy chuẩn môi trường không khí không được phổ biến, công khai rộng
rãi đến người dân; một số hoạt động cần phải tuân thủ quy chuẩn môi trường
nhưng lại không được quy định hoặc những hoạt động cần thiết phải căn cứ
vào quy chuẩn môi trường nhưng lại cũng không có quy định như hoạt động
lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường không khí.
- Quy định về đánh giá tác động môi trường không khí: Mục đích cơ
bản của đánh giá tác động môi trường không khí là đảm bảo gắn sự phát triển
kinh tế, xã hội với việc bảo vệ môi trường không khí, hay nói cách khác là
bảo đảm tính bền vững của các dự án đầu tư. Đồng thời giúp các nhà quản lý
xem xét nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là công nghệ xử lý chất thải và

30
giám sát môi trường. Có thể nói, đánh giá tác động môi trường không khí là
công cụ pháp lý hữu hiệu của nhà nước nhằm phòng, chống suy thoái, ô
nhiễm và sự cố môi trường không khí. Các quy định về đánh giá tác động môi
trường không khí đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật về bảo
vệ môi trường nói chung. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường không
khí được đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển và tổ chức thực hiện trong
thời gian qua. Tuy nhiên, về vấn đề này còn một số bất cập:
- Pháp luật về đánh giá tác động môi trường không khí vẫn còn nhiều
điểm chưa hoàn thiện là nguyên nhân của việc làm hạn chế vai trò và tác dụng
của đánh giá tác động môi trường không khí đối với các hoạt động bảo vệ môi
trường không khí.
- Còn thiếu các hướng dẫn đánh giá tác động môi trường đối với các
ngành, lĩnh vực đặc thù, dẫn đến việc rất khó khăn cho chủ dự án cũng như cơ
quan có thẩm quyền thẩm định trong việc lập và thẩm định báo cáo đánh giá
tác động môi trường.
- Quy định về phân định thẩm quyền nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường không khí: Luật Bảo vệ môi trường chưa có quy định rõ ràng giữa
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí với quản lý nhà nước về
khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng,
nước, khoáng sản, dầu khí, thu sản… Do đó, nhiều trường hợp còn xảy ra sự
chồng chéo chức năng, thẩm quyền giữa các Bộ Tài nguyên và Môi trường
với các Bộ, ngành quản lý các thành phần môi trường khác có các hoạt động
quản lý liên quan đến môi trường. Sự “chồng chéo ngang” về chức năng,
thẩm quyền có thể nhìn nhận khi các hoạt động khai thác tài nguyên thiên
nhiên do các bộ, ngành quản lý khác quy định. Dù Luật Bảo vệ môi trường
năm 2014 đã cố gắng cụ thể hóa việc phân định trách nhiệm quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường không khí giữa các Bộ, ngành nhưng ngay cả như vậy,

31
thì việc xảy ra chồng lấn cũng là điều khó tránh. Cụ thể Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 không quy định rõ vai trò của Bộ Tài nguyên và Môi trường
trong việc giúp Chính phủ chủ trì, thống nhất các hoạt động quản lý nhà nước;
không quy định trách nhiệm các bộ, ngành cần phối hợp với Bộ Tài nguyên
và Môi trường thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong ngành, lĩnh vực
mình quản lý.
- Quy định về xử lý vi phạm
Các chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
không khí được quy định khá đầy đủ và đồng bộ bao gồm chế tài hành chính,
chế tài dân sự, chế tài hình sự. Các quy định này luôn được xem là căn cứ
pháp lý quan trọng để ngăn ngừa và xử lý các vi phạm pháp luật bảo vệ môi
trường không khí.
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập trong các quy định về các chế tài.
- Mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường chưa phù hợp với thực tế, chưa đủ răn đe đối với các đối tượng vi
phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Cụ thể, trong các Nghị định về xử lý vi
phạm hành chính đối với các hành vi gây ảnh hưởng xấu tới môi trường
không khí, tình trạng cùng hành vi tương tự nhau nhưng mức xử phạt quy
định khác nhau trong các văn bản khác nhau vẫn còn tồn tại.
- Pháp luật về trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại về môi trường)
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí còn quá chung chung, thiếu cụ
thể và khó áp dụng trên thực tế. Tình trạng dẫn chiếu vòng vẫn chưa được giải
quyết như “bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật”, trong khi môi
trường không khí ngày càng bị ô nhiễm, suy thoái,
- Chưa có quy định rõ ràng để phân biệt giữa trách nhiệm khắc phục,
phục hồi môi trường theo pháp luật về hành chính và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo pháp luật về dân sự.

32
- Các quy định về khuyến khích, khen thưởng đối với hoạt động bảo vệ
môi trường không khí còn chung chung, không thể thực hiện được trên thực
tế. Bởi thiếu các cơ chế tài chính, hỗ trợ và ưu đãi cho các hoạt động này.
- Các quy định cần hướng dẫn thêm: Với việc ban hành Luật Bảo vệ
môi trường, nhiều nội dung, tinh thần mới trong chính sách bảo vệ môi trường
không khí được đưa vào trong Luật, tuy nhiên để triển khai các quy định ấy
cũng cần có sự hướng dẫn, cụ thể hóa.
Thực trạng ô nhiễm không khí ngày càng lớn tại các khu đô thị, khu
công nghiệp, nhiều làng nghề, một số khu nông thôn hiện nay cho thấy công
tác bảo vệ môi trường không khí của nước ta hiện nay chưa đáp ứng được yêu
cầu. Một trong những nguyên nhân của tình trạng kể trên có thể thấy là do sự
yếu kém trong ý thức của người dân, không ít doanh nghiệp trong công tác
bảo vệ môi trường không khí. Thêm vào đó, hệ thống cơ quan bảo vệ môi
trường không khí còn quá mỏng cũng góp phần làm cho việc ngăn chặn, xử lý
các hành vi gây ô nhiễm gặp nhiều khó khăn.
Việc xử lý hành chính đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường còn
chưa kiên quyết và triệt để. Các biện pháp khắc phục môi trường không khí,
trả lại tình trạng ban đầu trước khi môi trường bị ô nhiễm không được chấp
hành nghiêm. Như vậy, có thể thấy, tuy tốc độ xây dựng thể chế trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường không khí được quan tâm, đẩy mạnh nhưng hiệu quả,
hiệu lực thi hành của các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
còn chưa được quan tâm, chú ý đúng mức. Đây là một yếu kém, thiếu sót của
hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, do đó cần phải đặt ra
những yêu cầu nhất định đối với việc điều chỉnh pháp luật bảo vệ môi trường
không khí ở Việt Nam trong thời gian tới để mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội
có ý thức cao hơn trong việc bảo vệ môi trường nói chung và môi trường

33
không khí nói riêng, chấp hành tốt hơn pháp luật bảo vệ môi trường và bảo
đảm pháp luật bảo vệ môi trường được triệt để tôn trọng.
Xây dựng và thực hiện pháp luật của công dân chịu sự ảnh hưởng của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau bởi xã hội là sự vận hành của
tổng thể phức hợp của các mối quan hệ đa dạng, sự tương tác lẫn nhau của
các nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội [10, Trang 27]. Do đó các yếu tố ảnh
hưởng đến việc xây dựng và thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường không
khí ở Việt Nam nói riêng cũng chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức…Có thể liệt kê một vài yếu tố cụ
thể sau đây:
- Yếu tố kinh tế: Đây được hiểu là tổng thể các điều kiện kinh tế, hoàn
cảnh kinh tế xã hội, hệ thống các chính sách được áp dụng trong xã hội. Nền
kinh tế, xã hội phát triển năng động, bền vững tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, bởi nó tác động tích cực
tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, con người có ý thức hơn trong việc bảo
vệ môi trường, từ đó hình thành thói quen tốt, thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, khi kinh tế phát triển
đời sống vật chất tinh thần của người dân được nâng cao, việc phổ biến và
giáo dục pháp luật được tuyên truyền rộng rãi hơn, do đó việc chấp hành các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường s mang tính tự giác cao. Ngược
lại khi kinh tế kém phát triển, đời sống của người dân gặp khó khăn, tiêu cực
s phát sinh thì việc vi phạm pháp luật s xảy ra nhiều hơn, điều này dẫn đến
việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí s không được chấp
hành nghiêm chỉnh, ý thức của mỗi người dân cũng trở nên hạn chế.
- Yếu tố chính trị: Một đất nước có nền chính trị ổn định giúp cho
người dân củng cố thêm niềm tin vào hệ thống pháp luật nước nhà, tin tưởng
vào bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Và

34
trong vấn đề thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường cũng vậy, khi người
dân có sự tin tưởng vào hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
thì pháp luật s được thực hiện một cách nhất quán, nghiêm chỉnh, góp phần
giữ gìn môi trường ngày càng trong lành, sạch đẹp
- Yếu tố dư luận xã hội: Sự bất bình của dư luận xã hội có ảnh hưởng
đến việc điều chỉnh hành vi, ý thức của cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường không khí. Ví dụ: Khi một cá nhân hoặc tổ chức có hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí như xả khói thải gây ô nhiễm
đến những hộ dân đang sinh sống gần khu vực đó thì những cá nhân đang bị
ảnh hưởng có thể kêu gọi mọi người lên án hành vi sai trái đang diễn ra, và
sức mạnh của dư luận xã hội lúc này có thể làm chấm dứt việc xả khói thải
một cách bừa bãi. Do đó cần xây dựng và khuyến khích những hành vi đấu
tranh tích cực với những biểu hiện coi thường, bất chấp pháp luật. Dư luận xã
hội chính là một chế tài mạnh m trong việc đảm bảo trật tự, kỉ cương phép
tắc trọng hoạt động bảo vệ môi trường không khí.
- Ý thức và thái độ của con người: Trong tất cả mọi lĩnh vực thực hiện
pháp luật thì ý thức con người luôn là yếu tố quan trọng bởi con người có khả
năng nhận thức mọi hành vi mình làm là đúng hay sai, từ đó hoàn toàn có thể
nhận biết được việc nên làm và không nên làm, trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường cũng vậy, con người có thể tự giác thực hiện pháp luật, tự tập cho
mình những thói quen có lợi cho môi trường nói chung. Tuy nhiên không phải
ai cũng có ý thức, trách nhiệm để bảo vệ môi trường, nếu để người dân thờ ơ,
lãnh đạm trước pháp luật thì rất khó để việc xây dựng và thực hiện pháp luật
nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng được diễn ra một cách
chuẩn mực. Do đó giáo dục pháp luật cần kết hợp với giáo dục đạo đức có
mục đích và yêu cầu hình thành tính hướng thiện trong hành vi của mỗi cá
nhân để từ đó hình thành ý thức tôn trọng và lối sống tuân theo pháp luật

35
- Yếu tố pháp luật về bảo vệ môi trường không khí: Để việc xây dựng
và thực hiện pháp luật được thống nhất và khả thi thì bản thân hệ thống pháp
luật về bảo vệ môi trường không khí cần phải rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu,
không mâu thuẫn chồng chéo giữa các văn bản pháp luật với nhau để người
dân có thể hiểu và thực hiện đúng như những gì mà pháp luật đã quy định.
Tạo một niềm tin vững chắc vào sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật.

36
CHƢƠNG 2
NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM

2.1. Khung pháp luật về bảo vệ môi trƣờng không khí


Như đã đề cập ở chương I, môi trường đang là vấn đề cấp bách mang
tính toàn cầu. Những năm gần đây, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước
đều chung sức, hợp lòng để bảo vệ môi trường ngày càng trong sạch hơn.
Hàng loạt các biện pháp được đề xuất thực hiện và thu được những thành tựu
lớn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tuy nhiên thế giới vẫn đang đứng trước
những thách thức lớn về môi trường. Đối với Việt Nam, chúng ta đã có một
hệ thống khuôn khổ pháp lý về bảo vệ môi trường, nó trở thành một trong
những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Luật bảo vệ môi
trường 2014 đã dành hẳn một mục riêng quy định về pháp luật bảo vệ môi
trường không khí, đó là những chế định về: Quy định chung về bảo vệ môi
trường không khí (Điều 62); Quản lý chất lượng môi trường không khí xung
quanh (Điều 63); Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí (Điều 64). Cụ thể
được quy định như sau:
- Các nguồn phát thải khí vào môi trường phải được đánh giá và kiểm
soát.
- Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát thải
khí tác động xấu đến môi trường có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm
chất lượng môi trường không khí theo quy định của pháp luật.
- Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm theo
dõi, đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và công bố công
khai thông tin; trường hợp môi trường không khí xung quanh bị ô nhiễm thì
phải cảnh báo, xử lý kịp thời.

37
- Nguồn phát thải khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và đặc
điểm của khí thải.
- Việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn
cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động
xấu đến con người và môi trường.
- Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công
nghiệp lớn phải đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây
dựng cơ sở dữ liệu về lưu lượng, tính chất, đặc điểm khí thải.
- Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công
nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục
và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải.
- Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Bên cạnh đó xuất phát từ tính chất của quan hệ pháp luật bảo vệ môi
trường là đa dạng về chủ thể tham gia quan hệ, đa dạng về khách thể quan hệ
pháp luật và đa dạng về nội dung quan hệ pháp luật nên hệ thống pháp luật về
bảo vệ môi trường của Việt Nam có hai đặc thù sau:
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam được xây
dựng trên một cơ sở chính trị nhất quán và vững chắc
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ, bảo vệ môi trường là một
trong những vấn đề sống còn không chỉ của nước ta mà còn của cả nhân loại,
là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói, giảm
nghèo ở mỗi quốc gia và cuộc đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Nhằm định hướng cho công tác bảo vệ môi trường,
thúc đẩy các cấp, ngành đổi mới nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
đối với công tác bảo vệ môi trường, tăng cường ý thức pháp luật và ý thức tự
giác của quần chúng trong bảo vệ và gìn giữ môi trường, nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật bảo vệ môi trường, Bộ Chính trị đã ban hành hai văn bản

38
quan trọng về công tác bảo vệ môi trường, đó là Chỉ thị số 36-CT TW ngày
25 6 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và Nghị quyết số 41-NQ/TW
ngày 15 11 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá đất nước. Có thể nói hai văn bản quan trọng này đã thể
hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc bảo vệ môi trường, đặt nền
móng về mặt chính trị cho việc xây dựng hệ thống chính sách pháp luật, thể
chế và cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả nhiệm vụ về bảo vệ môi trường.
Định hướng của Đảng ta trong việc bảo vệ môi trường vừa có tầm nhìn
chiến lược, vừa rất rõ ràng trong phương châm hành động ở cả tầm vĩ mô và
vi mô; tạo thành một cơ sở chính trị vững chắc cho việc xây dựng, hoàn thiện
pháp luật bảo vệ môi trường, cụ thể như sau:
- Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của mỗi quốc
gia và của cả nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống
của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung
cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa
phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi
nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển
bền vững.
- Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia
đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí
quan trọng của xã hội văn minh và là sự tiếp nối truyền thống yêu thiên nhiên,
sống hài hoà với tự nhiên của ông cha ta.

39
- Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế
tác động xấu đối với môi trường là chính, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc
phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự
đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở
rộng hợp tác quốc tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với phương pháp
truyền thống.
- Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa
ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt ch của
các cấp u Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Cùng với Nghị quyết số 41-NQ TW của Bộ Chính trị, hàng loạt các
Nghị quyết liên tịch giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với các tổ chức chính
trị xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được ban hành nhằm phát huy vai trò
rộng lớn của toàn thể xã hội, phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà
nước góp phần bảo vệ, gìn giữ làm trong sạch lành mạnh môi trường. Có thể
kể đến như:
+ Nghị quyết liên tịch số 01 2004 NQLT-MTTQ-BTNMT ngày
28 10 2004 giữa U ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc phối hợp thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi
trường quốc gia.
+ Nghị quyết liên tịch số 01 2004 NQLT-TLĐ-BTNMT ngày
15 11 2004 giữa Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ Tài nguyên và
Môi trường về việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ phát triển
bền vững.
+ Nghị quyết liên tịch số 01 2004 NQLT-LKH-BTNMT giữa Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường về
việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững.

40
+ Nghị quyết liên tịch số 01 2005 NQLT-HPN-BTNMT ngày 07 01 2005
giữa Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc
phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững.
+ Nghị quyết liên tịch số 02 2005 NQLT HND-BTNMT ngày
13 02 2005 giữa Hội Nông dân Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường về
việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường và quản lý, sử dụng đất đai.
Chủ trương, định hướng của Đảng, sự liên kết xã hội thể hiện ở các
Nghị quyết liên tịch nêu trên giữa cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trước hết, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh
m trong nhận thức và hành động về bảo vệ môi trường, đổi mới sự lãnh đạo,
chỉ đạo, điều hành, tổ chức, triển khai công tác bảo vệ môi trường. Bảo vệ
môi trường được coi là sự nghiệp của mọi người, mọi nhà, mọi cơ quan, tổ
chức, đoàn thể trong xã hội.
Thứ hai, pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam có sự liên
kết với pháp luật chuyên ngành.
Điều 63 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Tổ chức, cá nhân
gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa
dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường
thiệt hại.”[15, Điều 63]. Đây là quy định mang tính hiến định, tạo cơ sở cho
việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ quyền hạn của các chủ thể trong việc bảo
vệ môi trường không khí.
Theo quan điểm bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là bộ phận cấu
thành cơ bản của sự phát triển bền vững ở mỗi quốc gia, thì pháp luật về bảo
vệ môi trường ở nước ta cần: thiết lập trật tự pháp luật trong việc gìn giữ, bảo
vệ môi trường; quy định về các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tác động xấu
đối với môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi

41
trường; quy định và giới hạn hành vi của các chủ thể xã hội trong quá trình
khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Để đảm bảo được yêu cầu trên, pháp luật bảo vệ môi trường giải quyết
được mối tương quan giữa Luật gốc và các Luật chuyên ngành. Luật Bảo vệ
môi trường năm 1993, cũng như Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 07 2006) sửa đổi bổ sung năm 2014 được coi là hạt
nhân của hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường, là nguồn cơ bản nhất của
pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam, thể chế hoá quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi
trường quy định bao quát việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và các thành tố
của môi trường nói chung mà không phụ thuộc vào các thành tố đó là loại tài
nguyên thiên nhiên nào, do ai sử dụng và mục đích sử dụng của từng thành tố
môi trường. Bảo vệ môi trường được xác định là quyền lợi và nghĩa vụ của
mọi cá nhân, tổ chức và theo phương châm phòng ngừa, hạn chế tác động xấu
đối với môi trường, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện
môi trường, duy trì môi trường ở trạng thái cân bằng, bền vững.
Để đảm bảo Luật bảo vệ môi trường không khí cần phải có các điều
kiện cụ thể như sau:
- Phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại. Sự phù hợp này
phản ánh rất rõ mối tương quan giữa trình độ pháp luật với trình độ phát triển
kinh tế - xã hội. Pháp luật và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Nếu văn bản phản ánh chính xác, kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực tiễn,
chứa đựng nội dung phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và
yêu cầu các quản lý nhà nước s tạo những “đòn bẩy” tăng trưởng kinh tế - xã
hội góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển
- Phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quá trình thể chế hóa thành pháp luật hoặc trong việc tổ chức thực hiện

42
trên thực tế các đường lối, chính sách đó, có như vậy mới bảo đảm thực hiện
có hiệu quả và mới bảo vệ hữu hiệu lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân,
nông dân và các tầng lớp lao động khác
- Phù hợp với thực trạng ý thức xã hội, đặc biệt là các quy phạm đạo
đức, tôn giáo, phong tục, tập quán trong xã hội. Vì muốn tác động vào các đối
tượng quản lý, trước hết chủ thể có thẩm quyền phải sử dụng văn bản để tác
động tới nhận thức của những đối tượng có liên quan, qua đó mới điều chỉnh
hành vi của họ, trong khi đó nhận thức của các đối tượng này bị chi phối bởi
nhiều yếu tố khác nhau thuộc đời sống ý thức xã hội nên giữa ý thức xã hội
với nội dung văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường cần có mối liên hệ mật
thiết, có sự tác động qua lại rất sâu sắc.
- Phù hợp với pháp luật của các nước.
Song song với Luật Bảo vệ môi trường, tương ứng với từng thành tố
của môi trường, chúng ta lại có các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.
Trong pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 quy định những nguyên tắc chung, cơ bản, biện pháp và
cách thức bảo vệ môi trường. Các văn bản pháp luật chuyên ngành dựa trên
các nguyên tắc pháp lý và những quy tắc chung đó để cụ thể hoá việc bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên như: đất, nước, rừng, biển, tài nguyên rừng, khoáng
sản trong lòng đất, thế giới động vật, thực vật, bầu khí quyển...
Bên cạnh việc tích cực, chủ động hoàn thiện pháp luật liên quan đến
bảo vệ môi trường, nước ta đã từng bước tham gia vào các Công ước quốc tế
về bảo vệ môi trường. Việc phê chuẩn các công ước này là cơ sở tiền đề quan
trọng thúc đẩy hội nhập của pháp luật Việt Nam với những tiêu chuẩn và quy
phạm phổ biến của pháp luật quốc tế; điều chỉnh hoạt động của con người tác
động vào tự nhiên, gây ảnh hưởng đến môi trường.

43
Như đã trình bày ở chương 1, nhà nước ta đã ban hành một hệ thống
các văn bản pháp luật quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường không khí mà
các chủ thể phải thực hiện nhằm góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, môi trường trong sạch và phát triển bền vững. Các văn bản này điều
chỉnh các nhóm quan hệ sau:
- Quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động tới
môi trường không khí.
- Quan hệ về các hoạt động quản lý nhà nước về môi trường không khí.
- Quan hệ về các biện pháp khắc phục suy thoái, ô nhiễm, phòng chống
sự cố môi trường không khí.
- Quan hệ về giải quyết tranh chấp môi trường không khí.
- Quan hệ về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí.
Trên cơ sở việc điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội chủ yếu kể trên,
pháp luật bảo vệ môi trường không khí được cấu thành bởi một số chế định
căn bản sau:
2.1.1. Chế định pháp luật về các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi
trường không khí.
Theo Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật thì khái niệm tiêu chuẩn
môi trường và quy chuẩn kỹ thuật môi trường được xác định như sau:
Tiêu chuẩn môi trường là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu
cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá môi trường nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi trường. Tiêu chuẩn do một tổ
chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng.
Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ
thuật và yêu cầu quản lý mà môi trường phải tuân thủ để bảo đảm môi
trường. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng.[14, Điều 3].

44
Ở Việt Nam, khái niệm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường được
quy định chính thức tại Khoản 5, 6 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014:
Tiêu chuẩn môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất
lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có
trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được các cơ quan nhà
nước và các tổ chức công bố dưới dạng văn bản tự nguyện áp dụng để
bảo vệ môi trường.
Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là mức giới hạn của các thông số
về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô
nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản bắt buộc áp dụng
để bảo vệ môi trường.16, Điều 3].
Trước khi Luật TCQCKT được ban hành, thì các TCVN bị bắt buộc áp
dụng khi chính thức công bố. Sau khi Luật TCQCKT có hiệu lực, chỉ có
QCVN mới bị bắt buộc áp dụng, còn các TCVN chỉ là khuyến khích tự
nguyện áp dụng. Tóm lại, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường là công
cụ chính trực tiếp điều chỉnh chất lượng môi trường. Chúng xác định mục tiêu
môi trường và đặt ra số lượng hay nồng độ cho phép của các chất được thải
vào khí quyển, nước, đất hay được phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng.
Mỗi loại tiêu chuẩn được dùng làm quy chuẩn cho việc đánh giá hoặc mục
tiêu hành động và kiểm soát pháp lý. Nội dung tiêu chuẩn là do Chính phủ
xây dựng và ban hành, trong một số trường hợp Chính phủ chỉ đặt ra những
quy định khung để các địa phương, tỉnh, thành, khu vực quy định cụ thể trong
thực hiện. Mặt khác, khái niệm tiêu chuẩn môi trường cũng đã trả lời cho mục
đích ban hành tiêu chuẩn môi trường đó là tạo cơ sở quan trọng làm căn cứ để
quản lý môi trường. Trong bảo vệ môi trường không khí, vai trò, mục đích đó
cũng không ngoại trừ.

45
Trên cơ sở các quy định tại Luật bảo vệ môi trường 2014 thì hệ thống
quy chuẩn kỹ thuật môi trường bao gồm có quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng
môi trường xung quanh và quy chuẩn kỹ thuật về chất thải (trong đó có chất
lượng môi trường không khí xung quanh và quy chuẩn kỹ thuật về chất thải
nguy hại và khí thải); tiếp đó là tiêu chuẩn môi trường bao gồm tiêu chuẩn
chất lượng môi trường xung quanh, tiêu chuẩn về chất thải và các tiêu chuẩn
môi trường khác. Cũng theo các thông tư 16 2009 TT-BTNMT ngày
7 10 2009; thông tư 25 2009 TT-BTNMT ngày 16 11 2009; thông tư
32/2013/TT-BTNMT ngày 25 10 2013 của Bộ tài nguyên và môi trường quy
định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường thì hệ thống quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường không khí bắt buộc áp dụng ở Việt Nam hiện
nay là 08 quy chuẩn kỹ thuật bao gồm: Quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng
không khí xung quanh; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
(đối với bụi và các chất vô cơ, hữu cơ, sản xuất phân bón hóa học, khí thải
công nghiệp nhiệt điện, xản xuất xi măng..). Cũng theo các Quyết định số
229-QĐ TĐC ngày 25 03 1995 của Bộ Khoa học, Công ngệ và Môi trường
thì hệ thống TCMT không khí bắt buộc áp dụng ở Việt Nam hiện nay là 12
TCVN; bao gồm: tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh
(tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh nhà máy, xí nghiệp,
giao thông…) và tiêu chuẩn chất lượng nguồn thải (khí thải từ ống khói nhà
máy, từ ống xả của xe…). Những tiêu chuẩn đó là căn cứ kỹ thuật cho việc thi
hành Luật bảo vệ môi trường và hoạt động quản lý môi trường, là căn cứ để
đánh giá chất lượng môi trường xung quanh và kiểm soát ô nhiễm môi trường
do các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt do con người gây ra.
2.1.1.1. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường
không khí xung quanh

46
Các chất gây ô nhiễm chủ yếu trong không khí là: cácbon oxit (CO),
lưu huỳnh oxit (SOx), chủ yếu là SO2, hyđro cacbon (HC), nitơ oxit (NOx),
chủ yếu là NO2 và NO, ozon (O3) và bụi lơ lửng [9, trang 26]
Để giữ gìn môi trường không khí trong lành, các tổ chức quốc tế và
nhiều quốc gia đã xây dựng và thiết lập các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về
chất lượng môi trường không khí xung quanh bảo đảm cho môi trường không
khí tương đối trong sạch. Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi
trường không khí xung quanh là cơ sở pháp lý để Nhà nước và nhân dân kiểm
tra, kiểm soát môi trường, đánh giá, xử lý các vi phạm làm ô nhiễm môi
trường. Tất cả các cơ sở sản xuất, các nguồn thải bụi và khí độc hại đều phải
thoả mãn cả hai tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh (nhà
máy, xí nghiệp…) và tiêu chuẩn chất lượng nguồn thải (ống khói, ống xả….).
Về mức độ trong sạch của môi trường không khí được đánh giá bằng
nồng độ chất độc hại chứa trong một đơn vị thể tích hay đơn vị trọng lượng
không khí (mg m3).
Người ta phân ra nồng độ cực đại từng lần, nồng độ trung bình 1 giờ, 8
giờ, trung bình ngày, tháng, năm. Trị số nồng độ cực đại cho phép đó là nồng
độ lớn nhất của chất độc hại trong không khí mà không gây tác hại đối với
con người. Theo QCVN 05:2009 BTNMT cho thấy:
- Quy chuẩn này quy định giá trị giới hạn các thông số cơ bản, gồm lưu
huỳnh đioxit (SO2), cacbon (CO), nitơ oxit (NOx), ôzôn (O3), bụi lơ lửng,
bụi PM10 (bụi ≤ 10μm) và chì (Pb) trong không khí xung quanh.
- Quy chuẩn này áp dụng để đánh giá chất lượng không khí xung quanh
và giám sát tình trạng ô nhiễm không khí.
- Quy chuẩn này không áp dụng để đánh giá chất lượng không khí
trong phạm vi cơ sở sản xuất hoặc không khí trong nhà.

47
Để giữ gìn môi trường không khí trong lành, các tổ chức quốc tế và
nhiều quốc gia đã xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí.
Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh là những giới hạn được đặt ra
đối với các chất ô nhiễm không khí trong không khí ngoài trời. Các tiêu chuẩn
này cần được đáp ứng thông qua việc áp dụng công nghệ kiểm soát ô nhiễm
nâng cao. Tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh quy định giá trị
giới hạn cho phép của các thông số môi trường phù hợp với mục đích sử dụng
thành phần môi trường, bao gồm: Giá trị tối thiểu của các thông số môi
trường bảo đảm sự sống và phát triển bình thường của con người, sinh vật;
Giá trị tối đa cho phép của các thông số môi trường có hại để không gây ảnh
hưởng xấu đến sự sống và phát triển bình thường của con người, sinh vật. Ví
dụ: Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh quy định những điều kiện
tối thiểu mà một nguồn điểm cần phải đáp ứng đối với một số thông số cụ thể,
tại những địa điểm cụ thể. Chúng được đặt ra trên cơ sở những tiêu chuẩn
khoa học đánh giá nguy cơ đối với sức khỏe của con người và số lượng tổn
thất có thể gây ra bởi một liều lượng tiếp xúc đối với chất ô nhiễm nhất định.
Việc đạt đến một tiêu chuẩn nào đó đòi hỏi phải xác định một giới hạn và
lượng ô nhiễm thải ra không được phép vượt quá. Do vậy, việc đặt ra mục
tiêu chất lượng s giới hạn sự phát triển của một khu vực tới một mức độ
thích hợp. Theo TCVN 5508-2009 và TCVN 5509-2009 cho thấy:
- Tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu điều kiện vi khí hậu và cường
độ bức xạ nhiệt áp dụng cho nơi làm việc, có chú ý đến mức độ nặng nhọc
của công việc.
- Tiêu chuẩn này không áp dụng cho những nơi làm việc ngoài trời, các
công trường xây dựng, trong hầm mỏ, phương tiện giao thông, kho chứa sản
phẩm, nhà lạnh.

48
- Tiêu chuẩn này quy định nồng độ tối đa cho phép của silic dioxit
trong bụi hô hấp trong không khí vùng làm việc. Tiêu chuẩn này áp dụng để
đánh giá mức độ ô nhiễm và kiểm soát bụi silic dioxit trong không khí vùng
làm việc.
Trong đó vi khí hậu nơi làm việc được hiểu là điều kiện khí tượng của
môi trường nơi làm việc, gồm sự tác động tổng hợp của các yếu tố nhiệt độ,
độ ẩm, tốc độ chuyển động của không khí và nhiệt độ của các bề mặt vật dụng
và thiết bị xung quanh tới người lao động.
Nhìn chung, một chương trình khung về pháp lý là nền tảng để các cấp
chính quyền thành phố, quốc gia và quốc tế phê duyệt các chính sách thiết lập
chuẩn mực chất lượng không khí. Việc thiết lập chuẩn mực phụ thuộc lớn vào
chiến lược quản lý rủi ro được các nước áp dụng. Chiến lược này lại bị chi
phối bởi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước và hoặc bởi sự nhất
trí của các ủy ban quốc tế. Quy định pháp lý và các tiêu chuẩn chất lượng
không khí của từng quốc gia s không giống nhau nhưng thông thường
Hướng dẫn của WHO về Chất lượng không khí (WHO 2000a; 2006) là cuốn
sổ tay cơ bản để hướng dẫn các nước đang phát triển giải quyết một số các
vấn đề sau:
- Xác định các chất gây ô nhiễm cần quan tâm
- Nồng độ chất ô nhiễm đang tồn tại trong không khí
- Phương pháp giám sát phù hợp và độ bảo đảm chất lượng của
phương pháp
- Giá trị bằng số của các tiêu chuẩn áp dụng với nhiều chất gây ô
nhiễm hoặc quy trình đưa ra quyết định
2.1.1.2. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng nguồn thải.
Khi đưa ra kế hoạch quản lí chất lượng không khí, nhất thiết không thể
thiếu thông tin định lượng về các nguồn thải. Đó là lí do cần sử dụng bản kê

49
khai phát thải. Trong nhiều trường hợp, chất thải được mô tả dựa theo các
nhóm nguồn, cụ thể là:
- Nguồn điểm: như ống khói ở các khu vực công nghiệp lớn.
- Nguồn di động: như các phương tiện giao thông chuyển động trên
đường phố. Các nguồn điểm cũng được xem là nguồn tuyến vì thường không
thể tính toán được cụ thể lượng chất thải từng phương tiện xả ra, mà phải tính
toán tổng lượng thải trên cả quãng đường (được xem như một "tuyến").
- Nguồn khu vực: bao gồm đốt phế liệu ngoài trời trong công nghiệp,
lâm nghiệp và giải phóng mặt bằng. Các nguồn thải khác bao gồm đốt rừng,
chất thải từ các động cơ nạp nhiên liệu, xe địa hình, tàu biển, cũng như đốt
cháu nhiên liệu trong kinh doanh và hộ gia đình. Các khu vực khai thác lộ
thiên và chăn thả gia súc quá mức ở các vùng bán khô hạn cũng có thể là các
nguồn thải vật chất dạng hạt.
Đối với các nguồn thải tự nhiên hoặc nguồn thải có nguồn gốc sinh vật,
như sa mạc, các vùng xói mòn, chất thải nông nghiệp được xếp vào nhóm các
nguồn ô nhiễm không do con người gây ra, hầu hết là các nguồn khu vực.
Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 thì nhóm tiêu chuẩn về chất thải bao
gồm: nhóm tiêu chuẩn về khí thải công nghiệp (đối với bụi và các chất vô cơ,
đối với các chất hữu cơ), khí thải từ các thiết bị dùng để xử lý, tiêu hu chất
thải sinh hoạt, công nghiệp, y tế và từ hình thức xử lý khác đối với chất thải;
Nhóm tiêu chuẩn về khí thải đối với phương tiện giao thông, máy móc, thiết
bị chuyên dụng.
Các tiêu chuẩn này được biết đến như sau:
- Các TCVN 5939-2005 và TCVN 5940-2005 là 2 tiêu chuẩn quy định
về giá trị nồng độ tối đa của các chất hữu cơ (TCVN5940) và của các chất vô
cơ (TCVN5939) trong khí thải công nghiệp (tính bằng mg m3) khi thải vào
không khí xung quanh. Khí thải công nghiệp nói trong tiêu chuẩn TCVN5939

50
là khí và khí có chứa bụi do các quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các
hoạt động khác tạo ra; còn khí thải công nghiệp nói trong TCVN 5940 là do
các quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác tạo ra.
Các tiêu chuẩn này áp dụng để kiểm soát nồng độ các chất vô cơ hoặc
các chất hữu cơ trong thành phần khí thải công nghiệp trước khi thải vào
không khí xung quanh.
- TCVN 6438:2001: là tiêu chuẩn quy định về giới hạn lớn nhất cho
phép của khí thải của các phương tiện giao thông (xe cơ giới).
- 06 TCVN quy định về thải lượng của khí thải công nghiệp vào vùng
đô thị và nông thôn, miền núi, bao gồm: TCVN 6991:2001 quy định tiêu
chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong khu công nghiệp, TCVN
6992:2001 quy định tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong
vùng đô thị, TCVN 6993:2001 quy định tiêu chuẩn thải theo thải lượng của
các chất vô cơ trong vùng nông thôn và miền núi, TCVN 6994:2001 quy định
tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất hữu cơ trong khu công nghiệp,
TCVN 6995:2001-tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất hữu cơ trong
vùng đô thị, TCVN 6996:2001-tiêu chuẩn thải theo thải lượng các chất hữu cơ
trong vùng nông thôn và miền núi.
Bên cạnh đó, về khí thải cũng có các quy chuẩn kỹ thuật sau:
QCVN 02:2012 BTNMT về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế, QCVN
19:2009 BTNMT về khí thải công nghiệp và các chất vô cơ, QCVN
20:2009 BTNMT về khí thải công nghiệp đối với một số chất hữu cơ, QCVN
21:2009 BTNMT về khí thải công nghiệp sản xuất phân bón hóa học, QCVN
22:2009 BTNMT về Khí thải công nghiệp nhiệt điện, QCVN
23:2009 BTNMT về Khí thải công nghiệp sản xuất xi măng
Như vậy, trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí, các tiêu chuẩn
và quy chuẩn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó vừa được xem là công

51
cụ kỹ thuật, vừa là công cụ pháp lý giúp Nhà nước quản lý môi trường không
khí có hiệu quả hơn. Trên cơ sở tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường không khí,
các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể xác định được một cách
chính xác chất lượng môi trường không khí, xác định xem môi trường đó đã bị
ô nhiễm hay chưa và nếu đã bị ô nhiễm thì ở mức độ nào... Thông qua cách đó,
Nhà nước có thể áp dụng những biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn, khắc phục
tình trạng môi trường không khí đã bị ô nhiễm và xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật môi trường không khí. Mặt khác, thông qua các tiêu chuẩn và
quy chuẩn môi trường không khí mà các tổ chức, cá nhân biết được họ đang
được sống trong bầu không khí có chất lượng tốt hay xấu; tức là, thông qua đó,
các tổ chức, cá nhân có thể xác định được quyền được sống trong môi trường
không khí trong lành (có chất lượng tốt) được đảm bảo đến đâu?
Có thể nói, bộ tiêu chuẩn và quy chuẩn không khí này là một bước tiến
mới trong hoạt động tiêu chuẩn hoá và quản lý môi trường, đã ngăn ngừa tối
đa sự bùng phát ô nhiễm, ngăn ngừa nguy cơ gây tổn hại đến môi trường
không khí trong tương lai của Việt nam. Tuy nhiên kể từ thời điểm có hiệu
lực thi hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn không khí Việt nam, đặc biệt là các
tiêu chuẩn chất lượng không khí (TCVN 6992:2001 đến TCVN 6996:2001)
đã bộc lộ một số thiếu sót, bất cập như:
- Không quy định cụ thể cho các loại hình công nghiệp và không quy
định chi tiết mức phát thải cho các loại hình công nghiệp và không quy định
chi tiết mức phát thải cho từng loại nhiên liệu đầu vào, ví dụ như: ngành điện:
nhiên liệu sử dụng có thể là dầu, than, khí. Và vì vậy nếu buộc phải tuân thủ
các tiêu chuẩn này thì ngành điện của nước ta phải đầu tư thêm các thiết bị
khử khí.
Thực tế cho thấy, cùng một loại khí thải thải ra từ các hoạt động sản
xuất, nhưng các cơ sở khác nhau có lượng thải khác nhau. Vì thế việc xử lý

52
các khí thải ấy cũng s đòi hỏi áp dụng các quy trình xử lý không giống nhau.
Một cơ sở sản xuất lớn, lượng khí thải vào môi trường chắc chắn s lớn hơn
một cơ sở sản xuất nhỏ dù lĩnh vực hoạt động của chúng có thể giống nhau.
Nói cách khác là các cơ sở có tổng lượng khí thải hoàn toàn khác nhau.
Lượng khí thải ấy nhiều hay ít hoàn toàn phụ thuộc vào qui mô, lĩnh vực hoạt
động của cơ sở đó. Nếu không quy định mức phát thải mà áp dụng đồng đều
nồng độ tối đa cho phép các chất độc hại trong khí thải như hiện nay chúng ta
s không đảm bảo được sự bình đẳng cho các doanh nghiệp nhỏ cũng như
không đạt được hiệu quả cao trong áp dụng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
môi trường không khí.
- Việc quy định thời hạn hiệu lực áp dụng chung cho mọi đối tượng và
thiếu một lộ trình thích hợp áp dụng cho các tiêu chuẩn này để các cơ quan
quản lý môi trường và các doanh nghiệp có đủ thời gian chuẩn bị áp dụng đã
gây ra nhiều bất cập trong quá trình thực hiện hệ thống TCMT không khí Việt
Nam. Vì vậy việc sớm hoàn thiện, rà soát lại và sửa đổi các TCMT không khí
Việt Nam là hết sức cần thiết để đảm bảo hiệu quả cao trong công tác quản lý
và bảo vệ môi trường không khí của nước ta.
2.1.2. Chế định pháp luật về đánh giá môi trường và đánh giá tác
động môi trường.
Trong những năm gần đây, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững,
vấn đề lồng ghép các mục tiêu môi trường vào chính sách quản lý đang ngày
càng được quan tâm. Việc đánh giá tác động đối với môi trường của các chính
sách để đề ra các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực là rất quan trọng. Ở
nước ta hiện nay, việc đánh giá tác động môi trường đối với việc thực thi
chính sách sau khi ban hành vẫn chưa được thực hiện một cách bài bản. Về
đánh giá tác động trước khi ban hành, ở nước ta, đánh giá môi trường chiến
lược đối với các dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được áp dụng từ

53
năm 2006 theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2005. Theo đó, “Đánh
giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường
của dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt
nhằm bảo đảm phát triển bền vững”. Ngoài ra, theo quy định của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, việc đánh giá tác động văn bản, trong
đó bao gồm cả nội dung đánh giá tác động về môi trường, phải được thực hiện
đối với các dự thảo văn bản luật, pháp lệnh và nghị định. Hiện nay Bộ Tư
pháp đang triển khai xây dựng Dự thảo Sổ tay hướng dẫn thực hiện đánh giá
tác động VBQPPL và s ban hành trong thời gian tới. Trên thế giới cũng có
một số nước có đồng thời các quy định về đánh giá tác động môi trường và
đánh giá tác động văn bản như Hà Lan, Đan Mạch, Phần Lan...
Trên thực tế, ở nước ta việc triển khai đánh giá tác động môi trường,
mặc dù đã được đẩy mạnh thời gian qua, song vẫn còn những tồn tại, bất cập
về nhận thức, ý thức trách nhiệm, năng lực thực hiện và tính hiệu quả.
Về đánh giá tác động đối với môi trường của việc thực hiện chính sách
sau khi được ban hành, nhìn chung, chưa có những hướng dẫn về phương
pháp luận một cách rõ ràng cho việc triển khai thực hiện. Chưa có các hướng
dẫn cụ thể về phương pháp, quy trình thực hiện đánh giá tác động lên môi
trường của việc thực thi chính sách, mặc dù theo quy định của Luật ban hành
các VBQPPL 2008, cần phải đánh giá tác động của các luật, pháp lệnh và
nghị định sau 3 năm thực hiện. Dự thảo Sổ tay hướng dẫn thực hiện đánh giá
tác động VBQPPL do Bộ Tư pháp đang xây dựng cũng chỉ mới tập trung chủ
yếu về đánh giá tác động văn bản mà chưa đề cập một cách rõ ràng đến đánh
giá tác động của việc thực thi chính sách sau khi ban hành. Theo quy định của
pháp luật hiện hành, trách nhiệm thực hiện việc đánh giá tác động môi trường
được áp dụng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động phát
triển và có tác động tới môi trường (trong đó có cả môi trường không khí).

54
Sau khi các chủ thể thực hiện đánh giá tác động môi trường xong, trách nhiệm
của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường là thẩm định lại báo cáo đó.
Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường là hoạt động của các
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường (theo sự phân cấp) hoặc Hội đồng
thẩm định (trong trường hợp cần thiết) nhằm xem xét, thẩm tra tính khoa học
và tính pháp lý của các báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Căn cứ
vào các quy định của pháp luật về đánh giá tác động môi trường, các cơ quan
có trách nhiệm thẩm định phải đưa ra các nhận xét về sự phù hợp pháp luật
của báo cáo, đồng thời phải đưa ra đánh giá về tính chính xác, khách quan,
mặt khoa học của các đề xuất trong báo cáo.
Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành về đánh giá tác động môi
trường tại Luật bảo vệ môi trường, Nghị định 18 2015 NĐ-CP, Nghị định
21 2013 NĐ-CP, Thông tư 27 2015 TT-BTNMT về việc ban hành qui chế tổ
chức và hoạt động của hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tổ chức môi
trường, ta có thể nhận thấy:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo
đánh giá tác động môi trường của các dự án quy định tại Phụ lục III Nghị định
18 2015 NĐ-CP, trừ các dự án thuộc bí mật quốc phòng, an ninh;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh
giá tác động môi trường của các dự án thuộc thẩm quyền quyết định phê
duyệt đầu tư của mình, trừ các dự án thuộc Phụ lục III Nghị định này;
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo
đánh giá tác động môi trường của các dự án thuộc bí mật quốc phòng, an ninh
và các dự án thuộc thẩm quyền quyết định phê duyệt đầu tư của mình, trừ các
dự án thuộc Phụ lục III Nghị định này;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh
giá tác động môi trường của các dự án đầu tư trên địa bàn của mình, trừ các
dự án quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này.

55
Như vậy có thể thấy việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi
trường được phân thành các cấp khác nhau thẩm định, có thể hiểu nôm na đó
là cấp trung ương và cấp địa phương. Cấp Trung ương do Bộ Tài nguyên và
Môi trường thẩm định; cấp địa phương do Sở tài nguyên và Môi trường thẩm
định. Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm xác nhận kế hoạch bảo vệ
môi trường nằm trên địa bàn 02 huyện trở lên; những dự án có quy mô lớn và
nguy cơ tác động xấu đến môi trường theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường [16, Khoản 1 Điều 2]. Ban Quản lý các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế được xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường
đối với các dự án, phương án đầu tư sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong khu
công nghiệp, khu chế xuất trong trường hợp được cơ quan có thẩm quyền ủy
quyền [8, Khoản 1 Điều 19].
Theo nghị định mới sửa đổi thay vì việc quy định các dự án phải thẩm
định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường theo hai danh mục
riêng cho Trung ương và địa phương, nay chỉ quy định một danh mục các loại
hình dự án lớn với quy mô và mức độ tác động môi trường phức tạp hoặc các
dự án thuộc phạm vi lãnh thổ từ hai tỉnh trở lên phải thẩm định và phê duyệt
báo cáo đánh giá tác động môi trường ở cấp Trung ương, còn lại thuộc về địa
phương. Điểm sửa đổi này có tác dụng vừa khắc phục được tình trạng qúa tải
về thẩm định, phê duyệt cho Trung ương, vừa không để xảy ra tình trạng bỏ
sót loại hình dự án phải thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động
môi trường không được đưa vào danh mục theo quy định... Bên cạnh đó, nghị
định cũng quy định danh mục các dự án phải thực hiện đánh giá tác động môi
trường cũng như phải báo cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi
trường. Chủ các dự án thuộc danh mục trên có trách nhiệm tự thực hiện hoặc
thuê tổ chức tư vấn thực hiện đánh giá tác động môi trường theo quy định tại
Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả

56
thực hiện đánh giá tác động môi trường và các thông tin, số liệu được sử dụng
trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Trong quá trình thực hiện đánh
giá tác động môi trường, chủ dự án phải tiến hành tham vấn Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi thực hiện dự án, các tổ chức và cộng đồng dân cư
chịu tác động trực tiếp bởi dự án; nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến khách
quan, kiến nghị hợp lý của các đối tượng liên quan được tham vấn để hạn chế
thấp nhất tác động bất lợi của dự án đến môi trường tự nhiên, đa dạng sinh
học và sức khỏe cộng đồng. Đồng thời, chủ dự án, tổ chức tư vấn khi thực
hiện đánh giá tác động môi trường phải có đủ các điều kiện sau: Có cán bộ
thực hiện đánh giá tác động môi trường có trình độ đại học trở lên và phải có
chứng chỉ tư vấn đánh giá môi trường đúng chuyên ngành; Có cán bộ chuyên
ngành liên quan đến dự án với trình độ đại học trở lên; Có phòng thí nghiệm,
các thiết bị kiểm chuẩn được xác nhận đủ điều kiện thực hiện đo đạc, lấy mẫu,
xử lý, phân tích mẫu về môi trường phục vụ việc đánh giá tác động môi
trường của dự án; trường hợp không có phòng thí nghiệm, các thiết bị kiểm
chuẩn đáp ứng yêu cầu, phải có hợp đồng thuê đơn vị có đủ năng lực.
- Thời hạn thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường quy định
như sau:
a) Không quá bốn mươi lăm (45) ngày làm việc kể từ ngày nhận
được đầy đủ hồ sơ hợp lệ đối với các dự án thuộc thẩm quyền tổ chức
thẩm định của Bộ Tài nguyên và Môi trường;
b) Không quá ba mươi (30) ngày làm việc kể từ ngày nhận được
đầy đủ hồ sơ hợp lệ đối với các dự án không thuộc Điểm a Khoản này;
c) Trong thời hạn quy định tại các Điểm a, b Khoản này, cơ quan
thẩm định có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho chủ dự án về kết
quả thẩm định. Thời gian chủ dự án hoàn thiện báo cáo đánh giá tác

57
động môi trường theo yêu cầu của cơ quan thẩm định không tính vào
thời gian thẩm định.
- Việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường được
thực hiện thông qua hội đồng thẩm định do Thủ trưởng hoặc người
đứng đầu cơ quan được giao nhiệm vụ thẩm định (sau đây gọi tắt là cơ
quan thẩm định) báo cáo đánh giá tác động môi trường thành lập với ít
nhất bảy (07) thành viên.
Cơ cấu hội đồng thẩm định gồm Chủ tịch hội đồng, một (01) Phó
Chủ tịch hội đồng trong trường hợp cần thiết, một (01) Ủy viên thư ký,
hai (02) Ủy viên phản biện và một số Ủy viên, trong đó phải có ít nhất
ba mươi phần trăm (30%) số thành viên hội đồng có từ bảy (07) năm
kinh nghiệm trong lĩnh vực đánh giá tác động môi trường.
- Hội đồng thẩm định có trách nhiệm xem xét nội dung báo cáo đánh
giá tác động môi trường và đưa ra ý kiến thẩm định để làm cơ sở cho cơ quan
thẩm định xem xét, quyết định việc phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn hoạt động của hội đồng
thẩm định.
- Việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự
án để kịp thời ứng phó với thiên tai, dịch bệnh có thể được thực hiện thông
qua hình thức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan, không nhất
thiết phải thông qua hội đồng thẩm định.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
ủy quyền thẩm định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường cho ban
quản lý các khu công nghiệp trên cơ sở xem xét đề nghị của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh và đánh giá năng lực của từng ban quản lý các khu công nghiệp;
hướng dẫn chi tiết biểu mẫu các văn bản liên quan đến việc thẩm định, phê
duyệt, xác nhận báo cáo đánh giá tác động môi trường.

58
Như vậy, sau quá trình thẩm định, cơ quan thẩm định báo cáo đánh giá
tác động môi trường phải có trách nhiệm đưa ra nhận xét cụ thể về những vấn
đề gây ra cho môi trường, trong đó bao gồm cả môi trường không khí mà hoạt
động phát triển đó có thể đem lại. Điều đó cho thấy rằng: cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường qua quá trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi
trường có thể dự liệu được trước những tác động xấu đối với môi trường nói
chung và môi trường không khí nói riêng do các hoạt động phát triển của con
người mang lại và buộc các chủ thể tiến hành những hoạt động ấy phải áp
dụng những biện pháp cụ thể, hữu hiệu để làm tăng tác động tốt (nếu có) cho
môi trường không khí và giảm đến mức tối đa những tác động xấu với môi
trường không khí mà nó có thể gây ra.
Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn Việt nam, các quy định của pháp
luật về báo cáo đánh giá tác động môi trường đó cũng đã nảy sinh nhiều
vướng mắc, khó khăn như sau:
Trước hết phải nói rằng, môi trường không khí là yếu tố thường bị xem
nhẹ trong quá trình đánh giá tác động môi trường, ngay từ khâu lập báo cáo
đánh giá tác động môi trường đến khâu thẩm định báo cáo đánh giá tác động
môi trường. Vì vậy trên thực tế, thường thì chỉ những dự án nào mà người ta
đánh giá thực tế nó s gây tác động rất lớn đến môi trường không khí thì
người ta mới tiến hành xem xét cân nhắc một cách đầy đủ như các yếu tố
khác, ví dụ như: các dự án xây dựng nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện,
nhà máy giấy, vật liệu xây dựng…còn các dự án như: dệt nhuộm, cơ khí, phân
bón hoá chất...thì sự tác động đến môi trường không khí thường bị coi nhẹ,
đôi khi người ta không xem xét đến. Điều đó làm cho việc dự liệu trước cũng
như phòng ngừa những tác động xấu tới môi trường không khí không được
đảm bảo. Khi các dự án, công trình đi vào hoạt động thì lúc đó thực tế cho
thấy nó đã gây nhiều ảnh huởng, tác động xấu đến môi trường không khí. Vì

59
vậy, đã đến lúc chúng ta cần phải có cái nhìn đầy đủ hơn vai trò của việc thẩm
định đánh giá tác động của các dự án đến môi trường không khí.
Thứ hai, năng lực chuyên môn của các ủy viên hội đồng thẩm định
chưa cao dẫn tới việc thẩm định báo cáo không đạt hiệu quả, không đạt được
tính chính xác cho nên phải sửa đổi nhiều lần các bản báo cáo. Thậm chí là
nhận xét sai và không rút ra được những nhược điểm để khắc phục trong
những lần thẩm định tiếp theo
2.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về môi trường không khí.
Quản lý nhà nước về môi trường không khí là một đòi hỏi tất yếu khách
quan bởi chỉ có sự thống nhất của một hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước
thì mới có thể giải quyết được những yêu cầu, đòi hỏi của công tác bảo vệ
môi trường không khí. Quản lý nhà nước về môi trường không khí là quá
trình Nhà nước bằng các cách thức, công cụ và phương tiện khác nhau tác
động đến các hoạt động của con người trong quá trình con người khai thác, sử
dụng môi trường không khí nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa bảo vệ sự
trong sạch của môi trường không khí với việc thoả mãn các nhu cầu của con
người, đồng thời đảm bảo được chất lượng của môi trường nói chung.
Điều 139 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định nội dung quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường không khí. Theo đó, điều luật này quy định
11 nội dung:
- Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, ban hành hệ thống
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí.
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình, đề
án, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường không khí.
- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện
trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường không khí.

60
- Xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường không
khí; thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; thẩm định, phê duyệt
báo cáo đánh giá tác động môi trường và kiểm tra, xác nhận các công trình bảo
vệ môi trường; tổ chức xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường không khí.
- Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa
dạng sinh học; quản lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi
trường không khí.
- Cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường
không khí.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường
không khí; thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
không khí; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường không khí.
- Đào tạo nhân lực khoa học và quản lý môi trường không khí; giáo dục,
tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí.
- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường không khí.
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện ngân sách
nhà nước cho các hoạt động bảo vệ môi trường không khí.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí.
Cũng theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định phương hướng phát
triển cơ bản của nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu quan điểm “Phát triển kinh tế
- xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường”.

61
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đó, cần tăng cường công tác quản lý nhà
nước trong bảo vệ môi trường. Nhận thức về bảo vệ môi trường của các cấp
ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã có chuyển biến tích cực; bước đầu hình
thành ý thức bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính
sách, pháp luật và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã
được hình thành tương đối đồng bộ và đang từng bước được hoàn thiện.
Các chủ trương, quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường cơ bản đã
được thể chế hóa thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Năm 1991, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển
bền vững giai đoạn 1991 - 2000. Tiếp theo, Chiến lược phát triển bền vững
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh,
Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030,… đã đề ra các định hướng về bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi
trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thủy sản
và các văn bản luật có liên quan, các văn bản dưới luật đã quy định khá đầy
đủ, chi tiết, cụ thể những nội dung phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm, phục hồi
môi trường và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân, về bảo tồn thiên
nhiên và đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, các cơ chế, công cụ, chế tài bảo vệ
môi trường cũng được quy định trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật
Đầu tư, Luật Thuế bảo vệ môi trường. Hầu hết các luật này đã được bổ sung,
sửa đổi, có đạo luật được sửa đổi một số lần trong thời gian giữa các nhiệm
kỳ Đại hội IX, X và XI nên kịp thời thể chế hóa, góp phần sớm đưa các chủ
trương, quan điểm bảo vệ môi trường của Đảng vào cuộc sống.
Theo quy định của luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật có
liên quan thì hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không
khí ở Việt Nam hiện nay bao gồm:

62
* Cơ quan có thẩm quyền chung
Cơ quan có thẩm quyền chung trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường là cơ quan có thẩm quyền quản lý trên tất cả mọi lĩnh vực, trong đó
bao gồm cả lĩnh vực môi trường trên phạm vi cả nước hoặc từng địa phương.
Bao gồm: Chính phủ và U ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Chính phủ là cơ quan nhà nước có chức năng hành pháp và là cơ quan
đứng đầu trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ có nhiệm
vụ quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trong phạm vi cả nước. Trong quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí, Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước trong phạm vi toàn quốc thông qua các hoạt động chủ
yếu sau:
- Phê duyệt các quy hoạch bảo vệ môi trường trên phạm vi toàn quốc.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
- Các quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường và phân cấp quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường không khí cho toàn bộ hệ thống các cơ quan
quản lý nhà nước có liên quan.
- Quyết định chính sách cụ thể về bảo vệ, cải thiện và giữ gìn môi
trường; chỉ đạo tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường
- Chính phủ: Theo Điều 140 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định
thì Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
trong cả nước. Căn cứ theo Luật tổ chức Chính phủ 2015, trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường, Chính phủ có nhiệm vụ như sau: “1. Thống nhất quản lý nhà
nước về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tổ chức
quy hoạch, kế hoạch và xây dựng chính sách bảo vệ, cải thiện và nâng cao
chất lượng môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến
đổi khí hậu.

63
2. Quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường;
bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; phát triển năng lượng sạch, sản xuất
sạch, tiêu dùng sạch; phát triển các dịch vụ môi trường và xử lý chất thải.
3. Thống nhất quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu, dự
báo khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu và đánh giá tác động môi trường để
chủ động triển khai có hiệu quả các giải pháp phòng, chống thiên tai và ứng
phó với biến đổi khí hậu.
4. Quyết định chính sách cụ thể về bảo vệ, cải thiện và giữ gìn môi
trường; chỉ đạo tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường ở các khu
vực trọng điểm; kiểm soát ô nhiễm, ứng cứu và khắc phục sự cố môi trường.
5. Thi hành chính sách về bảo vệ, cải tạo, tái sinh và sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên”
Ủy ban nhân dân là cơ quan có thẩm quyền chung, thông qua hoạt động
chấp hành – điều hành của mình Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản
lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, hành chính – chính trị trong
phạm lãnh thổ nhất định. Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương nên phải chịu trách nhiệm tổ chức quản lý hành chính nhà nước ở
địa phương; đảm bảo bộ máy hành chính đó hoạt động thông suốt. Nghĩa vụ
và quyền hạn của Ủy ban nhân dân được quy định trong Hiến pháp 2013,
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Từ đó pháp luật bảo vệ môi trường có vai trò quy định chi tiết và cụ thể
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường. Ủy ban nhân dân có trách nhiệm trước Chính phủ hoặc Ủy ban
nhân dân cấp trên trực tiếp về bảo vệ môi trường không khí ở địa phương.
Theo Điều 143 Luật bảo vệ môi trường thì Ủy ban nhân dân các cấp có
nhiệm vụ sau:

64
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm sau:
a) Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp
luật, chính sách, chương trình, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi
trường;
b) Tổ chức thực hiện pháp luật, chiến lược, chương trình, kế
hoạch và nhiệm vụ về bảo vệ môi trường;
c) Xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường của địa
phương phù hợp với quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia;
d) Tổ chức đánh giá và lập báo cáo môi trường. Truyền thông,
phổ biến, giáo dục chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường;
đ) Tổ chức thẩm định, phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường,
báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác nhận hoàn thành công trình
bảo vệ môi trường, hướng dẫn và tổ chức kiểm tra xác nhận kế hoạch
bảo vệ môi trường theo thẩm quyền;
e) Cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về bảo vệ
môi trường theo thẩm quyền;
g) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về môi trường theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và quy định của pháp luật có
liên quan; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan giải quyết
các vấn đề môi trường liên tỉnh;
h) Chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc để xảy ra ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng trên địa bàn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm sau:
a) Ban hành theo thẩm quyền quy định, chương trình, kế hoạch
về bảo vệ môi trường;

65
b) Tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và
nhiệm vụ về bảo vệ môi trường;
c) Xác nhận, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường
theo thẩm quyền;
d) Hằng năm, tổ chức đánh giá và lập báo cáo công tác bảo vệ
môi trường;
đ) Truyền thông, phổ biến, giáo dục chính sách và pháp luật về
bảo vệ môi trường;
e) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi trường
theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và quy định của pháp
luật có liên quan;
g) Phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp huyện có liên quan giải
quyết các vấn đề môi trường liên huyện;
h) Chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của
Ủy ban nhân dân cấp xã;
i) Chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu để xảy
ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm sau:
a) Xây dựng kế hoạch, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường,
giữ gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn; vận động nhân dân xây dựng
nội dung bảo vệ môi trường trong hương ước; hướng dẫn việc đưa tiêu
chí về bảo vệ môi trường vào đánh giá thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum,
sóc, khu dân cư và gia đình văn hóa;
b) Xác nhận, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường
theo ủy quyền; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường
của hộ gia đình, cá nhân;

66
c) Phát hiện và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường cấp trên trực tiếp;
d) Hòa giải tranh chấp về môi trường phát sinh trên địa bàn theo
quy định của pháp luật về hòa giải;
đ) Quản lý hoạt động của thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ
dân phố và tổ chức tự quản về giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi
trường trên địa bàn;
e) Hằng năm, tổ chức đánh giá và lập báo cáo công tác bảo vệ
môi trường;
g) Chủ trì, phối hợp với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên
địa bàn tổ chức công khai thông tin về bảo vệ môi trường của cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ với cộng đồng dân cư;
h) Chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp huyện nếu để
xảy ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn.
* Cơ quan có thẩm quyền chuyên môn
Bộ Tài nguyên và môi trường là cơ quan có thẩm quyền chuyên môn ở
Trung ương, là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí
tượng thủy văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp và
thống nhất về biển và hải đảo.
Trước đây, trong cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường, Cục Môi trường cùng với các đơn vị chức năng của các bộ, ngành
Trung ương và các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương đã hình thành nên hệ thống tổ chức quản lý nhà
nước về môi trường từ Trung ương đến địa phương. Trong hơn mười năm chủ
trì tổ chức thực hiện Luật bảo vệ môi trường, hệ thống tổ chức trên đã đóng

67
vai trò quyết định đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, góp phần hạn
chế mức độ gia tăng ô nhiễm, cải thiện một bước chất lượng môi trường.
Ngày 05 08 2002, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 02 2002 QH11
trong đó quyết định thành lập Bộ tài nguyên và Môi trường; tiếp đến ngày
11/11/2002, Chính phủ ban hành NĐ số 91 2002 NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì
đã tách chức năng này của Cục Môi trường từ Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường sang cho Bộ Tài nguyên và Môi trường. Cùng với việc sắp xếp lại
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành, bộ phận quản lý
nhà nước về môi trường theo ngành, lĩnh vực ở các bộ, ngành cũng được điều
chỉnh, bổ sung theo hướng phù hợp với tình hình và tổ chức mới. [10, trang
45]. Theo đó, Bộ tài nguyên và môi trường là cơ quan chỉ đạo chuyên ngành
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí, giúp Chính phủ thực hiện quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí trên phạm vi cả nước trên cơ sở
pháp luật hiện hành; chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong hoạt động quản
lý bảo vệ môi trường không khí, đứng đầu là Bộ trưởng bộ tài nguyên và môi
trường. Về hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và môi trường
trong những năm qua đã đạt nhiều thành tựu trên cơ sở quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và môi trường.
Ở địa phương, Sở Tài nguyên và môi trường ở cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường gồm: đất đai; tài nguyên
nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn; biến
đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý và tổ chức thực hiện các dịch vụ công
về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng của Sở; Phòng quản lý Tài nguyên
và Môi trường ở các quận, huyện và cán bộ địa chính kiêm trách nhiệm quản

68
lý môi trường ở các xã, phường và cấp tương đương đang đựơc hình thành và
ổn định hoạt động.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường: Theo quy định tại Điều 141 Luật bảo
vệ môi trường 2014 thì Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền về môi trường không khí,
giải quyết vấn đề về môi trường liên ngành, tổ chức thực hiện hoạt động xây
dựng, thẩm định, phê duyệt quy hoạch môi trường, kiểm tra, thanh tra xử lý vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí.
- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ: Chủ trì, phối hợp với Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, ban hành thông tư, thông tư
liên tịch về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực bộ, ngành quản lý ; tổ chức triển
khai thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường thuộc phạm vi quản lý của
mình; hằng năm báo cáo Chính phủ các hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường trong lĩnh vực thuộc bộ, ngành quản lý.
2.1.4. Công tác thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp môi
trường không khí.
2.1.4.1. Thẩm quyền thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi
trường không khí
Quá trình lao động xã hội đòi hỏi sự quản lý nhà nước như một hiện
tượng tất yếu. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước về tổng quan là một
chu trình bao gồm các nội dung là đề ra các chủ trương, cơ chế chính sách,
pháp luật, quyết định quản lý để tạo ra công cụ pháp lý cho hoạt động và
khuôn khổ cho hành vi của các đối tượng chịu sự quản lý. Để xem xét, đánh
giá kết quả những tác động này trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước
cần có hoạt động thanh tra, kiểm tra để từ đó phát hiện và xử lý kịp thời
những sai phạm của đối tựợng bị quản lý đảm bảo mỗi cá nhân, cơ quan, tổ
chức chấp hành nghiêm Để thực hiện hiệu quả quản lý nhà nước về môi

69
trường không khí, ngoài việc tổ chức các chính sách, tuân thủ các quy định
của pháp luật về bảo vệ môi trường thì hoạt động thanh tra, xử lý vi phạm như
một biện pháp để khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện cũng
như để răn đe với những hành vi vi phạm pháp luật. Giám sát, thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện pháp luật và các chính sách về môi trường không khí là
những hành vi pháp lý của các cơ quan có thẩm quyền hoặc của cá nhân, tổ
chức nhằm theo dõi việc thực hiện pháp luật và chính sách môi trường không
khí, phát hiện những vi phạm pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường
không khí, những bất cập trong hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường nói
chung và pháp luật bảo vệ môi trường không khí nói riêng để trên cơ sở đó
kiến nghị những biện pháp ngăn chặn và những giải pháp sửa đổi, bổ sung.
Các biện pháp này có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao ý thức tự giác, tính
triệt để của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật môi trường không khí.
Thanh tra nhà nước về bảo vệ môi trường không khí là hoạt động của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo một thủ tục chặt ch
nhằm xác định các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí cũng như
hậu qủa của chúng để xử lý theo luật định. Thanh tra là hoạt động có tầm
quan trọng rất lớn trong việc đảm bảo thực hiện chính sách và pháp luật môi
trường không khí. Vì vậy, nội dung, thủ tục thanh tra, thẩm quyền tiến hành
thanh tra là những vấn đề cần phải lưu ý và quy định cụ thể hơn trong các văn
bản pháp luật.
Theo Luật thanh tra 2010, Nghị định 86 2011 NĐ-CP quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, Nghị định số
07 2012 NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ quy định về cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động
thanh tra chuyên ngành, Thông tư số 1485- MTg ngày 03 04 1994 của Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn tổ chức quyền hạn và phạm

70
vi hoạt động của thanh tra về bảo vệ môi trường và một số văn bản liên quan
khác. Theo đó, công tác thanh tra về môi trường có những nội dung chủ yếu
sau đây:
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
và các quy định có liên quan.
- Xác định và lập báo cáo về các sự cố, ô nhiễm, suy thoái môi trường
không khí để các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
- Giúp các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại, tố cáo và
tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí.
Như vậy có thể thấy công tác thanh tra hiện nay rất quan trọng, nó là
khâu gần như cuối cùng để đánh giá việc thực thi pháp luật có đúng hay
không. Bên cạnh đó để tìm ra những ưu điểm, nhược điểm của vấn đề cần giải
quyết, từ đó khắc phục những hạn chế, phát huy một cách có hiệu quả các
điểm mạnh. Hoạt động thanh tra đảm bảo được tính khách quan, minh bạch,
chính xác khi có khiếu nại, tranh chấp xảy ra, giúp các cơ quan có thẩm quyền
có căn cứ để xử lý phù hợp nhất.
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, kết quả của sự
phát triển đó là sự chuyên môn hóa các hoạt động của con người. Những đơn
vị, tổ chức sản xuất – kinh doanh có cùng cơ cấu kinh tế - kỹ thuật hay các tổ
chức, đơn vị hoạt động với mục đích giống nhau xuất hiện. Hay nói cách khác
đây chính là sự xuất hiện các loại ngành trong đời sống xã hội. Có sự phân
chia các lĩnh vực hoạt động của xã hội thành các ngành dẫn đến việc thực
hiện hoạt động quản lý nhà nước theo ngành. Cùng với việc xuất hiện hoạt
động quản lý theo ngành, lĩnh vực tất yếu s dẫn đến xuất hiện thanh tra theo
hoạt động quản lý này. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc ở đâu
có hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở đó có hoạt động thanh tra nhà
nước. cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thực hiện chức năng thanh tra

71
chuyên ngành về bảo vệ môi trường và có trách nhiệm phối hợp với thanh tra
chuyên ngành của các Bộ, ngành hữu quan trong việc bảo vệ môi trường
không khí. Quy định này xuất phát từ đặc thù của hoạt động quản lý nhà nước
về môi trường là hoạt động mang tính chất liên ngành, vì vậy nhất thiết phải
có sự phối hợp chặt ch giữa các cơ quan chức năng trong qúa trình tiến hành
công tác thành tra việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường không khí.
Thanh tra chuyên ngành môi trường không khí là hoạt động xem xét,
đánh giá việc chấp hành pháp luật, những quy định liên quan chặt ch đến
môi trường không khí. Vì vậy người tiến hành hoạt động thanh tra chuyên
ngành môi trường không khí phải có kiến thức chuyên môn về môi trường
không khí, vận dụng kiến thức đó để đưa ra kết luận chính xác.
Thanh tra chuyên ngành môi trường không khí được chia làm hai cấp:
cấp Trung ương thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; cấp địa phương thuộc
Sở Tài nguyên và Môi trường. Hiện nay, thanh tra nhà nước về bảo vệ môi
trường, trong đó có thanh tra về bảo vệ môi trường không khí được tiến hành
theo hai phương thức sau:
- Thanh tra theo kế hoạch: là những đợt thanh tra theo kế hoạch đã
được xây dựng hàng năm hoặc theo từng quí. Thanh tra theo phương thức này
chiếm 70% tổng số cuộc thanh tra.
- Thanh tra đột xuất, do yêu cầu phải xác minh những dấu hiệu vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường hoặc để giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường. Thanh tra theo phương thức này chiếm 30% tổng số
cuộc thanh tra.
Theo điều 30 luật thanh tra quy định về hoạt động thanh tra của cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thì:
1. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập. Hoạt

72
động thanh tra chuyên ngành do người được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành thực hiện theo quy định của Luật này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Khi tiến hành thanh tra, người được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành được xử phạt vi phạm hành chính và thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình thanh tra đó, đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên có
quyền: yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu và trả lời
những vấn đề cần thiết cho việc thanh tra; Tiến hành các biện pháp kiểm tra kĩ
thuật tại hiện trường; quyết định tạm đình chỉ trong trường hợp cần khẩn cấp
các hoạt động có nguy cơ gây sự cố nghiêm trọng về môi trường không khí và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định đó của mình; được quyền
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi
phạm. Trong thực tế thanh tra hiện nay, đã phát hiện, xử lý theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý nhiều sai phạm, thu hồi
tiền, tài sản cho Nhà nước và tập thể, cá nhân; đồng thời kiến nghị với cấp có
thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm khắc
phục những khuyết điểm, sơ hở trong công tác quản lý, góp phần phát triển
kinh tế và tăng cường trật tự, k cương xã hội. Các cuộc thanh tra được tiến
hành có trọng tâm, trọng điểm. Việc chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra
sâu sát, cụ thể, phân công trách nhiệm rõ ràng hơn; Hầu hết kết quả các cuộc
thanh tra đã được các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhất trí, dư luận đồng tình,
ủng hộ, vì thế vai trò, vị thế của cơ quan Thanh tra được nâng lên rõ rệt. Tuy
nhiên bên cạnh đó cũng tồn tại một số hạn chế sau: Thời hạn các cuộc thanh
tra thường kéo dài, vi phạm thời gian theo quy định của pháp luật, không đáp
ứng được yêu cầu khẩn trương, kịp thời của công tác quản lý nhà nước; việc

73
xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận thanh tra chưa kịp
thời, đúng thời hạn…..
Ngoài thẩm quyền về thanh tra, cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường còn có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
không khí. Trên cơ sở kết quả thanh tra, hoặc khi phát hiện ra hành vi vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường trong phạm vi thẩm quyền của mình có quyền được quy định các trách
nhiệm pháp lý đối với các chủ thể có vi phạm đó.
2.1.4.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp môi trường không khí.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào
đưa ra định nghĩa tranh chấp môi trường. Luật bảo vệ môi trường 2014 chỉ
nêu ra các nội dung tranh chấp môi trường tại Điều 161 về tranh chấp về môi
trường. Theo đó, nội dung tranh chấp môi trường bao gồm:
- Tranh chấp về quyền, trách nhiệm bảo vệ môi trường trong khai thác,
sử dụng thành phần môi trường;
- Tranh chấp về xác định nguyên nhân gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố
môi trường;
- Tranh chấp về trách nhiệm xử lý, khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt
hại do ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường.
Vì vậy trong quá trình nghiên cứu các nhà khoa học Luật môi trường đã
đưa ra những định nghĩa tranh chấp môi trường khác nhau. Theo đó, tranh
chấp môi trường là những xung đột giữa các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân
cư về quyền và lợi ích liên quan đến việc phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy
thoái sự cố môi trường; về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên và môi trường; về quyền được sống trong môi trường trong lành và
quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản do làm ô nhiễm môi trường
gây nên.

74
Tranh chấp môi trường không khí thường là các tranh chấp ngoài hợp
đồng, nó có đặc điểm là: phát sinh trực tiếp hoặc có liên quan mật thiết tới các
hoạt động bảo vệ môi trường không khí, phát sinh rất sớm, các tranh chấp gắn
liền với các lợi ích cá nhân và cộng đồng, bên bị hại gồm nhiều đối tượng
khác nhau và thiệt hại khó xác định - thường là rất lớn. Giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực môi trường không khí với ý nghĩa là hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các tổ
chức, cá nhân để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm
khôi phục quyền lợi của các chủ thể bị xâm phạm, phục hồi tình trạng môi
trường không khí bị thiệt hại đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí.
Ví dụ: Vụ xây dựng bãi rác Kiêu Kỵ, Gia Lâm đã gây nên không khí
căng thẳng do thiếu thông tin cho những người dân địa phương trước khi tiến
hành Dự án, đã khiến có những phản ứng nghiêm trọng. Khi tìm hiểu nguyên
nhân thì các nhà quản lý mới biết rằng người dân nơi đây không được thông
báo hay có một chút thông tin nào về việc xây dựng Dự án này ngay trên
mảnh đất quê hương họ. Do sự cố tại bác rãi Nam Sơn, Sóc Sơn nên hàng
trăm xe rác từ thành phố Hà Nội đã ùn ùn đổ rác về bãi rác Kiêu Kỵ gây nên
quá tải cho bãi rác này. Nước rác không được xử lý đã tràn ra sông Cồn Bây
gây ô nhiễm nguồn nước, làm cá tôm chết hàng loạt. Mùi khó chịu của bãi rác
đã làm ô nhiễm môi trường trầm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của
người dân sống quanh vùng. Sau sự việc này, nhân dân xã Kiêu Kỵ đã có bản
kiến nghị 8 điểm gửi lên các cấp có thẩm quyền trong đó có một số điều như:
bồi thường cho những người dân sống gần khu bãi rác do việc ô nhiễm gây ra
(vì nhà dân gần nhất chỉ cách bãi rác có 300m), thường xuyên kiểm tra mức
độ ô nhiễm nguồn nước nhưng sau một thời gian dài vẫn chưa được giải
quyết. Đặc biệt chính sách hỗ trợ cho vùng bị ảnh hưởng của bãi rác vẫn còn

75
đang trong giai đoạn "bàn bạc, nghiên cứu". Do bất bình nên những người dân
ở đây đã dựng lều bạt, chặn đường các xe rác, không cho đổ rác vào bãi rác
dẫn đến việc chính quyền địa phương phải tổ chức cưỡng chế giải tỏa; vụ việc
kéo dài, đông đảo bà con địa phương đã kéo lên khiếu nại vượt cấp ở Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội. [34]
Như vậy để hạn chế tình trạng tranh chấp xảy ra điều quan trọng là ở ý
thức và trách nhiệm của mỗi người. Cần phải đặt lợi ích của nhà nước, của
cộng đồng lên trước, để xã hội đi vào ổn định trật tự, bản thân mỗi người đều
được tận hưởng một bầu không khí trong lành. Bên cạnh đó phải đặt ra những
nguyên tắc để giải quyết tranh chấp môi trường không khí: đó là,
- Nguyên tắc khuyến khích các bên tranh chấp tự thương lượng và hoà
giải ngay tại cấp cơ sở.
- Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
- Nguyên tắc ưu tiên áp dụng các biện pháp nhằm khôi phục tình trạng
môi trường không khí bị thiệt hại.
Do những đặc điểm và yêu cầu đó của các tranh chấp môi trường
không khí cho thấy hoạt động giải quyết các tranh chấp môi trường không khí
đòi hỏi phải được tiến hành một cách công phu, nghiêm túc, khách quan, phải
đảm bảo được sự phối hợp chặt ch giữa cơ quan giải quyết tranh chấp (trong
trường hợp các tranh chấp do Toà án giải quyết) với các cơ quan chuyên
ngành quản lý môi trường không khí trong việc thu thập và đánh giá các
chứng cứ có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
không khí và thiệt hại thực tế mà hành vi đó gây ra. Vì vậy, nó đòi hỏi phải
được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt ch . Các tranh chấp về môi
trường không khí hiện nay ở Việt Nam được giải quyết theo trình tự thủ tục
giải quyết các tranh chấp môi trường nói chung. Theo đó, nó được thực hiện
theo những bước sau:

76
- Các bên tự tiến hành thương lượng;
- Tranh chấp được hoà giải với sự chứng kiến của hoà giải viên;
- Khi quá trình tự thương lượng và hoà giải không thành, việc giải
quyết tranh chấp được thực hiện tại các cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường không khí hoặc Toà án.
Cũng theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam
thì các tranh chấp về bảo vệ môi trường nói chung và không khí nói riêng trên
lãnh thổ Việt Nam mà một bên là người nước ngoài cũng được giải quyết theo
quy định của pháp luật Việt Nam nhưng đồng thời cũng có xem xét đến pháp
luật và thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, tranh chấp môi trường không khí cũng có thể xảy ra giữa các
quốc gia với nhau. Tranh chấp môi trường quốc tế là sự bất đồng hoặc xung
đột về quan điểm hoặc lợi ích giữa các quốc gia liên quan đến sự biến đổi của
hệ thống môi trường tự nhiên bằng sự can thiệp của mình. Tranh chấp môi
trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội. Nó
được nảy sinh như một hệ quả tất yếu của quá trình khai thác và bảo vệ môi
trường khi có sự tranh giành lợi thế dẫn đến đối chọi lợi ích giữa các nhóm xã
hội. Nguồn tài nguyên của môi trường là hữu hạn trong khi nhu cầu của con
người là vô hạn, do vậy, luôn tồn tại hiện tượng tranh chấp, giành giật quyền
lợi trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên môi trường dẫn tới một hiện
tượng đặc biệt trong tranh chấp xã hội đó là tranh chấp môi trường. Những
tranh chấp đó có thể xuất hiện giữa các cá nhân, giữa các nhóm cùng chia sẻ
các nguồn tài nguyên môi trường, cũng có thể xuất hiện giữa các địa phương,
các quốc gia trong việc khai thác và bảo vệ môi trường...Tranh chấp môi
trường có quá trình bắt đầu, kết thúc và hoàn toàn có thể giải quyết được một
cách triệt để thông qua các biện pháp đối thoại, phân xử, hòa giải môi
trường...Ví dụ vụ tranh chấp về ô nhiễm không khí tầm xa giữa Canada với

77
Mỹ (1939 – 1941) diễn ra hết sức phức tạp và nan giải, ảnh hưởng đến một bộ
phận lớn dân cư, khó giải quyết [30].
Vì các tranh chấp giữa các quốc gia là tranh chấp giữa các chủ thể có
chủ quyền nên thương lượng, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hoà
bình là nguyên tắc mà pháp luật môi trường Việt Nam theo đuổi; tranh chấp
giữa Việt Nam và các nước khác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được giải
quyết trên cơ sở thương lượng, có xem xét đến pháp luật và thông lệ quốc tế.
Thực tế tại Việt Nam đã cho thấy, các xung đột, tranh chấp về môi
trường nói chung và môi trường không khí nói riêng ngày càng gia tăng cùng
với quá trình phát triển của đất nước, do nhu cầu phát triển của mỗi cá nhân,
tổ chức và cùng với sự nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ
môi trường. Những vụ khiếu kiện này tập trung phần lớn ở vùng ven đô xoay
quanh tranh chấp về đất đai, ô nhiễm môi trường không khí do khói bụi, rác
thải gây ra ở các làng nghề...
Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này lại
chưa theo kịp để làm nền tảng cho việc giải quyết tốt các tranh chấp về môi
trường nói chung và môi trường không khí nói riêng trên thực tế, đôi khi nó
còn làm cho các tranh chấp, xung đột càng trở nên căng thẳng, gây mất đoàn
kết trong nội bộ nhân dân, giảm lòng tin của người dân vào chính cơ quan có
thẩm quyền giải quyết vụ việc. Mặc dù cũng đã có các quy định về giải quyết
tranh chấp môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng nhưng
hiệu quả thực thi của nó trên thực tế còn rất hạn chế. Điều đó có thể được lý
giải bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như: ý thức chấp hành pháp luật về bảo
vệ môi trường không khí của người dân còn thấp, do nhu cầu phát triển đôi
khi được đặt cao hơn nhu cầu được sống trong một môi trường trong lành của
bên gây ra tranh chấp, nhưng nó cũng phải được kể đến lý do là sự thiếu trách
nhiệm của chính các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp

78
này... Qua đó có thể nhận thấy những bất cập nảy sinh trong chính các quy
định của pháp luật về giải quyết các tranh chấp môi trường (trong đó có tranh
chấp môi trường không khí). Cụ thể là:
- Hiện tại, Việt Nam đang dùng cơ chế hành chính để giải quyết tranh
chấp môi trường. Nhìn chung cơ chế này còn thiếu năng lực trong xác định
thiệt hại do ô nhiễm. Theo kết quả nhóm nghiên cứu dự án “Đánh giá tác
động của ô nhiễm môi trường khu công nghiệp nhìn từ góc độ cộng đồng” của
(IPSI) thực hiện tại Hưng Yên, Đà Nẵng, TP HCM, Đồng Nai và Thái
Nguyên cho thấy ô nhiễm về môi trường tại các khu công nghiệp chủ yếu do
người dân phát hiện. Người dân không đánh giá ô nhiễm theo chỉ số BOD,
COD mà họ nhìn nhận dưới góc độ mùi hôi thối, ảnh hưởng tới sức khỏe của
họ [23].
- Việc giải quyết tranh chấp môi trường qua phương thức trung gian và
hòa giải còn chưa được quy định rõ, nói về phương thức giải quyết này pháp
luật chỉ có quy định là thuộc trách nhiệm thực hiện của UBND được quy định
tại Luật bảo vệ môi trường, đồng thời s được tiến hành theo quy định về
pháp luật hòa giải.
- Trong những tranh chấp về môi trường ở Việt Nam có 2 dạng tranh
chấp cơ bản mà vị thể giữa các bên chủ thể không cân bằng: Tranh chấp giữa
người dân với doanh nghiệp, công ty xả thải; Tranh chấp giữa chủ thể gây ô
nhiễm tới lợi ích công với cơ quan nhà nước. Chính ở hai dạng tranh chấp này
hòa giải không được quy định rõ gây nên việc không áp dụng được hoặc áp
dụng không hiệu quả, ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ thể.
- Phương thức giải quyết tranh chấp qua con đường tự thỏa thuận theo
nguyên tắc của pháp luật dân sự. Về cơ bản các quy định về dân sự mà cụ thể
là nguyên tắc tự thỏa thuận được quy định trong Bộ luật dân sự 2015 là hợp
lý. Nhưng đặc điểm của môi trường là khá đặc biệt việc quy định phương

79
pháp tự thỏa thuận như dân sự trong nhiều trường hợp dẫn tới không thỏa
đáng khi mà việc xác định hậu quả ô nhiễm hay, hay sự bất cân đối về vị thế
giữa các chủ thể gây ảnh hưởng tới đàm phán và kết quả thỏa thuận giữa các
chủ thể tranh chấp.
- Phương pháp giải quyết tranh chấp môi trường qua con đường tố
tụng tại tòa án tồn tại khá nhiều bất cập, vì được quy định giải quyết theo Bộ
luật dân sự 2015 với quy định về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng
với đặc điểm của môi trường là đặc biệt, khác hẳn với những những đối tượng
khác trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên trong quá trình giải quyết xuất
hiện nhiều điểm bất cập như chủ thể khởi kiện, điều kiện khởi kiện, nghĩa vụ
chứng minh...
2.2. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi
trƣờng không khí.
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo
vệ môi trường không khí
Có thể nói, hệ thống các văn bản pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường không khí ở Việt Nam hiện nay còn khá hạn chế và thiếu sót nên ta
khó có thể tìm thấy quy định riêng cụ thể nào về trách nhiệm của các tổ chức,
cá nhân trong lĩnh vực này mà ta chỉ có thể tìm thấy một vài quy định về vấn
đề này trong một số văn bản có liên quan như sau:
* Trách nhiệm chung của các cá nhân, tổ chức:
Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 có quy định như sau: “Bảo vệ môi
trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá
nhân sự nghiệp của toàn dân” [16, Điều 4].
Bảo vệ môi trường là các hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự
cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải hiện môi

80
trường; khai thác sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ
đa dạng sinh học. Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên
trầm trọng. Ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường ảnh hưởng tiêu cực
đến sự sống, sức khỏe, cuộc sống của mọi người và sự phát triển bền vững
của quốc gia. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền được
sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” [15,
Điều 43]. Quy định này ghi nhận quyền và nghĩa vụ về bảo vệ môi trường của
công dân, tạo cơ sở hiến định cho việc xác lập quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
bảo vệ môi trường vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau của
mọi chủ thể trong xã hội. Luật bảo vệ môi trường đã cụ thể hóa quy định trên
của Hiến pháp, xác định bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, “là
trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân”.
Thông qua những quy định của Luật bảo vệ môi trường 2014, có thể
thấy quyền và trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ môi trường bao
gồm những nội dung:
- Truyền thông, giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi
trường, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng
sinh học;
- Bảo vệ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên;
- Giảm thiểu, thu gom, tái sử dụng và tái chế chất thải;
- Phát triển, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; giảm thiểu
phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính, phá hủy tầng ôzôn; các hoạt động ứng
phó với biến đổi khí hậu;
- Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế
chất thải, công nghệ thân thiện với môi trường;
- Đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường;
cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường; thực hiện kiểm toán môi trường; tín
dụng xanh; đầu tư xanh.

81
- Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi
trường; thực hiện hợp tác công tư về bảo vệ môi trường.
Không khí là một phần của môi trường sống bởi bản chất của không khí là
nhằm duy trì sự sống của chung toàn cộng đồng. Điều đó có nghĩa là, môi trường
sống có trong lành hay không, có đảm bảo chất lượng hay không là yếu tố ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển lành mạnh của con người. Vì vậy, bảo vệ
môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng cũng chính là
trách nhiệm của toàn dân, của mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội chứ không phải
chỉ là trách nhiệm của riêng ai, riêng mỗi cơ quan quản lý nhà nước.
* Trách nhiệm cụ thể của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động bảo
vệ môi trƣờng không khí
- Tuân thủ các quy định về lập và thực hiện các nội dung trong báo cáo
đánh giá tác động môi trường
+ Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào nếu muốn thực hiện dự án có thể gây ảnh
hưởng đến môi trường đều phải thực hiện phân tích và đánh giá tác động môi
trường và phải đề xuất các biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường.
+ Cần có các biện pháp cụ thể để giảm thiểu các tác động xấu đến môi
trường, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và những biện pháp này phải
đảm bảo tính khả thi.
- Tuân thủ các quy định về lập và thực hiện các nội dung trong cam kết
bảo vệ môi trường.
+ Tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường có trách nhiệm lập bản cam kết bảo vệ môi trường để đăng
ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp phường, xã
được ủy quyền xem xét, xác nhận
+ Sau khi bản cam kết bảo vệ môi trường đã được xác nhận thì tổ chức,
cá nhân có trách nhiệm thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung đã ghi trong
bản cam kết bảo vệ môi trường.

82
- Tổ chức, cá nhân phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện
với môi trường
+ Các cơ quan quản lý nhà nước cần xiết chặt về vấn đề cấp giấy phép
hoạt động các lĩnh vực ảnh hưởng nhiều tới môi trường (ví dụ như hoạt động
khai thác khoáng sản), kiểm tra năng lực của các tổ chức, cá nhân.
+ Cần có một số chính sách lớn như khuyến khích các doanh nghiệp có
năng lực vốn, thiết bị đầu tư vào môi trường; hỗ trợ vốn để các tổ chức, cá
nhân cải tiến công nghệ, kỹ thuật, tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn
lực Khoa học và công nghệ từ bên ngoài.
- Thực hiện các quy định về quản lý chất thải
- Trách nhiệm trong phòng chống và khắc phục ô nhiễm, suy thoái và
sự cố môi trường không khí
Phòng chống ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường không khí của
mọi tổ chức, cá nhân công dân là nghĩa vụ pháp lý vì nó xuất phát từ các căn
cứ pháp lý được quy định cự thể tại Luật bảo vệ môi trường, các quy định
của Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Môi trường không khí chỉ có một giới hạn chịu đựng nhất định nên khi
các cá nhân, tổ chức sử dụng và tác động đến môi trường không khí phải tính
đến khả năng tự điều chỉnh, tự cân bằng vốn có của nó. Chỉ khi con người sử
dụng môi trường không khí theo hướng đó thì mới có thể đảm bảo sự bền
vững của môi trường sống. Vì vậy tại Luật bảo vệ môi trường 2014 đã có quy
định “nghiêm cấm che giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động
bảo vệ môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với
môi trường” [16, Điều 7] và chỉ khi nào các cá nhân, tổ chức trong xã hội tuân
thủ đúng các quy định của pháp luật về trách nhiệm của mình trong bảo vệ
môi trường thì mới có thể đảm bảo được yêu cầu đó.

83
Cũng tại điều luật đó có quy định: nghiêm cấm hành vi “Thải khói,
bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ,
các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường”. Pháp luật bảo vệ
môi trường không khí ở Việt Nam nghiêm cấm hành vi này vì đây chính là
những nguyên nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường không khí. Nhưng
nếu hiểu theo quy định này của pháp luật thì có thể hiểu là trong các hoạt
động có tác động đến môi trường không khí thì đều nghiêm cấm không cho
các cá nhân, tổ chức được phép thải bất kỳ một lượng khói, bụi, khí độc, mùi
hôi thối gây hại nào vào không khí; còn đối với hoạt động có phát bức xạ và
phóng xạ thì có được phép phát bức xạ, phóng xạ vào không khí nhưng
không được vượt quá giới hạn cho phép theo những chuẩn mực đã được quy
định trong các tiêu chuẩn môi trường không khí Việt nam. Quy định như vậy
chưa thật phù hợp vì môi trường không khí bản thân nó có khả năng tự điều
chỉnh, đồng hoá các chất trong nó, nó có thể tiếp nhận một lượng khí thải,
bụi nhất định và tự điều hoà nó sao cho vẫn đảm bảo được chất lượng của
mình. Vì vậy quy định này s khó có thể được thực thi một cách triệt để và
thực tế đã chứng minh điều đó.
Bên cạnh quy định cấm những hành vi trên, trong phòng chống ô
nhiễm và suy thoái môi trường không khí, pháp luật còn quy định nghĩa vụ
của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện một số hành vi nhất định. Các quy
định này khuyến khích những hành vi tích cực của chủ thể, tạo ra cho chủ
thể những quyền nhất định để thực hiện chúng. Ví dụ như một số hoạt động
sau mà chủ thể phải có nghĩa vụ thực hiện: thực hiện đánh giá tác động môi
trường là một hành vi tích cực mà chủ thể cần thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật, xác định những tác động mà một dự án cụ thể có thể gây ra
cho môi trường không khí và đề xuất các biện pháp ngăn chăn hoặc giảm
thiểu chính là hoạt động phòng ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường không

84
khí có hiệu quả nhất; hoặc đối với các chủ thể tham gia lưu thông phải đảm
bảo để tất cả các phương tiện này không thải khói, bụi, khí chứa chất độc
vào môi trường không khí, không gây ra tiếng ồn vượt quá tiêu chuẩn môi
trường và phải đình chỉ hoạt động đối với các phương tiện không đạt các
tiêu chuẩn trên...
Điều 107 luật bảo vệ môi trường Việt Nam có quy định về trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân trong khắc phục môi trường như sau: “
1. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm sau:
a) Có phương án cải tạo, phục hồi môi trường khi tiến hành các dự án
có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường;
b) Tiến hành biện pháp khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường khi
gây ô nhiễm môi trường;
c) Trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây ô nhiễm môi
trường mà không tự thỏa thuận được về trách nhiệm thì cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường phối hợp với tổ chức, cá nhân có liên quan làm
rõ trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và cải thiện
môi trường
…………………..
4. Trường hợp môi trường bị ô nhiễm do thiên tai gây ra hoặc chưa xác
định được nguyên nhân thì bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm huy động nguồn lực để tổ
chức khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường.”
Theo quy định này thì khi các hiện tượng suy thoái hay sự cố môi
trường không khí xảy ra thì trách nhiệm áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời
trước hết thuộc cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Khi tiến hành các
biện pháp đó, cơ quan có thẩm quyền có thể huy động sự tham gia của các tổ
chức, cá nhân để khắc phục sự cố đó. Khi được huy động, các cá nhân, tổ

85
chức phải có trách nhiệm thực hiện các biện pháp khắc phục cụ thể theo quy
định, sự hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền đó. Và khi sự cố môi trường
không khí đó được giải quyết, họ s được thanh toán các chi phí thực tế đã bỏ
ra để khắc phục sự cố theo nguyên tắc thoả thuận.
Ngoài ra, để kịp thời khắc phục các sự cố môi trường nói chung và môi
trường không khí nói riêng khi xảy ra, Luật bảo vệ môi trường Việt Nam còn
có quy định về trách nhiệm khắc phục sự cố môi trường tại Điều 112. Theo đó
Tổ chức, cá nhân gây sự cố môi trường có trách nhiệm sau:
- Thực hiện yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trong quá trình điều tra, xác định phạm vi, giới hạn, mức độ, nguyên
nhân, biện pháp khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường;
- Tiến hành ngay biện pháp ngăn chặn, hạn chế nguồn gây ô nhiễm môi
trường và hạn chế sự lan rộng, ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của nhân
dân trong vùng;
- Thực hiện biện pháp khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường theo
yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường;
- Bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này và quy định của pháp
luật có liên quan;
- Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường việc ứng phó
và khắc phục sự cố môi trường.
2.2.2. Trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí
* Về hệ thống văn bản pháp luật
Có thể thấy văn bản pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường không khí ở nước ta rất rộng và nằm rải rác ở các luật
chuyên ngành. Tuy nhiên có thể thấy một điều rằng pháp luật về trách nhiệm
pháp lý trong lĩnh vực này thường xuyên thay đổi, điều này chứng tỏ điều

86
không ổn định của nó. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho
công tác bảo vệ môi trường không khí ở nước ta trong thời gian qua không đạt
hiệu quả.
* Về văn bản pháp luật trách nhiệm hình sự thì được quy định tại
chương XVII Bộ luật Hình sự 1999.
* Về văn bản pháp luật trách nhiệm hành chính: được quy định tương
đối đầy đủ và bao quát mọi yếu tố của môi trường không khí tại Nghị định
179/2013 NĐ-CP ngày 14 11 2013 của Chính phủ. Tuy nhiên có thể thấy một
điều là các Nghị định quy định việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường không khí thường xuyên thay đổi, điều này cho thấy tính không
ổn định của pháp luật nước ta, dẫn đến việc tuyên truyền pháp luật cũng như
việc chấp hành pháp luật gặp nhiều khó khăn.
* Về văn bản pháp luật trách nhiệm dân sự: có thể thấy hiện nay pháp
luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí ở
nước ta chưa được chú trọng và phát triển. Các quy định về trách nhiệm dân
sự trong lĩnh vực này mới chỉ dừng lại ở quy định chung mang tính nguyên
tắc được thể hiện ở trong Bộ luật Dân sự 2015 và nằm rải rác ở các văn bản
pháp luật khác như: luật Khoáng sản, luật Dầu khí…
* Về đối tƣợng tác động
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
không khí tác động đến một bên là cơ quan nhà nước (chủ thể áp dụng biện
pháp trừng phạt) và một bên là chủ thể vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí (bên phải gánh chịu hậu quả bất lợi).
Về chủ thể vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí: có đặc
trưng là các chủ thể này thường là pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh
và tùy theo mức độ vi phạm mà các chủ thể này thuộc đối tượng điều chỉnh
của pháp luật trách nhiệm hình sự, hành chính hay dân sự.

87
Đối với chủ thể có hành vi nguy hiểm cho xã hội, do cá nhân thực hiện
dưới dạng hành động hoặc không hành động, đầy đủ cấu thành tội phạm thi
do pháp luật trách nhiệm hình sự điều chỉnh.
Đối với các cá nhân và tổ chức vi phạm chưa đến mức phải xử lý hình
sự thì thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật trách nhiệm hành chính hoặc
trách nhiệm dân sự.
Về chủ thể áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý: có đặc trưng là
mang yếu tố quyền lực nhà nước đó là các cơ quan quản lý nhà nước, cá nhân,
tổ chức được nhà nước trao quyền áp dụng.
* Về các biện pháp trách nhiệm
Về biện pháp trách nhiệm hình sự: đối với tội phạm môi trường không
khí được quy định ba loại hình phạt, đó là hình phạt tiền, cải tạo không giam
giữ và tù có thời hạn.
+ Hình phạt tiền: Mức phạt tiền được quy định trong phần lớn các điều
luật của chương này là hầu hết từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Ngoài ra
để đảm bảo tính răn đe thì nhà nước còn quy định hình phạt tiền với tư cách là
hình phạt bổ sung trong trường hợp xét thấy hình phạt tù vẫn chưa thỏa đáng
để giáo dục, cải tạo người phạm tội.
+ Hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định với tư cách là hình
phạt chính ở 8 trong 9 điều luật quy định về nhóm tội phạm môi trường
+ Hình phạt tù hầu hết các tội danh của chương này đề quy định mức
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ngoài các hình phạt chính trên thì tất cả các điều luật còn quy định hình
phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc cấm làm công
việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm đối với người phạm tội trong trường hợp
xét thấy nếu họ giữ chức vụ, hành nghề, hoặc làm các công việc liên quan thì
có nguy cơ là họ s tiếp tục gây nguy hại cho môi trường.

88
Qua nghiên cứu biện pháp trách nhiệm hình sự có thể thấy: khung hình
phạt của tội phạm môi trường không khí trong Bộ luật Hình sự thể hiện tính
nghiêm khắc của khung hình phạt. Việc quy định khoảng cách giữa mức phạt
tiền tối thiểu là 10.000.000đ và mức tối đa là 100.000.000đ đã cho phép thẩm
phán áp dụng hình phạt một cách linh hoạt hơn. Việc tăng cường áp dụng
hình phạt tiền với giá trị lớn là một quyết định đúng đắn, đồng thời là một
trong những biện pháp hữu hiệu bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam.
* Về biện pháp trách nhiệm hành chính:
Có hai nhóm trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
không khí đó là các biện pháp xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả.
+ Các biện pháp xử phạt: Theo Điều 4 Nghị định 179 2013 NĐ-CP đối
với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không
khí, cá nhân tổ chức vi phạm phải chịu một trong những hình thức xử phạt
chính sau đây:
- Cảnh cáo
- Phạt tiền với mức tối đa là 1.000.000.000đ đối với cá nhân,
2.000.000.000đ đối với tổ chức
+ Biện pháp khắc phục hậu quả: Nghị định 179 2013 NĐ-CP quy định
cụ thể 13 biện pháp khắc phục hậu quả, góp phần khắc phục triệt để hậu quả
của hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí.
Qua nghiên cứu các biện pháp trách nhiệm hành chính có thể thấy rằng:
Khoảng các giữa mức phạt tiền trong trách nhiệm hành chính tối thiểu
là 500.000đ và mức tối đa là 1.000.000.000đ đối với một hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là quá xa, điều này dễ tạo ra khe
hở cho các cơ quan có quyền xử phạt và cá nhân, tổ chức bị phạt có thể bắt
tay nhau trốn tránh tiền xử phạt. Mặc dù mức phạt tiền đã được tăng cao có
hành vi vi phạm đã bị phạt hành chính tới 1.000.000.000đ, nhưng cũng có

89
một số hành vi mức phạt chỉ có 500.000đ (khoảng các giữa các mức phạt quá
lớn) điều này chưa đảm bảo tính trừng phạt và răn đe, dẫn đến tình trạng
người vi phạm vẫn nột tiền phạt và vẫn tiếp tục vi phạm.
 Về biện pháp trách nhiệm dân sự bao gồm:
+ Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật môi trường không
khí [17, Điều 172].
+ Trách nhiệm khắc phục suy thoái môi trường không khí, ô nhiễm môi
trường không khí [16, Điều 106].
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây sự cố môi trường,
suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường gây ra [16, Điều 112].
Điều đặc biệt trong quá trình áp dụng trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường không khí đó là có thể áp dụng ngay cả khi chủ thể gây ô
nhiễm, suy thoái hoặc sự cố môi trường không có lỗi, điều này được thể hiện
ở điều 602 Bộ luật dân sự 2015
Trên đây là những nội dung chủ yếu của pháp luật bảo vệ môi trường
không khí tại Việt Nam hiện nay. Qua đó cho thấy các văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực này cũng như các quy định cụ thể về điều chỉnh hành
vi của cá nhân, tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước chưa thật sự hoàn thiện. Vì
vậy hiệu quả điều chỉnh trên thực tế của các quy định chưa cao nên công tác
bảo vệ môi trường không khí tại Việt Nam chưa thật sự đạt hiệu quả. Cần sớm
tìm các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật trong bảo vệ môi trường
nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng và giúp cho pháp luật
bảo vệ môi trường không khí phát huy được tốt vai trò của mình trên thực tế
là yêu cầu thật sự cần thiết.

90
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trƣờng
không khí.
Qua việc phân tích, trình bày thực trạng hệ thống pháp luật bảo vệ môi
trường không khí của Việt Nam trên, ta nhận thấy pháp luật bảo vệ môi
trường không khí là bộ phận pháp luật còn nhiều hạn chế và thiếu sót, vì vậy
việc đề ra những định hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện nó là cần thiết để
có thể đề ra được một giải pháp tốt hơn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật bảo vệ môi trường không khí, từ đó mới giúp tạo ra một cơ chế bảo đảm
cho việc bảo vệ môi trường không khí đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng của
Việt Nam. Nhưng trước tiên để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về bảo
vệ môi trường không khí ở Việt Nam cần phải có phương hướng để khắc phục
tình trạng ô nhiễm môi trường không khí đang ngày một gia tăng, cụ thể:
- Tiến hành kiểm soát ô nhiễm không khí chặt ch đối với các xí
nghiệp, nhà máy đang hoạt động trong các khu công nghiệp, khu dân cư, bắt
buộc các cơ sở, xí
nghiệp nhà máy phải xây dựng hệ thống lọc bụi đạt tiêu chuẩn trước
khi thải bụi ra môi trường không khí và xử lý triệt để các cơ sở công nghiệp
gây ô nhiễm không khí trầm trọng nằm xen k trong các khu dân cư, buộc các
cơ sở đó phải có biện pháp khắc phục hậu quả làm ảnh hưởng đến khu dân cư
đó và buộc di chuyển các nhà máy, xí nghiệp gây ô nhiễm nghiêm trọng trong
nội thành ra các khu công nghiệp ở ngoại thành; tiếp tục phát triển và áp dụng
rộng rãi công nghệ sản xuất sạch hơn đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng
hóa mà thường thải khói, bụi ra môi trường.

91
- Thực hiện các biện pháp hạn chế nguồn thải gây ô nhiễm không khí
đặc biệt từ phương tiện giao thông. Số lượng phương tiện giao thông nước ta
tăng lên rất nhanh, người dân sử dụng phương tiện xe gắn máy làm xe tư nhân
rất nhiều cũng đồng nghĩa với việc khí thải từ xe gắn máy thải ra môi trường
ngày một lớn. Do đó, các cơ quan nhà nước phải có biện pháp xử lý nguồn
thải này bằng cách kiểm tra lượng thải, thải ra môi trường có đạt tiêu chuẩn
hay không. Nếu không đạt tiêu chuẩn thì không cho phép hoạt động.
- Tu bổ nhiều diện tích rừng, trồng thêm rừng, cây xanh hoặc mở rộng
diện tích cây xanh, công viên, khu vui chơi, giải trí. Thực hiện tốt hoạt động
này, tình trạng ô nhiễm không khí không những được kiểm soát một cách hiệu
quả mà còn năng cao chất lượng của không khí xung quanh. Ủy ban nhân dân
trực tiếp quản lý đô thị, vùng đông dân cư, địa điểm bị ảnh hưởng thường
xuyên của nguồn khí thải đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện
các biện pháp cải thiện chất lượng không khí, tránh ảnh hưởng xấu đến con
người và sinh vật.
- Giảm thiểu ô nhiễm bụi là yêu cầu bức bách nhất: trước hết là phải
bảo đảm mặt đường sạch s , tránh đất cát rơi vãi khi vận chuyển vật liệu, khi
đào lấp sửa chữa đường sá, cống rãnh, khi sửa chữa, xây dựng nhà cửa và tích
cực giữ gìn vệ sinh đô thị.
- Giảm thiểu ô nhiễm khí SO2: biện pháp chủ yếu để giảm thiểu khí
SO2 là thay thế các nhiên liệu than và dầu trong các lò đốt công nghiệp.
- Giảm thiểu tiếng ồn: biện pháp hiệu quả nhất để giảm tiếng ồn đô thị
là kiểm tra chất lượng xe, không cấp phép lưu hành cho các xe không đạt tiêu
chuẩn môi trường. Ý thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường không khí s
được nâng cao thông qua các hoạt động tuyên truyền và giáo dục. Càng mở
rộng các hoạt động giáo dục cộng đồng về tác hại của sự ô nhiễm, suy thoái
môi trường không khí thì càng nâng cao được hiệu quả công tác bảo vệ môi

92
trường không khí. Vai trò giáo dục đặc biệt quan trọng. Khi con người ta vì sự
vô thức đã tàn phá chính môi trường trong đó họ đang sống thì việc thức tỉnh
họ là điều cần thực hiện trước sự trừng phạt và răn đe của thiên nhiên. Khi
con người đã có ý thức tự giác thì việc bảo vệ môi trường không khí s được
dễ dàng và thực hiện một cách hiệu quả. Đó chính là thực chất và ý nghĩa của
biện pháp giáo dục. Đảng và nhà nước ta cũng đặc biệt chú ý đến việc giáo
dục cộng đồng về bảo vệ môi trường không khí. Các biện pháp giáo dục ý
thức bảo vệ không khí được thể hiện dưới các hình thức sau:
- Đưa giáo dục ý thức bảo vệ môi trường không khí vào chương trình
học tập chính thức vào các trường phổ thông, dạy nghề, cao đẳng và đại học.
- Sử dụng rộng rãi các phương tiện truyền thông để giáo dục cộng đồng.
- Tổ chức các hoạt động cụ thể như: Ngày môi trường thế giới, tuần lễ
xanh, phong trào thành phố xanh- sạch - đẹp
Tiếp đó cần có những phương hướng để hoàn thiện hệ thống pháp luật
về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam.
Một là, thể chế hoá quan điểm, chủ trương phát triển của Đảng, bảo
đảm hài hoà giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường không khí, nhằm phát triển bền vững đất nước; bảo đảm quyền con
người được sống trong môi trường trong lành. Về lâu dài, cần tập trung đầu tư
nghiên cứu xây dựng một hệ thống pháp luật môi trường trong đó điều chỉnh
một cách đồng bộ, thống nhất các yêu cầu bảo vệ môi trường không khí gắn
với phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Hai là, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí phải được
xây dựng trong mối quan hệ hài hoà với các quy định pháp luật khác, đặc biệt
là đối với các quy định pháp luật về tài nguyên.
Ba là, quy định cụ thể trách nhiệm, trong đó có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trách nhiệm phục hồi môi trường không khí trong trường hợp gây ô

93
nhiễm, làm thiệt hại tới môi trường không khí; Có các chính sách cụ thể nhằm
khuyến khích áp dụng các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm và sử dụng công
nghệ sạch.
Bốn là, có các quy định để tăng cường năng lực, quyền hạn của cơ quan
giám sát tác động môi trường không khí, đặc biệt là chức năng giám sát việc
cấp, thu hồi giấy phép vận hành thiết bị công nghệ; hình thành các tổ chức
đánh giá môi trường hoạt động độc lập (một hình thức kiểm toán môi trường
độc lập).
Năm là, xây dựng và ban hành đầy đủ các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về môi trường không khí đảm bảo phù hợp với tình hình Việt Nam nhưng
không gây rào cản hàng rào kỹ thuật khi Việt Nam đã tham gia Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Sáu là, phân định lại chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cũng như
các cơ quan hữu quan, tránh sự chồng chéo như hiện nay; Phân cấp nhiệm vụ,
quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở
Trung ương với địa phương.
Bảy là, thể chế hoá chính sách sử dụng các công cụ kinh tế trong quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Tám là, hoàn thiện các quy định về thanh tra về bảo vệ môi trường
không khí.
Chín là, thể chế đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các điều ước
quốc tế về môi trường mà Việt Nam là thành viên, góp phần chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế; Nghiên cứu các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt
Nam cần tiếp tục ký kết; Tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật trong lĩnh
vực môi trường.

94
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trƣờng không
khí ở Việt Nam hiện nay.
3.2.1. Hoàn thiện các quy định tiêu chuẩn, kỹ thuật quốc gia về môi
trường không khí.
Tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường không khí là một trong những công
cụ quản lý hết sức quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu, yêu cầu đặt ra
trong từng giai đoạn quản lý nhà nước về môi trường không khí. Việc bắt
buộc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường là một trong
những biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường
không khí. Về thực chất chỉ gồm có hai loại tiêu chuẩn môi trường không khí
chủ yếu là: tiêu chuẩn chất lượng không khí và tiêu chuẩn khí thải, nhưng đến
nay pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam nói chung và pháp luật tiêu chuẩn
môi trường Việt Nam nói riêng lại chưa có quy định rõ sự phân biệt tiêu
chuẩn môi trường thành tiêu chuẩn chất lượng môi trường và tiêu chuẩn thải.
Vì vậy, trước hết cần phải có sự quy định rõ sự phân biệt này để tạo cơ sở cho
việc xây dựng hiện trạng tiêu chuẩn môi trường Việt Nam được chính xác;
vấn đề này đã được đưa ra xem xét trong dự thảo Luật bảo vệ môi trường.
Tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường không khí, cũng như các loại tiêu
chuẩn, quy chuẩn khác, cần xuất phát từ điều kiện kinh tế, hiện trạng cơ sở
vật chất - kỹ thuật và mặt bằng công nghệ. Tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường
được xây dựng phải gắn liền với các điều kiện về đảm bảo sức khoẻ nhân dân,
an toàn xã hội cũng như sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái. Bên cạnh
đó, tiêu chuẩn môi trường thể hiện sự sẵn sàng của một quốc gia trong hội
nhập kinh tế quốc tế và tham gia quá trình toàn cầu hoá.
Ngoài ra, trong hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí Việt Nam
hiện hành cũng đã đặt ra các yêu cầu phải hoàn thiện cho phù hợp hơn theo
hướng sau:

95
- Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường phải được xây dựng theo
nguyên tắc chung là phải phù hợp với trình độ phát triển, trình độ dân trí, phù
hợp với hiện trạng nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý nhà nước
về môi trường và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
- Cần có các quy định khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn môi trường
của các nước trên thế giới vào Việt Nam cũng như áp dụng các hệ thống tiêu
chuẩn quốc tế hiện đại.
* Đối với các tiêu chuẩn về thải khí cần được xem xét sửa đổi, hoàn
thiện theo những hướng sau:
- Cần điều chỉnh lại một số mức phát thải cho phù hợp với thực tế hiện
nay có tính đến nhu cầu nâng cao chất lượng môi trường 5-10 năm tới.
- Nghiên cứu để có thể quy định chi tiết mức phát thải cho các loại lĩnh
vực công nghiệp khác nhau, có tính đến đặc điểm công nghệ của nhiên liệu
đầu vào.
- Nghiên cứu quy định hợp lý hơn hệ số quy mô nguồn thải về tiêu chí
phân cấp quy mô và giá trị cụ thể của hệ số.
* Đối với tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí:
Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường không khí có
đặc trưng cơ bản là vừa mang tính kỹ thuật, vừa mang tính pháp lý, do vậy,
việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường phải đạt
được các yêu cầu:
Đáp ứng được các mục tiêu và bảo đảm yêu cầu bảo vệ, duy trì sự sống
và phát triển bình thường của con người và sinh vật; phòng ngừa ô nhiễm, suy
thoái và sự cố môi trường;
Ban hành kịp thời, có tính khả thi và phù hợp mức độ phát triển kinh tế-
xã hội, trình độ công nghệ của đất nước và đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế;

96
Có tính đến đặc thù của vùng, ngành, loại hình và công nghệ sản xuất,
dịch vụ.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tiếp tục xây dựng, ban hành quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường mới (ô nhiễm mùi…), phù hợp với các yêu cầu của
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, đồng thời định kỳ rà soát lại hệ thống tiêu
chuẩn, quy chuẩn môi trường đã ban hành để có những sửa đổi, bổ sung phù hợp;
nghiên cứu, xem xét, bãi bỏ các quy chuẩn không phù hợp.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động môi trường
không khí
Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí đã có những đóng góp đáng
kể trong việc xét duyệt các dự án đầu tư, xử lý về mặt môi trường đối với các
cơ sở đang hoạt động, đã và đang trở thành công cụ đắc lực cho quản lý môi
trường ở nước ta. Tuy nhiên, để hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động
môi trường không khí, trong thời gian tới, các quy định về đánh giá tác động
môi trường cần được sửađổi, bổ sung theo định hướng sau:
- Cần sớm ban hành quy định cụ thể, có tính khả thi về đánh giá tác
động môi trường không khí đối với các dự án chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn kỹ thuật về đánh giá tác động môi
trường không khí
- Cần có các quy định về kinh phí lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường không khí để các chủ dự án đầu tư có kế hoạch dành một khoản kinh
phí cho việc này, đảm bảo chất lượng của việc lập báo cáo
- Quy định trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
đánh giá tác động môi trường không khí, tránh tình trạng các dự án chưa được
đánh giá tác động môi trường vẫn được phê duyệt, thể hiện sự không nhịp
nhàng, chặt ch giữa các cơ quan nhà nước.

97
Chính vì thế, trong thời gian tới, toàn bộ các quy định về đánh giá tác
động môi trường không khí trong các văn bản hiện hành đều phải được sửa
đổi, bổ sung theo hướng bổ sung cơ chế đảm bảo tính công khai hóa, dân chủ
hóa quá trình đánh giá tác động môi trường.
3.2.3. Hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường công tác quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường không khí
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường
không khí, trước mắt sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ môi trường. Tiếp tục kiện
toàn và tăng cường năng lực tổ chức bộ máy, bảo đảm thực hiện hiệu quả
công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi
trường không khí nói riêng từ trung ương đến cơ sở theo hướng sau:
Cần có các quy định pháp lý về phân công, phân cấp chức năng, nhiệm
vụ rõ ràng giữa các bộ ngành và địa phương trong quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường; xác định rõ nội dung của quản lý nhà nước về môi trường, xác
định rõ chức năng, quyền hạn và quan hệ phối hợp giữa "cơ quan quản lý Nhà
nước thống nhất" về môi trường và "cơ quan quản lý Nhà nước chuyên
ngành” để tạo thuận lợi cho việc quản lý mà không gây phức tạp cho cơ sở.
- Phân công trách nhiệm bảo vệ môi trường không khí của các bộ,
ngành kinh tế, bởi bảo vệ môi trường là một trong ba trụ cột của phát triển
bền vững của các ngành, các cấp
- Cần có các quy định về tổ chức chuyên môn, chuyên trách về bảo vệ
môi trường trong các bộ, ngành. Đây là cơ sở để bảo vệ môi trường ở các cơ
quan này.
- Phân cấp rõ ràng trong việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về
bảo vệ môi trường không khí. Trong đó quy định rõ thanh tra cấp nào thì
được thanh tra vấn đề gì. Tránh tình trạng nhiều đoàn thanh tra cùng thanh tra

98
về một vấn đề đối với một đối tượng thanh tra, gây khó khăn cho các đơn vị
sản xuất, kinh doanh
- Cần quy định rõ trách nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên
và Môi trường với tư cách là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, đồng thời cần thể hiện rõ sự phân
công trách nhiệm cho từng Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường không khí, có như vậy thì các bộ mới thấy rõ trách nhiệm của
mình trong hoạt động bảo vệ môi trường - đây chính là cơ chế hữu hiệu nhằm
ngăn chặn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các bộ về những vấn đề liên
ngành như vấn đề môi trường.
- Nên quy định rõ sự phân cấp trách nhiệm cho chính quyền các cấp
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ví dụ: chính quyền các cấp cần được phân
cấp trong việc quyết định áp dụng tiêu chuẩn môi trường đối với một số khu
vực đặc thù và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch bảo vệ môi trường
của địa phương; phân cấp về phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
của địa phương; phân cấp trong việc định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường...
Và một điều rất quan trọng là việc phân cấp về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền
hạn phải gắn liền với việc phân cấp về nguồn nhân lực, vật lực.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường có thể phối hợp với các bộ, ngành hữu
quan ban hành các nghị quyết liên ngành để phân định thẩm quyền quản lý
nhà nước.
Như vậy, để quản lý môi trường nói chung và môi trường không khí nói
riêng, cần phải sớm có quy định hoàn thiện hơn về việc phân đinh, phân cấp rõ
trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Tuy vậy, nếu
chỉ tập trung vào nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường về hình thức mà không chú ý đến việc đào tạo nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn làm công tác này thì khó có thể đạt

99
đựơc kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, việc tăng cường năng lực của bộ
máy nhà nước nói chung và bộ máy trực tiếp thi hành pháp luật bảo vệ môi
trường, trong đó có bảo vệ môi trường không khí cũng là một vấn đề cấp thiết.
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong bảo
vệ môi trường không khí
- Chính phủ phải ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về việc xác định
thiệt hại, xác định phạm vi, mức độ thiệt hại của từng thành phần môi trường,
cách tính toán chi phí thiệt hại về môi trường….
Để thực hiện quy định này, trong thời gian tới, các cơ quan hữu quan có
trách nhiệm xây dựng Dự thảo Nghị định hướng dẫn cách xác định thiệt hại
do ô nhiễm, suy thoái môi trường không khí gây ra trình Chính phủ xem xét,
ban hành để giải quyết tình trạng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường
không khí ngày càng gia tăng, gây thiệt hại cho môi trường, tính mạng, sức
khoẻ và tài sản của con người.
- Cần phải quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có hoạt
động khai thác, sử dụng môi trường không khí
Như đã đề cập thì hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
của Việt Nam hiện nay còn rất nhiều thiếu sót, tản mạn và chồng chéo, phần
lớn là các quy định chung cho bảo vệ môi trường; và các quy định về trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí
cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Vì vậy, để có thể đảm bảo cho yêu cầu
bảo vệ môi trường không khí được thuận lợi và đạt hiệu quả cao thì cần phải
có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân.
Theo đó, các tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng môi trường không
khí s phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định, ví dụ như: phải lập kế hoạch,
phương án phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường không khí
trong từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình hoạt động của mình; phải

100
xử lý khí thải trước khi thải vào môi trường không khí và tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định về TCMT không khí của Việt Nam; đối với các chủ dự án,
chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc và theo đúng các quy định về trình tự,
yêu cầu về kỹ thuật trong quá trình đánh giá tác động môi trường của dự án...
Trách nhiệm pháp lý mà pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở
Việt Nam áp dụng cho các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí bao gồm 3 loại trách nhiệm sau: trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự. Qua thực tế áp dụng có một số loại
trách nhiệm này đã và đang nảy sinh các thiếu sót cần hoàn thiện như sau:
- Về trách nhiệm hành chính: Cần điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với
Nghị định 179 2013 NĐ-CP ngày 14 11 2013 về xử phạt vi phạm hành chính
để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật. Hiện nay, với những công ty vi
phạm nghiêm trọng luật bảo vệ môi trường, vi phạm nhiều lần, hậu quả lớn,
mức độ nguy hiểm cho xã hội cao phải bị xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên, pháp luật hình sự không xử lý hình sự các tổ chức, mà xử lý vi phạm
hành chính lại không tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm. Do vậy,
để tạo cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trong
trường hợp xử lý vi phạm hành chính các tổ chức, cần phải quy định cụ thể về
việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hành chính những cá nhân trong tổ chức có
lỗi trong việc để xảy ra vi phạm pháp luật.
- Về trách nhiệm dân sự - trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Hiện nay
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường không khí chỉ
được quy định chung chung tại 2 điều: Điều 624 - BLDS và điều 112 - Luật
bảo vệ môi trường. Vì vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối
với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho môi trường
không khí đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. Việc hoàn thiện các quy định này

101
là cần thiết khi tiến hành sửa đổi Luật bảo vệ môi trường và vấn đề này cũng
đã được đưa vào dự thảo sửa đổi Luật bảo vệ môi trường
- Về trách nhiệm hình sự: Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ mới tập trung
quy định một số tội phạm điển hình trong lĩnh vực môi trường không khí. So
với yêu cầu đảm bảo tuân thủ các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm
2014 thì các quy định trong Bộ luật Hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự năm 1999 chưa bao quát hết các hành vi cần xử lý về mặt hình sự.
Chẳng hạn, Bộ luật Hình sự sửa đổi chưa tội phạm hóa đối với hành vi vận
chuyển chất thải, chất phóng xạ trái phép qua biên giới, hành vi sử dụng vũ
khí sinh học, hành vi vi phạm quy định về sử dụng các chất và phế thải nguy
hiểm cho môi trường, vi phạm các quy định về an toàn khi tiếp xúc với các
độc tố vi sinh hay độc tố sinh học khác v.v. Do vậy, trong thời gian tới, khi hoàn
thiện bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, các loại hành vi kể trên cần được nghiên
cứu để tội phạm hóa.
Mặt khác, để đưa các quy định của Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi năm 2009
quy định các tội danh về môi trường (Chương XVII) đi vào thực tiễn cuộc sống, cần
sớm ban hành một văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn việc thi hành 9 điều luật
của Chương XVII Bộ luật Hình sự theo hướng quy định rõ ranh giới giữa trách
nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự.
Trong điều kiện kinh tế thị trường nếu chỉ dùng các biện pháp hành
chính, cưỡng chế thì rất khó đưa các quy định của pháp luật bảo vệ môi
trường vào cuộc sống. Vì vậy, cần sử dụng biện pháp có tính mềm dẻo hơn,
để đảm bảo tính khả thi của pháp luật bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã chủ
trương sử dụng các công cụ kinh tế. Sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý
môi trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường đem lại sự mềm dẻo,
hiệu quả cho sự kiểm soát ô nhiễm, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và
cải thiện môi trường. Chính vì lý do này trong chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng

102
Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 256 2003 QĐ-TTg, một trong những
giải pháp thực hiện chiến lược được đưa ra đó là “Đẩy mạnh áp dụng công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường”. Đặc biệt ngày 15 11 2004 Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra nghị quyết 41-NQ TW về “Bảo
vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước”, trong 7 giải pháp đưa ra, giải pháp thứ tư khẳng định “áp dụng các
biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường” là giải pháp phù hợp bối cảnh của
kinh tế thị trường, đảm bảo nguyên tắc người gây ra thiệt hại và người được
hưởng lợi từ môi trường phải trả tiền.
Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường bao gồm nhiều loại như:
thuế môi trường, phí và lệ phí, nhãn môi trường, ký quỹ môi trường, giấy
phép thải có thể chuyển nhượng... Trong bảo vệ môi trường không khí thì các
công cụ kinh tế có vai trò quan trọng nhất đó là: phí thải hay còn gọi là phí xả
thải, giấy phép thải có thể chuyển nhượng. [10]
3.2.5. Hoàn thiện các cơ chế thực hiện pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, bất kỳ một văn bản quy phạm
pháp luật nào được ban hành trong đó bao gồm cả pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí đều phải hướng tới những mục tiêu chính sách nhất định.
Đây là tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá việc thực hiện pháp luật, vì nếu không
đạt được những mục tiêu chính sách đặt ra thì các quy phạm pháp luật cũng
không có giá trị thực tế.
Cần đảm bảo tính thống nhất với tổng thể hệ thống pháp luật trong việc
tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí về bảo vệ môi trường
không khí cũng chính là sự đảm bảo nguyên tắc về tính thứ bậc của hệ thống
pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật phải tuân thủ những quy định của Hiến
pháp cũng như các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn. Bên

103
cạnh đó cần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, nhất quán và nghiêm minh
trong việc tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí là yếu tố
hết sức cần thiết để bảo đảm ý thức tuân thủ pháp luật của người dân
Chú trọng tới vai trò của cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ
môi trường không khí, hay chính xác hơn là cơ quan chịu trách nhiệm bảo đảm
thực hiện văn bản, là rất quan trọng, đặc biệt là trong hoàn cảnh ý thức tuân thủ
pháp luật của các đối tượng có trách nhiệm thực hiện pháp luật chưa cao.
Có cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật một cách chặt ch .
giám sát và đánh giá có rất nhiều ý nghĩa đối với việc nâng cao hiệu quả của
việc tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí. Đó là công cụ
để kiểm soát việc thực hiện pháp luật và đặc biệt là để hạn chế sự lạm quyền
trong quá trình tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật. Giám sát và
đánh giá cũng tạo ra áp lực để các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm tổ chức
thực hiện pháp luật phải thực hiện theo đúng bổn phận của mình, tránh trường
hợp trễ nải trong việc thực hiện nhiệm vụ. Và giám sát, đánh giá cũng là công
cụ để thu thập phản hồi nhằm điều chỉnh bản thân các quy định của văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
Trên đây là một số phương hướng và giải pháp cơ bản đưa ra nhằm
định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường
không khí ở Việt Nam. Ngoài những giải pháp trên còn có thể xem xét một số
giải pháp khác như: khuyến khích việc xây dựng mô hình quản lý môi trường
trong doanh nghiệp tiến tới đáp ứng tiêu chuẩn ISO 14000; nâng cao công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
cho người dân...

104
KẾT LUẬN

Ngày nay, không khí ngày càng bị ô nhiễm do các hoạt động của con
người, do số lượng xe cộ ngày càng tăng và có chiều hướng tăng nhanh cùng
với đó là sự xuất hiện của nhiều khu công nghiệp do nền kinh tế nước ta phát
triển thì việc làm ô nhiễm không khí do các nguyên nhân trên là không thể
tránh khỏi. Không khí ô nhiễm thì nó có nhiều tác hại đến sức khỏe của con
người và sinh vật. Các chất gây ô nhiễm như: SO2, NO2, NO, CO,
benzene…có trong không khí con người hít phải s gây ra nhiều bệnh nguy
hiểm cho con người và có thể dẫn đến tử vong. Do đó, việc các quốc gia trên
thế giới bắt đầu chung tay xây dựng và bảo vệ không khí bằng các điều ước
quốc tế đã được ký kết như Nghị định thư Kyoto 2002 về biến đổi khí hậu,
…Riêng đối với nước ta cũng đã ký kết và tham gia một số điều ước quốc tế
và cũng đã ban hành nhiều điều luật liên quan đến lĩnh vực không khí, tuy chỉ
mang tính chất riêng lẻ nhưng đó là sự quyết tâm của nhà nước ta nhưng quan
trọng hơn cả đó là sự xuất hiện của các tiêu chuẩn chất lượng không khí nhằm
đưa ra tiêu chuẩn chung về không khí và áp dụng chung cho tất cả các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước khi đang hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh
vực môi trường nói chung trong lĩnh vực không khí nói riêng thì phải có trách
nhiệm và tuân thủ các quy định pháp luật và tiêu chuẩn không khí mà Việt
Nam đã ban hành.

105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt


1. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1994), Thông tư số 1485-MTg
ngày 03/4/1994 của hướng dẫn tổ chức quyền hạn và phạm vi hoạt động của
thanh tra về bảo vệ môi trường và một số văn bản liên quan khác, Hà Nội.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Tài liệu của Hội nghị môi trường
toàn quốc, Hà Nội.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 11/2015/TT-BTNMT
ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, Hà Nội.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 12/2015/TT-BTNMT
ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, Hà Nội.
5. Chính phủ (2003), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
6. Chính phủ (2003), Nghị định 179/2013/NĐ-CP, ngày 14/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường, Hà Nội.
7. Chính phủ (2003), Nghị định 21/2013/NĐ-CP ngày 04/3/2013 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Hà Nội.
8. Chính phủ (2015), Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy
định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá nôi trường chiến lược,
đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Hà Nội.
9. Chính phủ (2015), Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy
định chi tiết thi hành một số điều Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Thu Huyền (2005), Pháp luật về bảo vệ môi trường không
khí ở Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội.

106
11. Hoàng Thị Kim Quế, Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật của
công dân ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập
31, Số 3 (2015) trang 26-31
12. Quốc hội (2010), Luật thanh tra, Hà Nội
13. Quốc hội (2005), Luật bảo vệ môi trường, Hà Nội.
14. Quốc hội (2006), Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Hà Nội.
15. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
16. Quốc hội (2014), Luật bảo vệ môi trường, Hà Nội.
17. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
18. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính phủ, Hà Nội.
20. Vũ Thị Duyên Thủy (2001), Pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở
Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật Môi trường,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
II. Tài liệu trang Web
23. http://tapchicongthuong.vn/giai-quyet-tranh-chap-moi-truong-bat-cap-va-
giai-phap-20130809040422313p33c403data.htm
24. http://luanvan.co/luan-van/tieu-luan-quan-ly-moi-truong-khong-khi-
1555/
25. http://www.citenco.com.vn/thong-tin-cong-khai/kien-thuc-moi-
truong/quy-chuan-viet-nam-ve-moi-truong-28.html
26. http://text.123doc.org/document/1031706-phap-luat-ve-bao-ve-moi-
truong-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.htm
27. http://moitruong.com.vn/quy-dinh-phap-luat/tieu-chuan-quy-
chuan/danh-muc-cac-quy-chuan-ky-thuat-quoc-gia-ve-moi-truong-7270.htm

107
28. http://www.slideshare.net/hajz_zjah/phng-thc-gii-quyt-tranh-chp-mi-
trng
29. http://khoahoc.tv/the-gioi-dang-bi-o-nhiem-khong-khi-nhu-the-nao-
72406
30. http://doc.edu.vn/tai-lieu/de-tai-phuong-phap-danh-gia-thiet-hai-do-o-
nhiem-khong-khi-gay-ra-doi-voi-suc-khoe-cua-nguoi-dan-ha-noi-voi-cac-
kinh-66170/
31. http://khoahoc.tv/the-gioi-dang-bi-o-nhiem-khong-khi-nhu-the-nao-
72406
32. http://www.maxreading.com/sach-hay/viet-nam-moi-truong-va-cuoc-
song/phat-huy-vai-tro-cua-cong-dong-trong-viec-giai-quyet-xung-dot-moi-
truong-11367.html

108

You might also like