You are on page 1of 233

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐÔ THỊ VÀ NÔNG THÔN

GIÁO TRÌNH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƢỜNG

Chủ biên môn học: TS. Đặng Thành Lê

HÀ NỘI, NĂM 2018


Kính mong sự đóng góp ý kiến của tất cả bạn đọc. Những đóng góp quí báu
của bạn đọc sẽ giúp các tác giả nâng cao chất lượng của giáo trình này.

Những ngƣời biên soạn:


TS. Đặng Thành Lê Chủ Biên
TS. Nguyễn Việt Hùng Thành viên
TS. Nguyễn Viết Định Thành viên
ThS. Phạm Quốc Vinh Thành viên
ThS. Lê Hoàng Oanh Thành viên
ThS. Trần Văn Tiến Thành viên
ThS. Đỗ Thị Hải Yến Thành viên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Sự cần thiết của môn học ................................................................................ 1
2. Đối tượng sử dụng giáo trình .......................................................................... 1
3. Mục đích, yêu cầu giáo trình .......................................................................... 2
4. Cấu trúc, nội giáo trình ................................................................................... 2
5. Các kiến thức được trình bày trong giáo trình................................................. 3
6. Những đặc điểm mới của giáo trình ................................................................ 3
7. Hướng dẫn sử dụng giáo trình ........................................................................ 3
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÀI NGUYÊN VÀ
MÔI TRƢỜNG ................................................................................................ 4
1.1. Tài nguyên và môi trường ........................................................................... 4
1.1.1. Tài nguyên................................................................................................ 4
1.1.2. Môi trường ............................................................................................... 6
1.2. Vai trò của tài nguyên và môi trường đối với cuộc sống con người ............. 9
1.2.1. Vai trò của tài nguyên ............................................................................... 9
1.2.2. Vai trò của môi trường............................................................................ 12
1.3. Mối quan hệ tài nguyên, môi trường với sự phát triển của xã hội loài người .....16
1.4. Các thách thức toàn cầu trong quản lý tài nguyên và môi trường ............... 19
1.4.1. Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần xuất thiên tai gia tăng .......................... 19
1.4.2. Tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái ........................................................ 21
1.4.3. Ô nhiễm môi trường xuyên biên giới ...................................................... 23
1.4.4. Sự gia tăng dân số................................................................................... 24
1.4.5. Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên trái đất ....................................... 26
1.5. Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ......................................... 30
1.5.1. Khái niệm quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ...................... 30
1.5.2. Quan điểm quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ..................... 32
1.5.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường..................... 33
1.5.4. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ....................... 36
1.5.5. Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ........................ 39
1.5.6. Công cụ quản lý tài nguyên và môi trường ............................................. 39
1.5.7. Xu hướng phát triển hệ thống quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường..... 52
CHƢƠNG 2: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÀI NGUYÊN .......................... 63
2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về tài nguyên ................................................ 63
2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên ............................. 63
2.2.1. Mục tiêu quản lý nhà nước về tài nguyên ............................................... 63
2.2.2. Nhiệm vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên .............................. 64
2.3. Một số vấn đề quản lý nhà nước về tài nguyên .......................................... 66
2.3.1. Quản lý nhà nước về tài nguyên rừng ..................................................... 66
2.3.2. Quản lý nhà nước về tài nguyên đất ........................................................ 74
2.3.3. Quản lý nhà nước về tài nguyên nước ................................................... 102
2.3.4. Quản lý nhà nước về tài nguyên biển, hải đảo....................................... 120
2.3.5. Quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ......................................... 132
CHƢƠNG 3: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ MÔI TRƢỜNG ...................... 145
3.1. Khái nhiệm quản lý nhà nước về môi trường ........................................... 145
3.2. Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường ........................... 147
3.3. Một số vấn đề quản lý nhà nước về môi trường ....................................... 155
3.3.1. Quản lý nhà nước về chất thải rắn......................................................... 155
3.3.2. Quản lý nhà nước về môi trường đô thị ................................................ 163
3.3.3. Quản lý nhà nước về môi trường nông thôn .......................................... 174
3.3.4. Quản lý nhà nước về môi trường khu công nghiệp ............................... 190
3.3.5. Quản lý nhà nước về ứng phó biến đổi khí hậu ..................................... 211
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 227
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của môn học


Phát triển là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới. Việt Nam cùng
với xu hướng toàn cầu, mở cửa hội nhập, tiến hành công nghiệp hoá hiện đại
hoá, phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua, nước ta đã có nhiều biến
đổi sâu sắc và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Tuy
nhiên, bên cạnh xu hướng phát triển kinh tế, công nghiệp hoá hiện đại hoá,
những mặt trái của quá trình phát triển, hội nhập, mở cửa đã có một số tác động
tiêu cực không nhỏ đến con người, xã hội và đặc biệt là tới tài nguyên và môi
trường sống. Chúng ta phải đối mặt với những vấn đề môi trường toàn cầu và
cũng đang gặp khó khăn trong việc giải quyết và thích ứng với những vấn đề
môi trường nội tại như: Tác động của biến đổi khí hậu; suy thoái và ô nhiễm các
thành môi trường đất, nước, không khí; suy giảm đa dạng sinh học; suy giảm
chất lượng môi trường sống của cộng đồng.
Chính vì vậy bảo vệ tài nguyên và môi trường đã trở thành vấn đề trọng
yếu của quốc gia. Ở nước ta, vấn đề này đã trở thành sự nghiệp không chỉ của
toàn Đảng, toàn dân mà còn là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường
lối chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Xuất phát từ thực tế trên trong chương trình học cho hệ đại học giảng dạy
tại Học viện Hành chính Quốc gia, chúng tôi xây dựng môn học Quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường nhằm cung cấp cho Học viên những kiến thức
cơ bản về tài nguyên môi trường và quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Đối tƣợng sử dụng giáo trình
Giáo trình quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường được Khoa
Quản lý nhà nước về Đô thị và Nông thôn biên soạn nhằm phục vụ cho việc
nghiên cứu và giảng dạy hệ đào tạo cử nhân hành chính, tại Học viện Hành
chính Quốc gia.

1
3. Mục đích, yêu cầu giáo trình
3.1. Mục đích của giáo trình: Cung cấp các kiến thức và vai trò của tài
nguyên thiên nhiên và môi trường đối với con người và xã hội; đồng thời
trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng cơ bản cần thiết để quản lý
tài nguyên và môi trường. Từ đó, sinh viên có những khả năng phân tích và lý
giải và đề xuất các chính sách, biện pháp trong quản lý đối với tài nguyên và
môi trường.
3.2. Yêu cầu đối với giáo trình: Giáo trình phải có tính khoa học, rõ ràng
và dễ hiểu. Tất cả nội dung của môn học phải được trình bày một cách lôgich,
sáng sủa, gắn việc cơ sở lý luận và với thực tiễn. Các vấn đề phải được trình bày
gọn, rõ ràng, mạch lạc, chính xác. Ngôn ngữ và cách thức biểu đạt được sử dụng
phải dễ hiểu cũng như tạo ra được sự hấp dẫn đối với người học. Đảm bảo 3 học
trình. Sinh viên phải nắm được những vấn đề then chốt về lý thuyết và hiểu biết
những tình huống thực tế có thể xảy ra, để vận dụng tư duy hệ thống vào vận
dụng thực tiễn trong đời sống cũng như có thêm thông tin cần thiết để xem xét
các mối quan hệ tương tác giữa các hợp phần của hệ thống .
4. Cấu trúc, nội giáo trình
Môn học Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường với thời lượng là
45 tiết và là một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo cử nhân hành
chính. Vì vậy, để đáp ứng mục đích và yêu cầu môn học, Giáo trình vừa mang
tính lý luận vừa mang tính thực tiễn nhằm trang bị hệ thống kiến thức cơ bản về
Quản lý nhà nước, đặc biệt trong hoạt động quản lý tài nguyên và môi trường.
Ngoài các phần như mở đầu, tài liệu tham khảo thì Giáo trình được kết cấu gồm
3 chương nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Khái Quát quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
Chương 2: Quản lý nhà nước về tài nguyên
Chương 3: Quản lý nhà nước về môi trường

2
5. Các kiến thức đƣợc trình bày trong giáo trình
Giáo trình quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường với cách tiếp
cận đi từ việc giới thiệu những vấn đề có tính khái quát chung nhất về: Tài
nguyên thiên nhiên, môi trường tự nhiên, vai trò của tài nguyên môi trường và
Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
6. Những đặc điểm mới của giáo trình
Giáo trình Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường với lượng kiến
thức tương đối lớn và phạm vi môn học rộng trong đó đề cập tới nhiều vấn đề cơ
bản từ lý luận tới thực tiễn về quản lý tài nguyên và môi trường, vì vậy bên cạnh
những kiến thức chung về Quản lý công, Giáo trình quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường dưới góc độ quản lý nhà nước, Quản lý tài nguyên và môi
trường trong việc thực viện chức năng quản lý nhà nước nói chung, Quản lý tài
nguyên và môi trường nói riêng.
7. Hƣớng dẫn sử dụng giáo trình
Trước khi đọc, nghiên cứu nội dung giáo trình Quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường, học viên cần đọc trước các tài liệu, giáo trình và văn
cbản có liên quan tới nội dung của chương, mục giáo trình để làm cơ sở nhận
biết về mục đích yêu cầu đối với bài học.

3
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG

Tóm tắt: Chương 1 của giáo trình đưa ra những lý thuyết về tài nguyên
thiên nhiên, môi trường tự nhiên để người học nhận biết và phân biệt được đối
tượng quản lý nhà nước của môn học là tài nguyên và môi trường tự nhiên khác
với các loại tài nguyên và môi trường xã hội. Các nội dung khác cũng được nêu
ra trong Chương 1 như: Vai trò của tài nguyên và môi trường đối với cuộc sống
con người; Mối quan hệ tài nguyên, môi trường với sự phát triển của xã hội loài
người; Các thách thức toàn cầu trong quản lý tài nguyên và môi trường; Quản
lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, nhằm cung cấp kiến thức chung về
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường làm cơ sở cho người học đi vào
nghiên cứu về Quản lý nhà nước về Tài nguyên và Quản lý nhà nước về Môi
trường trong Chương 2 và Chương 3.
1.1. Tài nguyên và môi trƣờng
1.1.1. Tài nguyên
- Khái niệm tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là toàn bộ những giá trị vật chất của tự nhiên, cần
thiết cho sự tồn tại và hoạt động kinh tế, xã hội loài người như khoáng sản, đất
đai, động thực vật và các điều kiện tự nhiên như khí hậu, ánh sáng, không khí,
nguồn nước.
Tài nguyên thiên nhiên gồm tất cả các nguồn năng lượng, nhiên liệu,
thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng
để phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.
Như vậy, tài nguyên là tất cả các dạng vật chất phục vụ cho sự tồn tại và
phát triển cuộc sống của con người và thế giới động vật.

4
Tài nguyên thiên nhiên là một phần của các thành phần môi trường như
cây trồng, đất đai, nguồn nước, khoáng sản, cùng tất cả các động thực vật khác.
Phân loại tài nguyên
Tài nguyên thiên nhiên được phân loại theo nhiều cách khác nhau, tùy
thuộc mục đính có thể phân loại theo dạng tồn tại của vật chất có: tài nguyên
đất, nước, sinh vật, khoáng sản, năng lượng,... hay theo khả năng phục hồi có tài
nguyên vô tận, có khả năng tự phục hồi và cạn kiệt (không có khả năng tự phục
hồi). Đối với tài nguyên có khả năng tự phục hồi, con người sẽ có cơ hội sử
dụng lâu bền tài nguyên nếu biết khai thác trong phạm vi khả năng tự phục hồi
và không làm tổn thương các điều kiện cần cho quá trình tái tạo tài nguyên.
Theo các chính sách quản lý hiện nay có thể phân các loại tài nguyên thiên nhiên
thành 02 loại: tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo.
+ Tài nguyên tái tạo:
Tài nguyên tái tạo là nguồn tài nguyên sau khi sử dụng có thể tái sinh và
có thể ngày càng phong phú hơn nếu được sử dụng hợp lý, quản lý tốt như tài
nguyên đất, rừng, biển và tài nguyên nông nghiệp.
Là tài nguyên dựa vào nguồn năng lượng được cung cấp hầu như liên tục
và vô tận từ vũ trụ vào trái đất, dựa vào trật tự tự nhiên, nguồn thông tin vật lý
và sinh học đã hình thành và tiếp tục tồn tại, phát triển và chỉ mất đi khi không
còn nguồn năng lượng và thông tin nói trên. Theo S.E. Jorgensen (1981) Tài
nguyên tái tạo là tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục
nếu được quản lý, sử dụng một cách hợp lý và khôn ngoan.
Tài nguyên thiên nhiên tái tạo được có thể kể ra như: Tài nguyên sinh học,
tài nguyên năng lượng mặt trời, nước, gió, đất canh tác...
+ Tài nguyên không tái tạo:
Tài nguyên không tái tạo là nguồn tài nguyên khi khai thác và sử dụng sẽ
bị cạn kiệt dần và không khôi phục lại trạng thái ban đầu như tài nguyên
khoáng sản.

5
Tái nguyên không tái tạo tồn tại một cách hữu hạn và sẽ mất đi hoặc hoàn
toàn bị biến đổi không còn giữ được tính chất ban đầu sau quá trình sử dụng.
Ví dụ: tài nguyên khoáng sản, nhiên liệu hoá thạch (than đá, dầu mỏ, khí
đốt...), tài nguyên gien thông tin di truyền của các loài sinh vật quí hiếm bị mai
một không giữ lại do khai thác quá mức và các thay đổi về môi trường sống là
những nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được.
+ Tài nguyên vĩnh cửu: loại tài nguyên có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
đến năng lượng mặt trời. Có thể xem năng lượng mặt trời là nguồn tài nguyên vô
tận, chúng ta có thể phân ra:
a) Năng lượng trực tiếp: là nguồn năng lượng chiếu sáng trực tiếp, giá trị
định lượng có thể tính được
b) Năng lượng gián tiếp: là những dạng năng lượng gián tiếp của bức xạ
mặt trời bao gồm: gió, sóng biển, thuỷ triều…
1.1.2. Môi trường
- Khái niệm môi trường và bảo vệ môi trường
Môi trƣờng có thể được định nghĩa như sau: “Môi trường là tập hợp
(aggregate) các vật thể (things), hoàn cảnh (conditions) và ảnh hưởng
(influences) bao bọc quanh một đối tượng nào đó”. Định nghĩa này cho thấy, khi
nói về môi trường ta phải đứng trên một đối tượng nhất định và đối tượng này
chịu tác động của các thành phần môi trường bao quanh nó, đối tượng này
không nhất thiết là con người (loài người, cá thể người hoặc cộng đồng loài
người) mà có thể là bất cứ một vật thể, hoàn cảnh, hiện tượng nào đó tồn tại
trong không gian có chứa các yếu tố tác động tới sự tồn tại và phát triển của nó.
Với cách nhìn này, có thể làm chúng ta lầm tưởng mỗi đối tượng chỉ tiếp nhận
những tác động của các yếu tố khác ở xung quanh. Thực ra, bản thân đối tượng
đó cũng có những tác động ngược lại các yếu tố xung quanh và chính nó trở
thành một yếu tố của môi trường đối với một yếu tố khác được xem là đối tượng
của môi trường. Vì vậy môi trường có thể còn được định nghĩa: Môi trường là

6
khoảng không gian nhất định có chứa các yếu tố khác nhau, tác động qua lại với
nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Khi nói tới môi trường, người ta nghĩ ngay đến mối quan hệ của những yếu
tố xung quanh tác động tới đời sống của sinh vật mà trong đó chủ yếu là con người.
Quan điểm về môi trường nhìn từ góc độ sinh học là những quan điểm
phổ biến, sau đây là một số định nghĩa:
- Môi trường là tập hợp các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, kinh tế - xã
hội bao quanh và tác động tới đời sống và sự phát triển của một cá thể hoặc một
cộng đồng người (theo Liên hiệp quốc - UNEP chương trình môi trường của
Liên hiệp quốc, 1980).
- Môi trường là tất cả các hoàn cảnh bên ngoài tác động lên một cơ thể
sinh vật hoặc một cơ thể nhất định đang sống, là mọi vật bên ngoài một cơ thể
(theo G.Tyler Miler -Environmental Science, USA, 1988).
- Môi trường là hoàn cảnh vật lý, hoá học, sinh học bao quanh các sinh
vật (Encyclopedia of Environmental Science, USA, 1992).
- Môi trường là tất cả các hoàn cảnh hoặc điều kiện bao quanh một hay
một nhóm sinh vật hoặc môi trường là tổng hợp các điều kiện xã hội hay văn
hoá ảnh hưởng tới cá thể hoặc cộng đồng. Vì con người vừa tồn tại trong thế
giới tự nhiên và đồng thời tạo nên thế giới văn hoá, xã hội và kỹ thuật, và tất cả
đều là thành phần môi trường sống của con người.
Qua các định nghĩa trên, môi trường được xem như là những yếu tố bao
quanh và tác động lên con người (cá thể hay cộng đồng) và sinh vật.
Có thể nêu ra một định nghĩa chung về môi trường như sau:
Theo Luật Bảo vệ Môi trường: Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất
tự nhiên và nhân tạo có tác động đến sự tồn tại và phát triển của con người và
sinh vật.(Luật bảo vệ môi trường Việt Nam 2015).

7
Bảo vệ môi trường
Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế
các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành (Điều 3, Luật bảo vệ môi
trường của Việt Nam, 2015).
Từ định nghĩa trên cho thấy cơ sở của sự cần thiết của bảo vệ môi
trường được xây dựng trên 02 nguyên tắc chủ yếu cho công tác bảo vệ môi
trường, bao gồm:
- Nguyên tắc phát triển bền vững (Sustainable Development Principle):
Phát triển là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác
nhau như : kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hoá…Mục tiêu của phát triển
là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của loài người, làm cho con
người ít phụ thuộc vào thiên nhiên, tạo nên một cuộc sống công bằng và bình
đẳng giữa các thành viên. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài người ta
thường đặt mục tiêu kinh tế quá cao, xem sự tăng trưởng về kinh tế là độ đo duy
nhất của sự phát triển.
Phát triển bền vững (phát triển bền vững) được xác định là quá trình phát
triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển,
gồm : phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm)
và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện
chất lượng môi trường ; phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và
sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Nhận thức được tầm quan trọng, tính tất yếu của phát triển bền vững ở
Việt Nam, các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định „Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ

8
môi trường‟ và „Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi
trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học‟.
- Nguyên tắc phòng ngừa là chính (Precautionary Principle): Phòng ngừa,
ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn việc xử lý,
khắc phục môi trường nếu để ra ô nhiễm môi trường. Hoạt động phòng ngừa,
hạn chế tác động xấu đến môi trường rất quan trọng vì chúng có khả năng giải
quyết các thách thức đặt ra cho công tác bảo vệ môi trường, quản lý chất thải và
đảm bảo một chất lượng sống tốt theo cách hiệu quả và tiết kiệm chi phí.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng ngừa là chính, đặc
biệt là ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp, các yếu tố cốt lõi của cách tiếp cận ngăn
ngừa ô nhiễm được xây dựng như sau : (i) Áp dụng liên tục, phòng ngừa, thống
nhất đối với chiến lược ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp; (ii) Bảo tồn vật liệu và
năng lượng, loại bỏ các vật liệu thô độc hại và giảm bớt khối lượng cũng như
độc tính của tất cả các chất thải và các hơi khí độc hại ngay tại nguồn; (iii) Giảm
bớt tác động tiêu cực trong suốt vòng đời của một sản phẩm, từ lúc thiết kế đến
lúc thải bỏ; và (iv) Tăng trưởng xanh, ít phát thải cácbon trong việc thiết kế và
cung cấp các dịch vụ công nghiệp.
1.2. Vai trò của tài nguyên và môi trƣờng đối với cuộc sống con ngƣời
1.2.1. Vai trò của tài nguyên
Tài nguyên có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội
của mỗi quốc gia, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thị trường tài
nguyên trên thế giới hiện nay, vấn đề đánh giá tài nguyên, kiểm kê tiềm năng
các dạng tài nguyên thiên nhiên phân bố theo yếu tố địa lý, khả năng và hiệu quả
khai thác, thứ tự ưu tiên khai thác để vừa sử dụng có hiệu quả là một việc làm
cần thiết đảm bảo yêu cầu bảo vệ và phát triển bền vững.
Tài nguyên thiên nhiên có hai vai trò cơ bản trong phát triển:

9
- Thứ nhất, áp dụng cho hầu hết các nước và các cộng đồng nghèo nhất
trên thế giới: tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò là nguồn tài nguyên nền tảng
đảm bảo cho sự sinh tồn. Tài nguyên thiên là một trong những yếu tố nguồn lực
đầu vào của quá trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thể giới, nếu không có tài
nguyên, đất đai thì sẽ không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con
người. Tuy nhiên, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên
nhiên chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Trên thực tế, nếu công nghệ là cố dịnh
thì lưu lượng của Tài nguyên thiên nhiên sẽ là mức hạn chế tuyệt đối về sản xuất
vật chất trong ngành công nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên liệu đầu
vào như nhôm, thép…Tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi
con người biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả. Thực tế đã cho thấy
nhiều quốc gia mặc dù có trữ lượng tài nguyên phong phú, đa dạng, điều kiện
thuận lợi, song vẫn là nước nghèo và kém phát triển, ví dụ như Cô-oét, Arập-
Sêút, Vê nê zuê la, Chi lê. Ngược lại nhiều quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản
nhưng lại trở thành những nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Anh,
Pháp, Italia…
Có thể nói, tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển,
các nước đang phát triền thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó
là những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của
đất nước, chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên
cũng là cơ sở để phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, công
nghiệp chế biên, các ngành công nghiệp năng, công nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng, thủy tinh, sành sứ…
- Thứ hai, tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực cho tài chính phát triển.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên thương mại có thể là một nguồn lực quan trọng
cho lợi nhuận và giao thương quốc tế. Thuế khai thác tài nguyên không phục
hồi, tài nguyên có thể tái tạo, và các nguồn tài nguyên có thể khai thác bền vững

10
có thể được dùng để đầu tư tài chính dưới một hình thức khác của nguồn lực.
Đối với hầu hết nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian khổ
liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi của tự nhiên có nguồn tài
nguyên lớn, đa dạng nên có thể rút nhắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai
thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hóa nền kinh tế tạo nguồn tích lũy
vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Như trên chúng ta đã thấy, nguồn tài nguyên thiên nhiên thường là cơ sở để
phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và cung cấp
nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nước. Sự giàu có về tài nguyên, đặc biệt về năng lượng giúp cho một quốc
gia ít bị lệ thuộc hơn vào các quốc gia khác và có thể tăng trưởng một cách ổn
định, độc lập khi thị trường tài nguyên thế giới bị rơi vào trạng thái bất ổn.
Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên rõ ràng là vấn đề nòng cốt của phát triển.
Nếu không tạo ra khoản dư để đầu tư, thì các quốc gia không có cách nào thoát
khỏi tình trạng mức sống thấp. Sự phụ thuộc vào tài nguyên làm cho việc đo
lường các nỗ lực tiết kiệm trở nên phức tạp vì sự suy thoái của tài nguyên thiên
nhiên không phải là tài sản hữu hình trong tài khoản ngân sách tiêu chuẩn của
quốc gia. Bởi vì, sự tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên phải tính đến sự khấu hao
vốn sản xuất, các khoản đầu tư vào nguồn lực con người (được tính theo kinh
phí giáo dục), sự suy thoái của khoáng sản, năng lượng, rừng; các thiệt hại từ ô
nhiễm không khí ở địa phương và trên toàn thế giới.
Để khai thác tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững, các quốc gia
nên đầu tư vào các nguồn thuế từ tài nguyên thiên nhiên. Rất nhiều luận cứ đã
kiểm chứng rằng các loại thuế tài nguyên có thể làm tăng đáng kể vốn của
những nền kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Vào những năm 2000,
Nigeria, một nước xuất khẩu dầu lớn lẽ ra đã có thể dự trữ vốn sản xuất tính theo

11
đầu người gấp năm lần mức đạt được trong năm đó. Hơn nữa, nếu các khoản
đầu tư này được sử dụng, dầu mỏ có thể đóng vai trò nhỏ hơn trong nền kinh tế
Nigeria ngày nay, với những tác động có thể có lợi đến các chính sách có ảnh
hưởng đến các ngành khác trong nền kinh tế. Tương tự như thế, tính theo đầu
người, những nền kinh tế mạnh về dầu mỏ như Cộng hòa Bolivia, Venezuala,
Trinidad & Tobago, Gabon…đã có thể có vốn sản xuất dự trữ xấp xỉ 30.000 đô
la Mỹ / người, tương đương với Hàn Quốc.
Ở các nước đang phát triển, có nhiều bằng chứng chỉ ra rằng đầu tư vào
vốn sản xuất, nguồn lực con người và việc quản lý, kết hợp với nỗ lực tiết kiệm
nhằm bù đắp cho sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên, có thể giúp nền kinh tế
phát triển hơn trong tương lai. Một nền kinh tế, để chuyển được từ tăng trưởng
phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên đến tăng trưởng bền vững và cân bằng cần
có một loạt thể chế có khả năng quản lý được tài nguyên thiên nhiên, thu thuế tài
nguyên và sử dụng các khoản thuế này thành đầu tư có hiệu quả. Chính vì vậy,
các nhà hoạch định chính sách cần nhận thức rõ rằng rằng các chính sách nguồn
lực, chính sách tài chính và chính sách kinh tế chính trị mà họ xây dựng và
hoạch định đều có vai trò to lớn trong bước chuyển này.
1.2.2. Vai trò của môi trường
Môi trường sống có các vai trò, chức năng cơ bản như sau:
+ Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.
+ Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt
động sản xuất của con người.
+ Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra
trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người.
+ Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con
người và sinh vật trên trái đất.
+ Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
 Môi trường là không gian sống của con người

12
Con người để duy trì hoạt động và phát triển sự sống của mình cần có một
không gian cần thiết như: nhà ở, vui chơi, giải trí, đất dùng sản xuất lương thực,
thực phẩm và không gian dành cho tái tạo chất lượng môi trường sống (rừng,
biển, hồ chứa…).Mỗi người một ngày cần 4 m3 không khí sạch để thở, 2,5 lít
nước uống, một lượng thực phẩm và lương thực tương ứng với 2000-2500 calo.
Yêu cầu về không gian sống của con người thay đổi theo trình độ kỹ thuật
và công nghệ sản xuất, trình độ phát triển của loài người càng nâng cao thì nhu
cầu về không gian sản xuất càng giảm. Tuy nhiên, con người luôn cần một
khoảng không gian riêng cho nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm và tái tạo
chất lượng môi trường sống. Vì vậy, con người cần phải có một không gian để
tái tạo lại chất lượng môi trường đã bị các hoạt động sản xuất làm suy giảm.
Việc khai thác quá mức không gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể
làm cho chất lượng không gian sống trên trái đất không thể phục hồi được.
Có thể phân loại chức năng không gian sống của con người thành các
dạng cụ thể sau đây:
- Chức năng xây dựng: cung cấp mặt bằng và nền móng cho các khu đô
thị, khu công nghiệp, kiến trúc hạ tầng và nông thôn.
- Chức năng vận tải: cung cấp mặt bằng, không gian cho việc xây dựng
các công trình giao thông thuỷ bộ, đường bộ, hàng không.
- Chức năng phân huỷ chất thải: cung cấp mặt bằng và nền móng cho sự
phân huỷ chất thải.
- Chức năng giải trí của con người: cung cấp mặt bằng và không gian cho
hoạt động giải trí ngoài trời của con người.
- Chức năng cung cấp mặt bằng và các yếu tố cần thiết khác: cho hoạt
động canh tác nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ, hải sản và không gian hồ chứa.
 Môi trường là nguồn tài nguyên của con người
Môi trường là nơi con người khai thác nguồn vật liệu, năng lượng và
thông tin cần thiết cho hoạt động sản xuất và phát triển của con người. Đòi hỏi

13
này không ngừng tăng lên về số lượng, chất lượng và độ phức tạp theo trình độ
phát triển của xã hội. Các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin sau mỗi lần sử
dụng được tuần hoàn quay trở lại dạng ban đầu thường được gọi là tài nguyên
tái tạo. Trái lại, nếu bị mất mát, biến đổi hoặc suy thoái không trở lại dạng ban
đầu thì được gọi là tài nguyên không tái tạo.
Việc khai thác nguồn tài nguyên của con người đang có xu hướng làm tài
nguyên không tái tạo bị cạn kiệt, tài nguyên tái tạo không được phục hồi, dẫn
đến cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường.
 Môi trường là nơi chứa đựng chất thải
Chất thải được sinh ra do các hoạt động sản xuất, tiêu dùng của con người
trong một chu trình sinh địa hoá nhờ các hoạt động của vi sinh vật và các thành
phần môi trường khác, chất thải sẽ biến đổi trở thành các dạng ban đầu.
Khả năng tiếp nhận và phân huỷ chất thải của môi trường được gọi là
khả năng nền của môi trường. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng nền hoặc
thành phần của chất thải khó phân huỷ và xa lạ với sinh vật thì chất lượng môi
trường sẽ bị suy giảm và môi trường bị ô nhiễm. Có thể phân loại chi tiết chức
năng này thành:
- Chức năng biến đổi lý hoá: pha loãng, phân huỷ hoá học nhờ tác động
của ánh sáng Mặt Trời, tách chiết các vật thải và độc tố bởi các thành phần
môi trường.
- Chức năng biến đổi sinh hoá: sự hấp thụ các chất dư thừa, sự tuần
hoàn của chu trình cacbon, chu trình nitơ, phân huỷ chất thải nhờ vi sinh vật,
vi khuẩn.
- Chức năng biến đổi sinh học: khoáng hoá các chất thải hữu cơ, mùn
hoá…
 Môi trường có chức năng tự điều chỉnh
trái đất là hành tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có các điều kiện môi
trường thuận lợi cho duy trì và phát triển sự sống. Nhờ các hoạt động của các

14
quyển như: khí quyển, thuỷ quyển, thạch quyển và sinh quyển luôn duy trì trái
đất trong hệ cân bằng động có khả năng tự điều chỉnh như: nhiệt độ không khí
không quá cao, nồng độ oxy và các chất khí khác tương đối ổn định, cân bằng
nước ở các đại dương và trong đất liền.
- Khí quyển giữ cho nhiệt độ trái đất tránh được các bức xạ tia tử ngoại,
chênh lệnh nhiệt độ lớn, ổn định nhiệt độ trong khả năng chịu đựng được của
con người…
- Thuỷ quyển thực hiện chu trình tuần hoàn nước, giữ cân bằng nhiệt độ,
giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên đến con người và sinh vật sinh
sống trên trái đất.
- Thạch quyển liên tục cung cấp năng lượng, vật chất, thông tin cho các
quyển khác của trái đất, giảm tác động tiêu cực của thiên tai tới con người và
sinh vật.
 Môi trường có chức năng lưu trữ, cung cấp thông tin
Chức năng này thể hiện qua:
- Ghi chép và lưu trữ địa chất, lịch sử tiến hoá của vật chất và sinh vật
xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.
- Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tính chất báo động
sớm các nguy hiểm đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như: các
phản ứng sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các tai biến thiên nhiên và
hiện tượng thiên nhiên như: bão, động đất…
- Lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn gen, các loại
động thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, cảnh quan có giá trị thẩm
mỹ, tôn giáo và văn hoá.
Như vậy, có thể có các dạng vi phạm chức năng của môi trường sống:
- Làm cạn kiệt nguyên liệu và năng lượng cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của các cơ thể sống.

15
- Gây mất cân bằng sinh thái giữa các loài sinh vật với nhau và giữa chúng
với các thành phần môi trường.
- Phá vỡ chức năng giảm nhẹ tác động của thiên tai.
- Tác động xấu đến chức năng lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
1.3. Mối quan hệ tài nguyên, môi trƣờng với sự phát triển của xã hội
loài ngƣời
tài nguyên và môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ
sinh thái xác định, cũng có quan niệm cho rằng khi đề cập đến môi trường
cũng có nghĩa là bao hàm cả tài nguyên. Tuy nhiên đề cập tới tài nguyên
thường gắn với các hoạt động kinh tế, là yếu tố đầu vào của hệ thống kinh tế,
chúng có thể đo đếm hạch toán được. Còn môi trường bao gồm hệ thống tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, ảnh hưởng đến đời sống và
hoạt động của con người. Như vậy theo cách hiểu thông thường thì môi trường
bao gồm cả tài nguyên do đó khi có những tác động đến tài nguyên sẽ ảnh
hưởng đến môi trường và khi môi trường thay đổi thì cũng sẽ tác động ngược
lại đến nguồn tài nguyên.
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất
và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan
hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá
nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có
mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát
triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Nhà
địa lý kinh tế người Nga, Yu.G.Xauskin đã khẳng định “mối tương tác giữa tự
nhiên và sản xuất xã hội là một trong những hiện tượng lịch sử cơ bản của thế
giới vật chất trên hành tinh chúng ta, là một trong những hiện tượng có ý
nghĩa vĩ đại của vũ trụ, mà những kết quả cuối cùng của hiện tượng ấy vẫn còn
khó nhận thấy được”. Nếu áp dụng lý thuyết hệ thống để phân tích mối quan
hệ tương tác giữa tự nhiên và sản xuất xã hội thì chúng ta có thể thấy được mô

16
hình tương tác giữa các yếu tố trong hệ thống có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Muốn phát triển phải có các nguồn lực như vốn, lao động, khoa học công
nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Mặc dù tài nguyên không phải là động lực mà
chỉ là yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, nhưng nếu không có tài nguyên
thiên nhiên thì sẽ không có bất cứ một hoạt động sản xuất nào và cũng không
có sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người luôn phải khai thác, sử dụng
tài nguyên thiên nhiên cho quá trình phát triển. Con người và tài nguyên thiên
nhiên là hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Lịch sử hình thành và phát
triển của loài người luôn gắn liền với việc sử dụng tài nguyên để tồn tại và phát
triển, càng ngày con người càng có khả năng tìm kiếm và khai thác các loại tài
nguyên một cách triệt để hơn. Chính quá trình khai thác tài nguyên đã nảy sinh
các vấn đề môi trường. Khi phân tích mối quan hệ giữa các hoạt động kinh tế
với tài nguyên và môi trường cũng cần phải nói đến những tác động tiêu cực,
điều này thấy rõ nhất là do các hoạt động khai thác tài nguyên.
Các loại tài nguyên có vị trí trọng yếu đối với đời sống con người như đất,
nước, tài nguyên rừng, nguồn lợi thủy hải sản, khoáng sản, … đã và đang bị suy
giảm cả về trữ lượng và chất lượng do khai thác quá mức, không quan tâm đến
bảo vệ, phục hội và sử dụng hợp lý
Chất lượng môi trường suy thoái với tốc độ và quy mô càng lớn bởi các
loại chất thải trong quá trình sản xuất, sinh hoạt. Hiện tượng phát thải khí CO2
và các khí thải khác đã gây hiệu ứng nhà kính diễn ra với quy mô rộng, gây biến
đổi khí hậu tác động đến sức khỏe và đe dọa sự sống của con người và các hệ
sinh thái, … Quá trình phát triển và ô nhiễm môi trường đang làm cho sự chênh
lệch giữa các vùng lãnh thổ, giữa các quốc gia ngày một lớn, sự bất bình đẳng về
mọi mặt trong cuộc sống của các khu vực này gia tăng. Ở các quốc gia có trình
độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô nhiễm môi trường khác
nhau. Ô nhiễm do dư thừa ở các quốc gia phát triển: 20% dân số thế giới ở các

17
nước giàu hiện sử dụng 80% tài nguyên và năng lượng của loài người. Bên cạnh
hiện tượng “ô nhiễm do thừa thải” xảy ra tại các nước công nghiệp phát triển,
gần đây tại hầu hết các nước đang phát triển có thu nhập thấp đã xảy ra hiện
tượng “ô nhiễm nghèo đói”, 80% số dân còn lại chỉ sử dụng 20% phần tài
nguyên và năng lượng của loài người. Thiếu lương thực, nước uống, nhà ở,
thuốc men, vệ sinh, mù chữ, bất lực trước thiên tai là nguồn gốc cơ bản của
những vấn đề môi trường nghiêm trọng đang đặt ra cho người dân các nước
đang phát triển. Cần nói thêm rằng sự tiêu thụ quá mức nguyên liệu và năng
lượng của các nước phát triển cũng đã làm cho các vấn đề môi trường ở các
nước đang phát triển trầm trọng hơn.
Ngược lại, tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở
khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho
sự cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.
Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế
xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt
động phát triển hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã
hội trong khu vực. Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển trên dẫn đến sự xuất
hiện các quan niệm hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển:
Lý thuyết đình chỉ phát triển là làm cho sự tăng trưởng kinh tế bằng (0)
hoặc mang giá trị (-) để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Một số nhà
khoa học khác lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn sự nghiên cứu, khai thác tài
nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên nếu đình chỉ phát triển để bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường cho trái đất thì hoàn toàn không được. Bởi lẽ xu hướng tất
yếu của quá trình phát triển là sẽ sử dụng nguồn tài nguyên và môi trường. Như
vậy không còn con đường nào khác loài người phải vừa khai thác sử dụng tài
nguyên vừa phát triển kinh tế, và hoạt động này phải hài hòa với nhau không
gây tổn hại đến nhau.

18
Như vậy con người là trung tâm của mọi mối quan hệ giữa hệ thống tài
nguyên – xã hội. Trong quá trình phát triển con người không ngừng sáng tạ tạo
ra những công cụ và phương thức hữu hiệu để khai thác tài nguyên làm cho tài
nguyên nghèo kiệt đi và chất lượng môi trường giảm sút. Vì vậy việc khai thác
sử dụng tài nguyên với bảo vệ môi trường là vấn đề song hành trong phát triển
kinh tế xã hội.
1.4. Các thách thức toàn cầu trong quản lý tài nguyên và môi trƣờng
1.4.1. Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần xuất thiên tai gia tăng
Vào cuối những năm 1990, mức phát tán dioxit cacbon (CO2) hàng năm
xấp xỉ bằng 4 lần mức phát tán năm 1950 và hàm lượng CO2 đã đạt đến mức
cao nhất trong những năm gần đây. Theo đánh giá của Ban Liên Chính Phủ về
biến đổi khí hậu thì có bằng chứng cho thấy về ảnh hưởng rất rõ rệt của con
người đến khí hậu Toàn cầu. Những kết quả dự báo gồm việc dịch chuyển của
các đới khí hậu, những thay đổi trong thành phần loài và năng suất của các hệ
sinh thái, sự gia tăng các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và những tác động đến
sức khoẻ con người. Các nhà khoa học cho biết, trong vòng 100 năm trở lại đây,
trái đất đã nóng lên khoảng 0,5oC và trong thế kỷ này sẽ tăng từ 1,5 - 4,5oC so
với nhiệt độ ở thế kỷ XX. trái đất nóng lên có thể mang tới những bất lợi đó là:
- Mực nước biển có thể dâng lên cao từ 25 đến 140cm, do sự tan băng và
sẽ nhấn chìm một vùng ven biển rộng lớn, làm đất mất đi nhiều vùng sản xuất
nông nghiệp, dẫn đến nghèo đói, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
- Thời tiết thay đổi dẫn đến gia tăng tần suất thiên tai như gió, bão, động
đất, phun trào núi lửa, hoả hoạn và lũ lụt. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự
sống của loài người một cách trực tiếp và gây ra những thiệt hại về kinh tế mà
còn gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng khác. Ví dụ, các trận hoả hoạn
tự nhiên không kiểm soát được vào các năm từ 1996 - 1998 đã thiêu huỷ nhiều
khu rừng ở Braxin, Canada, khu tự trị Nội Mông ở Đông Bắc Trung Quốc,

19
Inđônêxia, Ý, Mêhicô, Liên Bang Nga và Hoa Kỳ. Những tác động của các vụ
cháy rừng có thể rất nghiêm trọng. Các chuyên gia coi chỉ số ô nhiễm ở mức
100m/m3 là đã có tác động xấu đến sức khoẻ; Ở Malaixia, chỉ số này đã đạt tới
800 m/m3. Chi phí ước tính do nạn cháy rừng đối với người dân Đông Nam Á là
1,4 tỷ USD. Các vụ cháy rừng còn đe doạ nghiêm trọng tới đa dạng sinh học.
trái đất nóng lên chủ yếu do hoạt động của con người mà cụ thể là:
- Do sử dụng ngày càng tăng lượng than đá, dầu mỏ và phát triển công
nghiệp dẫn đến gia tăng nồng độ CO2 và SO2 trong khí quyển.
- Khai thác triệt để dẫn đến làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, đặc biệt là
tài nguyên rừng và đất rừng, nước - là bộ máy khổng lồ giúp cho việc điều hoà
khí hậu trái đất.
- Nhiều hệ sinh thái bị mất cân bằng nghiêm trọng ở nhiều khu vực trên
Thế giới. Tất cả các yếu tố này góp phần làm cho thiên nhiên mất đi khả năng từ
điều chỉnh vốn có của mình.
Nhìn chung, lượng phát thải trong các lĩnh vực chính của những năm gần
đây có xu hướng tăng lên, đó chính là hệ quả của tốc độ phát triển và tỷ lệ tăng
dân số ở nước ta hiện nay. Lượng phát thải CO2 do tiêu thụ năng lượng và sản
xuất xi măng của năm 1993 tăng hơn so với năm 1990. Trong khi đó, lượng phát
thải CO2 do các hoạt động lâm nghiệp tăng không đáng kể. Trong khu vực nông
nghiệp, lượng phát thải CH4 trong chăn nuôi đã có những sai khác nhiều so với
năm 1990. CO2 và CH4 là 2 loại khí nhà kính chủ yếu ở nước ta hiện nay. Tính
đến năm 1993, lượng phát thải CO2 ở Việt Nam vào khoảng 27 - 28 triệu tấn do
tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch từ các hoạt động năng lượng và phát thải CH4 và
3,2 triệu tấn do sản xuất lúa nước. Các hoạt động trong ngành lâm nghiệp phát
thải khoảng 34,5 triệu tấn CO2 song lượng CO2 do đốt sinh khối cần được đánh
giá và xác định một cách chính thức.

20
Với những nguyên nhân trên, thiên tai không những chỉ xuất hiện với tần
suất ngày càng gia tăng mà quy mô tác động gây thiệt hại cho con người cũng
ngày càng lớn. Ví dụ, tháng 12/1999, hai trận mưa lớn ở Vênêzuêla đã làm cho
50.000 người chết và hơn 200.000 người không có nhà ở. Cũng vào năm đó, một
cơn bão lớn đã cướp đi mạng sống của 10.000 người ở Orissa (Ấn Độ) và một
trận động đất đã tàn phá đất nước Thổ Nhĩ Kỳ và đặc biệt gần đây, ngày
26/01/2001, thảm hoạ động đất ở Ấn Độ đã làm cho khoảng 30.000 người chết
và hàng vạn người bị thương gây thiệt hại rất lớn về tiền của. Đầu tháng 9/2000,
những cơn bão liên tiếp có kèm theo mưa lớn đã đổ xuống khu vực đồng bằng
sông Cửu Long (đồng bằng sông cửu long) làm cho vùng đất rộng lớn bị chìm
ngập trong biển nước. Tính đến ngày 6/10/2000, tổng thiệt hại do lũ lụt gây ra
tại các tỉnh đồng bằng sông cửu long ước tính lên tới 3.125 tỷ đồng, 309 người
chết trong đó có 232 trẻ em.
1.4.2. Tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái
Rừng, đất rừng và đồng cỏ hiện vẫn đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá
mạnh mẽ, đất hoang bị biến thành sa mạc. Sa mạc Sa - ha - ra có diện tích rộng 8
triệu km2, mỗi năm bành trướng thêm từ 5 - 7km2. Một bằng chứng mới cho
thấy, sự biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân gây thêm tình trạng xói mòn đất ở
nhiều khu vực. Gần đây, 250 nhà Thổ nhưỡng học được Trung tâm Thông tin và
Tư vấn Quốc tế Hà Lan tham khảo lấy ý kiến đã cho rằng, khoảng 305 triệu ha
đất màu mỡ (gần bằng diện tích của Tây Âu) đã bị suy thoái do bàn tay của con
người, làm mất đi tính năng sản xuất nông nghiệp. Khoảng 910 triệu ha đất tốt
(tương đương với diện tích nước Úc) sẽ bị suy thoái ở mức trung bình, giảm tính
năng sản xuất và nếu không có biện pháp cải tạo thì quỹ đất này sẽ bị suy thoái ở
mức độ mạnh trong tương lai gần. Theo Tổ chức Lương thực Thực phẩm Thế
giới (FAO) thì trong vòng 20 năm tới, hơn 140 triệu ha đất (tương đương với
diện tích của Alaska) sẽ bị mất đi giá trị trồng trọt và chăn nuôi. Đất đai ở hơn
100 nước trên Thế giới đang chuyển chậm sang dạng hoang mạc, có nghĩa là

21
900 triệu người đang bị đe doạ. Trên phạm vi Toàn cầu, khoảng 25 tỷ tấn đất
đang bị cuốn trôi hàng năm vào các sông ngòi và biển cả. Theo tài liệu thống kê
của Liên Hợp Quốc, diện tích đất canh tác bình quân đầu người trên Thế giới
năm 1983 là 0,31ha/người thì đến năm 1993 chỉ còn 0,26 ha/người và còn tiếp
tục giảm trong tương lai.
- Sự phá huỷ rừng vẫn đang diễn ra với mức độ cao, trên Thế giới diện
tích rừng có khoảng 40 triệu km2, song cho đến nay diện tích này đã bị mất đi
một nửa, trong số đó, rừng ôn đới chiếm khoảng 1/3 và rừng nhiệt đới chiếm
2/3. Sự phá huỷ rừng xảy ra mạnh, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Chủ
yếu do nhu cầu khai thác gỗ củi và nhu cầu lấy đất làm nông nghiệp và cho
nhiều mục đích khác, gần 65 triệu ha rừng bị mất vào những năm 1990 - 1995.
Ở các nước phát triển, diện tích rừng tăng 9 triệu ha, con số này còn quá
nhỏ so với diện tích rừng đã bị mất đi. Chất lượng của những khu rừng còn lại
đang bị đe doạ bởi nhiều sức ép do tình trạng gia tăng dân số, mưa axit, nhu
cầu khai thác gỗ củi và cháy rừng. Nơi cư trú của các loài sinh vật bị thu hẹp,
bị tàn phá, đe doạ tính đa dạng sinh học ở các mức độ về gen, các giống loài và
các hệ sinh thái.
- Với tổng lượng nước là 1386.106 km3, bao phủ gần 3/4 diện tích bề mặt
trái đất, và như vậy trái đất của chúng ta có thể gọi là "Trái Nước", nhưng loài
người vẫn "khát" giữa đại dương mênh mông, bởi vì với tổng lượng nước đó thì
nước ngọt chỉ chiếm 2,5% tổng lượng nước, mà hầu hết tồn tại ở dạng đóng
băng và tập trung ở hai cực (chiếm 2,24%), còn lượng nước ngọt mà con người
có thể tiếp cận để sử dụng trực tiếp thì lại càng ít ỏi (chỉ chiếm 0,26%). Sự gia
tăng dân số nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, thâm canh
nông nghiệp và các thói quen tiêu thụ nước quá mức đang gây ra sự khủng
hoảng nước trên phạm vi Toàn cầu. Gần 20% dân số Thế giới không được dùng
nước sạch và 50% thiếu các hệ thống vệ sinh an toàn. Sự suy giảm nước ngọt
ngày càng lan rộng hơn và gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, đó là nạn thiếu

22
nước ở nhiều nơi và đối với các khu vực ven biển đó là sự xâm nhập mặn. Ô
nhiễm nước uống là phổ biến ở các siêu đô thị, ô nhiễm nitrat (NO3 -) và sự tăng
khối lượng các kim loại nặng gây tác động đến chất lượng nước hầu như ở khắp
mọi nơi. Nguồn cung cấp nước sạch trên Thế giới không thể tăng lên được nữa;
ngày càng có nhiều người phụ thuộc vào nguồn cung cấp cố định này và ngày
càng có nhiều người bị ô nhiễm hơn. Mất đất, mất rừng, cạn kiệt nguồn nước
làm cho hàng chục triệu người buộc phải di cư, tị nạn môi trường,... gây xuống
cấp các điều kiện sức khoẻ, nhà ở, môi trường. Có khoảng 1 tỷ người không có
đủ chỗ để che thân và hàng chục triệu người khác phải sống trên các hè phố.
Thật không thể tin được rằng, Thế giới ngày nay cứ mỗi năm có 20 triệu người
dân chết vì nguyên nhân môi trường, trong khi đó, số người chết trong các cuộc
xung đột vũ trang của hơn nửa thế kỷ tính từ sau năm 1945 tới nay cũng chỉ là
20 triệu người. Bài toán tăng 75% lượng lương thực từ nay tới năm 2030 do
FAO đề ra là bài toán khó vẫn chưa có lời giải vì dân số liên tục gia tăng trong
khi diện tích đất nông nghiệp không tăng mà còn có xu hướng giảm, độ màu mỡ
của đất ngày càng suy giảm.
1.4.3. Ô nhiễm môi trường xuyên biên giới
Sự phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch và việc đổ bỏ các loại chất
thải vào đất, biển, các thuỷ vực đã gây ô nhiễm môi trường ở quy mô ngày càng
rộng, đặc biệt là các khu đô thị. Nhiều vấn đề môi trường tác động tương tác với
nhau ở các khu vực nhỏ, mật độ dân số cao. Ô nhiễm không khí, rác thải, chất
thải nguy hại, ô nhiễm tiếng ồn và nước đang biến những khu vực này thành các
điểm nóng về môi trường. Khoảng 30 - 60% dân số đô thị ở các nước có thu
nhập thấp vẫn còn thiếu nhà ở và các điều kiện vệ sinh. Sự tăng nhanh dân số
Thế giới có phần đóng góp do sự phát triển đô thị. Bước sang thế kỷ XX, dân số
Thế giới chủ yếu sống ở nông thôn, số người sống tại các đô thị chiếm 1/7 dân
số Thế giới. Nhưng đến cuối thế kỷ XX, dân số sống ở đô thị đã tăng lên nhiều

23
và chiếm tới 1/2 dân số Thế giới. Ở nhiều quốc gia đang phát triển, đô thị phát
triển nhanh hơn mức tăng dân số. Châu Phi là vùng có mức độ đô thị hoá kém
nhất, nay đã có mức đô thị hoá tăng hơn 4%/năm so với mức tăng dân số là 3%,
số đô thị lớn ngày càng tăng hơn. Đầu thế kỷ XX chỉ có 11 đô thị loại 1 triệu
dân và phần lớn tập trung ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng đến cuối thế kỷ đã có
khoảng 24 siêu đô thị với số dân trên 24 triệu người.
Năm 1950, có 3 trong số 10 thành phố lớn nhất trên Thế giới là ở các
nước đang phát triển như: Thượng Hải (Trung Quốc); Buenos Aires (Achentina)
và Calcuta (Ấn Độ). Năm 1990, 7 thành phố lớn nhất là ở các nước đang phát
triển. Năm 1995 và năm 2000 đã tăng lên 17 siêu đô thị (bảng)
Đặc biệt, lượng nước ngọt đang khan hiếm trên hành tinh cũng bị chính
con người làm tổn thương, một số nguồn nước bị nhiễm bẩn nặng đến mức
không còn khả năng hoàn nguyên. Hiện nay, Đại Dương đang bị biến thành nơi
chứa rác khổng lồ của con người, nơi chứa đựng đủ loại chất thải của nền văn
minh kỹ thuật, kể cả chất thải hạt nhân. Việc đổ các chất thải xuống biển đang
làm xuống cấp các khu vực ven biển trên toàn Thế giới, gây huỷ hoại các hệ sinh
thái như đất ngập nước, rừng ngập mặn và các dải san hô.
Hiện nay, trên Thế giới, nhiều vùng đất đã được xác định là bị ô nhiễm.
Ví dụ, ở Anh đã chính thức xác nhận 300 vùng với diện tích 10.000 ha bị ô
nhiễm, tuy nhiên trên thực tế có tới 50.000 - 100.000 vùng với diện tích khoảng
100.000ha (Bridges, 1991). Còn ở Mỹ có khoảng 25.000 vùng, ở Hà Lan là
6.000 vùng đất bị ô nhiễm cần phải xử lý.
1.4.4. Sự gia tăng dân số
Con người là chủ của trái đất, là động lực chính làm tăng thêm giá trị của
các điều kiện kinh tế - xã hội và chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, xung lượng
gia tăng dân số hiện nay ở một số nước đi đôi với đói nghèo, suy thoái môi
trường và tình hình kinh tế bất lợi đã gây ra xu hướng làm mất cân bằng nghiêm
trọng giữa dân số và môi trường.

24
Đầu thế kỷ XIX, dân số Thế giới mới có 1 tỷ người nhưng đến năm 1927
tăng lên 2 tỷ người; năm 1960: 3 tỷ; năm 1974: 4 tỷ; năm 1987: 5 tỷ và năm
1999 là 6 tỷ người, trong đó trên 1 tỷ người trong độ tuổi từ 15 - 24 tuổi. Mỗi
năm dân số Thế giới tăng thêm khoảng 78 triệu người. Theo dự tính đến năm
2015, dân số Thế giới sẽ ở mức từ 6,9 - 7,4 tỷ người và đến 2025 dân số sẽ là 8
tỷ người và năm 2050 sẽ là 10,3 tỷ người. 95% dân số tăng thêm nằm ở các
nước đang phát triển do đó các nước này sẽ phải đối mặt với những vấn đề
nghiêm trọng cả về kinh tế, xã hội đặc biệt là môi trường, sinh thái. Việc giải
quyết những hậu quả do dân số tăng của những nước này có lẽ còn khó khăn
hơn gấp nhiều lần những xung đột về chính trị trên Thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự gia tăng dân số trên Thế giới,
nhiều Quốc gia đã phát triển chương trình kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ),
mức tăng trưởng dân số Toàn cầu đã giảm từ 2% mỗi năm vào những năm trước
1980 xuống còn 1,7% và xu hướng này ngày càng thấp hơn.
Theo dự tính, sau năm 2050, dân số Thế giới sẽ ngừng tăng và ổn định ở
mức 10,3 tỷ. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ để tạo cân bằng giữa dân số và khả
năng của môi trường. Các nước chưa liên kết được KHHGĐ với quy hoạch phát
triển, thì cũng chưa thể gắn vấn đề dân số với hành động về môi trường. Một câu
hỏi được đặt ra là liệu tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái của trái đất có
thể chịu đựng được sự tác động thêm bởi những thành viên cuối cùng của loài
người chúng ta hay không? Hơn nữa, điều gì sẽ xảy ra vào năm 2025, khi người
thứ 8 tỷ của trái đất sẽ ra đời? Nếu người thứ 6 tỷ sinh ra tại một nước phát triển,
ví dụ như ở Mỹ thì người đó đương nhiên thuộc vào dân số tầng lớp trên, ít nhất
theo nghĩa là có nhà tốt, có nước sạch, có điều kiện vệ sinh và được hưởng giáo
dục, chăm sóc y tế thích đáng, có việc làm, có thời gian giải trí. Song người thứ
6 tỷ cũng góp phần tiêu thụ những tài nguyên kỷ lục. Hàng năm, 270 triệu người
Mỹ sử dụng khoảng 10 tỷ tấn nguyên liệu, chiếm 30% trữ lượng của toàn hành
tinh; 1 tỷ người giàu nhất Thế giới, kể cả người Châu Âu và người Nhật tiêu thụ

25
80% tài nguyên trái đất. Nếu người thứ 6 tỷ được sinh ra tại một nước đang phát
triển, nơi tập trung 3/4 dân số của Thế giới thì người đó chỉ có lâm vào cơ hội
nghèo đói và thiếu thốn; 1/3 dân số Thế giới (2 tỷ người) đang sống với khoảng
2 USD/ngày; một nửa số người trên trái đất có điều kiện vệ sinh kém; 1/4 không
được dùng nước sạch, 1/3 sống trong những khu nhà ở không đủ tiện nghi; 1/6
không biết chữ và 30% những người lao động không có được cơ hội có việc làm
phù hợp; 5 tỷ người còn lại trên trái đất chỉ tiêu dùng vẻn vẹn 20% tài nguyên
trái đất. Việc tăng những kỳ vọng và nhu cầu thiết yếu để cải thiện điều kiện
sống trong những nước đang phát triển càng làm trầm trọng thêm sự tổn hại về
môi trường. Một người Mỹ trung bình hàng năm tiêu thụ 37 tấn nhiên liệu, kim
loại, khoáng chất, thực phẩm và lâm sản. Ngược lại, 1 người Ấn Độ trung bình
tiêu thụ hàng năm ít hơn 1 tấn. Theo Liên Hợp Quốc, nếu toàn bộ dân số của trái
đất có cùng mức tiêu thụ trung bình như người Mỹ hoặc Tây Âu, thì cần phải có
3 trái đất để đáp ứng tài nguyên cần thiết. Rõ ràng, cần phải quan tâm hơn nữa
tới sự tiến bộ của con người và công bằng xã hội và phải coi đây là những nhân
tố ảnh hưởng tới sự phát triển nguồn nhân lực và cải thiện môi trường. Mỗi
Quốc gia phải đảm bảo sự hài hoà giữa: Dân số, hoàn cảnh môi trường, tài
nguyên, trình độ phát triển, kinh tế - xã hội.
1.4.5. Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên trái đất
Các loài động và thực vật qua quá trình tiến hoá trên trái đất hàng trăm
triệu năm đã và đang góp phần quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng môi
trường sống trên trái đất, ổn định khí hậu, làm sạch các nguồn nước, hạn chế
xói mòn đất, làm tăng độ phì nhiêu đất. Sự đa dạng của tự nhiên cũng là nguồn
vật liệu quý giá cho các ngành công nghiệp, dược phẩm, du lịch, là nguồn thực
phẩm lâu dài của con người, và là nguồn gen phong phú để tạo ra các giống
loài mới. ĐDSH được chia thành 3 dạng: Đa dạng di truyền; đa dạng loài và đa
dạng sinh thái.

26
- Đa dạng di truyền: Vật liệu di truyền của vi sinh vật, thực vật và động
vật chứa đựng nhiều thông tin xác định các tính chất của tất cả các loài và các cá
thể tạo nên sự đa dạng của Thế giới hữu sinh. Theo định nghĩa, thì những cá thể
cùng loài có những đặc điểm giống nhau, những biến đổi di truyền lại xác định
những đặc điểm riêng biệt của những cá thể trong cùng loài.
- Đa dạng loài: Được thể hiện đối với từng khu vực, đa dạng loài được
tính bằng số lượng loài và những đơn vị dưới loài trong 1 vùng.
- Đa dạng hệ sinh thái: Sự phong phú về môi trường trên cạn và môi
trường dưới nước của trái đất đã tạo nên một số lượng lớn hệ sinh thái. Những
sinh cảnh rộng lớn bao gồm rừng mưa nhiệt đới, đồng cỏ, đất ngập nước, san hô
và rừng ngập mặn chứa đựng nhiều hệ sinh thái khác nhau và cũng rất giàu có
về đa dạng sinh học. Những hệ sinh thái riêng biệt chứa đựng các loài đặc hữu
cũng góp phần quan trọng cho đa dạng sinh học Toàn cầu. Các sinh cảnh giàu có
nhất của Thế giới là rừng ẩm nhiệt đới, mặc dù chúng chỉ chiếm 70% tổng diện
tích của bề mặt trái đất, nhưng chúng chiếm ít nhất 50%, thậm chí đến 90% số
loài của động và thực vật.
Sự đa dạng về các giống loài động thực vật trên hành tinh có vị trí vô
cùng quan trọng. Việc bảo vệ đa dạng sinh học còn có ý nghĩa đạo đức, thẩm mỹ
và loài người phải có trách nhiệm tuyệt đối về mặt luân lý trong cộng đồng sinh
vật sống. Đa dạng sinh học lại là nguồn tài nguyên nuôi sống con người. Chúng
ta đã sử dụng sinh vật làm thức ăn, thuốc chữa bệnh, hoá chất, vật liệu xây dựng,
năng lượng,... và cho nhiều mục đích khác, khoảng 100 loài cây cung cấp phần
lớn lượng thức ăn cho Toàn cầu, chúng vô cùng quý giá và cần phải được bảo
tồn và phát triển. Hơn 10.000 cây khác, nhất là ở các vùng nhiệt đới có thể dùng
làm thực phẩm nếu chúng ta biết sử dụng chúng tốt hơn. Cây cối và các sinh vật
khác còn là một "xí nghiệp" hoá - sinh tự nhiên. Sức khoẻ của hơn 60% dân số
Thế giới phụ thuộc vào các loài cây làm thuốc. Ví dụ, Trung Quốc đã sử dụng
5.000 trong số 30.000 loài cây để làm thuốc. Mất đa dạng sinh học chúng ta

27
cũng mất đi các dịch vụ tự nhiên của các hệ sinh thái tự nhiên, đó là: Bảo vệ các
lưu vực sông ngòi, điều hoà khí hậu, duy trì chất lượng không khí, hấp thụ ô
nhiễm, sản sinh và duy trì đất đai. Tuy nhiên, nhân loại đang phải đối mặt với
một thời kỳ tuyệt chủng lớn nhất của các loài động và thực vật. Thảm hoạ này
tiến triển nhanh nhất và có hậu quả rất nghiêm trọng. Theo tính toán, trên Thế
giới có 492 chủng quần thực vật có tính chất di truyền độc đáo đang bị đe doạ
tuyệt chủng. Sự đe doạ không chỉ riêng đối với động và thực vật hoang dại mà
trong nhiều thập kỷ gần đây với cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, công
nghiệp hoá đã làm biến mất nhiều giống loài địa phương quý hiếm, 1.500 giống
lúa địa phương đã bị tuyệt chủng trong 20 năm qua ở Inđônêxia. Ở Việt Nam,
việc áp dụng rộng rãi các giống lúa mới trong nông nghiệp,... đã dẫn tới sự thu
hẹp hoặc mất đi các hệ sinh thái dẫn tới nguy cơ tuyệt diệt 28% các loài thú,
10% các loài chim, 21% loài bò sát và lưỡng cư (Lê Quý An, 2000). Hiện tượng
này cũng xảy ra tương tự đối với vật nuôi trên Toàn cầu, đã có 474 giống vật
nuôi được coi là quý hiếm và tổng cộng đã có 617 giống vật nuôi đã tuyệt
chủng. Nguyên nhân chính của sự mất đa dạng sinh học là:
- Mất nơi sinh sống do chặt phá rừng và phát triển kinh tế.
- Săn bắt quá mức để buôn bán.
- Ô nhiễm đất, nước và không khí.
- Việc du nhập nhiều loài ngoại lai cũng là nguyên nhân gây mất đa dạng
sinh học.
Thế nào là sinh vật ngoại lai? Đó là những sinh vật lạ lọt vào một hệ
sinh thái mà trước đó không có do hoạt động vô tình hay hữu ý của con
người, từ đó nảy sinh mối đe doạ cho các loài bản địa. Điều này xảy ra chủ
yếu do 2 nguyên nhân:
- Nhập nội các sinh vật lạ hoặc các sản phẩm sinh học mới mang tính
thương mại nhưng chưa được các cơ quan chuyên môn kiểm tra và đánh giá.

28
- Phóng thích các sinh vật được truyền gen vào môi trường tự nhiên
nhưng chưa đánh giá được đầy đủ ảnh hưởng của chúng đến các hệ sinh thái.
Liên quan đến vấn đề này, xuất hiện phạm trù về "An toàn sinh học
trong quản lý môi trường". Đó là các quy định pháp lý thống nhất trên lãnh
thổ một Quốc gia về các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh
học cao (công nghệ gen), nhằm đảm bảo an toàn cho người, các hệ sinh thái
và môi trường.
Đặc điểm chung của những sinh vật ngoại lai là:
+ Sinh vật sản xuất nhanh (bằng cả sinh sản vô tính và hữu tính).
+ Biên độ sinh thái rộng, thích ứng nhanh với những thay đổi của môi
trường.
+ Khả năng cạnh tranh về nguồn thức ăn, nơi cư trú lớn.
+ Khả năng phát tán lớn.
Những tác hại do sinh vật ngoại lai gây nên: Các sinh vật lạ khi xâm nhập
vào môi trường thích hợp, chúng có thể tiêu diệt dần các loài bản địa bằng:
+ Cạnh tranh nguồn thức ăn (động vật)
+ Ngăn cản khả năng gieo giống, tái sinh tự nhiên của các loài bản địa
(thực vật) do khả năng phát triển nhanh với mật độ dày đặc
+ Cạnh tranh tiêu diệt dần các loài bản địa, làm suy thoái hoặc thay đổi
tiến tới tiêu diệt luôn cả hệ sinh thái bản địa.
Hậu quả của quá trình này không dễ khắc phục, không chỉ gây tổn thất về
giá trị ĐDSH, mà còn gây tổn thất không nhỏ về kinh tế.
Những nơi sinh vật ngoại lai dễ xâm nhập: Sự xâm nhập của các loài sinh
vật ngoại lai thường bắt đầu từ những vùng nhạy cảm, những hệ sinh thái kém
bền vững như: Vùng cửa sông, bãi bồi, các vực nước nội địa, các vùng đảo nhỏ,
các hệ sinh thái nông nghiệp độc canh, vùng núi cao với các hệ sinh thái bản địa
thuần loài (thực vật). Ví dụ, Ốc bươi vàng (Pila sinensis) được nhập khẩu vào
nước ta trong khoảng hơn 10 năm nay, với khả năng sinh sản rất nhanh và thức

29
ăn chủ yếu là lúa đã gây nên đại dịch phá hoại lúa ở nhiều tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long và một số tỉnh thuộc miền Trung và miền Bắc nước ta. Nạn dịch này
không chỉ làm giảm sản lượng lúa của các địa phương mà hàng năm, nhà nước
đã phải chi ra hàng trăm triệu đồng để tiêu diệt loài ốc này.
Hầu hết các loài bị đe doạ đều là các loài trên mặt đất và trên một nửa
sống trong rừng. Các nơi cư trú nước ngọt và nước biển, đặc biển là các dải san
hô là những môi trường sống rất dễ bị thương tổn.
1.5. Quản lý nhà nƣớc về tài nguyên và môi trƣờng
1.5.1. Khái niệm quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường là một khía cạnh của quản
lý nhà nước về kinh tế - xã hội, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện và tồn tại của
Nhà nước. Đó chính là hoạt động quản lý gắn liền với hệ thống các cơ quan thực
thi quyền lực nhà nước về tài nguyên và môi trường, có tính chất cưỡng chế đơn
phương đối với xã hội Tuy nhiên, nội dung, phương thức và công cụ áp dụng để
tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường lại tùy
thuộc vào từng điều kiện cụ thể của thể chế chính trị, thể chế nhà nước cũng như
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia ở từng giai đoạn. Như vậy,
Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường là sự chỉ huy, điều hành xã hội
của các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) để thực thi quyền
lực Nhà nước, thông qua các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đạt được mục
tiêu đề ra đối với lĩnh vực tài nguyên và môi trường trong các giai đoạn phát
triển kinh tế-xã hội của quốc gia.
Nội dung hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường là hoạt
động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành với tất cả
mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng
cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu
phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, vì con người nhằm đảm bảo phúc lợi
cao nhất, đạt mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro

30
cho môi trường và hệ sinh thái. Hoạt động này thông qua hoạt động của các cơ
quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong xã hội tồn tại nhiều chủ thể tham gia quản lý tài nguyên và môi
trường: Đảng phái chính trị, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, nhân
dân, các hiệp hội nghề nghiệp…nhưng mỗi chủ thể quản lý sẽ có cách thức tác
động lên các đối tượng quản lý khác nhau nhằm đạt được mục tiêu mà hoạt động
quản lý hướng tới. Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường có những
điểm khác biệt với các chủ thể quản lý khác bởi những đặc điểm sau:
- Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan trong bộ máy nhà nước gồm:
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Đối tượng quản lý của Nhà nước là những hành vi diễn ra hàng ngày
của công dân và các tổ chức trong xã hội. Các hành vi này xuất phát từ những
nhu cầu vận động và phát triển của công dân và các tổ chức xã hội. Đối tượng
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường có thể phân chia thành ba nhóm
chủ yếu:
+ Tầm vĩ mô: quản lý và bảo vệ tài nguyên và môi trường quốc gia, phối
hợp với quốc tế trong bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
+ Tầm vi mô: chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan môi trường bộ,
ngành, địa phương, các cơ sở kinh doanh, sản xuất thi hành luật bảo vệ môi
trường, luật tài nguyên khoáng sản và các văn bản pháp lý có liên quan.
+ Nghiên cứu khoa học, nghiên cứu ứng dụng và triển khai các công nghệ
khai thác, chế biến và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, khuyến khích các
ngành sử dụng công nghệ sạch, xử lý, tái chế chất thải và xây dựng các tiêu
chuẩn môi trường cụ thể cho từng bộ, ngành ở Việt Nam.
- Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường diễn ra trên toàn bộ các
hệ sinh thái và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên đó. Chức năng quản
lý tài nguyên và môi trường các cấpgiao cho ngành tài nguyên và môi trường

31
chủ trì. (Bộ tài nguyên và môi trường ở cấp quốc gia, Sở tài nguyên và môi
trường ở cấp tỉnh/thành phố và các cấp trực thuộc).
1.5.2. Quan điểm quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
Quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát
triển cũng như để duy trì sự thịnh vượng của bất cứ quốc gia nào trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng. Bởi vậy, từ nhiều năm qua, vấn đề quản lý nhà
nước về tài nguyên và bảo vệ môi trường thường xuyên được đề cập đến trong
các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh “bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân
(…) Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc
gia”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của Đảng một lần nữa
khẳng định “phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”. Theo sau đó, chiến lược
Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng thể hiện rõ quan điểm
“sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là loại tài nguyên không thể tái
tạo, gìn giữ và cải thiện môi trường sống”. Gần đây nhất, nghị quyết số 24-
NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI đã đưa ra hệ thống quan
điểm và các mục tiêu của nước ta về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đến năm 2020 và tầm nhìn
2050. Quan điểm đó trong giai đoạn hiện nay như sau:
Thứ nhất, khẳng định chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng
cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là vấn đề có tầm ảnh hưởng
lớn; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Đây là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ

32
của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, trong đó Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám
sát của toàn xã hội.
Thứ hai, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở quản lý tổng hợp và thống nhất,
liên ngành, liên vùng, đảm bảo cả yêu cầu trước mắt và lợi ích lâu dài; toàn diện
nhưng vẫn có trọng tâm phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính
bên cạnh sử dụng nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.
Thứ ba, khẳng định biến đổi khí hậu là thách thức nghiêm trọng đối với
toàn nhân loại, do đó ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan
hệ toàn cầu. Phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng
với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm.
Thứ tư, tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc
biệt quan trọng để phát triển đất nước. Tài nguyên phải được đánh giá đầy đủ
các giá trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ;
khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh tài nguyên. Chú trọng phát triển, sử dụng
năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế.
Thứ năm, môi trường là vấn đề toàn cầu. Tăng cường bảo vệ môi trường
phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên,
phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi
trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân
làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường,
ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
1.5.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
1.5.3.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tài nguyên

33
Mỗi loại tài nguyên thiên nhiên sẽ có những nguyên tắc quản lý phù hợp
với đặc trưng riêng của từng loại. Tuy nhiên, việc quản lý tài nguyên thiên nhiên
nói chung đều phải tuân theo những nguyên tắc căn bản sau đây:
- Phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước, quốc phòng, an ninh, quy hoạch vùng;
- Đáp ứng nhu cầu về khai thác, sử dụng tài nguyên cho sinh hoạt, sản
xuất, phát triển bền vững kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh;
- Nhu cầu sử dụng, khả năng đáp ứng của các nguồn tài nguyên và khả
năng hợp tác quốc tế; điều ước quốc tế mà Việt Nam là một thành viên;
- Dựa trên kết quả điều tra cơ bản, dự báo tài nguyên, dự báo tác động của
biến đổi khí hậu đối với các nguồn tài nguyên.
1.5.3.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về môi trường
Thứ nhất, bảo đảm tính hệ thống
Bản chất của môi trường là một hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và
nhân tạo khác nhau có tác động tới sự tồn tại và phát triển của con người và sinh
vật. Các yếu tố này một mặt bị chi phối bởi các quy luật khác thậm chí đối lập
nhau, mặt khác lại thường xuyên tác động lẫn nhau. Do đó, môi trường tồn tại
như một hệ thống động, luôn có sự tương tác giữa các yếu tố thành phần. Quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường cần đảm bảo duy trì các yếu tố môi trường
hoạt động bình thường theo các quy luật riêng, nhưng vẫn cân đối, hài hoà với
sự phát triển chung của cả hệ thống.
Thứ hai, bảo đảm tính tổng hợp
Nguyên tắc này xuất phát từ cơ sở tác động tổng hợp của các hoạt động
phát triển lên hệ thống môi trường. Các hoạt động phát triển diễn ra dưới nhiều
hình thức đa dạng, với những quy mô, tốc độ rất khác nhau và chúng đều gây ra
tác động về nhiều mặt lên đối tượng quản lý. Vì vậy, khi ra các quyết định quản
lý môi trường cần phải tính đến tác động tổng hợp của các hoạt động phát triển.

34
Thứ ba, bảo đảm tập trung dân chủ
Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được thực hiện ở nhiều cấp khác
nhau, do đó nó đòi hỏi phải có mối quan hệ chặt chẽ giữa tập trung và dân chủ
trong công tác quản lý. Tập trung được biểu hiện thông qua kế hoạch hoá các
hoạt động, ban hành và thực thi hệ thống pháp luật về môi trường, thực hiện chế
độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình,
ở tất cả các cấp quản lý. . . Dân chủ được biểu hiện ở việc xác định rõ vị trí,
trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý, áp dụng rộng rãi kiểm toán, hạch
toán môi trường, sử dụng ngày càng nhiều các công cụ kinh tế vào quản lý,
nhằm tạo ra sự bình đẳng cho mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương.
Thứ tư, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
Các thành phần của môi trường như đất, nước…thường do một ngành cụ
thể quản lý và sử dụng. Tuy nhiên, các thành phần của môi trường lại được phân
bố, khai thác và sử dụng trên một địa bàn cụ thể, thuộc quyền quản lý của một
cấp chính quyền địa phương tương ứng. Như vậy một thành phần môi trường có
thể chịu sự quản lý của cả nhiều địa phương và của cả ngành. Chính vì thế, cần
phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ thì mới
đảm bảo được hiệu lực và hiệu quả quản lý tài nguyên, môi trường.
Thứ năm, kết hợp hài hoà các lợi ích
Mỗi cá nhân, tập thể hay cộng đồng đều có những lợi ích, nhu cầu phát
triển nhất định. Quản lý bảo vệ môi trường trước hết là quản lý các hoạt động
phát triển do cá nhân, tổ chức tiến hành có khai thác tác động tới môi trường.
Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cần chú ý khuyến khích họ có những
hành vi có lợi với môi trường mà vẫn không mất đi lợi ích cho họ; kết hợp hài
hoà các lợi ích trên cơ sở quy luật khách quan. Kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân
với lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia với lợi ích của khu vực và lợi ích quốc tế.
Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ, hài hoà với quản lý kinh tế và quản lý xã hội

35
Việc kết hợp hài hòa giữa quản lý bảo vệ môi trường với quản lý kinh tế
và quản lý xã hội không nằm ngoài mục đích đảm bảo sự phát triển bền vững.
Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các chương trình, kế hoạch đầu tư bảo vệ môi
trường với các chương trình, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở mọi
cấp, mọi ngành, mọi khâu của quản lý.
Thứ bảy, tiết kiệm và hiệu quả
Nguyên tắc thực hiện tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý bảo vệ môi
trường xuất phát từ yêu cầu thực tế đối với lĩnh vực quản lý bảo vệ môi trường
khi phải sử dụng nguồn lực lớn trong khi vẫn phải đảm bảo nguồn lực cho phát
triển kinh tế - xã hội. Nguyên tắc này có thể được thực hiện thông qua việc
hoạch định chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phù hợp với
việc giảm tiêu hao nguyên liệu (tài nguyên) bằng cách áp dụng khoa học - công
nghệ, sử dụng vật liệu thay thế, tiết kiệm lao động, coi trọng đầu tư đồng bộ, có
trọng tâm, trọng điểm…
1.5.4. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
Mọi quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện sự quản lý nhà nước đối với
tài nguyên và môi trường, vì các lý do sau:
- Tầm quan trọng của tài nguyên vì nó là yếu tố của môi trường.
Sự hữu hạn của tài nguyên, cần sử dụng tiết kiệm nhưng sử dụng hợp lý
tài nguyên là một việc khó, bất lợi cho người khai thác, sử dụng. Nói chung,
sử dụng tài nguyên có xu hướng khai thác lãng phí, bừa bãi và gây ra ô nhiễm
môi trường.
- Bảo vệ tài nguyên và môi trường là sự nghiệp toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân, đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của nhiều ngành, nhiều địa phương,
nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Để có sự đồng bộ của nhiều ngành, địa phương thì
chỉ có Nhà nước mới có khả năng tổ chức, quản lý các hoạt động đó.

36
- Có một số dạng môi trường mà việc bảo vệ nó không còn chỉ cần thống
nhất hành động của một quốc gia mà còn cần sự thống nhất hành động của cả
khu vực hay toàn cầu, ví dụ như: khí quyển, nguồn nước…
Ở nước ta, ngoài những lý do chung đó còn do tài nguyên đang bị xâm
phạm, khai thác, sử dụng không hợp lý, môi trường vẫn bị tiếp tục bị ô nhiễm và
suy thoái, có nơi nghiêm trọng.
Rừng bị chặt phá, khoáng sản bị khai thác bừa bãi; đất bị xói mòn và thoái
hóa; sụy thoái đa dạng sinh học trên biển và trên đất liền; nguồn nước mặt và
nước ngầm đang bị ô nhiễm và suy giảm chất lượng; vùng biển đang bắt đầu bị
ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các hoạt động từ lục địa; nhiều khu vực công
nghiệp và đô thị bị ô nhiễm do chất thải, nước thải, khí thải…Điều kiện vệ sinh
môi trường ở khu vực nông thôn quá thấp kém. Tiêu chuẩn an toàn lao động và
an toàn thực phẩm bị vi phạm. Các sự cố môi trường ngày càng gia tăng. Việc
gia tăng dân số, việc di dân tự do diễn ra ồ ạt và không kiểm soát được, việc
khai thác có tính chất hủy diệt các nguồn lợi sinh vật trên cạn và dưới
nước…ngày càng gây sức ép tới môi trường.
Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường tập trung vào các nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Chỉ đạo, tổ chức bảo vệ tài nguyên và môi trường
Nhà nước thực hiện bảo vệ tài nguyên và môi trường, đặc biệt là tài
nguyên trước những hành vi có tính xâm hại đến những tài sản chung của quốc
gia trên nguyên tắc: sử dụng tổng hợp tài nguyên, khai thác kết hợp với bảo vệ,
sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, khai thác và dự trữ theo kế hoạch, loại bỏ chi phối
của nhóm lợi ích.
- Phân phối nguồn lợi chung
tài nguyên và môi trường là nguồn sống của con người, trong mỗi quốc
gia là công sản, nhưng do sự hợp lý hóa lao động xã hội nên việc khai thác, sử
dụng tài nguyên chỉ có một số người thực hiện. Vì vậy, Nhà nước là người đại

37
diện cho quyền lợi xã hội, người chủ của công sản này giao nguồn tài nguyên
cho những người, tổ chức có đủ điều kiện để họ khai thác, chế biến…sau đó,
Nhà nước thực hiện việc phân chia công lao thỏa đáng cho họ và nguồn lợi
nhuận từ đóng góp của họ cho toàn xã hội.
- Tổ chức khai thác và sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên quốc gia
Nhà nước phải tác động vào quá trình khai thác, sử dụng nguồn tài
nguyên đúng mức, đúng lúc, phù hợp với mối quan hệ cung – cầu trên thị trường
trong nước và quốc tế. Đồng thời, hỗ trợ họ các mặt ý chí, tri thức, vốn, kỹ thuật
và công nghệ, các đảm bảo về an ninh, trật tự để khai thác, sử dụng hợp lý, có
hiệu quả nguồn tài nguyên, giảm đến mức tối thiểu các tổn thất trong khai thác,
chế biến, vận chuyển…
Ngoài ra, Nhà nước cũng phải trực tiếp khai thác, chế biến, chăm sóc và
bảo vệ tài nguyên và môi trường bằng việc thành lập và đưa vào hoạt động của
các đơn vị kinh tế khai thác tài nguyên, cũng như đầu tư vào các hoạt động
nhằm duy trì, phát triển nguồn tài nguyên quốc gia, phục hồi và cải thiện môi
trường sinh thái.
- Chỉ đạo và tổ chức toàn dân tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường
Nhà nước tiến hành xây dựng, ban hành và cưỡng chế thực hiện các chuẩn
mực hành vi trong sản xuất, sinh hoạt, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ
môi trường ngăn không cho các hoạt động trên gây tác hại đến môi trường.
Đồng thời hỗ trợ, hướng dẫn toàn dân thực hiện các chương trình toàn dân bảo
vệ tài nguyên và môi trường.
- Phối hợp hành động của quốc gia với quốc tế
Môi trường mang tính khu vực và toàn cầu, bảo vệ môi trường phải do
toàn nhân loại phối hợp thực hiện. Nhà nước đại diện cho công dân ở từng
quốc gia phải đứng ra phối hợp hành động chung này, thỏa thuận quốc tế và
lãnh đạo, tổ chức công dân nước mình thực hiện các thỏa thuận đó, đồng thời

38
tiến hành các hoạt động tập trung nhằm tham gia vào các công ước quốc tế về
môi trường.
1.5.5. Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi
trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn về môi trường.
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường,
kế hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự
cố môi trường.
- Xây dựng, quản lý các công trình bào vệ môi trường, công trình có liên
quan đến bảo vệ môi trường.
- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện
trạng môi trường, dự báo môi trường.
- Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và
các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
- Cấp, thu hồi giấu chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
- Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành luật pháp về bảo vệ môi
trường; giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý
vi phạm luật pháp về bảo vệ môi trường.
- Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên
truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường.
- Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
1.5.6. Công cụ quản lý tài nguyên và môi trường
Theo bản chất, công cụ quản lý tài nguyên và môi trường được chia thành
các loại 04 loại công cụ cơ bản sau:
- Công cụ luật pháp và chính sách.

39
- Công cụ kỹ thuât.
- Công cụ kinh tế.
- Công cụ phụ trợ.
Theo chức năng, các công cụ quản lý tài nguyên và môi trường bao gồm:
công cụ điều chỉnh vĩ mô (các chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động bảo
vệ môi trường); công cụ hành động (có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế,
xã hội như qui định hành chính, qui định xử phạt…) và công cụ phụ trợ (được đề
ra để quan sát, giám sát chất lượng môi trường, có tác dụng hỗ trợ và hoàn chỉnh
hai loại công cụ trên).
a. Công cụ điều chỉnh vĩ mô
Công cụ này còn được gọi là công cụ pháp lý, chính sách bao gồm: các
văn bản luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản dưới luật, các văn bản đặc thù
liên quan trực tiếp đến vấn đề tài nguyên và môi trường như các kế hoạch, chiến
lược về tài nguyên và môi trường quốc gia…
● Luật quốc tế
Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế
điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa các quốc gia với tổ chức quốc
tế trong việc ngăn ngừa, loại trừ thiệt hại gây ra môi trường của từng quốc gia
và môi trường ngoài phạm vi sử dụng của quốc gia. Việt Nam đã tham gia ký
kết rất nhiều các văn bản luật quốc tế về môi trường như: công ước về bảo vệ
tầng ozôn (1985), công ước về khung biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc
(1992), công ước về đa dạng sinh học (1992), công ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển (1982)…
Các quy phạm của Luật quốc tế về bảo vệ môi trường cần phải được
chuyển hóa thành quy phạm pháp luật quốc gia, nghĩa là nhà nước phải phê
chuẩn các văn bản này.

40
● Luật môi trường quốc gia là một hệ thống các luật, bao gồm một luật
chung về bảo vệ môi trường và các luật sử dụng hợp lý các thành phần môi
trường hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa phương hoặc của một ngành.
Luật Bảo vệ Môi trường số 55/2014/QH13 hiện nay là văn bản pháp lý
quan trọng nhất về bảo vệ môi trường của nước ta. Ngoài ra, Quốc hội cũng đã
ban hành các luật về các thành phần môi trường như: Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng (2004), Luật Khoáng sản (2010), Luật Tài nguyên nước (2012), Luật Biển
Việt Nam (2012), Luật đất đai (2013) và mới đây nhất là Luật Tài nguyên, môi
trường Biển và Hải đảo (2015). Bên cạnh đó còn có các luật, pháp lệnh có liên
quan như Luật Thủy sản (2003), Luật đê điều (2006), Luật Dầu khí (sửa đổi, bổ
sung 2008), Luật thuế tài nguyên (2009)…
● Các văn bản dưới luật
Theo nội dung, các văn bản dưới luật trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường có thể được xếp vào các nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm các văn bản được ban hành nhằm cụ thể hóa nội dung,
chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật. Cũng có thể hiểu rằng các văn
bản thuộc nhóm này phản ánh các quy định hướng dẫn thực thi các điều khoản
của luật, có thể kể đến các nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Thứ hai, nhóm các văn bản có nội dung làm rõ chức năng, nhiệm vụ cũng
như trách nhiệm, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các tổ chức, cơ quan thực thi
quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên và bảo vệ môi trường. Thông thường
các văn bản này là các nghị định của Chính phủ, các quyết định của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Thứ ba, nhóm các văn bản đặc thù liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tài
nguyên và bảo vệ môi trường như các chương trình mục tiêu quốc gia, các
chiến lược, quy hoạch quốc gia về một số loại tài nguyên, chiến lược bảo vệ

41
môi trường, các văn bản quy định các tiêu chuẩn/quy chuẩn kỹ thuật về môi
trường…
Chính sách bảo vệ môi trường giải quyết các vấn đề chung nhất về quan
điểm quản lý môi trường, các mục tiêu cần giải quyết trong một giai đoạn tương
đối dài, trong khi chiến lược bảo vệ môi trường nhằm cụ thể hóa chính sách ở
một mức độ nhất định. Việt Nam đã xây dựng khá đầy đủ các chiến lược,
chương trình mục tiêu quốc gia trên lĩnh vực tài nguyên, môi trường và biến đổi
khí như: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và chương trình mục tiêu quốc
gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, các chiến lược quốc gia về tài nguyên nước,
về tài nguyên biển, về bảo vệ môi trường, hay đa dạng sinh học…
Tiêu chuẩn môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng
môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất
thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước và các tổ chức
công bố dưới dạng văn bản tự nguyện áp dụng để bảo vệ môi trường. Quy
chuẩn kỹ thuật môi trường có nội dung giống như tiêu chuẩn kỹ thuật môi
trường, tuy nhiên việc ban hành các văn bản quy chuẩn kỹ thuật là văn bản bắt
buộc phải áp dụng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Việc xây
dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật này phải đồng thời dựa trên các căn cứ khoa học
cũng như các quy định đã qua kiểm nghiệm thực tế. Điều này nhằm đảm bảo
các tiêu chuẩn được đưa ra vừa phù hợp với nhu cầu bảo vệ sinh thái vừa khả
thi về mặt kinh tế, xã hội. Hiện nay, Bộ tài nguyên và môi trường đã ban hành
các thông tư quy định quy chuẩn quốc gia về môi trường như Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về tiếng ồn, về độ rung, về nước thải y tế, về chất lượng không
khí xung quanh; nước thải…
b. Công cụ hành động
Công cụ này còn được gọi là công cụ dựa vào thị trường do nó được xây
dựng trên nền tảng các quy luật kinh tế thị trường nhằm tác động tới hành vi của

42
các cá nhân, tổ chức kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường. Có thể hình dung
một cách đơn giản như sau: các cá nhân, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
có khai thác và sử dụng các thành phần môi trường để mang lại lợi ích kinh tế
cho chính họ. Họ là người được hưởng lợi từ môi trường, do đó phải “có nghĩa
vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường” (Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường
2014). Việc “đóng góp tài chính này” thể hiện dưới hình thức phí, thuế… mà
doanh nghiệp có thể lựa chọn trên cơ sở cân đối, phù hợp giữa mức phải đóng
góp với mức độ tác động tới môi trường của hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đây chính là các công cụ kinh tế mà Nhà nước sử dụng để điều
chỉnh hành vi của doanh nghiệp theo hướng có lợi cho môi trường. Hay nói một
cách khác, “khi sử dụng các công cụ kinh tế chính là sử dụng sức mạnh của thị
trường để bảo vệ tài nguyên và môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái” (Trần
Thanh Lâm, 2009). Một số công cụ kinh tế chủ yếu được đề cập trong giáo trình
là: các loại thuế, phí; các biện pháp tài chính nhằm ngăn ngừa gây ô nhiễm; trợ
cấp môi trường; quỹ môi trường; nhãn sinh thái.
● Các loại thuế, phí
Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là loại thuế đánh vào hành vi khai thác hợp pháp các tài
nguyên thiên nhiên (thuộc đối tượng chịu thuế) trên lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam của các cá nhân, tổ chức. Theo điều 2 Luật Thuế tài
nguyên, đối tượng chịu thuế tài nguyên phần lớn là tài nguyên khoáng sản, như:
khoáng sản kim loại và không kim loại, dầu thô, khí than, khí thiên nhiên, nước
thiên nhiên, hải sản tự nhiên… Thuế tài nguyên bao gồm một số các sắc thuế
như thuế sử dụng đất, thuế khai thác khoáng sản, thuế sử dụng rừng, thuế sử
dụng nguồn nước.
Thuế tài nguyên nhằm mục đích hạn chế các nhu cầu không quá quan
trọng hoặc không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên, từ đó hạn chế các tổn thất
về tài nguyên, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các kỹ thuật hướng tới mục

43
tiêu vì môi trường. Không chỉ thế, đây cũng là một nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong việc bảo vệ, sử
dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên quốc gia.
Một nguyên tắc chung khi tính thuế tài nguyên là thuế phải nộp dựa trên
mức độ gây tổn thất tài nguyên và suy thoái môi trường. Cá nhân hay tổ chức có
hoạt động gây tổn thất tài nguyên, suy thoái môi trường càng nhiều thì thuế phải
nộp càng cao.
Thuế môi trường
Thuế môi trường là khoản thu của ngân sách nhà nước do các cá nhân, tổ
chức có sử dụng các thành phần môi trường phải nộp, nhằm điều tiết các hoạt
động có ảnh hưởng tới môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Mục đích của việc đánh thuế môi trường là để tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước và hạn chế việc sử dụng các sản phẩm hay hoạt động có hại tới
môi trường. Về cơ bản, thuế môi trường được tính phải đảm bảo nguyên tắc
“người gây ô nhiễm phải trả tiền” bên cạnh các mục tiêu, chính sách phát triển
chung và kế hoạch môi trường cụ thể của từng quốc gia.
Thuế môi trường có thể chia thành 2 loại: thuế trực thu nhằm đánh vào
lượng chất thải độc hại với môi trường do cơ sở sản xuất gây ra; và thuế gián thu
nhằm đánh vào giá trị hàng hóa gây ô nhiễm môi trường.Tại Việt Nam, Luật
Thuế bảo vệ môi trường 2010 quy định rõ thuế bảo vệ môi trường là loại thuế
gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa mà việc sử dụng chúng sẽ gây tác động
xấu đến môi trường.
Các loại phí, lệ phí môi trường
Điều 148 Luật Bảo vệ môi trường ghi rõ “tổ chức, cá nhân xả thải ra môi
trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí bảo vệ
môi trường”. Phí bảo vệ môi trường là một khoản thu ngân sách nhà nước tính
trên khối lượng, quy mô, mức độ độc hại của chất thải, sức chịu tải của môi
trường tiếp nhận chất thải.

44
Mục đích của phí môi trường nhằm ngăn ngừa việc xả thải ra môi trường
các chất ô nhiễm có thể xử lý được. Vì vậy, phí môi trường góp phần làm thay đổi
hành vi của người gây ô nhiễm và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Nguồn
thu từ phí bảo vệ môi trường dùng được sử dụng cho những hoạt động cải thiện
môi trường.
Hiện nay ở nước ta đang áp dụng một số loại phí như sau:
- Phí vệ sinh môi trường: Là khoản phí trả cho việc thu gom, xử lý rác
thải, duy trì vệ sinh môi trường đô thị. Về cơ bản loại phí này được sử dụng ở
khu vực đô thị, mức phí do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định, do vậy, mức
phí thu có thể khác nhau phụ thuộc vào từng địa phương.
- Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải (bao gồm cả nước thải sinh hoạt
và công nghiệp): Hiện đang được triển khai thực hiện trong cả nước theo Nghị
định 25/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/03/2013 nhằm hạn chế ô nhiễm
môi trường do nước thải, tiết kiệm nước sạch và tạo nguồn kinh phí thực hiện
việc bảo vệ môi trường.
- Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn: Hiện đang được triển khai
thực hiện trên cơ sở Nghị định 174/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày
29/11/2007 nhằm hạn chế phát sinh chất thải rắn và tạo nguồn kinh phí bù đắp
một phần chi phí xử lý chất thải rắn.
- Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản: Hiện đang được
triển khai thực hiện trong cả nước trên cơ sở Nghị định 74/2011/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 25/08/2011. Phí được thu tính trên mỗi đơn vị khoáng sản được
khai thác.
Bên cạnh các loại phí môi trường, còn có lệ phí môi trường. Đây là
khoản thu bắt buộc đối với các cá nhân hay pháp nhân được hưởng một lợi
ích hoặc sử dụng một dịch vụ nào đó do nhà nước cung cấp. Mức thu được
xây dựng trên cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu bù đắp chi phí và dịch vụ công

45
cộng, và một phần nhỏ dành cho nhu cầu bổ sung vào ngân sách. Lệ phí môi
trường nhằm đảm bảo nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền. Việc đóng lệ
phí của các cá nhân, pháp nhân chỉ phải thực hiện khi họ nhận được sự cung
ứng một dịch vụ. Lệ phí phải nộp sẽ tương ứng với tính chất, mức độ của dịch
vụ được cung ứng.
● Các biện pháp tài chính nhằm ngăn ngừa việc gây ô nhiễm
Giấy phép môi trường
Giấy phép môi trường thường được áp dụng cho các tài nguyên môi
trường khó có thể quy định sở hữu và vì thế thường dễ bị sử dụng bừa bãi như
không khí, đại dương (Nguyễn Thế Chinh, 2003).
Giấy phép môi trường có thể mua bán được, trong đó người bán là các
đơn vị sở hữu giấy phép và người mua là các đơn vị cần giấy phép xả thải. Để
phát hành giấy phép xả thải, Nhà nước phải xác định tổng lượng chất gây ô
nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào môi trường, sau đó phân bổ cho các nguồn
thải bằng cách phát hành những giấy phép xả thải công nhận quyền được thải
một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một giai đoạn xác
định cho các nguồn thải.
Công cụ này có ưu điểm là đảm bảo chắc chắn hơn mục tiêu bảo vệ môi
trường vì tổng lượng giấy phép xả thải vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát của
Nhà nước. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất có thể linh hoạt mua thêm hoặc
bán bớt mức phát thải tuỳ theo tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Thông qua
chuyển nhượng, cả người bán và người mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm
được chi phí đầu tư cho mục đích bảo vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng
môi trường. Có thể nói đây là một công cụ dễ kiểm soát, dễ sử dụng mà vẫn đảm
bảo căn cứ khoa học.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả

46
Đây là loại công cụ kinh tế bảo vệ môi trường bằng cách quy định cá
nhân, tổ chức phải trả thêm một khoản tiền khi mua các sản phẩm tiêu dùng có
khả năng gây ô nhiễm môi trường nhằm đảm bảo sau khi tiêu dùng, sản phẩm
(hoặc phần còn lại của sản phẩm) đó sẽ được thu gom theo quy định để tái chế,
tái sử dụng hoặc tiêu hủy theo cách an toàn đối với môi trường. Người tiêu dùng
sẽ nhận lại khoản đặt cọc đó nếu thực hiện đúng quy định trên.
Mục đích của việc yêu cầu đặt cọc là nhằm đảm bảo các sản phẩm gây ô
nhiễm đã sử dụng sẽ được tái chế hoặc tái sử dụng một cách an toàn với môi
trường. Phương thức đặt cọc này được áp dụng những trường hợp sau đây:
- Sản phẩm khi sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường nhưng có
thể tái chế hoặc tái sử dụng;
- Sản phẩm có lượng chất thải lớn, gây tốn kém khi tiêu hủy;
- Sản phẩm độc hại, gây khó khăn đặc biệt cho việc xử lý hoặc gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường nếu không xử lý đúng cách.
Khi áp dụng công cụ đặt cọc – hoàn trả cần lưu ý đến mức đặt cọc để phát
huy tính hiệu quả của công cụ này trong bảo vệ môi trường.
Kỹ quỹ môi trường
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế
có khả năng gây ra ô nhiễm và tổn thất môi trường. Các doanh nghiệp trước khi
đầu tư được yêu cầu phải ký gửi tại ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng một
khoản tiền (hoặc kim loại, đá quý, giấy tờ có giá trị) đủ lớn để đảm bảo cho việc
cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Số tiền ký quỹ phải đủ lớn
để có thể khắc phục hậu quả về môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm
hoặc suy thoái.
Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu doanh nghiệp không để
xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái ra môi trường đúng như cam kết, sẽ được hoàn trả

47
lại đúng số tiền ký quỹ. Trong trường hợp ngược lại, số tiền ký quỹ trên sẽ được
chi cho công tác khắc phục sự cố ô nhiễm.
Mục đích của ký quỹ là làm cho các doanh nghiệp có khả năng gây ô
nhiễm luôn ý thức cao về trách nhiệm của mình, từ đó họ sẽ chủ động tìm kiếm
những biện pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường gây ra do hoạt động sản xuất
kinh doanh của chính họ.
Ký quỹ môi trường vừa tạo ra lợi ích đối với nhà nước do không phải đầu
tư kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách, vừa khuyến khích doanh nghiệp
hoạt động tích cực bảo vệ môi trường.
● Trợ cấp môi trường
Được xem như một công cụ kinh tế nhằm giúp đỡ các ngành khắc phục sự
ô nhiễm môi trường hoặc hỗ trợ các doanh nghiệp khi việc xử lý ô nhiễm vượt
quá khả năng tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trợ cấp môi trường cũng
hỗ trợ, khuyến khích các cơ quan nghiên cứu khoa học, triển khai áp dụng các
công nghệ kỹ thuật mới trong sản xuất có lợi cho môi trường hoặc công nghệ xử
lý ô nhiễm. Trợ cấp môi trường gồm các dạng: trợ cấp không hoàn lại, các
khoản cho vay ưu đãi, cho phép khấu hao nhanh, và ưu đãi thuế.
Tuy nhiên, nếu không được áp dụng thích hợp hoặc áp dụng trong thời
gian dài, trợ cấp môi trường sẽ dẫn đến những hậu quả về kinh tế do trợ cấp môi
trường đi ngược lại nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP). Vì vậy,
thông thường trợ cấp môi trường chỉ là biện pháp tạm thời và được áp dụng đối
với những chương trình có sự kiểm soát rõ ràng trong một thời gian nhất định.
● Quỹ môi trường
Quỹ môi trường là tổ chức được thiết lập nhằm mục đích tiếp nhận các
nguồn vốn tài trợ khác nhau theo quy định, sau đó sử dụng các nguồn này để hỗ
trợ tài chính cho các chương trình, dự án, các hoạt động liên quan đến cải thiện
chất lượng môi trường.

48
Nguồn thu cho quỹ có thể là: phí và lệ phí môi trường; hỗ trợ, đóng góp
của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, nhà tài trợ trong và ngoài nước; tài trợ
bằng tiền hay hiện vật của chính quyền địa phương và chính phủ trung ương
trong nước; tiền lãi và các khoản thu được từ hoạt động của quỹ…
Tại Việt Nam, quỹ bảo vệ môi trường là tổ chức tài chính được thành lập
ở trung ương, ngành, lĩnh vực, đơn vị hành chính cấp tỉnh để hỗ trợ cho hoạt
động bảo vệ môi trường. Nhà nước ta cũng khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân thành lập quỹ bảo vệ môi trường.
● Nhãn sinh thái
Hiện nay ở Việt Nam, chưa có một định nghĩa nào về nhãn sinh thái được
đưa ra chính thức trong các văn bản pháp lý. Bản thân khái niệm về nhãn sinh
thái cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau trên thế giới. Tuy nhiên, có thể
hiểu một cách chung nhất, nhãn sinh thái là một loại nhãn mác cung cấp thông
tin cho người tiêu dùng về sự thân thiện hơn với môi trường của sản phẩm, hoặc
dịch vụ so với các sản phẩm hoặc dịch vụ khác. Một sản phẩm được cấp nhãn
sinh thái đồng nghĩa với việc ở một góc độ nào đó, sản phẩm đó đã được công
nhận có ý nghĩa với môi trường. Nó mang lại lợi ích cho cả người tiêu dùng do
có được thông tin về sản phẩm và cho cả doanh nghiệp do tiêu thụ được nhiều
hàng hóa, dịch vụ hơn. Bởi vậy, nhãn sinh thái là công cụ kinh tế có tác động
mạnh vào doanh nghiệp sản xuất, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư công
nghệ sản xuất mạnh hơn theo hướng có lợi cho môi trường.
Tại Việt Nam, chương trình nhãn sinh thái với tên gọi “Nhãn Xanh Việt
Nam” được triển khai thực hiện từ năm 2009 với mục tiêu tăng cường sử dụng
bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường thông qua việc khuyến
khích sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường được Nhà
nước đánh giá, chứng nhận. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm
được cấp nhãn sinh thái sẽ được hưởng những ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, vốn;
miễn, giảm thuế, phí về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

49
c. Công cụ phụ trợ
- Công cụ kỹ thuật
Công cụ kỹ thuật được coi là những công cụ hành động quan trọng của các
tổ chức trong việc thực hiện vai trò kiểm soát, giám sát về chất lượng môi trường,
đồng thời hỗ trợ việc tuân thủ các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường.
Hệ thống thông tin
Là hệ thống các cơ sở dữ liệu, thông số kỹ thuật về tài nguyên và môi
trường. Công cụ này có vai trò quyết định sự đúng đắn, độ chính xác của việc
xác định hiện trạng, dự báo diễn biến tình trạng tài nguyên và môi trường quốc
gia. Một hệ thống thông tin quản lý trên nền thông tin địa lý có tích hợp các lĩnh
vực tài nguyên và môi trường sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý, điều hành
của các cấp chính quyền một cách hiệu quả và đồng bộ. Bên cạnh đó, tạo lập cơ
sở dữ liệu quản lý ngành tài nguyên và môi trường còn phục vụ việc kết nối
thông tin đa ngành; tăng cường khả năng chia sẻ, cung cấp thông tin cho người
dân và doanh nghiệp.
Quan trắc môi trường
"Quan trắc môi trường là việc theo dõi thường xuyên chất lượng môi
trường với các trọng tâm, trọng điểm hợp lý nhằm phục vụ các hoạt động bảo vệ
môi trường và phát triển bền vững" (Tổng cục môi trường). Hoạt động quan trắc
môi trường bao gồm hoạt động lấy mẫu, đo, thử nghiệm và phân tích các thông
số ngay tại hiện trường; xử lý mẫu và phân tích các thông số trong phòng thí
nghiệm. Trên cơ sở các thông số được phân tích, quan trắc môi trường hỗ trợ
việc bảo vệ môi trường bằng cách: Cung cấp các đánh giá về diễn biến chất
lượng môi trường trên quy mô quốc gia hay từng vùng trọng điểm phục vụ các
yêu cầu quản lý và việc xây dựng báo cáo hiện trạng môi trường; cảnh báo kịp
thời các diễn biến bất thường, nguy cơ ô nhiễm, suy thoái môi trường; xây dựng
cơ sở dữ liệu về chất lượng môi trường phục vụ việc lưu trữ, cung cấp và trao
đổi thông tin.

50
Đánh giá tác động môi trường
Đây là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ môi trường, làm cho các kế hoạch,
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội mang tính bền vững. Luật Bảo vệ
môi trường Việt Nam quy định rõ các đối tượng phải thực hiện đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, hay kế hoạch bảo vệ môi
trường và nội dung cụ thể của từng loại văn bản quy định.
Ngoài các công cụ kể trên, còn có một số loại công cụ kỹ thuật khác như:
kiểm toán môi trường; kiểm soát và giám sát môi trường…
- Công cụ truyền thông, giáo dục
Truyền thông môi trường
Điều 154 Luật Bảo vệ môi trường quy định “phổ biến, giáo dục pháp luật
về bảo vệ môi trường phải được thực hiện thường xuyên và rộng rãi” đồng thời
bộ và các cơ quan nganh bộ, các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí “có
trách nhiệm truyền thông về bảo vệ môi trường thuộc lĩnh vực quản lý”.
Truyền thông môi trường nhằm mục tiêu lớn nhất là cung cấp thông tin
liên quan đến tình trạng môi trường cho những đối tượng chịu ảnh hưởng, giúp
họ quan tâm, tìm kiếm các giải pháp khắc phục, từ đó tăng cường sự trao đổi,
chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng tham gia các chương trình bảo vệ môi trường giữa
các địa phương, tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào bảo vệ
môi trường, cải thiện các hành vi ứng xử với môi trường theo hướng có lợi.
Giáo dục môi trường
Khác với truyền thông, giáo dục môi trường nhằm mục đích trang bị kiến
thức, kỹ năng, sự hiểu biết về sử dụng và bảo vệ môi trường theo cách bền vững.
Bởi vậy, giáo dục môi trường không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa học tập, bổ
sung kiến thức, mà còn bao hàm cả đào tạo nguồn nhân lực (các chuyên gia) về
bảo vệ môi trường cũng như sự vận dụng những kiến thức, kỹ năng có được để
giải quyết những vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những bất lợi có thể
phát sinh.

51
1.5.7. Xu hướng phát triển hệ thống quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường
Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại đang phải đối mặt và nỗ lực giải
quyết 10 vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nổi
cộm sau đây:
1. Kiểm soát hiện tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu;
2. Tìm ra nguồn năng lượng sạch có khả năng tái tạo;
3. Ngăn ngừa ô nhiễm nguồn nước và sự phá vỡ các hệ thống đại dương;
4. Bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên nước ngọt trên đất liền;
5. Quản lý chất thải;
6. Gia tăng dân số và di dân không kiểm soát do thảm họa thiên nhiên và
chiến tranh;
7. Ô nhiễm không khí tại các siêu đô thị và ảnh hưởng của nó tới sức khỏe
của thị dân;
8. An toàn sinh học và quản lý sinh vật biến đổi gien;
9. Bảo vệ đa dạng sinh học và sử dụng đất;
10. Kết nối chính sách và sáng kiến khoa học – công nghệ mới.
Trước những thách thức nêu trên, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới không
ngừng đổi mới tư duy và phương pháp quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài
nguyên và môi trường nhằm giải quyết các vấn đề môi trường phát sinh trước
mắt và lâu dài. Trong khi việc củng cố và phát triển các hệ thống quản lý hành
chính công nói riêng và quản lý nhà nước nói chung được các quốc gia thúc đẩy
mạnh mẽ từ sau đại chiến thế giới thứ 2 (1945), thì quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tài nguyên và môi trường mới thực sự bắt đầu được quan tâm từ đầu thập
niên 1970 ở các quốc gia phát triển.
Ở các quốc gia đang phát triển và kém phát triển, hệ thống quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường được hình thành và xây dựng sau đó một thời
gian dài, vào giữa thập niên 1980. Bước sang thập niên 1990, trong bối cảnh

52
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho các quốc gia và cũng nẩy
sinh hàng loạt các thách thức diễn ra trên qui mô toàn cầu như: biến đổi khí hậu,
suy giảm tầng ozon, ô nhiễm “xuyên biên giới” như lan truyền khói bụi, mưa
axit…khiến các quốc gia và bộ máy hành chính ở các quốc gia này phải thay
đổi, nhanh nhậy hơn, vận hành hiệu lực và hiệu quả để đảm bảo phát triển bền
vững về kinh tế - xã hội gắn với bền vững về môi trường sinh thái.
Làm thế nào để hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
nói chung, cũng như quản trị hành chính nhà nước về tài nguyên và môi trường
nói riêng ở các quốc gia đang phát triển đạt được hiệu lực và hiệu quả? Để trả
lời cho câu hỏi đó, hàng loạt các nghiên cứu so sánh về hệ thống quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường giữa các quốc gia với các đặc điểm địa lý, văn
hóa, kinh tế cũng như hệ thống chính trị khác nhau được thực hiện nhằm xác
định các động lực chính gây ảnh hưởng đến quản trị hành chính công, chỉ rõ
cách tiếp cận và kỹ thuật cần sửa đổi và hoàn thiện để cải thiện hiệu quả hoạt
động quản trị hành chính công. Đặc biệt, trong ấn phẩm “Tư duy lại hành chính
công – Tổng quan” do Liên hiệp quốc xuất bản năm 1996, mô tả khá toàn diện
các vấn đề và xu thế phát triển hành chính công ở các quốc gia đang phát triển
và từ đó chỉ ra được các cơ hội và gợi ý các phương thức cải cách hoạt động
quản trị hành chính công thông qua hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực và cải
thiện hiệu lực, hiệu quả các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường ở các quốc gia này.
Theo nghiên cứu này, có 5 khía cạnh quan trọng sau đây mà các quốc gia
đang phát triển cần phải quan tân xem xét và cân nhắc cẩn trọng khi triển khai
các nỗ lực nhằm cải cách hành chính nhà nước:
i) Vai trò của nhà nước đang dần thay đổi: các quan điểm và phương thức
quản lý nhà nước theo hướng “tập quyền” được điều chỉnh lại, phân công lại và
chuyển giao một phần các chức năng, trách nhiệm quản trị hành chính công sang
các tổ chức dân sự -xã hội. Nghiên cứu này cũng chỉ rõ xu hướng vận dụng các

53
nguyên tắc và phương pháp quản lý doanh nghiệp vào tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, đặc biệt vào cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường.
ii) Xu hướng phát triển tất yếu của dân chủ hóa: Nghiên cứu này khẳng định:
“dân chủ hóa đã trở thành phong trào mang tính toàn cầu và ngày càng có nhiều
cá nhân hiểu rõ và đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu dân chủ hóa trong các hệ thống
chính trị”
iii) Thay đổi quan điểm, bản chất của quản lý nhà nước: Quản lý nhà nước
đang phải chịu tác động của hai lực đối nghịch. Một mặt, rất nhiều vấn đề quốc
gia cần phải được xác định lại trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế như
các mối quan ngại về môi trường sống, quyền con người, phát triển kinh tế - xã
hội và trách nhiệm bắt buộc trong các hoạt động viện trợ các quốc gia kém phát
triển cũng như việc đáp ứng các tiêu chuẩn và chuẩn mực quốc tế. Xu hướng
này đòi hỏi nhiều giải pháp quản lý nhà nước mang tính tổng hợp trên phạm vi
quốc gia và trên qui mô toàn cầu. Song mặt khác, nhu cầu về tự chủ và đòi hỏi
phân cấp quản lý, phạm vi hoạt động quản lý từ trung ương đến địa phương
cũng ngày càng trở nên phổ biến trên qui mô toàn cầu. Ở nhiều quốc gia, việc
triển khai các hệ thống quản lý nhà nước mang tính dập khuôn không còn được
chấp thuận mà đòi hỏi phải được cải tổ theo hướng phù hợp với yêu cầu đặc thù
của từng địa phương.
iv) Sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình ra quyết định: Ngày
nay, nhiều vấn đề quan ngại liên quan đến môi trường như: thiên tai, sự cố, tai
nạn do con người gây ra và các tác động của nó tới chất lượng môi trường sống,
chi phí lao động, xu thế dịch chuyển nguồn lao động xuyên quốc gia, quyền con
người, quyền lợi của các nhóm yếu thế…ngày càng nhận được sự quan tâm và
ưu tiên giải quyết của chính phủ nhiều quốc gia.
v) Xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước: Với sự
phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông, yêu cầu cần

54
ứng dụng tin học nhằm cải thiện hiệu quả, hiệu suất hoạt động của các hệ thống
quản trị hành chính công đang ngày càng bắt buộc ở tất cả các quốc gia. Không
phủ nhận vai trò của công nghệ thông tin trong cải cách hành chính công ở nhiều
quốc gia, tuy nhiên cũng lại là thách thức đối với hệ thống quản lý nhà nước
trong việc đáp ứng với những thay đổi do áp dụng công nghệ thông tin gây ra.
Quản trị hành chính nhà nước về môi trường cũng được đánh giá phân
tích, tổng hợp thông qua ấn phẩm “Tương lai của quản trị môi trường sau hội
nghị thượng đỉnh Trái đất” do Viện nghiên cứu thế giới năm 1992. Trong đó,
nhấn mạnh sự cần thiết và nhu cầu cần phải đổi mới hoạt động quản lý nhà nước
về môi trường ở các cấp và đặc biệt hướng tới “thể chế, pháp lý và vai trò nhà
nước” trong các mối quan hệ hợp tác và phát triển ở cấp quốc tế nhằm giải quyết
các vấn đề về môi trường do đặc tính xuyên biên giới và qui mô toàn cầu của
các vấn đề này. Nghiên cứu này cũng chỉ ra và mô tả chi tiết những thành tựu và
thách thức đối với công tác quản lý nhà nước về môi trường trong bối cảnh toàn
cầu hóa và thay đổi khí hậu toàn cầu.
Mặc dù nghiên cứu này đã chỉ rõ những những vấn đề môi trường trọng
yếu là mối lo ngại chung của toàn cầu và những hạn chế trong hoạt động quản lý
nhà nước của các quốc gia nhằm đáp ứng và thích ứng với biến đổi môi trường
đang diễn ra mạnh mẽ, song nghiên cứu là chưa làm rõ được làm thế nào để giải
quyết được các vấn đề hay cải thiện những hạn chế đã nêu ra. Một số kết luận
quan trọng của nghiên cứu này là nguồn tham khảo tốt cho các nhà quản lý môi
trường ở các quốc gia khác nhau, bao gồm:
(i) Thể chế hóa hoạt động quản lý nhà nước về môi trường với việc qui
định trách nhiệm bảo vệ môi trường vào hiến pháp là bước tiến quan trọng và
giúp nâng cao hiệu quả của hoạt động này, song vẫn chưa đủ để có thể đạt được
hiệu quả cải cách nhanh chóng và kịp thời đáp ứng với nhu cầu thực tế.
(ii) Các nỗ lực toàn cầu và khu vực nhằm giải quyết hiệu quả các vấn đề
môi trường vẫn gặp khó khăn và thách thức do hạn chế về nguồn lực tài chính và

55
chưa có các cơ chế nhằm duy trì bền vững nguồn lực tài chính cho các hoạt động
bảo vệ môi trường.
(iii) Nền kinh tế thế giới đang bị hạn chế do lạm dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và đòi hỏi quá mức từ môi trường.
(iv) Mặc dù đã có rất nhiều các công ước quốc tế được ký kết và hệ thống
luật quốc tế về môi trường được triển khai song hiệu quả thực thi và sự cam kết
triển khai ở cấp quốc gia còn chưa cao.
(v) Các chương trình cải cách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
môi trường không hướng tới cải thiện chất lượng cuộc sống cho người nghèo thì
môi trường sẽ vẫn tiếp tục hủy hoại và xuống cấp.
Các mô hình quản lý nhà nước về môi trường từ 1970-2000 được nghiên cứu
phân tích, so sánh và đúc rút những bài học kinh nghiệm chung cho các quốc gia
trong tiến trình tăng cường năng lực và hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về
môi trường trong ấn phẩm: “Tăng cường năng lực về chính sách môi trường –
Nghiên cứu so sánh 17 quốc gia”. Quá trình phát triển và hoạt động quản lý nhà
nước về môi trường được trình bày, gồm 06 quốc gia phát triển: Italia, Áo, Pháp,
Úc, Niu Di Lân, Canada; 04 quốc gia Đông Âu đang trong giai đoạn chuyển
dịch từ nền kinh tế quản lý tập trung sang kinh tế thị trường là: Tiệp Khắc,
Hungary, Bungaria và Ba Lan; 07 quốc gia đang phát triển ở Nam Mỹ, Châu Á
và Châu Phi gồm: Braxin, Mê hi cô, Mô rốc cô, Cốt ta ri ca, Ấn độ, Đài Loan và
Việt Nam. Các nghiên cứu tập trung phân tích và nêu các giải pháp nâng cao
năng lực cho hệ thống quản lý và các chính sách môi trường mà chưa phân tích
và đưa ra các đề xuất nhằm cải cách toàn diện hệ thống quản lý nhà nước về môi
trường bao gồm: hệ thống pháp luật, chính sách; tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước; nguồn lực và sự tham gia của các bên liên quan…phù hợp trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu khảo sát toàn cầu nhằm làm sang tỏ các tranh luận liên quan
đến hệ thống chính sách và quản lý môi trường được phân tích và đánh giá

56
trong ấn phẩm: “Quản lý nhà nước về môi trường: những vấn đề cần xem xét
lại” năm 2004 đã đưa ra các gợi ý cho tất cả các vấn đề về môi trường mang
tính toàn diện và tổng hợp dựa trên các lý thuyết về kinh tế môi trường, dân
chủ hóa, chính sách công, luật, khoa học chính trị, hành chính công. Đây là ấn
phẩm đầu tiên đã tích hợp được toàn bộ các chủ đề rất rộng lớn liên quan đến
môi trường và phân tích chúng theo một khung lý thuyết nhất quán. Nghiên
cứu đã chỉ ra sự cần thiết thay đổi cách tiếp cận mới dựa trên “đánh giá kết quả
đầu ra” và “tính nguyên tắc”. Hàng loạt các vấn đề liên quan đến quản lý nhà
nước về môi trường và những gợi ý thay đổi trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế đã được các tác giả nêu khá chi tiết trong nghiên cứu này cũng
như các vấn đề về tự do, dân chủ hóa, các phong trào môi trường của cộng
đồng, pháp luật về môi trường, quyền sở hữu, trách nhiệm lập pháp, giải quyết
các tranh chấp về môi trường…và nêu lên các chuẩn mực hành chính mới như
tính linh hoạt của hệ thống pháp lý, phòng ngừa ô nhiễm, kiểm toán các hệ
thống quản lý môi trường do bên thứ ba thực hiện. Đây là ấn phẩm trình bày rõ
nét những học thuyết, tư duy và quan điểm mới về quản lý nhà nước về môi
trường của nước Mỹ. Việc phân tích các vấn đề về môi trường trong bối cảnh
toàn cầu hóa và sự gia tăng mức độ ảnh hưởng của các vấn đề môi trường có
tính xuyên biên giới đã giúp xác định các thách thức, lựa chọn và cơ hội mà
chính phủ Mỹ và các quốc gia khác cần phải xem xét để có thể đạt được các
mục tiêu phát triển bền vững.
Đặc biệt, nghiên cứu này đã tập trung thảo luận khá kỹ lưỡng về sự cần
thiết phải xem xét lại và điều chỉnh lại các học thuyết và những vấn đề lý luận
liên quan đến quản lý nhà nước về môi trường để có thể lý giải phù hợp trong
bối cảnh và thực trạng phát triển thế giới ở thế kỷ XXI cũng như đưa ra những
giải pháp cải tổ phù hợp với xu thế phát triển mới.
Các kết luận quan trọng của nghiên cứu này là:

57
(i) Khái niệm hay quan điểm “phát triển bền vững” hay tính bền vững của
các quá trình phát triển cần phải được xác định lại trong bối cảnh toàn cầu hóa ở
thế kỷ XXI. Đánh giá lại cả mục tiêu, chiến lược và hệ thống vận hành hệ thống
quản lý nhà nước về môi trường là điều hết sức cần thiết ở tất cả các quốc gia
nhằm đạt được các mục tiêu phát triển và tăng trưởng bền vững.
(ii) Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường cần phải được phát triển và vận
hành trên cơ sở dựa vào “đánh giá kết quả đầu ra”. Các cấp ra quyết định cần
phải làm sáng tỏ, cân nhắc, định lượng và đưa ra luận cứ rõ ràng cho tất cả các
quyết định của mình trên cơ sở đạt được “đánh đổi” một cách phù hợp giữa phát
triển và giá trị môi trường.
(iii) Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường trong thế kỷ XXI cần phải vượt
qua các rào cản về quan liêu, xây dựng được năng lực tốt, cơ cấu được nguồn lực
trên cơ sở tối ưu hóa, được vận hành trên cơ sở ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật mới và huy động sự tham gia toàn diện của mọi thành phần xã hội.
Trong ấn phẩm “Quản lý nhà nước về môi trường đô thị phục vụ phát
triển bền vững ở châu Á và Thái Bình Dương – Tổng quan khu vực” do Liên
hiệp quốc xuất bản năm 2005, các kết quả phân tích và đánh giá tương đối cụ thể
về các mô hình quản lý nhà nước về môi trường đô thị ở các quốc gia châu Á
cũng như vai trò của chính phủ trung ương, chính quyền địa phương, cách thức
huy động và phân bố tài chính cho các cấp quản lý ở địa phương, tăng cường
năng lực kỹ thuật và nhân lực, thu hút và điều phối sự tham gia của các bên có
liên quan, ứng dụng công nghệ thông tin…Những kinh nghiệm của các quốc gia
Đông Á phát triển cũng được đề cập tới nhằm gợi ý các tham khảo cho các quốc
gia đang phát triển trong khu vực.
Nghiên cứu đã mô tả hiện trạng phát triển đô thị ở khu vực Châu Á và
Thái Bình Dương, cơ cấu đô thị, hệ thống quản lý nhà nước về đô thị, mô hình
phát triển đô thị kiểu mẫu, những thách thức và cơ hội được xác định trên cơ sở

58
phân tích các bài học kinh nghiệm trong phát triển đô thị bền vững ở các quốc
gia Châu Á.
Quản lý nhà nước về môi trường phục vụ phát triển đô thị bền vững cũng
được phân tích, đánh giá trong nghiên cứu này nhằm đưa ra các mô hình gợi ý
để phát triển đô thị bền vững phù hợp với các quốc gia đang phát triển ở Châu
Á. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra mô hình gợi ý
chung cho các quốc gia đang phát triển trên cơ sở đánh giá bài học kinh nghiệm
của các quốc gia phát triển ở Châu Á nhưng chưa có những phân tích cụ thể ở
từng quốc gia để đề xuất được các giải pháp mang tính khả thi và phù hợp với
điều kiện đặc thù và bối cảnh riêng của mỗi quốc gia Châu Á.
Trong ấn phẩm “Cải cách hệ thống tài chính dành cho hoạt động môi
trường phục vụ giảm nghèo” do tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
xuất bản năm 2005, các nghiên cứu phân tích đánh giá các vấn đề lý thuyết cũng
như cải cách tài chính môi trường ở các nước như các biện pháp về thuế, phí
nhằm huy động nguồn lực tài chính dành cho các hoạt động bảo vệ môi trường ở
các nước. Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của các nước phát triển, báo cáo đã
chỉ rõ các bài học cũng như khuyến nghị để giúp các nhà hoạch định chính sách
ở các quốc gia đang phát triển xây dựng các cơ chế cải cách tài chính môi
trường phù hợp với từng nước.Đây là nghiên cứu mang tính lý luận và thực tiễn
về hoạt động về tài chính phục vụ quản lý nhà nước về môi trường và giảm
nghèo. Nghiên cứu này tập trung vào các nội dung chính sau đây:
(i) Kinh tế chính trị trong đổi mới hệ thống tài chính phục vụ quản lý nhà
nước về môi trường và giảm nghèo – những vấn đề tổng quan;
(ii) Công cụ đổi mới hệ thống tài chính phục vụ quản lý nhà nước về môi
trường;
(iii) Thiết kế các chương trình đổi mới và ủng hộ chính trị để tạo đà cho đổi
mới – biến chính sách thành hành động cụ thể;

59
(iv) Cải cách hệ thống tài chính phục vụ quản lý nhà nước về môi trường
trong một số lĩnh vực ngành cụ thể (lâm nghiệp, thủy sản, năng lượng, cấp nước
và kiểm soát ô nhiễm công nghiệp).
Các gợi ý cải cách tài chính môi trường được nêu trong ấn phẩm có giá trị
tham khảo cho các hoạt động tài chính phục vụ quản lý nhà nước về môi trường
cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Báo cáo “Quản lý nhà nước về môi trường một cách hiệu quả - chìa khóa
đảm bảo phát triển bền vững” được trình bày tại cuộc họp trù bị cho hội nghị
thượng đỉnh Liên hợp quốc (Rio +20) từ 12-13/10/2011 tại Kuala Lumpur
(Malaysia), trình bày tóm lược và thảo luận các nội dung quan trọng về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực môi trường và đưa ra những gợi ý chung cho các quốc
gia nhằm cải cách hệ thống quản lý nhà nước về môi trường trên cơ sở rà soát lại
các nghiên cứu của hội đồng Liên hợp quốc (UN) và các tổ chức của UN trong
suốt 4 thập kỷ qua kể từ hội nghị môi trường và con người tại Thụy điển năm
1972cho đến năm 2012.
Theo nghiên cứu này, một hệ thống quản lý nhà nước tốt về môi trường
cần phải được thiết lập và tổ chức hoạt động đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc
căn bản sau đây:
- Pháp luật về bảo vệ môi trường phải được rõ rang, dễ triển khai, có khả
năng thi hành được và có thể cưỡng chế thi hành được.
- Thông tin môi trường phải được công bố rộng rãi.
- Các bên liên quan chịu tác động phải có đủ điều kiện và cơ hội tham gia
trong quá trình ra quyết định.
- Các bên ra quyết định (cả khu vực công và khu vực tư) đều phải giải
trình được lý lẽ và căn cứ đựa ra quyết định một cách thỏa đáng và hợp lý.
- Vai trò, mối quan hệ giữa các cơ quan chức năng có thẩm quyền về bảo
vệ môi trường phải rõ ràng, có tính phối hợp và được thiết lập trên cơ sở tạo
được các kết quả hoạt động hiệu quả và không bị chồng chéo.

60
- Các bên liên quan chịu tác động phải được tiếp cận trên cơ sở bình
đẳng và thủ tục giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, thuận tiện.
- Tham ô và hối lộ trong các hoạt động môi trường có thể làm cản trở
việc đạt được các mục tiêu bảo vệ môi trường và dẫn đến các kết quả giả tạo nên
cần phải phòng ngừa các hiện tượng này.
Báo cáo này đã khẳng định sự cần thiết của quản lý nhà nước về môi
trường sau đây:
(i) Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một hệ thống quản lý
nhà nước về môi trường hiệu quả nhằm giải quyết tốt các thách thức về môi
trường sẽ là chìa khóa đảm bảo cho phát triển bền vững ở mọi quốc gia.
(ii) Mặc dù đã có nhiều nỗ lực được triển khai ở nhiều cấp khác nhau và sự
quan tâm đầu tư của rất nhiều tổ chức quốc tế và chính phủ các nước, song cần
đẩy mạnh cải cách hành chính hướng tới việc xây dựng một bộ máy hành chính
gọn nhẹ hơn, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn, hướng tới phục vụ tốt hơn các
nhu cầu và lợi ích hợp pháp của công dân và xã hội trong lĩnh vực môi trường.
(iii) Môi trường về bản chất là một vấn đề phát triển mang tính liên
ngành, liên vùng, quản lý nhà nước về môi trường cần phải được xem xét trong
bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội một cách tổng thể và được lồng ghép trong
mọi hoạt động nhằm hướng tới phát triển bền vững quốc gia. Hay có thể hiểu vai
trò của hệ thống quản lý nhà nước về môi trường là điều hành quá trình phá triển
quốc gia theo định hướng thân thiện với môi trường và bền vững.

61
Câu hỏi ôn tập chƣơng 1

1. Nêu khái niệm tài nguyên thiên nhiên ? Phân tích vai trò của tài nguyên
thiên nhiên đối với sự phát triển kinh tế xã hội loài người ?
2. Nêu khái niệm môi trương thiên nhiên ? Phân tích vai trò của môi
trường thiên nhiên đối với sự phát triển kinh tế xã hội loài người ?
3. Phân tích thách thức môi trường toàn cầu trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội loài người ?
4. Anh/Chị hãy trình bày mối quan hệ và vai trò của tài nguyên và môi
trường đối với tồn tại và phát triển xã hội loài người?
5. Nêu khái niệm quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ? Phân
tích vai trò và sự cần thiết quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ?
6. Phân tích công cụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ?
7. Anh/Chị hãy trình bày ứng phó với biến đổi khí hậu, phân tích bản chất
của thích ứng và giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu đến phát triển kinh tế-xã
hội-môi trường?
8. Anh/Chị hãy nêu xu hướng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường trên thế giới và khu vực?

62
CHƢƠNG 2
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÀI NGUYÊN

Tóm tắt: Quản lý nhà nước về tài nguyên khác với quản lý nhà nước về
tài nguyên và môi trường nói chung, vì mỗi loại tài có những đặc điểm riêng cần
đặt ra trong quá trình quản lý nhà nước để chúng ta cần xây dựng mục tiêu,
công cụ cũng như cách thức tổ chức quản lý nhằm khai thác một cách tiết kiệm
và hiệu quả. Chương 2 Quản lý nhà nước về tài nguyên cung cấp cho người học
kiến thức sâu hơn về quản lý nhà nước đối với các loại tài nguyên như tài
nguyên rừng, tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản .v.v.
2.1. Khái niệm quản lý nhà nƣớc về tài nguyên
- Theo nghĩa rộng: Là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà
nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trên các
phương diện lập pháp hành pháp và tư pháp về tài nguyên. Theo cách hiểu này,
quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân lao động làm chủ ".
- Theo nghĩa hẹp: Là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước đối với tài nguyên theo pháp luật nhằm đạt được những
mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên. Đồng thời, các cơ
quan nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành,
điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và
củng cố chế độ công tác nội bộ của mình để quản lý tài nguyên. Quản lý nhà
nước về tài nguyên theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý
hành chính nhà nước về tài nguyên.
2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về tài nguyên
2.2.1. Mục tiêu quản lý nhà nước về tài nguyên
- Mục tiêu tổng quát

63
Mục tiêu của quản lý nhà nước về tài nguyên là đảm bảo sự công bằng,
hiệu quả, bền vững trong việc đánh giá, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn
tài nguyên, bao gồm:
- Xây dựng các công cụ quản lý tài nguyên có hiệu lực cho từng ngành,
địa phương và công đồng dân cư.
- Ngăn ngừa và khắc phục thiệt hại về việc khai thác và sử dụng tài
nguyên trong hoạt động sống của con người.
- Phát triển kinh tế xã hội theo hướng bền vững.
+ Giữ cân bằng giữa phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ, tái tạo các nguồn
tài nguyên
+ Việc sử dụng tài nguyên ở thế hệ này không được làm phương hại đến
các thế hệ tương lai trong việc sử dụng tài nguyên.
- Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được tiềm năng, giá trị của các nguồn tài nguyên quan trọng
trên đất liền;
- Đạt được bước tiến quan trọng trong điều tra cơ bản tài nguyên biển.
- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia;
bảo đảm cân đối quỹ đất cho phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ đất chuyên
trồng lúa;
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nước tính trên 1 đơn vị GDP;
- Khai thác hiệu quả và bền vững sinh thái, cảnh quan, tài nguyên sinh vật.
- Chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỷ lệ năng lượng
tái tạo, giảm tiêu hao năng lượng tính trên 1 đơn vị GDP.
2.2.2. Nhiệm vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát cũng như mục tiêu cụ thể, một số nhiệm vụ
cụ thể cho công tác quản lý tài nguyên là:
- Điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế của các nguồn tài
nguyên quốc gia. Cụ thể, tập trung thực hiện các chương trình, dự án điều tra cơ

64
bản tài nguyên, đặc biệt là điều tra cơ bản tài nguyên khoáng sản, tài nguyên
nước, tài nguyên biển; chú trọng điều tra cơ bản địa chất khoáng sản vùng biển
sâu, phát triển các loại khoáng sản mới. Tăng cường công tác điều tra cơ bản,
đánh giá chất lượng, tiềm năng tài nguyên đất; thoái hóa, ô nhiễm đất và xây
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, đồng bộ theo từng loại đất gắn với mục
đích sử dụng.
- Khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên
quốc gia. Phân loại, hoạch định chiến lược, lập quy hoạch bảo vệ, khai thác hợp
lý, sử dụng hiệu quả và bền vững các loại hình tài nguyên chiến lược quan trọng.
Xây dựng và thực hiện các chiến lược bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý các loại
tài nguyên đất, khoáng sản, nước, rừng, nguồn lợi thủy sản, năng lượng tái tạo.
Nâng cao chất lượng quy hoạch các loại tài nguyên, tính đến các tác động của
biến đổi khí hậu. Xây dựng và thực hiện các cơ chế quản lý giám sát minh bạch
việc sử dụng các loại tài nguyên quốc gia, bảo đảm sử dụng hợp lý, hiệu quả và
bền vững.
- Nghiên cứu tạo mưa nhân tạo, khai thác nước ngọt từ biển để phục vụ
sinh hoạt của nhân dân, chiến sỹ quân đội, ngư dân trên biển, các đảo.
- Thực hiện cải tạo, phục hồi các dòng sông, đoạn sông bị ô nhiễm, cạn
kiệt. Hợp tác với các nước trong khu vực, theo dõi, giám sát hoạt động khai thác,
sử dụng nước thượng nguồn sông Hồng và sông Mekong, dự báo sớm những
vấn đề liên quan đến nguồn nước quốc gia để chủ động ứng phó, xử lý kịp thời.
- Bảo vệ, phòng chống hoang mạc hóa, sa mạc hóa, xâm nhập mặn, xói lở
đất... và từng bước bảo đảm diện tích đất cho phát triển rừng theo quy hoạch,
đặc biệt là vùng núi Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.
- Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống.
- Hoạch định chiến lược tìm kiếm, thăm dò, khai thác các nguồn tài
nguyên mới, từ bên ngoài. Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược khoáng

65
sản, khoa học công nghệ nhằm tìm kiếm các loại khoáng sản mới. Thúc đẩy, hỗ
trợ các tập đoàn khai thác, chế biến khoáng sản của Việt Nam hợp tác, đầu tư ra
nước ngoài, thiết lập mạng lưới đối tác khoáng sản chiến lược phục vụ yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới để sản xuất các loại nguyên,
nhiên, vật liệu mới có thể thay thế các loại khoáng sản, vật liệu truyền thống.
Thúc đẩy sử dụng chất thải tái chế làm nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản
xuất công nghiệp.
- Phát huy các giá trị cảnh quan thiên nhiên, dịch vụ hệ sinh thái tài
nguyên di truyền.
- Nghiên cứu khai thác, phát huy các giá trị sinh thái, cảnh quan, tài
nguyên di truyền phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, nhất là du lịch sinh thái, phát
triển nông nghiệp
2.3. Một số vấn đề quản lý nhà nƣớc về tài nguyên
2.3.1. Quản lý nhà nước về tài nguyên rừng
2.3.1.1. Tài nguyên rừng
- Khái niệm
Theo luật bảo vệ phát triển rừng: “Rừng là một loại tài nguyên thiên nhiên
có khả năng tái tạo, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị
to lớn bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng trên đất lâm nghiệp, gồm có thực
vật rừng, động vật rừng và những yếu tố tự nhiên có liên quan đến rừng ( gọi
chung là quần xã sinh vật)” (Luật bảo vệ và phát triển Rừng, 2004)
- Vai trò của tài nguyên rừng
Rừng có vai trò rất quan trọng đối với phát triển bền vững của xã hội loài
người. Có thể kể đến các vai trò của rừng như sau:
- Tạo ra, duy trì và bảo vệ đa dạng sinh học, là nơi ở cho các loài động vật;
- Tích tụ, chuyển hóa năng lượng mặt trời thành hóa năng, cung cấp O2,
tiêu thụ, tích luỹ CO2, làm sạch bầu khí quyển;

66
- Sản xuất và cung cấp gỗ làm nhiên liệu cho dân sinh (đảm bảo 19% năng
lượng cho các nước đang phát triển, 3% năng lượng cho các nước phát triển) và
nguyên liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp, khai mỏ, hoá chất, y học,...;
- Bảo vệ đất dưới tán rừng, chống xói mòn, tạo vi khí hậu;
- Điều hoà chế độ dòng chảy, phòng hộ đầu nguồn;
- Cung cấp các giá trị cảnh quan, thẩm mỹ, du lịch, là đối tượng cho
nghiên cứu khoa học;
- Là cơ sở tạo ra và bảo tồn văn hoá địa phương.
Các nhà khoa học khuyến cáo mỗi quốc gia nên duy trì 45% diện tích lãnh
thổ có rừng che phủ, đặc biệt vùng mưa ẩm nhiệt đới cần độ che phủ 60%.
- Phân loại và đặc điểm tài nguyên Rừng
- Phân loại tài nguyên rừng
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng được phân thành ba loại
sau đây:
- Rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất,
chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hồ khí hậu, góp phần
bảo vệ môi trường, bao gồm:
+ Rừng phòng hộ đầu nguồn;
+ Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay;
+ Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển;
+ Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường;
- Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn
hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học;
bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch,
kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm:
+ Vườn quốc gia;
+ Khu bảo tồn thiên nhiên gồm khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài -
sinh cảnh;

67
+ Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu rừng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam
thắng cảnh;
+ Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học;
- Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, lâm
sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm:
+ Rừng sản xuất là rừng tự nhiên;
+ Rừng sản xuất là rừng trồng;
+ Rừng giống gồm rừng trồng và rừng tự nhiên qua bình tuyển, công nhận.
- Đặc điểm của tài nguyên rừng
Rừng là tài nguyên tái tạo.
Tài nguyên rừng phân bố không đồng đều.
Tài nguyên Rừng là một thể tổng hợp phức tạp có sự qua lại và có sự
thống nhất.
Tài nguyên Rừng có tính cân bằng động, tự ổn định và tự phục hồi.
2.3.1.2. Quản lý nhà nước về tài nguyên rừng
Quản lý nhà nước về tài nguyên rừng là sự tác động có tổ chức và bằng
pháp quyền của bộ máy nhà nước lên đối tượng bị quản lý trong việc tổ chức,
quy hoạch, điều hành tài nguyên rừng thông qua quản lý các cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp…có liên quan trong lĩnh vực tài nguyên rừng nhằm phục vụ cho
nhu cầu khai thác, sử dụng rừng của người dân, góp phần vào việc tạo xây dựng
và phát triển đất nước trong lĩnh vực tài nguyên rừng và môi trường một cách có
hiệu quả và công bằng.
- Chủ thể quản lý
Nhà nước thống nhất quản lý và định đoạt đối với rừng tự nhiên và rừng
được phát triển bằng vốn của Nhà nước, rừng do Nhà nước nhận chuyển quyền
sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng từ các chủ rừng; động vật rừng sống tự
nhiên,hoang dã, vi sinh vật rừng; cảnh quan, môi trường rừng (Khoản 1, Điều 6
Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004).

68
- Quan điểm, nguyên tắc của công tác quản lý nhà nước về tài nguyên rừng
+ Quan điểm:
- Phát triển kinh tế rừng thành ngành kinh tế trọng điểm, đa mục tiêu theo
hướng xã hội hóa, đảm bảo hài hòa, phù hợp giữa lợi ích môi trường, kinh tế, xã
hội và thích ứng với biến đổi khí hậu;
- Bảo vệ toàn bộ diện tích rừng hiện có, phát triển rừng bền vững, nâng
cao chất lượng rừng, làm giàu rừng.
Khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên rừng, đảm bảo đáp ứng đủ nguyên
liệu cho sản xuất công nghiệp chế biến lâm sản của tỉnh, gắn bảo vệ và phát triển
rừng với an sinh xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường và phát triển du lịch
sinh thái;
- Khuyến khích dồn đổi, tích tụ đất lâm nghiệp, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia phát triển rừng sản xuất, tạo ra các vùng sản xuất hàng
hóa tập trung, quy mô lớn, hiệu quả cao. Gắn quy hoạch trồng rừng với quy
hoạch chế biến lâm sản và tiêu thụ sản phẩm.
+ Nguyên tắc
- Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm phát triển bền vững
về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế
quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân. Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm nguyên tắc quản lý
rừng bền vững; kết hợp bảo vệ và phát triển rừng với khai thác hợp lý để phát
huy hiệu quả tài nguyên rừng; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, khoanh nuôi tái
sinh phục hồi rừng, làm giàu rừng với bảo vệ diện tích rừng hiện có; kết hợp lâm
nghiệp với nông nghiệp và ngư nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng kinh tế gắn với
phát triển công nghiệp chế biến lâm sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm rừng.

69
- Việc bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Việc giao, cho thuê, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng rừng và đất phải
tuân theo các quy định của Luật này, Luật đất đai và các quy định khác của pháp
luật có liên quan, bảo đảm ổn định lâu dài theo hướng xã hội hoá nghề rừng.
- Bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với chủ rừng; giữa lợi ích kinh tế
của rừng với lợi ích phòng hộ, bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên; giữa
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; bảo đảm cho người làm nghề rừng sống chủ
yếu bằng nghề rừng.
Chủ rừng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng
rừng theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật, không làm
tổn hại đến lợi ích chính đáng của chủ rừng khác.
+Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà
nước về tài nguyên rừng ở Việt Nam
a. Tổ chức bộ máy
Hệ thống tổ chức bộ máy về quản lý tài nguyên rừng ở nước ta có sự thay
đổi rất lớn qua những cột mốc quan trọng. Cột mốc đầu tiên được đánh dấu vào
ngày 14/11/1945, khi Hội đồng Chính phủ ban hành nghị quyết thành lập Bộ
Canh Nông, trong đó có Nha Lâm chính – đơn vị chuyên trách về bảo vệ rừng
và trồng rừng. Khoảng 5 năm sau, Nha Lâm chính lần lượt được đổi tên thành
Nha Thủy lâm rồi Vụ Thủy lâm, Cục Lâm nghiệp. Sau nhiều giai đoạn tiếp tục
phân tách, sáp nhập, đến năm 1995, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp
thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp và Bộ Thủy lợi. Từ năm 2007, theo nghị quyết của
Quốc hội, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hợp nhất với Bộ Thủy sản,
tiếp tục giữ tên gọi Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và được giao thêm
nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực thủy, hải sản.
Có thể nói, sự thay đổi cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp cũng như
các ngành nông nghiệp, thủy lợi, thủy sản, diêm nghiệp và phát triển nông thôn

70
ở cấp bộ, từ bộ quản lý đơn ngành sang quản lý đa ngành là sự thay đổi đúng
đắn, hợp thời và tích cực. Trên thực tế, xu hướng thành lập các Bộ quản lý đa
ngành vốn được xem là sự thay đổi tiến bộ.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải củng cố tổ chức quản lý của Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn để nâng cao hiệu quả quản lý đa ngành, liên
ngành. Muốn vậy, cần xác định cụ thể vấn đề quản lý liên ngành là như thế nào,
đồng thời phải nắm vững các mối liên kết liên ngành, đơn cử như mối liên kết
giữa thủy sản – rừng hay giữa sản xuất lương thực – rừng.
Hiện nay theo Nghị định số 86/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính phủ, hệ
thống tổ chức ngành lâm nghiệp được phân chia thành hai cấp: Trung ương và
địa phương. Cụ thể như sau:
- Cấp Trung ương bao gồm Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ và phát
triển rừng trong phạm vi cả nước. Trong bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn là các Cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm, các đơn vị sự nghiệp trực thuộc
và một số cục, vụ khác là cơ quan chuyên trách về vấn đề quản lý bảo vệ và
phát triển rừng.
- Ở cấp địa phương, hệ thống tổ chức được phân chia thành ba cấp nhỏ hơn:
- Cấp tỉnh (Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chi cục phát triển
lâm nghiệp, Chi cục Kiểm lâm);
- Cấp huyện (Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với 1-2 cán bộ
chuyên trách lâm nghiệp; Hạt Kiểm lâm);
- Cấp xã (Ủy viên ủy ban xã; Kiểm lâm viên phụ trách địa bàn). Nhìn
chung, bộ máy quản lý nhà nước về lâm nghiệp được phân cấp tương đối hệ
thống từ cấp Trung ương tới địa phương.

71
b) Chính sách quản lý nhà nước về tài nguyên rừng
1. Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc bảo vệ và phát triển rừng gắn
liền, đồng bộ với các chính sách kinh tế - xã hội khác, ưu tiên đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, định canh định cư, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân miền núi.
2. Nhà nước đầu tư cho các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ, rừng giống quốc gia; bảo vệ và phát triển các loài thực vật rừng,
động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho việc bảo vệ và
phát triển rừng; xây dựng hệ thống quản lý rừng hiện đại, thống kê rừng, kiểm
kê rừng và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; xây dựng lực lượng chữa cháy
rừng chuyên ngành; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang bị phương tiện phục
vụ chữa cháy rừng, phòng trừ sinh vật gây hại rừng.
3. Nhà nước có chính sách hỗ trợ việc bảo vệ và làm giàu rừng sản xuất là
rừng tự nhiên nghèo, trồng rừng sản xuất gỗ lớn, gỗ quý, cây đặc sản; có chính
sách hỗ trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng rừng nguyên liệu; có chính
sách khuyến lâm và hỗ trợ nhân dân ở nơi có nhiều khó khăn trong việc phát
triển rừng, tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ lâm sản.
4. Nhà nước khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nhận đất phát
triển rừng ở những vùng đất trống, đồi núi trọc; ưu tiên phát triển trồng rừng
nguyên liệu phục vụ các ngành kinh tế; mở rộng các hình thức cho thuê, đấu
thầu đất để trồng rừng; có chính sách miễn, giảm thuế đối với người trồng rừng;
có chính sách đối với tổ chức tín dụng cho vay vốn trồng rừng với lãi suất ưu
đãi, ân hạn, thời gian vay phù hợp với loài cây và đặc điểm sinh thái từng vùng.
5. Nhà nước có chính sách phát triển thị trường lâm sản, khuyến khích tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư để phát triển
công nghiệp chế biến lâm sản, làng nghề truyền thống chế biến lâm sản.

72
6. Nhà nước khuyến khích việc bảo hiểm rừng trồng và một số hoạt động
sản xuất lâm nghiệp.
- Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên rừng ở Việt Nam
1. Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng.
2. Xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược phát triển lâm nghiệp, quy
hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng trên phạm vi cả nước và ở từng
địa phương.
3. Tổ chức điều tra, xác định, phân định ranh giới các loại rừng trên bản
đồ và trên thực địa đến đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
4. Thống kê rừng, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và đất
để phát triển rừng.
5. Giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng.
6. Lập và quản lý hồ sơ giao, cho thuê rừng và đất để phát triển rừng; tổ
chức đăng ký, công nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, quyền sử
dụng rừng.
7. Cấp, thu hồi các loại giấy phép theo quy định của pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng.
8. Tổ chức việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên
tiến, quan hệ hợp tác quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực cho việc bảo vệ và
phát triển rừng.
9. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
10. Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng.
11. Giải quyết tranh chấp về rừng.

73
2.3.2. Quản lý nhà nước về tài nguyên đất
1.2.1.1. Khái niệm, phân loại
Đất là một thể tự nhiên độc lập, tạo thành lớp trên cùng của vỏ trái đất.
Đất là kết quả của sự kết hợp giữa các quá trình địa chất, thủy văn, khí hậu và
sinh học. Đất là một dạng tài nguyên vật liệu của con người, đất được hiểu theo
hai cách khác nhau: đất là nơi ở - đất đai (land), đất được hiểu theo nghĩa thổ
nhưỡng (soil).
- Đất theo nghĩa đất đai (land) là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng, là nơi để
sản xuất của con người. Giá trị của đất đai được xác định bởi điều kiện thuận lợi
cho việc kiến thiết và xây dựng
- Đất theo nghĩa thổ nhưỡng (soil) là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc
lập lâu đời, hình thành do kết quả của nhiều yếu tố: đá gốc, động thực vật, khí
hậu, địa hình và thời gian. Thành phần cấu tạo của đất gồm các hạt khoáng
chiếm 40%, hợp chất humic 5%, không khí 20% và nước 35%.
Đất có ý nghĩa sinh thái vô cùng quan trọng, là phần thạch quyển quan
trọng nhất đối với loài người và đa số các sinh vật trên trái đất. Mặc dù có độ
dày rất mỏng so với bán kính của trái đất cũng như lớp vỏ phong hóa hoặc trầm
tích, song đất lại là đối tượng tạo ra nguồn thức ăn cần thiết cho mọi sinh vật.
Bên cạnh đó, đất cũng là bồn chứa tiếp nhận một khối lượng lớn các chất ô
nhiễm có nguồn gốc tự nhiên và nhân sinh. Một tác động lớn nhất của con người
là đã can thiệp vào quá trình gìn giữ đất của cây cối, làm tăng tốc độ thoái hóa
xói mòn đất.
Trong Hiến pháp năm 2013, tại điều 54 đã khẳng định: Đất đai là tài
nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được
quản lý theo pháp luật.
Không giống như một số tài nguyên khác, đất đai có một số đặc điểm sau:
Đất đai là tài nguyên hữu hạn, có thể phục hồi và tái sử dụng;
Đất đai chứa đựng các tài nguyên khác như nước, khoáng sản

74
Là tư liệu sản xuất của ngành nông nghiệp
Thành phần, tính chất, giá trị, khác nhau phụ thuộc vị trí, điều kiện tự
nhiên, môi trường nhân tạo (cơ sở hạ tầng), đây là loại hàng hóa đặc biệt có thể
mua bán, trao đổi được.
Có thể nói đất đai là điều kiện tiên quyết đối với tất cả các quá trình sản
xuất của các ngành kinh tế và hoạt động của con người. Nếu không có đất đai thì
không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, con người không thể tiến hành sản
xuất ra của cải vật chất để duy trì sự sống đến ngày nay.
b. Phân loại đất đai
Tổng diện tích đất tự nhiên của nước ta 33096,7 nghìn ha (năm 2014), căn
cứ theo mục đích sử dụng, đất đai được phân thành 3 loại theo như luật đất đai
năm 2013:
1. Nhóm đất nông nghiệp 26822,9 nghìn ha, bao gồm các loại đất sau đây:
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng
năm khác;
- Đất trồng cây lâu năm;
- Đất rừng sản xuất;
- Đất rừng phòng hộ;
- Đất rừng đặc dụng;
- Đất nuôi trồng thủy sản;
- Đất làm muối;
- Đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các
loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không
trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại
động vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống,
con giống và đất trồng hoa, cây cảnh;

75
2. Nhóm đất phi nông nghiệp có diện tích 3796,9 nghìn ha bao gồm các loại đất
sau đây:
- Đất ở gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị;
- Đất xây dựng trụ sở cơ quan;
- Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
- Đất xây dựng công trình sự nghiệp gồm đất xây dựng trụ sở của tổ
chức sự nghiệp; đất xây dựng cơ sở văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục và đào
tạo, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, ngoại giao và công trình sự
nghiệp khác;
- Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất khu công nghiệp,
cụm công nghiệp, khu chế xuất; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi
nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây
dựng, làm đồ gốm;
- Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao thông (gồm cảng
hàng không, sân bay, cảng đường thủy nội địa, cảng hàng hải, hệ thống đường
sắt, hệ thống đường bộ và công trình giao thông khác); thủy lợi; đất có di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt cộng đồng, khu vui chơi,
giải trí công cộng; đất công trình năng lượng; đất công trình bưu chính, viễn
thông; đất chợ; đất bãi thải, xử lý chất thải và đất công trình công cộng khác;
- Đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng;
- Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng;
- Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;
- Đất phi nông nghiệp khác gồm đất làm nhà nghỉ, lán, trại cho người lao
động trong cơ sở sản xuất; đất xây dựng kho và nhà để chứa nông sản, thuốc bảo
vệ thực vật, phân bón, máy móc, công cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và
đất xây dựng công trình khác của người sử dụng đất không nhằm mục đích kinh
doanh mà công trình đó không gắn liền với đất ở;

76
3. Nhóm đất chưa sử dụng gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng là
phần diện tích còn lại trong tổng diện tích đất với 2476,9 nghìn ha.
Trong tổng diện tích đất đai cả nước có tới 77,06% đã được giao và cho
thuê. Trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất bằng 81,04% so
với tổng diện tích đất cả nước, đã giao cho thuê 87,33% so với diện tích cùng
loại. Tỷ lệ đất chưa sử dụng cũng đã tận dụng để giao hoặc cho thuê.
1.2.1.2. Hoạt động quản lý về đất đai
a. Chủ thể quản lý
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tài sản chung của toàn dân. Điều này
không chỉ được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992, 2013 mà trong luật đất
đai 2013 tại điều 4. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng
đất theo quy định của Luật này. Tuy đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng Nhà
nước có quyền xác lập hình thức pháp lý cụ thể đối với người sử dụng đất trên
cơ sở là người đại diện chủ sở hữu. Do đó, không thể có bất kỳ một cá nhân hay
một nhóm người nào chiếm đoạt tài sản chung thành tài sản riêng của mình
được. Chỉ có Nhà nước - chủ thể duy nhất đại diện hợp pháp cho toàn dân mới
có toàn quyền trong việc quyết định số phận pháp lý của đất đai, thể hiện sự tập
trung quyền lực và thống nhất của Nhà nước trong quản lý nói chung và trong
lĩnh vực đất đai nói riêng.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam với tư cách là đại diện chủ
sở hữu toàn dân thực hiện quyền quản lý nhà nước thông qua các cơ quan quyền
lực Nhà nước, Hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước, Hệ thống cơ quan quản
lý đất đai có thẩm quyền chuyên môn.
 Cơ quan quyền lực Nhà nước:
Ở trung ương có Quốc Hội và cơ quan thường trực của Quốc Hội; ở địa
phương có Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp huyện và Hội
đồng nhân dân cấp xã. Hệ thống cơ quan quyền lực nêu trên không tham gia trực

77
tiếp vào hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, nhưng các hoạt động chuyên
môn của các cơ quan này có tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của
quản lý nhà nước về đất đai, thậm chí còn có tính chất quyết định, định hướng,
chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về đất đai.
Cơ quan quyền lực ở trung ương: Quốc hội thực hiện chức năng cơ bản
nhất là xây dựng và thông quan Hiến pháp, các Luật trong đó có Luật Đất đai.
Các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong phạm vi cả nước cũng phải được
Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ
quan thường trực Quốc hội trong những trường hợp cụ thể, tại những thời điểm
và hoàn cảnh nhất định, với nhu cầu cần điều chỉnh những vấn đề cụ thể trực
tiếp và mang tính chất kịp thời đối với hoạt động quản lý đất đai, cơ quan này có
thể ban hành pháp luật dưới hình thức Nghị quyết. Ngoài ra Quốc hội còn giám
sát việc thực thi quá trình tổ chức thực thi pháp luật đất đai của hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước, của cán bộ quản lý nhà nước về Đất đai nhằm nâng cao hiệu
quả khai thác và sử đụng đất đai.
Đối với cơ quan quyền lực ở địa phương: Hội đồng nhân dân các cấp
giám sát việc chấp hành pháp luật Đất đai của tất cả các cơ quan, tổ chức và cá
nhân. Cơ quan này có quyền chất vấn, yêu cầu cán bộ, người có thẩm quyền,
người đứng đầu các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai phải giải trình, trả lời
chất vấn. Bên cạnh đó cơ quan này còn thực hiện chức năng thông qua quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất do ủy ban nhân dân cùng cấp lập và trình lên cơ
quan cấp trên có thẩm quyền xét duyệt.
 Hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thống nhất từ trung ương
đến địa phương mới có đủ chức trách thẩm quyền trong việc QL đất đai thông
qua giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, trưng
dụng đất.

78
Trong Luật đất đai 2013, tại điều 23, 24, 25 cũng đã nêu rõ.
Trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước.
- Bộ tài nguyên và môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong
việc thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.
- Bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm giúp Chính phủ trong quản lý nhà nước về đất đai.
- Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai
tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước cao nhất là Chính phủ có chức
năng quản lý mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước trong đó
có lĩnh vực đất đai. Chính phủ có thẩm quyền chung cao nhất thống nhất quản lý
toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước. Vai trò của Chính phủ thể hiện thông
qua trực tiếp ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và các văn
bản để hướng dẫn thực hiện một số nội dung cụ thể trong lĩnh vực đất đai. Chính
phủ xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong phạm vi cả nước để trình
Quốc hội xét duyệt, đồng thoài là cơ quan trực tiếp xét duyệt quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, của Bộ Quốc
phòng, Bộ Công An. Ngoài ra, Chính phủ cũng là cơ quan trực tiếp tổ chức, chỉ
đạo các Bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc chính phủ, ủy ban nhân
dân các cấp và cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn trong việc triển
khai thực thi pháp luật Đất đai trong cả nước và ở từng địa phương. Vai trò của
Chính phủ trong quản lý đất đai không mang tính sự vụ mà mang tính vĩ mô,
định hướng, chiến lược.
Ủy ban nhân dân các cấp là hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước có
thẩm quyền chung ở địa phương tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý nhà
nước về đất đai. Hoạt động của cơ quan này vừa với tư cách là cơ quan thực
hiện vai trò chủ sở hữu đại diện của Nhà nước về đất đai ở địa phương vừa thực

79
hiện chức năng thống nhất quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương. Ủy ban
nhân dân các cấp có vai trò phân phối, phân phối lại đất đai cho chủ thể sử dụng
đất như: xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp mình, xét duyệt quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cơ quan cấp dưới trực tiếp; giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi, đăng ký sử dụng đất và cấp GCN
quyền sử sụng đất, quản lý phát triển thị trường bất động sản, … Bên cạnh đó
còn có các hoạt động thống kê, kiểm kê đất đai, quản lý tài chính đất đai, thanh
tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai, xử lý vi phạm
đất đai, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai, các hoạt động
cung ứng dịch vụ công về đất đai.
 Hệ thống cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền chuyên môn
Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở trung ương là Bộ tài nguyên và
môi trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày
04/04/2017, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
tài nguyên và môi trường. Theo đó, Bộ tài nguyên và môi trường là cơ quan của
Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Đất đai; tài
nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn;
biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và
hải đảo; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý của Bộ. Trong đó Tổng cục quản lý đất đai là cơ quan trực
thuộc Bộ tài nguyên và môi trường, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ
trưởng Bộ tài nguyên và môi trường quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp
luật về đất đai trong phạm vi cả nước; thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực
đất đai theo quy định của pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
Tổng cục quản lý đất đai được quy định rõ trong Quyết định số 21/2014/QĐ-
TTg ngày 13 tháng 3 năm 2014. Hiện nay Tổng cục Quản lý đất đai có 15 đơn
vị, trong đó có 9 tổ chức hành chính giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước gồm: 1- Vụ Chính sách và Pháp chế; 2- Vụ Hợp tác quốc tế và

80
Khoa học, Công nghệ; 3- Vụ Kế hoạch - Tài chính; 4- Vụ Tổ chức cán bộ; 5-
Văn phòng Tổng cục; 6- Cục Đăng ký đất đai; 7- Cục Quy hoạch đất đai; 8- Cục
Kinh tế và Phát triển quỹ đất; 9- Cục Kiểm soát quản lý và Sử dụng đất đai. Bên
cạnh đó có 6 đơn vị tổ chức sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước
gồm: Viện Nghiên cứu quản lý đất đai; Trung tâm Điều tra, Đánh giá tài nguyên
đất; Trung tâm Dữ liệu và Thông tin đất đai; Trung tâm Đào tạo và Truyền
thông đất đai; Trung tâm Ứng dụng và Phát triển công nghệ địa chính; Trung
tâm Định giá đất và Kiểm định địa chính.
Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ
chức dịch vụ công về đất đai được thành lập và hoạt động theo quy định của
Chính phủ.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở tài nguyên và
môi trường thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
phòng tài nguyên và môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh được quy định cụ thể trong Thông tư liên tịch Số:
50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28 tháng 08 năm 2014. Ngay tại điều 1
thông tư này đã nêu rõ Sở tài nguyên và môi trường là cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường gồm: đất đai
và các lĩnh vực khác có quy định cụ thể. Trách nhiệm quản lý đất đai của Sở tài
nguyên và môi trường do Chi cục Quản lý đất đai và đơn vị sự nghiệp công lập
Trung tâm phát triển quỹ đất, Văn phòng đăng ký đất đai chịu trách nhiệm
quản lý. Ở ủy ban nhân dân cấp huyện có phòng Phòng tài nguyên và môi
trường là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện
chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường gồm: đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường,

81
biến đổi khí hậu, biển và hải đảo (đối với các huyện có biển, đảo). (khoản 1
điều 4 của thông tư này).
Ở cấp xã/phường/thị trấn có công chức địa chính làm công tác địa chính
theo quy định của Luật cán bộ, công chức. Lực lượng này có trách nhiệm giúp
Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc quản lý đất đai tại địa phương.
 Một số cơ quan, tổ chức hỗ trợ cho hoạt động quản lý nhà nước về đất
đai: như Mặt trận tổ quốc, các tổ chức dịch vụ công trong hoạt động quản lý nhà
nước về đất đai gồm: Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất có chức năng tổ
chức thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất, quản lý hồ sơ địa chính, giúp cơ
quan tài nguyên và môi trường thực hiện thủ tục hành chính về quản lý và sử
dụng đất; Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị sự nghiệp hoặc doanh nghiệp nhà
nước có chức năng bồ thường, giải phóng mặt bằng trong trường hợp thu hồi đất
sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố mà chưa có dự án đầu tư;
thực hiện việc nhận chuyển nhượng Quyền sử dụng đất trong khu vực có quy
hoạch phải thu hồi mà người sử dụng đất có nhu cầu chuyển đi nơi khác trước
khi Nhà nước quyết định thu hồi; quản lý quỹ đất thu hồi và tổ chức đấu giá
Quyền sử dụng đất theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối
với diện tích đất được giao quản lý.
b. Đối tượng Quản lý
Đối tượng của quản lý nhà nước về đất đai gồm 2 nhóm: Các chủ thể quản
lý đất đai, sử dụng đất đai và đất đai.
 Các chủ thể quản lý đất đai và sử dụng đất đai
- Các chủ thể quản lý đất đai là cơ quan nhà nước. Các cơ quan chịu
trách nhiệm trước Nhà nước đối với đất được giao để quản lý: Người đứng đầu
của tổ chức được giao quản lý công trình công cộng, tổ chức kinh tế, tổ chức
được giao quản lý đất mặt nước sông suối và đất mặt nước chuyên dùng, tổ chức
được giao quản lý quỹ đất đã thu hồi theo quyết định của cơ quan nhà nước có

82
thẩm quyền; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm đối với việc
quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng được giao để quản lý, đất chưa
giao, đất chưa cho thuê tại địa phương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất chưa sử
dụng tại các đảo chưa có người ở thuộc địa phương. Cuối cùng là người đại diện
cho cộng đồng dân cư là người chịu trách nhiệm đối với đất được giao cho cộng
đồng dân cư quản lý.
- Các chủ thể sử dụng đất đai: Chủ thể sử dụng đất đai chính là những
tổ chức, cá nhân, cơ quan được nhà nước giao quyền sử dụng đất. Theo pháp
luật hiện hành gồm 7 nhóm đối tượng: Người sử dụng đất được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử
dụng đất cụ thể: Cơ quan nhà nước, cá nhân hộ gia đình, cộng đồng dân cư,
cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn
đầu tư ở nước ngoài.
 Đối tượng quản lý là các loại đất đai tồn tại trong lãnh thổ của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm cả các đảo, quần đảo. Hiện nay
theo quy định của pháp luật gồm 3 nhóm đất đai theo đúng như quy định phân
loại của Luật đất đai 2013.
c. Mục đích, yêu cầu của quản lý nhà nước về đất đai
Quản lý nhà nước về đất đai nhằm mục đích:
- Bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất;
- Đảm bảo sử dụng hợp lý quỹ đất đai của quốc gia;
- Tăng cường hiệu quả sử dụng đất;
- Bảo vệ đất, cải tạo đất, bảo vệ môi trường.
- Yêu cầu của công tác quản lý đất đai là phải đăng ký, thống Kế đất đầy
đủ theo đúng quy định của pháp luật đất đai ở từng địa phương theo các cấp
hành chính.

83
d. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai
Quản lý nhà nước về đất đai của nước ta theo các giai đoạn phát triển của
đất nước đều với mục đích bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất; thông qua công tác đăng ký,
thống kê đất đầy đủ chính xác để đảm bảo sử dụng hợp lý quỹ đất của quốc gia
cũng như sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đất đai. Trong giai đoạn hiện nay sự tác
động đến môi trường đất ở tất cả các hoạt động, ngành nghề thì yêu cầu bảo vệ,
cải tạo đất cũng trở lên cần thiết. Từ năm 1993 đến nay khi luật đất đai 1993 cho
phép thị trường đất đai được mở cửa thì yêu cầu quản lý hoạt động dịch vụ đất
đai đi kèm đã được chú ý. Về cơ bản nội dung quản lý nhà nước về đất đai từ khi
đất nước đổi mới đến nay cũng đều định hướng quản lý đất đai sao cho sử dụng
hiệu quả đúng mục đích. Theo luật Đất đai năm 2013 có 15 nội dung quản lý
nhà nước về đất đai.
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ
chức thực hiện các văn bản
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện các văn bản đó không phải là nội dung mới trong công tác
quản lý nhà nước về đất đai. Nó đã được quy định từ năm 1980 trong Quyết định
số 201/CP của Hội đồng Chính phủ. Tuy nhiên, đến Luật Đất đai 2003 nội dung
này được xác định là cơ sở để thực hiện các nội dung khác trong công tác quản
lý nhà nước về đất đai nên nó được xếp lên vị trí đầu tiên. Mặc dù đến luật đất
đai năm 2013 nội dung này không đề cập đến trực tiếp, song trong các nội dung
khác cũng đã lồng ghép công tác ban hành văn bản pháp luật. Khi ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước về đất đai phải căn cứ theo thẩm quyền của mình và tuân theo
các quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khi tổ chức thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai của các cấp trên,
cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai cũng phải căn cứ theo thẩm
quyền của mình mà tổ chức hướng dẫn cho các cấp quản lý bên dưới và các chủ

84
thể khác tham gia quan hệ pháp luật đất đai hiểu và thực hiện các văn bản đó đạt
hiệu quả cao. Việc ban hành văn bản pháp luật ở tất cả các cấp, các cơ quan có
thẩm quyền. Đến nay cả nước có khoảng 1559 Văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến đất đai – nhà ở, trong đó Chính phủ ban hành 162 văn bản, Bộ tài
nguyên và môi trường ban hành 32 văn bản, còn lại của các cấp ngành và địa
phương. Mặc dù với hệ thống văn bản pháp luật đất đai đồ sộ nhưng vấn đề đất
đai hiện nay cũng gây ra nhiều khiếu kiện, tranh chấp.
1. Quản lý nhà nước về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Nhà nước vừa với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai, vừa với tư cách
là người quản lý mọi mặt đời sống kinh tế xã hội trong đó có quản lý đất đai. Vì
vậy, Nhà nước là người duy nhất có quyền xây dựng các chiến lược phát triển,
phê duyệt các chương trình quốc gia về khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong đó có đất đai – nguồn tài nguyên quan trọng bậc nhất của quốc
gia. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đất đai có giới hạn về không gian, diện tích,
trong khi đó nhu cầu cho các ngành, các lĩnh vực và nhu cầu khác của người dân
là phong phú. Nhà nước không để các nhu cầu đó phát triển một cách tự do mà
không có quy hoạch, kế hoạch điều tiết cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh
tế, xã hội và định hướng quốc gia.
Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo
không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất
đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế -
xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định.
Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời
gian để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ sở khoa học của quá trình xây
dựng các chiến lược về khai thác, sử dụng đất, là tiền đề cho việc thực hiện

85
đúng các mục tiêu quản lý đất đai. Đây là nội dung quan trọng cần phải tiến
hành trước một bước làm điều kiện tiền đề cho hoạt động phân bổ về điều
chỉnh đất đai.
Quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dung đất là hai khái niệm khác
nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau không thể tách rời.
Chúng giống nhau ở một điểm là đều là công cụ quan trọng trong quản lý nhà
nước về đất đai. Sự khác nhau giữa chúng thể hiện ở điểm: Quy hoạch sử dụng
đất là việc lập phương án sử dụng đất cho một giai đoạn nhất định và thường là
dài hạn, mang tính chất định hướng chiến lược cho sự phát triển. Kế hoạch sử
dụng đất là việc lập các công việc chi tiết, cụ thể với việc xác định thời gian cụ
thể để sử dụng đất theo đúng quy hoạch, như vậy, kế hoạch sử dụng đất là việc
xác định các biện pháp, cách thức cụ thể, chi tiết trong một khoảng thời gian
nhất định để sử dụng đất theo đúng quy hoạch. Kỳ quy hoạch sử dụng đất của cả
nước, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, xã, phường, thị trấn là 10 năm ( điều 37 khoản 1 Luật đất đai năm
2013). Kỳ kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh và kỳ kế hoạch sử dụng
đất quốc phòng, đất an ninh là 05 năm. Kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được
lập hàng năm (điều 37 khoản 2 Luật đất đai năm 2013).
Quy hoạch và kế hoạch hoá đất đai có ý nghĩa to lớn trong công tác quản
lý và sử dụng đất đai. Đối với Nhà nước, nó đảm bảo việc sử dụng đất đai hợp
lý, tiết kiệm, đạt các mục đích nhất định và phù hợp với các quy định của Nhà
nước. Đồng thời, giúp cho Nhà nước theo dõi, giám sát được quá trình sử dụng
đất. Quy hoạch và kế hoạch hoá đất đai là công việc của tất cả các cơ quan quản
lý đất đai và các tổ chức, cá nhân sử dụng đất của Nhà nước. Pháp luật điều
chỉnh hoạt động quy hoạch và kế hoạch hoá đất đai ở chỗ: quy định trách nhiệm
của mỗi cơ quan, mỗi ngành, mỗi đơn vị trong xây dựng quy hoạch và kế hoạch
hoá sử dụng đất, đồng thời bảo đảm cho các quy hoạch và kế hoạch đó có hiệu

86
lực trong thực tế. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một nội dung hết
sức quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Nội dung này đã
được đề cập đến từ lâu trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Ngay từ
Quyết định số 201/CP năm 1980 của Chính phủ, trong 7 nội dung quản lý nhà
nước về đất đai đã có nội dung thứ ba là "Quy hoạch việc sử dụng đất", đến Luật
Đất đai 1987 và Luật Đất đai 1993 vẫn quy định nội dung thứ hai trong 7 nội
dung quản lý nhà nước về đất đai là "Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng
đất". Do vậy, ở giai đoạn thực hiện Luật Đất đai 1993, mặc dù đã có Nghị định
số 68/2001/NĐ-CP ngày 1 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ về quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất nhưng vì chưa đề cập rõ đến vấn đề quản lý quy hoạch sau
khi đã được phê duyệt mà chỉ quy định chi tiết về việc lập, xét duyệt và điều
chỉnh quy hoạch nên thông thường sau khi lập xong quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất các cơ quan có thẩm quyền ít quan tâm đến việc quản lý xem quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đó có được thực hiện hay không? Thực hiện đến
đâu?... Vì vậy, dễ xẩy ra hiện tượng vi phạm quy hoạch hoặc quy hoạch "treo"...
Đến Luật Đất đai 2003, nội dung này được sửa lại là "Quản lý quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất". Như vậy, không chỉ là đưa việc sử dụng đất vào quy hoạch,
kế hoạch như ở Luật Đất đai 1993 mà sau khi đất đai đã được lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng còn phải quản lý việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đó như thế
nào cho đạt hiệu quả cao, tránh tình trạng phương án quy hoạch sử dụng đất
được cấp có thẩm quyền phê duyệt xong bỏ đấy, không thực hiện hoặc thực hiện
chậm, thậm chí có khi vi phạm cả quy hoạch (sử dụng không đúng quy hoạch).
Đến nay Luật Đất đai 2013, nội dung này được sửa thành “Quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất”, đây là một chương đã đề cập tất cả các nội dung từ nguyên tắc lập
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến đưa ra hệ thống các quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đang tồn tại ở nước ta hiện nay với 5 cấp (quốc gia, tỉnh, huyện,
quốc phòng, an ninh), kỳ quy hoạch, kế hoạch cũng được nêu cụ thể. Và sau đó
đi vào quy định rõ quy hoạch, kế hoạch với 5 cấp trên.

87
Trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được quy
định rất rõ ràng:
- Chính phủ tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia. Bộ
tài nguyên và môi trường chủ trì giúp Chính phủ trong việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất cấp quốc gia.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
cấp tỉnh; Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất cấp huyện.
Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, cấp huyện chủ trì giúp Ủy ban nhân dân
cùng cấp trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Bộ Quốc phòng tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc
phòng; Bộ Công an tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất an ninh.
Thẩm quyền quyết định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
- Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia.
- Chính phủ phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh; quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
an ninh.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh trước khi trình Chính phủ phê duyệt.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
cấp huyện.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông
qua quy hoạch sử dụng đất cấp huyện trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh phê duyệt.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt kế
hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua danh mục dự án cần thu hồi đất quy định tại

88
khoản 3 Điều 62 của Luật này trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng
năm của cấp huyện.
Sau khi các quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt sẽ công bố công khai.
Các quy hoạch, kế hoạch này có thể được điều chỉnh trong kỳ quy hoạch, kế
hoạch nếu có các thay đổi lớn liên quan đến điều chỉnh chiến lược phát triển
kinh tế, xã hội, thiên tai, có sự điều chỉnh của quy hoạch cấp trên, thay đổi địa
giới hành chính, … Khi quy hoạch điều chỉnh thì kế hoạch cũng phải điều chỉnh
theo. Hoặc kế hoạch điều chỉnh khi có sự thay đổi về khả năng thực hiện kế
hoạch sử dụng đất. Các quy định này rất rõ ràng trong Luật đất đai 2013. Việc tổ
chức thực hiện các quy hoạch kế hoạch sử dụng đất quy định tại điều 49 của
Luật đất đai 2013. Trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch các cơ quan
có trách nhiệm phải báo cáo việc thực hiện quy hoạch kế hoạch cho cơ quan cấp
trên hoặc cho Bộ tài nguyên và môi trường đối với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an
đơn vị thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Bộ mình.
Đến nay Quốc hội đã phê quyệt và đưa ra nghị quyết Số: 17/2011/QH13
Về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 -
2015) cấp quốc gia. Các địa phương cũng đã lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất ở cấp của mình và trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định. Theo nghị
quyết 17/2011/QH13, kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010,
và kế hoạch sử dụng đất 2006-2010 đã đạt được những kết quả nhất định. Tăng
cường một bước hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, khai thác tốt
tiềm năng đất đai phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã khoanh định quỹ đất sản
xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, có dự trữ chiến lược và
xuất khẩu; việc bảo vệ và phát triển rừng có chuyển biến; đáp ứng cơ bản nhu
cầu đất để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển đô thị;
đóng góp nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước thông qua đấu giá, thu
tiền khi giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; diện tích đất chưa

89
sử dụng từng bước được khai thác đưa vào sử dụng hợp lý, đáp ứng nhu cầu sử
dụng đất cho phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ
môi trường.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất vẫn còn một số hạn chế như: Chất lượng của quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất chưa cao; tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý quy hoạch còn
yếu; việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện quy hoạch, kế hoạch chưa
nghiêm; tình trạng sử dụng đất sai mục đích, lãng phí, kém hiệu quả còn xảy ra
ở nhiều nơi; chính sách, pháp luật, việc phân cấp trong quản lý quy hoạch còn
bất cập; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo
chưa đáp ứng được yêu cầu.
2. Quản lý nhà nước về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Hoạt động giao cho thuê đất là hoạt động cơ bản và trực tiếp nhất của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm phân bố và điều chỉnh quỹ đất cho các
chủ thể có nhu cầu sử dụng đất trong nước và ngoài nước. Theo đó, giao đất là
quá trình chuyển giao trên thực tế quyền sử dụng đất từ người quản lý đất sang
người sử dụng đất.
Nhà nước giao quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước giao đất) là
việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho đối
tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước cho thuê
đất) là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu
cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất.
Chuyển mục đích sử dụng đất là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết
định hành chính cho phép chuyển mục đích sử dụng với những diện tích đất cụ
thể từ mục đích này sang mục đích khác.
Để đảm bảo việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo
một trật tự nhất định, đất được giao, cho thuê đúng mục đích, đúng chủ thể có nhu

90
cầu thì căn cứ đầu tiên và quan trọng mà cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
phải quán triệt là phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có
thẩm quyền xét duyệt. Bên cạnh đó việc giao, cho thuê, chuyển mục đích sử dụng
đất phải căn cứ vào nhu cầu của người sử dụng đất phản ánh qua đơn xin giao đất,
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, dự án đầu tư. Để tránh trường hợp giao, cho
thuê, chuyển mục đích sử đụng đất tràn lan thì người có nhu cầu trên cần phải có
xác nhận của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Đối với đất của tổ chức phải
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định cùng với dự án đầu tư. Tính đến
năm 2014 tổng diện tích đất giao, cho thuê trong cả nước đạt 77,06% so với tổng
diện tích đất, trong đó đất nông nghiệp chiếm 87,33%, đất phi nông nghiệp chiếm
47,04%, đất chưa sử dụng chiếm 11,76 so với diện tích đất cùng loại.
Việc phân loại các hình thức sử dụng đất khác nhau đối với các chủ thể sử
dụng đất là điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất được lựa chọn hình thức
nào phù hợp nhất với khả năng của mình, giúp họ chủ động hơn trong quá trình
sử dụng đất và cũng là cơ sở để Nhà nước xây dựng các quyền cho người sử
dụng đất. Theo quy định của Luật đất đai 2013 có ba hình thức sử dụng đất:
Giao đất không thu tiền, có thu tiền, thuê đất của Nhà nước. Cụ thể đối với các
hình thức này được quy định cụ thể tại điều 54,55,56 Luật Đất đai 2013. Ngoài
ra có điểm mới của hình thức giao đất, cho thuê đất khác với những văn bản
Luật trước đây là Giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho
người khác. Việc Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có
người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định thu hồi đất theo quy định của Luật này và phải thực hiện
xong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật đối với
trường hợp phải giải phóng mặt bằng.
Hoạt động cho thuê đất: Từ khi Luật Đất đai 1993 ra đời, Nhà nước thừa
nhận giá trị của quyền sử dụng đất thì cho thuê đất là một nội dung được đề cập
đến. Nội dung cho thuê đất đã góp phần đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử

91
dụng đất. Theo quy định của Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất có thể thuê
đất của Nhà nước trả tiền hàng năm hoặc trả tiền một lần cho cả thời gian thuê.
Ngoài ra, Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm đối với đơn vị vũ
trang nhân dân sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, làm muối hoặc sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản,
làm muối kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Hình thức chuyển mục đích sử dụng đất: Chuyển mục đích sử dụng đất
là nội dung mới được đề cập đến ở lần sửa đổi thứ hai của Luật Đất đai 1993
(năm 2001) và chính thức được bổ sung vào các nội dung quản lý nhà nước về
đất đai ở Luật Đất đai 2003. Việc quy định nội dung này đã tạo điều kiện thuận
lợi cho người đang sử dụng đất muốn chuyển sang mục đích sử dụng khác;
đồng thời cũng tiện về thủ tục hành chính cho cơ quan nhà nước trong trường
hợp này. Thay vì việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ra quyết định thu
hồi rồi sau đó lại ra quyết định giao đất cho chính người sử dụng đó thì cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chỉ phải làm thủ tục công nhận cho người sử
dụng được chuyển mục đích sử dụng. Khi chuyển mục đích sử dụng đất thì
người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp
luật; chế độ sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được áp
dụng theo loại đất sau khi được chuyển mục đích sử dụng. Mặt khác, sự thay
đổi mục đích cũng xuất phát từ những chủ trương, chính sách của Nhà nước
nhằm Quy hoạch đất đai phù hợp với sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên
cũng phải kiểm soát nghiêm ngặt việc chuyển mục đích sử dụng đất đặc biệt
với những trường hợp chuyển dịch đất trồng lúa nước, đất rừng phòng hộ, đất
rừng đặc dụng sang sử dụng vào mục đích khác.
Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức;

92
b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo;
c) Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật này;
d) Cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 56 của
Luật này;
đ) Cho thuê đất đối với tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia
đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ
với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh trước khi quyết định;
b) Giao đất đối với cộng đồng dân cư.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử
dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không
được ủy quyền

5. Quản lý nhà nước về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

a. Đăng ký đất đai

Đăng ký đất đai, nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất là việc kê khai và
ghi nhận tình trạng pháp lý về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất và quyền quản lý đất đối với một thửa đất vào hồ sơ địa
chính. Đây là hoạt động tiền đề và cần thiết phải tiến hành trước một bước để

93
làm cơ sở cho cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất. Đăng ký đất được coi là
một thủ tục hành chính do cơ quan Nhà nước thực hiện đối với các đối tượng là
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng đất. Theo đó, việc đăng
ký đất được thực hiện đối với toàn bộ đất đai trên phạm vi cả nước và là yêu cầu
bắt buộc với mọi chủ thể sử dụng đất. Việc đăng ký này tiến hành đối với: người
sử dụng đất và người được giao đất để quản lý; đăng ký quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu, đăng ký có
thể lần đầu hoặc đăng ký biến động, cụ thể được quy định trong điều 95 Luật đất
đai 2013. Với yêu cầu đặt ra của việc đăng ký đất đai cho thấy đây là công việc
nhằm thiết lập hồ sơ địa chính đầy đủ cho toàn bộ đất đai của các đơn vị hành
chính từng xã, phường, thị trấn trong cả nước, làm cơ sở cho việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng có đủ điều kiện, thông qua đó
Nhà nước quản lý đất đai theo đúng pháp luật. Trong quá trình sử dụng luôn có
sự biến động về chủ sử dụng, loại hạng đất và diện tích. Đăng ký sử dụng đất là
một biện pháp của Nhà nước nhằm theo dõi tình hình sử dụng và biến động
thường xuyên của nó.

Bên cạnh đó, đăng ký không chỉ dừng lại ở việc hoàn chỉnh hồ sơ địa
chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà nó còn là cơ sở để thực
hiện cho thuê hoặc các giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất.
Mục đích, ý nghĩa của việc đăng ký
- Giúp Nhà nước nắm được tình hình sử dụng đất đai, thực trạng pháp lý
sử dụng đất cũng như sự biến động của đất đai. Hoạt động đăng ký là sự ghi
nhận nguồn gốc, tình trạng pháp lý thực tế của người đang sử đụng đất để làm
cơ sở cho Nhà nước phân loại và xác định địa vị pháp lý cho người sử dụng
mảnh đất đó chính xác.
- Thông qua đăng ký giúp cho Nhà nước trong việc truy thu thuế đầy đủ,
chính xác, công bằng đối với các chủ thể sử dụng đất

94
- Đây cũng là quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có chức
năng quản lý nhà nước về đất đai, là cơ sở đảm bảo chế độ sở hữu đất đai
toàn dân.
- Đăng ký đất cũng mang lại sự an toàn sở hữu tài sản trên đất và sử dụng
đất nhằm tránh tình trạng tranh chấp.
Cơ quan có thẩm quyền đăng ký Quyền sử dụng đất: Văn phòng đăng ký
Quyền sử dụng đất cấp huyện và Văn phòng đăng ký Quyền sử dụng đất cấp
tỉnh chịu trách nhiệm đăng ký Quyền sử dụng đất.
b. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền
sở hữu tài sản khác gắn liền với đất theo một loại mẫu thống nhất trong cả nước.
Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường quy định cụ thể về Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu công trình xây dựng đã được cấp theo quy định của pháp luật về
đất đai, pháp luật về nhà ở, pháp luật về xây dựng trước ngày 10 tháng 12 năm
2009 vẫn có giá trị pháp lý và không phải đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp người
đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 10 tháng 12 năm 2009 có nhu cầu cấp
đổi thì được đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này.
Sau khi thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan quản lý nhà nước
về đất đai tiến hành lập hồ sơ địa chính để quản lý và trình ủy ban nhân dân
cùng cấp để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đây là nhiệm vụ trọng tâm
của quản lý nhà nước đối với đất đai nhằm xác nhận tư cách pháp lý của thửa đất
và của người sử dụng đất; làm cơ sở cho việc quản lý đất đai của Nhà nước cũng

95
như việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất khi sử dụng.
Ngoài ra, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn là điều kiện để được bồi
thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất, là căn cứ để
xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai giữa Toà án và Uỷ ban nhân
dân, góp phần làm ổn định tình hình chính trị- xã hội.
Kết quả đăng ký, cấp Giấy chứng nhận một số loại đất còn thấp, khối
lượng cần thực hiện còn nhiều (đất chuyên dùng còn 47%, đất ở đô thị còn
36,5%); đặc biệt là tại các dự án xây dựng nhà ở để bán, tiến độ còn chậm, gây
nhiều bức xúc. Tình trạng tồn đọng Giấy chứng nhận đã ký chưa trao do người
sử dụng đất chưa đến nhận ở một số địa phương còn nhiều, điển hình như các
tỉnh Kiên Giang còn 77.200 giấy, Cao Bằng còn 40.100 giấy, Hưng Yên còn
35.000 giấy, …
Các trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản trên đất được quy định chi tiết trong điều 99
Luật đất đai 2013 gồm 10 nhóm đối tượng. Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo;
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
thực hiện dự án đầu tư; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ quan tài nguyên và môi
trường cùng cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn
liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.

96
3. Đối với những trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận, Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng
mà thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với
đất hoặc cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng thì do cơ quan tài nguyên
và môi trường thực hiện theo quy định của Chính phủ.
5. Giám sát, Thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về đất đai
Thực chất nội dung này là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm quản lý chặt chẽ, uốn nắn kịp thời các sai sót, vi phạm trong quá trình thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Luật Đất đai 2013 quy định các
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, đồng thời, để các quyền và nghĩa vụ
này được thực hiện đúng, pháp luật đất đai còn quy định trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước về đất đai các cấp là phải quản lý, giám sát người sử
dụng xem trong quá trình sử dụng họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ này như
thế nào; quy định việc xử lý các trường hợp người sử dụng và người quản lý vi
phạm pháp luật đất đai.
a. Hoạt động giám sát
Hoạt động giám sát không chỉ từ phía cơ quan chức năng có thẩm quyền
mà còn từ phía người dân để phát hiện kịp thời các sai phạm, như: Giám sát của
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của Mặt trận về việc quản lý và sử dụng đất đai; Giám sát công dân
đối với việc quản lý, sử dụng đất đai.

Để quản lý, giám sát tết việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất, pháp luật đất đai đã cụ thể hoá bằng việc quy định trách nhiệm của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp và trách nhiệm của cán bộ địa chính xã,
phường, thị trấn như sau: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phát

97
hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về quản lý và sử
dụng đất đai tại địa phương.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm chỉ đạo
thường xuyên việc kiểm tra phát hiện các hành vi lấn chiếm đất đai, sử dụng đất
không đúng mục đích, chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, người sử
dụng đất thực hiện các quyền và nghĩa vụ không đúng với quy định của pháp
luật. Khi phát hiện vi phạm hoặc được báo cáo có vi phạm phải tổ chức việc
kiểm tra, lập biên bản, ra quyết định đình chỉ hành vi vi phạm, xử phạt hành
chính theo thẩm quyền và yêu cầu tự khôi phục lại tình trạng sử dụng đất ban
đầu; nếu người có hành vi vi phạm không chấp hành quyết định đình chỉ thì ra
quyết định cưỡng chế khôi phục lại tình trạng sử dụng đất ban đầu và báo cáo
bằng văn bản lên Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp.

Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thường xuyên kiểm
tra tình hình sử dụng đất tại địa phương để phát hiện kịp thời những trường hợp
lấn, chiếm đất đai, không sử dụng đất, sử dụng đất không đúng mục đích,
chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, người sử dụng đất thực hiện các
quyền và nghĩa vụ không đúng với quy định của pháp luật và các trường hợp
khác có vi phạm hành chính trong quản lý và sử dụng đất đai; và khi phát hiện
sai phạm phải báo cáo bằng văn bản lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi có đất để xử lý đồng gửi Phòng tài nguyên và môi trường.
b. Thanh tra giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về đất đai
Thanh tra, kiểm tra là việc xem xét một cách khách quan việc chấp hành
các quy định của pháp luật, bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện và
thực hiện đúng.

98
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ quản lý và sử dụng đất đai là
một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước đối với đất đai; là
biện pháp, phương thức quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát
hiện và xử lý đúng các vi phạm pháp luật đất đai, đồng thời phát hiện các quy
định pháp luật chưa phù hợp nhằm kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
đòi hỏi của thực tiễn.
Quản lý nhà nước về đất đai là một quá trình tổ chức và thực hiện chính
sách, pháp luật đất đai, là hoạt động phức tạp đòi hỏi sự hiểu biết và cách thức
áp dụng pháp luật vào đời sống xã hội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
người có thẩm quyền. Để các quy định pháp luật đất đai tác động vào các quan
hệ xã hội đúng hướng rất cần phải thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Qua đó giúp người quản lý cũng như đối tượng quản lý nhận biết được những
mặt xấu, mặt tốt của mình mà có những biện pháp, cách thức thực hiện nghiêm
túc chính sách, pháp luật đất đai, và cũng là nhằm bảo đảm tính kỷ cương, kỷ
luật trong công tác quản lý và sử dụng đất đai của Nhà nước.
Thanh tra việc quản lý và sử dụng đất đai gồm: Thanh tra nhà nước và
thanh tra chuyên ngành.
- Thanh tra nhà nước do Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp thực hiện
với sự trợ giúp của các cơ quan chuyên môn về quản lý đất đai từ trung ương
đến cơ sở.
- Thanh tra chuyên ngành chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra nhằm bổ sung,
hỗ trợ và thúc đẩy việc quản lý và sử dụng đất đai một cách hợp lý và có hiệu
quả. Vì vậy, thanh tra chuyên ngành không thể thay thế thanh tra nhà nước
Thanh tra chuyên ngành đất đai là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
pháp luật về đất đai, quy định về chuyên môn, kỹ thuật, quản lý thuộc lĩnh vực
đất đai.

99
Bộ tài nguyên và môi trường chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện
thanh tra chuyên ngành đất đai trong cả nước. Cơ quan quản lý đất đai ở địa
phương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện thanh tra chuyên ngành đất đai tại
địa phương.
Tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn diễn ra phức tạp,
tính chất tranh chấp ngày càng gay gắt, kéo dài. Nhiều vụ việc giải quyết không
triệt để dẫn đến khiếu kiện đông người, có trường hợp dẫn đến vụ án hình sự.
Một số địa phương chưa làm tốt trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời
những hành vi vi phạm pháp luật về đất đai trên địa bàn như vi phạm trong thu
hồi đất, giao đất, cho thuê đất, bồi thường, tái định cư, cấp giấy chứng nhận.
- Công tác hòa giải ở cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, nhiều địa
phương không bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm đảm nhiệm
công việc này nên việc hòa giải đạt hiệu quả chưa cao.
- Công tác thanh tra chưa được tổ chức thường xuyên, còn thiếu tính chủ
động, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Việc xử lý sau thanh tra của
các cấp các ngành chưa kiên quyết, triệt để, kịp thời làm hạn chế đến hiệu quả
hoạt động thanh tra, cụ thể: tình trạng lấn chiếm đất công, chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp, sử dụng sai mục đích, để đất hoang hóa diễn ra thường
xuyên và dưới nhiều hình thức gây bức xúc trong dư luận nhân dân và xã hội
nhưng chưa có chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi vi phạm; chế tài quy
định xử lý, xử phạt vi phạm pháp luật đất đai còn nhẹ, chưa đủ sức dăn đe các
đối tượng vi phạm.
Tranh chấp đất đai là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền, lợi ích giữa
những người sử dụng đất với nhau, giữa người sử dụng đất với các chủ đầu tư
hoặc giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai với người sử dụng đất.
Như vậy, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quản lý và sử dụng đất.
Tranh chấp đất đai không chỉ ảnh hưởng tới lợi ích của người sử dụng đất,
mà còn ảnh hưởng tới lợi ích của Nhà nước trong trường hợp một trong các bên

100
tranh chấp không thực hiện nghĩa vụ của mình khi quyền của họ không được tôn
trọng và bảo đảm. Bên cạnh đó, việc tranh cấp đất đai còn làm tổn hại đến tâm
lý, tình cảm và tính đoàn kết tương thân, tương ái của người sử dụng đất, từ đó
có thể gây mất ổn định xã hội, làm cho việc thực hiện chính sách, pháp luật của
Nhà nước không triệt để.
Các hình thức tranh chấp đất đai:
- Tranh chấp đất đai có liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị
hành chính
- Tranh chấp liên quan đến thừa kế;
- Tranh chấp liên quan đến việc đòi lại đất cũ trong quá trình thực hiện
các chính sách đất đai của Nhà nước từ năm 1945 đến nay;
- Tranh chấp bãi bồi ven sông, ven biển để nuôi trồng thuỷ, hải sản;
- Tranh chấp về chuyển đổi đất nông nghiệp;
- Tranh chấp về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp xung quanh việc đền bù giải phóng mặt bằng khi Nhà nước
thu hồi đất...
Những năm qua, tranh chấp đất đai ngày càng có xu hướng gia tăng về
phạm vi và quy mô tranh chấp, các vụ tranh chấp diễn ra ở hầu hết các địa
phương với tính chấp ngày càng phức tạp nên đã gây hậu quả nặng nề cho việc
quản lý nhà nước nói chung, đất đai và trật tự an ninh nói riêng. Vì vậy, Nhà
nước cần có chính sách, cơ chế phù hợp trong quản lý đất đai, song trước hết cơ
quan quản lý nhà nước là những Bộ, ngành trực tiếp có liên quan, cũng cần xác
định và làm rõ trách nhiệm của mình, nhất là việc chậm đưa ra được hệ thống
chủ trương, chính sách sát, phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn, cho những
người thực thi chính sách.

101
2.3.3. Quản lý nhà nước về tài nguyên nước
2.3.3.1. Tài nguyên nước
- Khái niệm
Theo “Thuật ngữ thuỷ văn và môi trường nước”, tài nguyên nước là lượng
nước trên một vùng đã cho hoặc lưu vực, biểu diễn ở dạng nước có thể khai thác
(nước mặt và nước dưới đất).
Ở nước ta, Luật Tài nguyên nước 2012 quy định "Tài nguyên nước bao
gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển thuộc lãnh thổ
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 2, Luật Tài nguyên
nước 2012).
Nước là dạng tài nguyên đặc biệt, vừa là thành phần thiết yếu của sự sống
và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội, vừa có thể mang tai
họa đến cho con người. Nước có khả năng tự tái tạo về lượng, về chất và về
năng lượng.
- Chất lượng nguồn nước
Trong nước tồn tại các chất hòa tan do các nguồn tự nhiên và nhân tạo
cung cấp. Chất lượng của nước được đánh giá tùy thuộc vào mục đích sử dụng,
yêu cầu đòi hỏi của các ngành khác nhau như nước uống, nước dùng trong công
nghiệp cho việc làm lạnh, sản xuất và tinh chế sản phẩm, nước dùng cho nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, dùng cho các hoạt động vui chơi giải trí.
Việc đánh giá chất lượng nước thông qua các tiêu chuẩn chất lượng. Tiêu
chuẩn chất lượng là các chỉ tiêu định lượng của các chất hữu cơ, vô cơ cho phép
tồn tại trong nước ứng với các yêu cầu sử dụng khác nhau. Chỉ tiêu này phụ
thuộc vào yếu tố, vào trình độ phát triển kinh tế, kỹ thuật của mỗi khu vực, mỗi
nước và các ngành dùng nước khác nhau.
- Phân loại tài nguyên nước
Tài nguyên nước được phân loại theo nhiều cách khác nhau, có thể dựa
vào thành phần chất lượng nước (ngọt, mặn), theo sự xuất hiện (nước mặt, nước
dưới đất).

102
Theo thành phần chất lượng nước thì nguồn nước bao gồm nước ngọt và
nước mặn:
Nước ngọt: là loại nước chứa một lượng tối thiểu các muối hòa tan, đặc
biệt là clorua natri (thường có nồng độ các loại muối hay còn gọi là độ mặn
trong khoảng 0,01 - 0,5 ppt hoặc tới 1 ppt). Các nguồn nước ngọt có nguồn gốc
từ các cơn mưa được tạo ra do sự ngưng tụ tới hạn của hơi nước trong không
khí, rơi xuống ao, hồ, sông của mặt đất cũng như trong các nguồn nước ngầm
hoặc do sự tan chảy của băng hay tuyết.
Nước ngọt là nguồn tài nguyên tái tạo, tuy nhiên do nhu cầu sử dụng nước
ngọt trên thế giới đang ngày càng tăng, trong khi đó lượng nước ngọt có hạn vì
vậy tình trạng thiếu nước ngọt đang diễn ra không chỉ các quốc gia ít nước mà
ngay cả các vùng nhiệt đới cũng thiếu nguồn nước ngọt.
Nước mặn: là thuật ngữ chung để chỉ nước chứa một hàm lượng đáng kể
các muối hòa tan (chủ yếu là NaCl). Trên trái đất, nước biển trong các đại dương
là nguồn nước mặn phổ biến nhất và cũng là nguồn nước lớn nhất. Độ mặn trung
bình của đại dương là khoảng 35.000 ppm hay 35 ppt hoặc 3,5%, tương đương
với 35 g/l. Hàm lượng nước mặn tự nhiên cao nhất có tại hồ Assal ở Djibouti với
nồng độ 34,8%
Phân chia theo sự xuất hiện của nước trên trái đất thì có hai loại là nước
mặt và nước ngầm.
Nước mặt: là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập
nước. Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng mất đi
khi chảy vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất.
Nước dưới đất: hay còn gọi là nước ngầm, là nước ngọt được chứa trong
các lỗ rỗng của đất hoặc đá, cũng có thể là nước chứa trong các tầng ngậm nước
bên dưới mực nước ngầm. Nước dưới đất cũng có những đặc điểm giống như
nước mặt như: nguồn vào (bổ cấp), nguồn ra và chứa. Sự khác biệt chủ yếu với

103
nước mặt là do tốc độ luân chuyển chậm (dòng thấm rất chậm so với nước mặt),
khả năng giữ nước ngầm nhìn chung lớn hơn nước mặt khi so sánh về lượng
nước đầu vào.
- Đặc điểm tài nguyên nước
Đặc điểm tài nguyên nước của nước ta:
Thứ nhất, nguồn nước phân bố không cân đối giữa các vùng, các lưu
vực sông:
Toàn bộ phần lãnh thổ từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến thành phố. Hồ
Chí Minh, nơi có 80% dân số và trên 90% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch
vụ chỉ có gần 40% lượng nước; 60% lượng nước còn lại là ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long, nơi chỉ có 20% dân số và khoảng 10% hoạt động sản xuất, kinh
doanh dịch vụ. Lưu vực sông Đồng Nai, chỉ có 4,2% lượng nước nhưng tạo ra
28% GDP của cả nước.
Thứ hai, tài nguyên nước phân bố không đều theo thời gian trong năm và
giữa các năm:
- Lượng nước trong 3-5 tháng mùa lũ chiếm tới 70-80%,
- Trong khi 7-9 tháng mùa kiệt chỉ có 20-30% lượng nước cả năm.
- Phân bố lượng nước giữa các năm cũng biến đổi rất lớn: trung bình cứ
100 năm thì có 5 năm lượng nước chỉ bằng khoảng 70-75% lượng nước trung
bình nêu trên.
Thứ ba, một số lưu vực sông đã bị khai thác quá mức, nhất là trong mùa
khô, dẫn đến cạnh tranh, mâu thuẫn trong sử dụng nước ngày càng gia tăng:
- Theo tiêu chuẩn quốc tế, đã có 4/16 lưu vực sông của nước ta đang bị
khai thác ở mức căng thẳng trung bình (sử dụng 20-40% lượng nước) gồm các
sông: Mã, Hương, các sông thuộc Ninh Thuận, Bình Thuận và Bà Rịa - Vũng
Tàu (cụm sông Đông Nam Bộ).
- Nếu tính riêng trong mùa khô, thì đã có gần 2/3 số lưu vực sông (10/16)
của nước ta đang bị khai thác ở mức căng thẳng trung bình (6 sông) đến rất căng

104
thẳng (sử dụng trên 40% lượng nước), gồm 4 sông: sông Mã, cụm sông Đông
Nam Bộ, sông Hương và sông Đồng Nai.
- Trong đó, cụm sông Đông Nam Bộvà sông Mã đã khai thác khoảng 75%
và 80% lượng nước mùa khô.
- Dự kiến đến năm 2020, lượng nước khai thác, sử dụng sẽ tăng gấp 1,5
lần so với hiện nay và tình trạng khan hiếm nước, thiếu nước, nhất là trong mùa
khô sẽ còn tăng mạnh so với hiện nay.
Thứ tư, tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ngày càng tăng
cả về mức độ, quy mô, nhiều nơi có nước nhưng không thể sử dụng do nguồn
nước bị ô nhiễm:
- Nguồn nước mặt ở hầu hết các khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng
nghề tập trung đều bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng (như lưu vực
sông Nhuệ Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai) do nước thải từ các cơ sở sản
xuất, khu công nghiệp không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn đã xả
vào nguồn nước hoặc ra các kênh thải, ra đất, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước mặt,
nguồn nước dưới đất.
- Nguồn nước dưới đất cũng đã bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt ở một số
nơi, nhất là các đô thị lớn, khu vực khai thác tập trung, vùng đồng bằng ven biển
- Mực nước dưới đất ở nhiều nơi đang bị suy giảm và chưa có dấu hiệu
dừng hay hồi phục
Thứ năm, gần 2/3 lượng nước của Việt Nam phụ thuộc vào nước ngoài:
- Việt Nam ở hạ lưu, không chủ động được và hoàn toàn phụ thuộc vào
hoạt động khai thác, sử dụng và vận hành, điều tiết nước của các công trình thủy
điện trên các dòng sông liên quan ở 5 nước trên thượng nguồn là Trung Quốc,
Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia.
- Hiện nay, các nước có chung nguồn nước với Việt Nam đang gia tăng
hết sức mạnh mẽ các hoạt động khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn, nhất là
ở lưu vực sông Mê Công và sông Hồng, hai hệ thống sông có tầm quan trọng
đặc biệt tới sự phát triển bền vững của nước ta.

105
- Gây suy giảm nguồn nước. Theo kết quả nghiên cứu gần đây, Việt Nam
dự báo: tổng lượng nước mặt của Việt Nam năm 2025 chỉ bằng khoảng 96%;
năm 2070 khoảng 91% và năm 2100 khoảng 86% so với hiện nay.
- Có thể làm thay đổi chất lượng nước do thay đổi nhiệt độ, lượng và phân
phối dòng chảy, thay đổi khả năng chuyển hoá các chất ô nhiễm của lưu vực
sông, gia tăng xâm nhập mặn, mực nước biển và tài nguyên nước dưới đất
- Những thay đổi về mưa, sẽ dẫn tới những thay đổi về dòng chảy của
các con sông và cường độ các trận lũ, tần suất và đặc điểm của hạn hán,
lượng nước ngầm.
Theo dự đoán, biến đổi khí hậu sẽ làm giảm đáng kể lượng nước trong các
con sông ở nhiều vùng trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
- Nhu cầu nước sinh hoạt cho con người, nước phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, giao thông... đều tăng. Bên cạnh đó,
lượng bốc hơi nước của các thủy vực (hồ ao, sông, suối...) cũng tăng.Hậu quả
dẫn đến là sự suy thoái tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng sẽ trở nên
trầm trọng hơn.
Thứ sáu, tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước:
- Nhu cầu nước sinh hoạt cho con người, nước phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, giao thông... đều tăng. Bên cạnh đó,
lượng bốc hơi nước của các thủy vực (hồ ao, sông, suối...) cũng tăng.Hậu quả
dẫn đến là sự suy thoái tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng sẽ trở nên
trầm trọng hơn.
- Tình trạng mực nước biển dâng cao, mùa khô kéo dài hơn và gây ra mưa
lớn trong ngày gây tác động lớn đến tài nguyên nước ở thành phố Hồ Chí Minh
như gây ra tình trạng ngập lụt đô thị trong mùa mưa, gây nhiễm mặn các nguồn
nước và suy thoái nguồn nước ngầm.
- Hạn hán kéo dài làm giảm lưu lượng trong mùa khô và mực nước biển
dâng cao làm cho “nút ngăn mặn” di chuyển sâu.

106
- Lượng mưa bình quân nhiều năm tăng khoảng 5%, ở miền Bắc tăng
nhiều hơn ở miền Nam.
- Hầu hết các mô hình cũng cho thấy, bình quân thì lượng mưa tăng lên sẽ
lớn hơn lượng bốc hơi đối trọng cao hơn do nhiệt độ tăng lên gây ra, kết quả là
dòng chảy mặt bình quân dự báo sẽ tăng khoảng 50 mm/năm (tăng khoảng 5%).
- Theo dự báo hầu hết lượng mưa bình quân nhiều năm tăng lên dự kiến
sẽ xảy ra vào những tháng vốn đã mưa nhiều, chỉ một lượng nhỏ tăng lên vào
mùa khô. Hậu quả là biến động dòng chảy sông theo mùa sẽ tăng lên, với biên
độ lớn hơn của tổng lượng dòng chảy mặt theo mùa. Tần suất thiếu nước mùa
khô có thể cũng tăng do tỉ lệ bốc hơi mùa khô cao hơn. Nhiệt độ cao hơn sẽ làm
tăng yêu cầu nước của cây trồng, làm tăng nhu cầu nước trong mùa khô. Những
thay đổi khác dự kiến là tần suất mưa cao hơn và sẽ làm trầm trọng hơn tình
hình thiên tai hiện nay ở Việt Nam nói chung, và một số vấn đề rủi ro mới đặc
biệt là an toàn đập.
2.3.3.2. Quản lý nhà nước về tài nguyên nước
+ Chủ thể quản lý
Tài nguyên nước của nước ta bao gồm: nước mặt, nước dưới đất, nước
mưa và nước biển trên lãnh thổ nước Việt Nam. Tài nguyên nước cũng như các
loại tài nguyên khác là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý (điều 53, Hiến pháp 2013).
Tuy nhiên có điểm khác, với đất đai nhà nước giao đất thì cá nhân, tổ
chức mới được quyền sử dụng. Đối với tài nguyên nước, tất cả mọi cá nhân
đều được sử dụng, nhưng khi khai thác sử dụng tùy theo quy mô, trữ lượng
phải được sự cho phép của nhà nước. Riêng đối với hộ gia đình, cá nhân khi sử
dụng nước trong sinh hoạt không cần phải xin phép cơ quan có thẩm
quyền,nhưng phải đảm bảo không làm nguy hại đến nguồn nước. Chức năng
quản lý tài nguyên nước cũng thông qua các cơ quan quyền lực Nhà nước, Hệ
thống cơ quan hành chính Nhà nước, Hệ thống cơ quan quản lý tài nguyên
nước có thẩm quyền.

107
+ Mục đích, đối tượng công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước
a. Mục đích công tác quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc
Cũng giống như các nguồn tài nguyên khác Nhà nước Quản lý các nguồn
tài nguyên với mục đích bảo vệ, khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên. Và
mục đích của quản lý nhà nước về tài nguyên nước cũng nhằm Bảo vệ, khai thác
hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia trên cơ sở quản lý tổng
hợp, thống nhất tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chủ động phòng,
chống, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại do nước gây ra; từng bước hình thành
ngành kinh tế nước nhiều thành phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả hợp tác, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa
các nước có chung nguồn nước với Việt Nam.
Trên cơ sở mục đích này có thể thấy được yêu cầu đối với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền trong quản lý tài nguyên nước đặt ra là:
- Bảo vệ tài nguyên nước
- Khai thác sử dụng tài nguyên nước
- Phát triển tài nguyên nước
- Giảm thiểu tác hại do nước gây ra
Để đảm bảo các mục tiêu, yêu cầu đặt ra việc quản lý tài nguyên nước cần
phải thực hiện theo9 nguyên tắc, như điều 3 Luật tài nguyên nước2012:
1. Việc quản lý tài nguyên nước phải bảo đảm thống nhất theo lưu vực
sông, theo nguồn nước, kết hợp với quản lý theo địa bàn hành chính.
2. Tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng
và chất lượng nước; giữa nước mặt và nước dưới đất; nước trên đất liền và nước
vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản
lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.

108
3. Việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc
phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải tuân theo chiến lược, quy hoạch tài
nguyên nước đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; gắn
với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam
thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác; bảo đảm quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội.
4. Bảo vệ tài nguyên nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân và phải lấy phòng ngừa là chính, gắn với việc bảo vệ, phát triển rừng, khả
năng tái tạo tài nguyên nước, kết hợp với bảo vệ chất lượng nước và hệ sinh thái
thủy sinh, khắc phục, hạn chế ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
5. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải tiết kiệm, an toàn, có hiệu quả;
bảo đảm sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, công bằng, hợp lý, hài hòa lợi ích, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tổ chức, cá nhân.
6. Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải có kế
hoạch và biện pháp chủ động; bảo đảm kết hợp hài hòa lợi ích của cả nước, các
vùng, ngành; kết hợp giữa khoa học, công nghệ hiện đại với kinh nghiệm truyền
thống của nhân dân và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
7. Các dự án bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và
khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải góp phần phát triển kinh tế - xã
hội và có các biện pháp bảo đảm đời sống dân cư, quốc phòng, an ninh, bảo vệ
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và môi trường.
8. Các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh phải gắn với khả năng nguồn nước, bảo vệ tài nguyên nước;
bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, không vượt quá ngưỡng khai thác
đối với các tầng chứa nước và có các biện pháp bảo đảm đời sống dân cư.
9. Bảo đảm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia, công bằng, hợp lý trong
bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước, phòng, chống và khắc
phục hậu quả tác hại do nước gây ra đối với các nguồn nước liên quốc gia.

109
b. Đối tƣợng công tác quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc
Trong phạm vi công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước có thể đối
tượng quản lý ra thành các loại: theo khu vực như đô thị, nông thôn, biển, hải
đảo…, theo ngành như công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt…hoặc có thể
phân chia theo tính chất công tác quản lý như: nước cấp, nước thải, nước mặt,
nước ngầm…
+ Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên nước
Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên nước đã được đề cập ngay trong
Luật Tài nguyên nước 1998, với một số nội dung: Xây dựng và chỉ đạo thực
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về bảo vệ, khai thác, sử dụng,
phát triển TNN; phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra;Ban
hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy trình, quy phạm, tiêu
chuẩn về tài nguyên nước;Quản lý công tác điều tra cơ bản về tài nguyên nước;
dự báo khí tượng thủy văn, cảnh báo lũ, lụt, hạn hán và các tác hại khác do nước
gây ra; tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, lưu trữ tài liệu
về tài nguyên nước;Cấp, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước; Quyết định biện
pháp, huy động lực lượng, vật tư, phương tiện để phòng, chống khắc phục hậu
quả các tác hại do nước gây ra; Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành và xử lý hành
vi vi phạm pháp luật về tài nguyên nước; giải quyết tranh chấp, khiếu nại và tố
cáo về các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên nước;Quan hệ quốc tế về tài
nguyên nước; thực hiện điều ước quốc tế về tài nguyên nước mà cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia;Tổ chức bộ máy quản lý, đào tạo cán
bộ; tuyên truyền phổ biến pháp luật về tài nguyên nước. Mặc dù trong Luật tài
nguyên nước 2012 không có điều nào nêu rõ nội dung quản lý nhà nước về tài
nguyên nước như Luật tài nguyên nước 1998. Tuy nhiên hàm chứa trong các
Văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tài nguyên nước thì nội dung quản lý
nhà nước về tài nguyên nước bao gồm một số nội dung chủ yếu sau:
- Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước

110
- Bảo vệ tài nguyên nước
- Khai thác, sử dụng tài nguyên nước
- Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra
- Tài chính về tài nguyên nước
- Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước
- Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài
nguyên nước
Nội dung chi tiết của tài ngyên nước được quy định cụ thể trong các văn
bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh lĩnh vực quản lý, khai thác, tài nguyên nước,
về cơ bản thì có một số nội dung tương đối thống nhất:
1) Quản lý nhà nước về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài
nguyên nước
Cũng giống như các tài nguyên khác, để quản lý được nguồn tài nguyên
đó thì các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải biết được trữ lượng,
chất lượng của tài nguyên đó ở những thời điểm nhất định thông qua hoạt động
điều tra cơ bản. Hoạt động điều tra tra cơ bản sẽ giúp cho Nhà nước nắm được
tình hình cụ thể của nguồn tài nguyên đó trong phạm vi toàn quốc cũng như
trong từng khu vực, từng địa phương. Từ đó Nhà nước có chính sách chủ động
trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng và bảo vệ nguồn
tài nguyên.
Điều tra cơ bản tài nguyên nước phải được thực hiện theo quy hoạch, kế
hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bộ tài nguyên và môi trường tổ
chức lập quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt. Căn cứ quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên
nước đã được phê duyệt, bộ, cơ quan ngang bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn có trách nhiệm tổ chức xây dựng kế hoạch
điều tra cơ bản tài nguyên nước của mình. Hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên
nước bao gồm các hoạt động sau đây:Điều tra, đánh giá tài nguyên nước; Kiểm

111
kê tài nguyên nước định kỳ 05 năm một lần;Điều tra hiện trạng khai thác, sử
dụng tài nguyên nước, xả nước thải, khí thải, chất thải khác vào nguồn nước và
một số hoạt động khác quy định tại điều 12 Luật tài nguyên nước. Trách nhiệm
điều tra tài nguyên nước do Bộ tài nguyên và môi trường tổ chức điều tra trong
cả nước, ủy ban nhân dân các cấp điều tra tại địa phương mình và gửi Bộ tài
nguyên và môi trường để tổng hợp.
Xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch phù hợp nhằm bảo về và khai
thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, bảo đảm sự phát triển bền vững của
đất nước là hoạt động quan trọng của Nhà nước. Thực hiện tốt hoạt động này sẽ
tránh những trường hợp vì lợi ích cục bộ, lợi ích của địa phương, tổ chức, lợi ích
trước mắt mà xâm hại tới các nguồn tài nguyên, ảnh hưởng tới lợi ích chung của
toàn xã hội. Muốn vậy phải có chiến lược, kế hoạch bảo vệ khai thác, sử dụng
các nguồn tài nguyên trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã
hội, có nghĩa là các chiến lược kế hoạch phải phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương, an ninh, quốc phòng. Đáp ứng nhu
cầu về sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất, phát triển bền vững kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh; bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chống có hiệu quả
tác hại do nước gây ra; khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước.
Đồng thời phải phù hợp với nhu cầu sử dụng, khả năng đáp ứng của nguồn nước
và khả năng hợp tác quốc tế; điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên. .
Chiến lược tài nguyên nước được xây dựng cho giai đoạn 10 năm, tầm
nhìn 20 năm theo kỳ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nội dung chính của
chiến lược là định hướng, nhiệm vụ và giải pháp tổng thể về bảo vệ, khai thác,
sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước
gây ra, các đề án, dự án ưu tiên thực hiện trong từng giai đoạn trong kỳ lập chiến
lược. Hiện nay chúng ta đã có chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm
2020. Mục tiêu cơ bản của chiến lược cũng phù hợp với mục tiêu QL TNN: Bảo

112
vệ, khai thác hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia trên cơ sở
quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho
dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chủ
động phòng, chống, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại do nước gây ra; từng
bước hình thành ngành kinh tế nước nhiều thành phần phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả hợp tác, bảo đảm
hài hoà lợi ích giữa các nước có chung nguồn nước với Việt Nam.Chiến lược tài
nguyên nước do Bộ tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ
quan ngang bộ liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập và trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.
Quy hoạch tài nguyên nước cũng có thời kỳ 10 năm và tầm nhìn 20 năm
với các loại chính là Quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước; lưu vực
sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh; của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hiện nay quy hoạch tài nguyên nước được lập cho 2 loại là nước mặt và nước
dưới đất.
Trách nhiệm lập, phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước do:
- Bộ tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng và các bộ, cơ quan ngang
bộ có liên quan tổ chức lập quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
- Bộ tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng và các bộ, cơ quan ngang
bộ, địa phương có liên quan tổ chức lập, phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước
lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức lập quy hoạch tài nguyên nước của
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông
qua sau khi có ý kiến bằng văn bản của Bộ tài nguyên và môi trường.

113
2. Quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên nước
Nguồn nước vừa đảm bảo cho các hoạt động phát triển kinh tế xã hội,
nhưng nó cũng đang chịu tác động không nhỏ từ hoạt động này.Tình trạng suy
kiệt về trữ lượng, suy giảm về chất lượng các nguồn nước ngày càng diễn ra phổ
biến không chỉ đối với nước mặt mà cả nước dưới đất. Vì vậy bảo vệ tài nguyên
nước cũng là nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước. Hoạt động bảo vệ tài
nguyên nước là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân, các cấp chính quyền, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, điều này đã được quy định cụ thể trong điều 25
Luật tài nguyên nước 2012 sử dụng nước Tổ chức, cá nhân
Hoạt động bảo vệ nguồn nước bao gồm:
Phòng, chống, ứng phó khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn
nước: Hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải tuân thủ quy hoạch
tài nguyên nước đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; nếu làm suy giảm chức
năng của nguồn nước, gây sụt, lún đất, ô nhiễm, nhiễm mặn nguồn nước phải
có trách nhiệm khắc phục hậu quả, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật. Pháp luật cũng quy định các đối tượng đặc biệt như
bệnh viện, cơ sở y tế điều trị bệnh truyền nhiễm, nghĩa trang, bãi chôn lấp chất
thải, cơ sở sản xuất hóa chất độc hại, cơ sở sản xuất, chế biến có nước thải
nguy hại không được xây dựng trong hành lang bảo vệ nguồn nước, để tránh
tình trạng nước thải của các cơ sở này sẽ đổ ra nguồn nước gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nguồn nước. Nếu trong trường hợp các cơ sở này đã xây
dựng từ trước thì nguồn thải phải được kiểm soát một cách chặt chẽ và có
phương án khắc phục nếu gây ô nhiễm, nếu không khắc phục được sẽ đình chỉ
hoạt động và di dời. Hay đối với các cơ sở làm hạ mực nước dưới đất cũng sẽ
bị đình chỉ hoạt động và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Những
quy định chặt chẽ của pháp luật sẽ hạn chế các tác động gây ô nhiễm, cạn kiệt
nguồn nước. Trong trường hợp các cơ sở gây ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước
phải có biện pháp khắc phục kịp thời và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa

114
phương có trách nhiệm xác định rõ nguyên nhân, phối hợp giảm thiểu tác hại
do sự cố gây ra; giám sát, đánh giá mức độ suy giảm chất lượng nước, thiệt hại
do sự cố gây ra để yêu cầu đối tượng gây ra sự cố bồi thường thiệt hại. Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự cố ô nhiễm nguồn nước
có trách nhiệm chủ động tiến hành các biện pháp ngăn chặn, hạn chế lan rộng
vùng ô nhiễm, xử lý, giảm thiểu ô nhiễm thuộc phạm vi quản lý, phối hợp với
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan trong quá trình ngăn
chặn, xử lý sự cố và báo cáo kịp thời với Bộ tài nguyên và môi trường. Tổ
chức, cá nhân gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước, ngoài việc bị xử phạt vi phạm
theo quy định của pháp luật còn có trách nhiệm khắc phục hậu quả ô nhiễm,
suy thoái nguồn nước trước mắt, cải thiện, phục hồi chất lượng nước về lâu dài
và bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
Đối với trường hợp nguồn nước liên quốc gia thì cần có sự can thiệp của
nhiều bộ ngành, phù hợp với pháp luật quốc tế và các điều ước quốc tế liên quan.
Quan trắc, giám sát tài nguyên nƣớc: Hoạt động quan trắc, giám sát tài
nguyên nước là một trong những biện pháp bảo vệ nguồn nước tốt nhất. Thông
qua quan trắc, giám sát các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh cũng như cơ quan có
thẩm quyền xác định được mức độ ảnh hưởng tới nguồn nước. Hiện nay pháp
luật quy định rất rõ ràng về việc quan trắc, giám sát tài nguyên nước đối với cơ
sở sản xuất kinh doanh phải định kỳ quan trắc, giám sát nước thải 3 tháng/lần
quy định cụ thể việc quan trắc, giám sát tài nguyên nước đã được Bộ tài nguyên
và môi trường ban hành về kỹ thuật, quy chuẩn, chỉ tiêu quan trắc. Đối với
nguồn nước trong mặt, nước dưới đất nội tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có
trách nhiệm quan trắc, giám sát về số lượng, chất lượng nguồn nước, hoạt động
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các
nguồn nước nội tỉnh. Các nguồn nước liên tỉnh, liên quốc gia do Bộ tài nguyên
và môi trường thực hiện.

115
Xả thải vào nguồn nƣớc: Hoạt động ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng
nguồn ngước chính là hoạt động xả thải, có tới 80% lượng nước sử dụng sẽ là
nước thải vì vậy với lượng nước lớn nước thải nếu xả thải vào nguồn nước
không chỉ ảnh hưởng chất lượng nguồn nước nơi tiếp nhận mà còn ảnh hưởng
tới môi trường đất, thủy sinh vật và có tác động lâu dài nếu nước thải không
được xử lý. Mặc dù Nhà nước đã có những quy định chặt chẽ trong việc xả thải
như việc quy định các đơn vị xả thải phải xin phép xả thải (trừ nước thải sinh
hoạt của hộ gia đình), nhưng tình trạng xả thải trái phép gây ảnh hưởng đến
nguồn nước trong thời gian qua vẫn không giảm đã gây ảnh hưởng nghiêm
trọng. Các sơ sở được cấp phép xả thải phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính,
bảo đảm xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn cho phép, thực hiện quan
trắc, giám sát định kỳ lưu lượng, chất lượng nước thải, …và đặc biệt phải có
trách nhiệm bồi thường cho các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xả nước
thải trái phép của mình gây ra.
Ngoài ra để bảo vệ tài nguyên nước nhà nước còn quy định các hành lang
bảo vệ nguồn nước cho từng mục đích khác nhau. Và Nhà nước cũng có những
quy định rõ ràng cho việc bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt, nước trong
sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác
khoáng sản và các hoạt động khác; Phòng, chống ô nhiễm nước biển; Bảo vệ
nước dưới đất.
3. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Mặc dù được coi là quốc gia giàu nước nhưng tài nguyên nước của nước
ta không phải là vô tận, hơn nữa nguồn nước của nước ta phụ thuộc nhiều vào
các quốc gia bên ngoài, vì vậy việc khai thác sử dụng tài nguyên nước phải tiết
kiệm hiệu quả là một mục tiêu quan trọng. Để khai thác sử dụng nước tiết kiệm
hiệu quả thì người sử dụng nước phải sử dụng đúng mục đích, có kế hoạch thay
thế loại bỏ dần phương tiện, thiết bị có công nghệ lạc hậu, tiêu thụ nhiều nước;
Cải tiến, hợp lý hóa quy trình sử dụng nước; áp dụng kỹ thuật, công nghệ, thiết

116
bị tiên tiến trong khai thác, sử dụng nước; tăng khả năng sử dụng nước tuần
hoàn, tái sử dụng nước; tích trữ nước mưa để sử dụng, nội dung này đã nêu rõ
trong Luật tài nguyên nước 2012 và chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến
năm 2020.
Tài nguyên nước là tài sản quốc gia, mọi tổ chức, cá nhân có thể khai thác
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên các đối tượng khai thác phải được cơ
quan nhà nước cho phép thông qua giấy phép trừ một số trường hợp khai thác
cho sinh hoạt hộ gia đình, cho sản xuất muối, cho nghiên cứu khoa học, … Việc
nhà nước cấp phép khai thác nguồn nước là một trong những phương cách để
quản lý nguồn nước được tốt hơn, thông qua đó có thể quy hoạch, điều hòa,
phân phối nguồn nước cho các mục đích sao cho phù hợp, tránh tình trạng khai
thác quá mức gây những sự cố liên quan đến nước. Hiện nay công tác cấp phép
khai thác nguồn nước do Bộ tài nguyên và môi trường, ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương thực hiện.
4. Phòng chống, khắc phục hậu quả do nước gây ra
Mặc dù có vai trò quan trọng đối với hoạt động phát triển kinh tế xã hội, an
ninh quốc phòng nhưng tài nguyên nước cũng có những tác hại rất lớn. Vì vậy để
hạn chế những tác hại này thì đòi hỏi công tác phòng chống, khắc phục hậu quả
do nước gây ra cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan cũng như theo quy định của
pháp luật về đê điều, phòng, chống lụt, bão và các quy định khác của pháp luật có
liên quan. Trách nhiệm, nghĩa vụ phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do
nước gây ra do: Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tham gia phòng,
chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan; Chính phủ quyết định và chỉ đạo
bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các biện pháp phòng,
chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; Bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy
ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quyết định và
tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do

117
nước gây ra. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay khi nước ta là một trong những
quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, các tác động bất thường
của thời tiết gây mưa lũ lụt, hạn hán hay tác động của nước biển dâng gây xâm
nhập mặn vào sâu đất liền trên diện rộng.
Cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước có trách nhiệm lập tiêu
chuẩn phòng, chống hạn hạ, lũ, lụt, ngập úng, xâm nhập mặn, … cho từng vùng,
từng địa phươngđể làm cơ sở cho việc lập quy hoạch, xây dựng công trình. Các
Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn đó để lập
phương án phòng chống.
- Căn cứ vào phương án phòng, chống lũ, lụt, hạn hán, ngâp úng, xâm
nhập mặn các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp xây dựng kế hoạch chuẩn
bị lực lượng, vật tư, phương tiện và các điều kiện cần thiết khác để xử lý sự cố
xảy ra.
- Cơ quan quản lý nhà nước về khí tượng thủy văn có trách nhiệm tổ chức
quan trắc, dự báo và thông báo kịp thời về mưa, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn và
nước biển dâng trong phạm vi cả nước.
Các bộ Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Bộ Quốc Phòng, Bộ công thương, … và ủy ban nhân dân các cấp
luôn phải phối hợp chặt chẽ kịp thời khi phòng chống và khắc phục hậu quả
khi sự cố xảy ra.
5. Hợp tác quốc tế về tài nguyên nước
Do tính đặc thù riêng của nguồn tài nguyên này không chỉ nằm trong một
quốc gia mà có sự liên quan tới các quốc gia khác, đặc biệt với nguồn nước mặt
(2/3các con sông của nước ta thường bắt nguồn từ các quốc gia bên ngoài, 1
triệu km2 biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của nước ta có liên quan tới các
quốc gia láng giềng và vùng biển khác trên thế giới).Vì vậy hợp tác quốc tế về
tài nguyên nước là một trong những nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước
về tài nguyên nước.

118
Trong Luật tài nguyên nước và các văn bản, các hiệp định khác có liên
quan đều đã khẳng định, Nhà nước Việt Nam áp dụng những nguyên tắc sau đây
trong việc điều tra cơ bản, bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn nước liên quốc gia,
phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, hợp tác quốc tế và
giải quyết tranh chấp về nguồn nước liên quốc gia:
1. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các nước
có chung nguồn nước;
2. Bảo đảm công bằng, hợp lý và phát triển bền vững trong khai thác, sử
dụng nguồn nước liên quốc gia;
3. Không làm phương hại tới quyền và lợi ích của các nước có chung
nguồn nước phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên;
4. Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và các
điều ước quốc tế liên quan.
Các nguyên tắc này đều thể hiện lập trường rất rõ ràng của nước ta đối với
nguồn tài nguyên liên quốc gia. Và cũng không phải chỉ riêng đối với tài nguyên
nước mà nó còn thể hiện tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta đối với những vấn
đề chung khác.
Nhà nước ta cũng đã phân công rõ ràng trách nhiệm cho các bộ, ban,
ngành trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam với nguồn nước liên
quốc gia: Bộ tài nguyên và môi trường có trách nhiệm theo dõi, giám sát, tổng
hợp tình hình về các nguồn nước liên quốc gia, kịp thời báo cáo, đề xuất Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ xử lý các vấn đề nhằm bảo đảm quyền và lợi ích
của Việt Nam. Ủy ban nhân dân các cấp tại vùng biên giới có nguồn nước liên
quốc gia chảy qua khi phát hiện những vấn đề bất thường về lưu lượng, mực
nước, chất lượng của nguồn nước trên địa bàn phải báo cáo Ủy ban nhân dân
cấp trên trực tiếp. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổng hợp và báo cáo Bộ tài nguyên
và môi trường.

119
Trong quá trình hợp tác không tránh khỏi những quan điểm cách xa dẫn
đến tranh chấp, pháp luật Việt Nam cũng nêu rõ quan điểm, định hướng để giải
quyết các tranh chấp này.Khi giải quyết tranh chấp, bất đồng về nguồn nước liên
quốc gia có liên quan đến các nước trong lưu vực sông, các vùng biển thuộc chủ
quyền ngoài việc áp dụng những nguyên tắc trên, còn phải tuân theo những quy
định sau đây:
- Mọi tranh chấp, bất đồng về chủ quyền trong việc điều tra cơ bản, bảo
vệ, khai thác, sử dụng nguồn nước liên quốc gia; phòng, chống và khắc phục
hậu quả tác hại do nước gây ra giữa các nước có chung nguồn nước trong đó
có Việt Nam được giải quyết trên cơ sở thương lượng, phù hợp với điều ước
quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và thông
lệ quốc tế.
- Mọi tranh chấp, bất đồng về nguồn nước liên quốc gia xảy ra trong lưu
vực sông có tổ chức lưu vực sông quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tham gia được giải quyết trong khuôn khổ tổ chức lưu vực sông quốc
tế theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
2.3.4. Quản lý nhà nước về tài nguyên biển, hải đảo
2.3.4.1. Tài nguyên biển, hải đảo
- Khái niệm tài nguyên biển, hải đảo
Khái niệm tài nguyên biển và hải đảo được ghi nhận trong Luật Tài
nguyên – Môi trường biển, hải đảo 2015: “Tài nguyên biển và hải đảo bao gồm
tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật thuộc khối nước biển, đáy biển,
lòng đất dưới đáy biển, vùng đất ven biển và quần đảo, đảo, bãi cạn lúc chìm
lúc nổi, bãi ngầm (sau đây gọi chung là hải đảo) thuộc chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam” (Điều 3). Như vậy, phạm vi
phân bố không gian của tài nguyên biển, hải đảo rất rộng lớn, giới hạn trong
hoàn bộ khu vực biển, hải đảo Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền
tài phán.

120
- Phân loại tài nguyên biển

Tài nguyên biển, hải đảo nhìn chung có thể phân loại thành: Tài nguyên
sinh vật và tài nguyên phi sinh vật. Tài nguyên sinh vật của Biển Đông rất
phong phú, có đến hơn 160.000 loài, gần 10.000 loài thực vật và 260 loài chim
sống ở biển. Trữ lượng các loài động vật ở biển ước tính khoảng 32,5 tỷ tấn,
trong đó, các loài cá chiếm 86% tổng trữ lượng. Vùng biển Việt Nam có hơn
2.458 loài cá, gồm nhiều bộ, họ khác nhau, trong đó có khoảng 110 loài có giá
trị kinh tế cao. Trữ lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 5 triệu tấn/năm, trữ
lượng cá có thể đánh bắt hàng năm khoảng 2,3 triệu tấn [1]. Các hệ sinh thái bờ
biển Việt Nam cung cấp khoảng 60-80 triệu đô la Mỹ/ha mỗi năm (Báo cáo của
ADB, 1999).

Bên cạnh đó, tài nguyên phi sinh vật cũng rất đa dạng, có thể kể đến:
Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta, có tầm chiến lược
quan trọng. Đến nay, chúng ta đã xác định được tổng tiềm năng dầu khí tại
bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu Long, Malay -
Thổ Chu, Tư Chính - Vũng Mây. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm
lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn quy dầu. Việt Nam còn có khí đốt với trữ
lượng khai thác khoảng 3.000 tỷ m3/năm. Ngoài ra, vùng biển nước ta nằm
gọn trong phần phía Tây của vành đai quặng thiếc Thái Bình Dương, có trữ
lượng thiếc, quặng sa khoáng lớn. Lãnh thổ nước ta có đường bờ biển chạy
theo hướng Bắc - Nam dọc theo chiều dài đất nước, lại nằm kề trên các
tuyến đường biển quốc tế quan trọng của thế giới, có những vụng sâu kín
gió là điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Tài nguyên
du lịch biển cũng được khai thác với bờ biển dài có nhiều bãi cát, vịnh, hang
động tự nhiên do đặc điểm kiến tạo khu vực, nhiều bán đảo và đảo lớn nhỏ
liên kết với nhau thành một quần thể du lịch có giá trị.

121
2.3.4.2. Quản lý nhà nước về tài nguyên biển
+ Chủ thể quản lý:
Quản lý biển một lĩnh vực có phạm vi rộng, có liên quan đến nhiều bộ,
ngành và địa phương trong cả nước. Để đảm bảo nguyên tắc quản lý biển thống
nhất, đồng bộ và hiệu quả, Luật biển Việt Nam quy định Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về biển.
Quản lý nhà nước đối với biển và hải đảo nói chung và quản lý tài nguyên
biển nói riêng hiện nay nhấn mạnh vào phương thức “quản lý tổng hợp”. Với sự
ra đời của Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo được Quốc hội thông
qua ngày 25 tháng 06 năm 2015, lần đầu tiên một phương thức quản lý mới trên
biển là “quản lý tổng hợp” đã được pháp luật quy định. Quản lý tổng hợp tài
nguyên biển và hải đảo là việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách,
cơ chế, công cụ điều phối liên ngành, liên vùng để bảo đảm tài nguyên biển và
hải đảo được khai thác, sử dụng hiệu quả, duy trì chức năng và cấu trúc của hệ
sinh thái nhằm phát triển bền vững, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền
tài phán quốc gia của Việt Nam trên biển, bảo đảm quốc phòng, an ninh ( Điều
3, Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo 2015).
Bản chất của quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo là phương thức
quản lý dựa trên tiếp cận hệ sinh thái với phương châm không làm thay quản lý
ngành, lĩnh vực mà đóng vai trò điều phối, phối hợp các hoạt động quản lý
ngành, lĩnh vực nhằm quản lý hiệu quả hơn các hoạt điều tra, thăm dò, khai thác,
sử dụng các loại tài nguyên, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển và hải đảo.
Trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo do Chính
phủ thống nhất quản lý. Cơ quan chủ trì quản lý về biển ở cấp Trung ương là Bộ
Tài nguyên – Môi trường. Bộ có nhiệm vụ quản lý trong lĩnh vực tài nguyên môi
trường, trong đó có tài nguyên biển. Các nhiệm vụ chuyên môn cụ thể được giao

122
cho Tổng cục Biển và Hải đảo. Tổng cục là cơ quan trực thuộc Bộ tài nguyên và
môi trường được thành lập theo Quyết định 116/2008/QĐ – TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Tổng cục Biển và Hải đảo thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ
trưởng Bộ tài nguyên và môi trường quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về
biển và hải đảo. Cụ thể hóa chức năng này, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
thực hiện các nhiệm vụ:
 Trình Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường: Dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, chương trình quốc gia, quy
hoạch, kế hoạch, đề án, dự án về biển, hải đảo để ban hành, phê duyệt theo thẩm
quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, phê duyệt; Dự thảo
tiêu chuẩn quốc gia về lĩnh vực biển và hải đảo để gửi Bộ trưởng Bộ Khoa học
và Công nghệ thẩm định, công bố theo quy định của pháp luật.
 Tổng cục tham gia xây dựng chiến lược, chính sách về quốc phòng, an
ninh, ngoại giao liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền tài
phán quốc gia của Việt Nam trên biển và hải đảo; các cơ chế, chính sách về
quản lý các ngành, nghề khai thác biển.
 Về quản lý tổng hợp, khai thác, sử dụng biển và hải đảo: Tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch, đề án, dự án về điều tra cơ bản tài nguyên - môi
trường biển, quan trắc môi trường biển và hải đảo sau khi được cấp có thẩm
quyền phê duyệt; Tổ chức thực hiện các chương trình khảo sát, thăm dò, nghiên
cứu khoa học biển, hải đảo và đại dương sau khi được cấp có thẩm quyền phê
duyệt; tham gia thẩm định các dự án khảo sát, thăm dò tài nguyên dưới đáy biển
theo phân công của Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường;
Nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ quản lý tổng
hợp, điều tra cơ bản, khảo sát, thăm dò biển, hải đảo và đại dương. Tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên và
môi trường các vùng biển, ven biển và hải đảo. Tham gia thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; thực hiện phòng, chống

123
tham nhũng, tiêu cực trong Tổng cục theo quy định của pháp luật và theo phân
công của Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường; Thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường giao và theo quy
định của pháp luật.
Ngoài ra, các bộ ngành liên quan thực hiện quản lý biển, hải đảo trong
phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình như bộ ngoại giao, công an, quốc
phòng, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, …
Ở cấp địa phương, Sở Tài nguyên & Môi trường là cơ quan tham mưu,
giúp ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý tổng hợp về biển và
hải đảo. Đối với các tỉnh thành có địa ranh, địa giới gắn với biển phải thành lập
Chi cục Biển và Hải đảo. Chi cục Biển và Hải đảo là tổ chức trực thuộc Sở tài
nguyên và môi trường, giúp Giám đốc Sở tài nguyên và môi trường tham mưu
cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước tổng hợp
và thống nhất quản lý các vấn đề về biển, đảo trên địa bàn cấp tỉnh.
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có biển trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm: Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; thực
hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên biển và hải đảo chưa khai thác, sử dụng
theo quy định của pháp luật; Bảo vệ hành lang bảo vệ bờ biển trong phạm vi địa
phương; phát hiện và tham gia giải quyết sự cố môi trường biển, sạt, lở bờ biển;
Tuyên truyền về biển và hải đảo; phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý tổng
hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; Định kỳ tổng hợp, báo cáo
Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp tình hình quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo
vệ môi trường biển và hải đảo. Hoạt động của các cơ quan này cần bảo đảm sự
phối hợp trong quản lý thống nhất, liên ngành, liên vùng; đồng bộ, hiệu quả,
phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong việc chủ trì, phối hợp thực
hiện quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo.

124
+ Đối tượng
Hoạt động quản lý nhà nước đối với tài nguyên biển, hải đảo hướng đến
đối tượng là: Bản thân tài nguyên biển, hải đảo và hoạt động khai thác, sử dụng
cùng với các hoạt động khác của con người liên quan đến tài nguyên đó. Thứ
nhất, tài nguyên biển, hải đảo được quản lý thống nhất theo chiến lược khai thác,
sử dụng bền vững; quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển; quy hoạch khai thác tài
nguyên vùng bờ gắn với điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển để đánh giá
tổng thể, thống kê, phân loại để lập hồ sơ và định hướng khai thác, sử dụng hợp
lý, hiệu quả tài nguyên biển. Đối tượng quan trọng thứ hai của quản lý nhà nước
đối với tài nguyên biển, hải đảo là toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội – môi
trường, quốc phòng an ninh... của con người có liên quan đến tài nguyên biển
hoặc trên phạm vi các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của Việt Nam. Quản lý đối tượng này thực hiện thông qua nhiều hình thức:
cấp phép, theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật...
Hoạt động quản lý nhà nước đối với tài nguyên biển và hoạt động có liên
quan đến tài nguyên biển của con người nhằm bảo đảm hài hòa giữa nhu cầu
khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên với yêu cầu bảo tồn, phát triển hệ sinh
thái biển, bảo vệ môi trường biển.
- Nội dung quản lý nhà nước đối với tài nguyên biển, hải đảo
Quản lý nhà nước đối với biển, hải đảo nói chung là một lĩnh vực rất rộng,
bao gồm các mặt khác nhau: môi trường biển, kinh tế biển, dân cư, chủ quyền
biển đảo, giải quyết tranh chấp trên biển, an ninh quốc gia... Trong phạm vi môn
học này, chủ yếu nghiên cứu từ góc độ quản lý nhà nước đối với tài nguyên biển
gắn với các hoạt động khai thác, sử dụng hợp lý, bảo tồn và phát triển tài nguyên
biển. Vì vậy, với tư cách là một trong những khía cạnh quản lý nhà nước đối với
biển, hải đảo, quản lý nhà nước đối tài nguyên biển, hải đảo bao gồm các nội
dung chủ yếu sau:

125
Thứ nhất, ban hành chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng bền vững
tài nguyên biển, hải đảo.
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã khẳng định mục tiêu phấn
đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, góp phần
giữ vững ổn định và phát triển đất nước, có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút
mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn
vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối
với sự phát triển của cả nước. Trên tinh thần đó, chiến lược tài nguyên biển phải
đảm bảo nguyên tắc: Phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội, chiến lược biển Việt Nam, đồng thời, đáp ứng yêu cầu khai thác, sử
dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, ứng phó
với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Quá trình lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện chiến lược khai thác, sử
dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo được quy định
theo một trình tự thủ tục chặt chẽ, ghi nhận trong Luật Tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo 2015. Theo đó, Bộ tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp
với bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có biển lập chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên,
bảo vệ môi trường biển và hải đảo và trình Chính phủ phê duyệt. Chiến lược
khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo phải
được lấy ý kiến của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá
trình lập và phải được thẩm định trước khi phê duyệt. Bộ, cơ quan ngang bộ và
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung
chiến lược của ngành, địa phương có nội dung liên quan.
Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển, hải đảo không thể thiếu
được công tác quy hoạch. Quy hoạch sử dụng biển là định hướng và tổ chức
không gian cho việc sử dụng các vùng biển Việt Nam, được lập và phê duyệt

126
theo quy định của Luật biển Việt Nam. Quy hoạch sử dụng biển hiện nay nhấn
mạnh vào quy hoạch vùng bờ nhằm định hướng và tổ chức không gian cho việc
khai thác, sử dụng các loại tài nguyên trong vùng bờ ( khu vực chuyển tiếp giữa
đất liền hoặc đảo với biển, bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển).
Các quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên của ngành, địa phương có nội dung
liên quan đến tài nguyên vùng bờ phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch khai
thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ đã được phê duyệt.
Thứ hai, ban hành pháp luật liên quan đến bảo vệ, sử dụng, phát triển tài
nguyên biển, hải đảo
Với sự tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Việt
Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý
công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Tuy nhiên, trong
một thời gian dài, các quy định liên quan đến quản lý, sử dụng biển chỉ nằm rải
rác trong các luật liên quan như: Luật biên giới quốc gia năm 2003; Luật thủy
sản năm 2003; Bộ luật Hàng hải năm 2005, Luật Dầu khí 1993, Luật Tài nguyên
nước 1998, Luật Bảo vệ môi trường 1993, Luật Biên giới quốc gia 2003 và một
số văn bản dưới luật… Pháp luật về biển và hải đảo trong giai đoạn này chưa có
một văn bản pháp lý hoàn chỉnh và thống nhất mang tính hệ thống. Luật Biển
Việt Nam được Quốc hội thông qua 2012, có hiệu lực thi hành từ 2013 là văn
bản pháp lý hoàn chính đầu tiên quy định tổng hợp về các vấn đề liên quan đến
biển, hải đảo nước ta, trong đó có vấn đề tài nguyên biển. Việc thông qua Luật
Biển Việt Nam là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý biển, đảo. Luật Biển Việt Nam ra đời là bước “nội luật hóa” Công
ước cùa Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà Việt Nam đã ký kết và
chính thức phê chuẩn. Đồng thời nó cũng thể hiện trách nhiệm của Nhà nước
trong việc triển khai, tổ chức, thực hiện Công ước Luật Biển 1982 với tư cách
quốc gia thành viên.

127
Trên tinh thần đó, nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật về biển và hải
đảo, trong đó đặc biệt chú ý đến khía cạnh tài nguyên – môi trường biển, Quốc
hội Khóa XIII đã thông qua Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo năm
2015. Luật gồm có 10 chương, 81 điều quy định những nội dung cụ thể về các
công cụ, cơ chế, chính sách điều phối, phối hợp liên ngành, liên vùng, nguyên
tắc, nội dung phối hợp trong quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo, khai
thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; quy
hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; chương trình
quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ; phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên
vùng bờ; chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo; chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về tài nguyên, môi
trường biển; phân vùng rủi ro ô nhiễm biển và hải đảo; quản lý tài nguyên hải
đảo; hệ thống quan trắc, giám sát tổng hợp, thông tin, cơ sở dữ liệu về tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo.... Luật ra đời hướng tới đảo bảo đảm tài
nguyên biển và hải đảo được khai thác, sử dụng hiệu quả, duy trì chức năng và
cấu trúc của hệ sinh thái nhằm phát triển bền vững, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên biển.
Thứ ba, Nhà nước quản lý hoạt động điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa
học tài nguyên biển
Điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là hoạt động khảo
sát, điều tra, phân tích, đánh giá về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo nhằm
cung cấp số liệu về hiện trạng, xác định quy luật phân bố, tiềm năng, đặc điểm
định tính, định lượng của tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Nhà nước ưu
tiên đầu tư cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ về tài nguyên biển, hải đảo
thông qua chương trình khoa học công nghệ cấp quốc gia về tài nguyên, biển,
hải đảo. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước
ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam, Nhà nước quy định phải đáp ứng các
điều kiện và phải được cấp phép theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bộ

128
trưởng Bộ tài nguyên và môi trường cấp phép nghiên cứu khoa học cho tổ chức,
cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam sau khi lấy ý kiến các
bộ quản lý ngành, lĩnh vực, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có liên quan và thống nhất ý kiến với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ
Ngoại giao, Bộ Khoa học và Công nghệ. Sau khi cấp phép, Bộ tài nguyên và
môi trường có trách nhiệm thông báo cho bộ, ngành và địa phương có liên quan
để phối hợp quản lý.
Hoạt động điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học biển nhằm hoàn thiện
hệ thống thông tin tài nguyên, môi trường biển quốc gia, bao gồm: Hạ tầng kỹ
thuật công nghệ thông tin tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Hệ thống phần
mềm hệ điều hành, phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng. Đồng thời, hoạt
động này nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
đa dạng, bao gồm: Dữ liệu về vùng đất ven biển, địa hình đáy biển; Dữ liệu về
khí tượng, thủy văn biển; Dữ liệu về địa chất biển, địa vật lý biển, khoáng sản
biển; dầu, khí ở biển; dữ liệu về tính chất vật lý, hóa lý của nước biển; Dữ liệu
về hệ sinh thái biển; đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản biển; tài nguyên vị
thế biển và kỳ quan sinh thái biển; Dữ liệu về hải đảo... Các kết quả có được từ
điều tra cơ bản tài nguyên biển từng bước xác lập luận cứ khoa học, tạo cơ sở
khoa học cho việc xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển
bền vững kinh tế biển, củng cố quốc phòng - an ninh trên biển.
Thứ tư, hợp tác quốc tế về bảo vệ phát triển tài nguyên biển, hải đảo
Với tầm quan trọng của biển, tiến ra biển trở thành xu thế của các quốc gia.
Với xu hướng này, ngày càng có nhiều đường biên giới xuất hiện trên biển, nhưng
tình hình này không ngăn cản được một nhận thức chung đó là biển cả là một môi
trường đồng nhất, tài sản chung của nhân loại, đòi hỏi có sự hợp tác cao giữa các
quốc gia. Nhiều vấn đề về tài nguyên và môi trường biển vượt qua khỏi phạm vi
quốc gia và vì thế, hợp tác quốc tế không chỉ đơn thuần là một sự lựa chọn mà là
một sự cần thiết không riêng quốc gia nào. Trong những năm qua, các quốc gia

129
trên thế giới cũng không ngừng thúc đẩy hợp tác quốc tế song phương và đa
phương về biển, các lĩnh vực chủ yếu liên quan đó là thúc đẩy khoa học kĩ thuật
biển, điều tra biển, cứu nạn trên biển, phòng tránh thảm họa, kiểm soát tội phạm
trên biển, đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực liên quan đến biển...
Không nằm ngoài xu thế tất yếu đó, cho đến nay, Việt nam đã tích cực
tham gia và thực thi các điều ước trên phạm vi khu vực và thế giới về vấn đề tài
nguyên - môi trường biển, như: Công ước về đa dạng sinh học 1992, Công ước
về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu năm 1992 ( CLC 1992),
Công ước RAMSA về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, sửa
đổi theo Nghị định thư Paris năm 1982… Việc tham gia tích cực các điều ước
quốc tế liên quan đến lĩnh vực tài nguyên – môi trường biển thể hiện quyết tâm
của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện mục tiêu hợp tác quốc tế nhằm khai
thác tài nguyên biển, hải đảo một cách hiệu quả nhất. Nó có ý nghĩa quan trọng
đối với Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung chính sách, pháp luật
liên quan đến vấn đề biển, hải đảo, thể hiện ý thức sâu sắc về nghĩa vụ của mình
cũng như yêu cầu các quốc gia khác cùng thực hiện nghĩa vụ, tận tâm và thiện
chí thực hiện cam kết quốc tế.
Thứ năm, tuyên tuyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
gắn với bảo vệ tài nguyên biển, hải đảo
Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về biển, đảo là một trong
những nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về biển, hải đảo. Thông qua
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật giúp người dân, các đối tượng khai
thác, sử dụng biển và hải đảo nhận thức được chính sách, pháp luật của nhà
nước về biển và hải đảo; ý thức được trách nhiệm bảo vệ chủ quyền và lợi ích
quốc gia trên biển; trách nhiệm khai thác bền vững tài nguyên và bảo vệ môi
trường biển, hải đảo. Từ đó hướng họ đến hành động tuân thủ những quy định
của nhà nước, của pháp luật về biển, đảo.

130
Theo tinh thần Quyết định số 373/QĐ-TTg ngày 23 tháng 3 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ, các nội dung nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam bao gồm: Tăng
cường phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững
biển, hải đảo; Nâng cao nhận thức cộng đồng về khai thác, sử dụng bền vững tài
nguyên và bảo vệ môi trường vùng ven biển, hải đảo; Tăng cường tuyên truyền,
phổ biến kiến thức phòng ngừa, ứng phó, kiểm soát và khắc phục hậu quả thiên
tai, sự cố môi trường biển; Xây dựng, quảng bá thương hiệu Biển Việt Nam;
Nâng cao nhận thức về vị thế quốc gia biển và hội nhập quốc tế của Việt Nam
trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, hải đảo; Tổ chức các diễn
đàn, hội nghị, hội thảo theo chủ đề, có sự tham gia của các tầng lớp, thành phần
trong cộng đồng nhân dân có liên quan đến khai thác, sử dụng bền vững tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; Xây dựng và phổ biến các tài liệu
tuyên truyền, phổ biến kiến thức về khai thác, sử dụng bền vững một số loại tài
nguyên và bảo vệ môi trường theo các ngành (lâm nghiệp, thuỷ sản, du lịch,
công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, kho vận, xếp dỡ hàng hoá tại cảng biển, dầu
khí). Việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền biển, hải đảo nhằm tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và tầng lớp
nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia trên biển..
Thứ sáu, thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên biển, hải đảo
Tài nguyên và các nguồn lợi từ biển đang bị khai thác quá mức và thiếu
bền vững, đa dạng sinh học biển đang bị suy giảm. Ðặc biệt, xuất hiện ngày
càng nhiều các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường biển, hải đảo nghiêm trọng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động quản lý nhà nước đối
với biển, hải đảo nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật

131
trong khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo. Nó là một phương
thức phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
hành vi vi phạm các quy định của pháp luật biển, đảo thì tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật; cá nhân vi phạm có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định Nhà nước, của pháp luật biển, đảo.
Thông qua việc thanh tra, kiểm tra, còn giúp cho cơ quan Nhà nước phát
hiện ra nguyên nhân, điều kiện phát sinh các hành vi vi phạm xuất phát từ những
kẽ hở pháp luật như: những điểm chồng chéo, thiếu đồng bộ giữa hệ thống văn
bản pháp luật với thực tế đời sống; chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm
pháp luật nhưng chưa nghiêm; hay quy trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo
chưa hợp lý, từ đó góp phần nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nước về
biển, hải đảo.
2.3.5. Quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản
2.3.5.1. Tài nguyên khoáng sản
- Khái niệm khoáng sản
Khoáng sản là thành tạo khoáng vật của lớp vỏ trái đất, mà thành phần
hóa học và các tính chất vật lý của chúng cho phép sử dụng chúng có hiệu quả
và lợi ích trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất của nền kinh tế quốc dân.
Điều 3, Luật khoáng sản, 2010: “Khoáng sản là tài nguyên trong lòng đất, trên
mặt đất dưới dạng những tích tụ tự nhiên khoáng vật, khoáng chất có ích ở thể
rắn, thể lỏng, thể khí, hiện tại hoặc sau này có thể được khai thác…”.
Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, do vậy vấn đề đặt ra cho con
người là phải tìm cách tăng khả năng thu hồi tài nguyên trong quá trình khai thác
và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên.
- Vai trò của khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản rất cần thiết với hoạt động sản xuất của con người,
vai trò của khoáng sản thể hiện từ những dạng hết sức thô sơ như đất san lấp, đá

132
xây dựng, cho đến những khoáng sản đặc biệt phục vụ cho sự phát triển các
phương tiện kỹ thuật hiện đại (như đất hiếm (TR), Pt…). Do vậy, khoáng sản đã
được xem như là một trong những chỉ tiêu đánh giá tiềm lực kinh tế - quốc
phòng của một quốc gia.
- Phân loại Khoáng sản
Theo mục tiêu sử dụng, người ta phân loại khoáng sản thành các loại
như sau:
- Khoáng sản kim loại.
- Khoáng sản phi kim loại.
- Khoáng sản rắn.
- Khoáng sản lỏng/khí.
Theo trạng thái, người ta phân loại khoáng sản như sau: khoáng sản rắn,
khoáng sản lỏng (dầu mỏ, nước khoáng, nước nóng), khoáng sản khí.
- Đặc điểm của khoáng sản
+ Là tài sản hữu hình, có một số đặc tính như: có chủ sở hữu; có đặc tính
vật lý; có thể trao đổi được; có thể mang giá trị tinh thần hoặc vật chất; là những
thứ đã tồn tại (tài sản trước kia) đang tồn tại và có thể có trong tương lai.
+Tính hữu hạn, không tái tạo
+ Địa tô chênh lệch (lợi thế so sánh): Tương tự như đối với một số loại tài
nguyên thiên nhiên khác (tài nguyên đất, tài nguyên rừng v.v...), khoáng sản
cũng có địa tô chênh lệnh. Địa tô chênh lệnh phụ thuộc vào đặc điểm mỏ khoáng
sản, thay đổi theo thời gian, không gian cũng như sự phát triển của trình độ khoa
học - công nghệ khai thác, chế biến loại khoáng sản đó.
+ Quan hệ hữu cơ với tài nguyên đất: Khoáng sản luôn gắn liền với đất,
khi khai thác khoáng sản luôn phải sử dụng một diện tích đất mặt nhất định, kể
cả khi khai thác khoáng sản bằng phương pháp hầm lò. Như vậy, khi giải quyết
vấn đề sở hữu về khoáng sản, cũng như khi đưa ra các giải pháp nhằm quản lý,
bảo vệ tốt khoáng sản chưa khai thác chúng ta cũng phải giải quyết cả vấn đề

133
liên quan đến quyền sử dụng đất đai, những vấn đề về lợi ích khác có liên quan
đối với phần diện tích có khoáng sản.
+ Quan hệ hữu cơ với tài nguyên nước (rừng): khoáng sản cũng có mối
quan hệ hữu cơ với tài nguyên nước. Khi tiến hành khai thác một số loại khoáng
sản, chúng ta phải sử dụng nguồn nước mặt cũng như nước ngầm; Có trường
hợp, hoạt động khai thác khoáng sản ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn tài nguyên
nước nằm trong diện tích mỏ khoáng sản. Khi đó, chúng ta cũng phải tính đến
vấn đề sử dụng tài nguyên nước.
+ Tính “đa dụng”, “đa mục đích”, “đa khoáng” và thay đổi giá trị sử dụng
theo thời gian, trình độ phát triển của khoa học công nghệ.
+ Tính rủi ro địa chất
2.3.5.2. Quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản
+ Chủ thể quản lý:
Các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa
phương được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về khoáng sản theo qui định của
pháp luật.
+ Mục tiêu, đối tượng của công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
Mục tiêu: quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản tiết kiệm,
hợp lý và bền vững nhằm phục vụ phát triển đất nước.
Đối tượng quản lý: là các hoạt động khoáng sản ở tất cả các dạng tích tụ
tự nhiên của khoáng vật, khoáng chất có ích.
+ Nội dung quản lý nhà nước về khoáng sản
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoáng sản.
Ở Trung ương: Bộ tài nguyên và môi trường chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi cả nước. Bộ
Công thương và Bộ Xây dựng phối hợp quản lý khoáng sản theo chức năng,
nhiệm vụ được phân công.

134
Tổng cục địa chất và khoáng sản Việt Nam là cơ quan tham mưu, giúp
việc cho Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường thực hiện các chức năng quản
lý nhà nước về khoáng sản trên phạm vi toàn quốc.
Ở địa phương: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vị nhiệm vụ, quyền
hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về khoáng sản theo phân cấp của
Chính phủ.
- Nội dung quản lý nhà nước về khoáng sản bao gồm:
+ Hoạch định chiến lược, quy hoạch và chính sách về bảo vệ, sử dụng hợp
lý, tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp
khai thác, chế biến khoáng sản;
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về khoáng sản;
+ Cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép hoạt động khoáng sản; cho phép chuyển
nhượng, để thừa kế hoạt động khoáng sản, cho phép trả lại giấy phép hoạt động
khoáng sản; đăng ký các hoạt động điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên
khoáng sản và hoạt động khoáng sản;
+ Thẩm định, phê duyệt, đánh giá các đề án, báo cáo, thiết kế mỏ trong
hoạt động khoáng sản;
+ Kiểm tra, thanh tra các hoạt động điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên
khoáng sản, hoạt động khoáng sản;
+ Thực hiện các chính sách đối với nhân dân địa phương nơi có khoáng
sản được khai thác, chế biến và nơi có khoáng sản độc hại;
+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên khoáng sản;
+ Lưu trữ, bảo vệ tài liệu và bí mật nhà nước về tài nguyên khoáng sản;
+ Đào tạo cán bộ khoa học, cán bộ quản lý về khoáng sản; tuyên truyền,
phổ biến và hướng dẫn thi hành pháp luật về khoáng sản;....
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên
khoáng sản và hoạt động khoáng sản;

135
+ Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về hoạt động khoáng sản và
xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp luật về khoáng sản.
2.3.5.3. Một số nội dung quản lý nhà nước về khoáng sản
+ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Sau khi Luật Khoáng sản được Quốc hội thông qua, công tác xây dựng
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản đã được
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khẩn trương thực hiện. Đến nay đã có
tổng số 128 văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực khoáng sản,
lĩnh vực điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng
sản được ban hành. Riêng lĩnh vực quản lý nhà nước về khoáng sản có 101 văn
bản, gồm: 04 văn bản Luật, Pháp lệnh, 12 Nghị định, 15 Quyết định, Chỉ thị
của Thủ tướng Chính phủ, 37 Quyết định của các Bộ: Công nghiệp (trước đây),
Công Thương, tài nguyên và môi trường, Tài chính và 33 thông tư và thông tư
liên tịch của các Bộ: Công Thương, Xây dựng, tài nguyên và môi trường, Tài
chính. Trong đó các văn bản liên quan đến công tác quản lý nhà nước về
khoáng sản đang còn hiệu lực là 53 văn bản, gồm: 04 văn bản Luật, Pháp lệnh,
06 Nghị định, 11 Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 15 Quyết định
của các Bộ: Công nghiệp (trước đây), Công Thương, tài nguyên và môi trường,
Tài chính và 17 thông tư và thông tư liên tịch của các Bộ: Công Thương, Xây
dựng, tài nguyên và môi trường, Tài chính.
Riêng Bộ tài nguyên và môi trường đã chủ trì dự thảo trình Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành, phối hợp ban hành theo
thẩm quyền 26 văn bản, trong đó có: 01 Luật của Quốc hội (Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Khoáng sản); 03 Nghị định của Chính phủ; 01 Quyết
định và 03 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành theo thẩm quyền 01
Thông tư, 11 Quyết định và phối hợp ban hành 06 Thông tư liên tịch liên quan
đến quản lý nhà nước về khoáng sản.

136
Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật
Khoáng sản, Luật sửa đổi bổ sung mộ số điều của Luật Khoáng sản đã được các
cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương ban hành kịp thời và khá
đồng bộ, phù hợp với quy định của pháp luật về khoáng sản và quy định của
pháp luật khác có liên quan; đã thể chế hoá được các chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến
khoáng sản và tăng cường công tác quản lý nhà nước về khoáng sản.
+ Công tác tuyên truyền, phố biến pháp luật về khoáng sản
Sau khi Luật Khoáng sản được ban hành, Bộ Công nghiệp (trước đây), Bộ
tài nguyên và môi trường và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã thường xuyên phối hợp tiến hành tổ chức công tác tuyên truyền,
hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản trong phạm vi cả nước.
Nhiều phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và các địa phương
như báo viết, báo nói, báo hình đã đăng tải nội dung Luật Khoáng sản; nhiều
cuộc phỏng vấn, trao đổi, toạ đàm được thực hiện nhằm tạo điều kiện phổ biến
sâu rộng pháp luật về khoáng sản trong quần chúng nhân dân. Công tác tuyên
truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về khoáng sản cho các tổ chức, cá nhân
hoạt động khoáng sản còn được thực hiện thông qua công tác thanh tra, kiểm tra
hoạt động khoáng sản. Riêng Bộ tài nguyên và môi trường đã tổ chức được 06
Lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường cho lãnh
đạo, cán bộ Sở tài nguyên và môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, 02 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về khoáng sản cho phóng
viên báo chí, 02 lớp cho cán bộ, chuyên viên Sở tài nguyên và môi trường các
tỉnh, thành phố trong cả nước. Bộ tài nguyên và môi trường phối hợp Chương
trình SEMLA (Thuỵ Điển) đã xây dựng được bộ tài liệu bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường cấp huyện, trong đó có riêng một
chuyên đề quản lý nhà nước về khoáng sản. Theo đó, Bộ tài nguyên và môi

137
trường đã tổ chức 06 đợt tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ tài nguyên và môi
trường cấp huyện.
Thực hiện đa dạng hoá công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
khoáng sản, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng Bộ Tài nguyên và
Môi tường đã phối hợp với Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt
Nam thực hiện nhiều chuyên đề về công tác quản lý nhà nước về khoáng sản.
Năm 2006 Bộ tài nguyên và môi trường đã tổ chức thí điểm "Tuần lễ giáo dục
pháp luật về tài nguyên và môi trường" trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước
về khoáng sản tại một số khu vực. Ngoài ra, Bộ tài nguyên và môi trường đã
thực hiện giao lưu trực tuyến để giải đáp pháp luật về tài nguyên và môi
trường trên mạng Internet với Sở tài nguyên và môi trường, người dân và
doanh nghiệp. Hình thức này đã được Bộ tài nguyên và môi trường duy trì
được trong năm 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 với 12 phiên giao lưu và sẽ
tiếp tục thực hiện trong các năm tiếp theo. Thông qua nhiều hình thức tuyên
truyền phổ biến pháp luật, kiến thức của cán bộ, công chức làm công tác quản
lý nhà nước về khoáng sản tại Sở tài nguyên và môi trường các tỉnh và ý thức
tuân thủ pháp luật, kiến thức của cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà
nước về khoáng sản tại Sở tài nguyên và môi trường các tỉnh và ý thức tuân
thủ pháp luật về khoáng sản của người dân và doanh nghiệp đã được cải thiện
một bước đáng kể, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ tài nguyên khoáng
sản, nâng cao hiệu quả và hiệu lực công tác quản lý nhà nước về tài nguyên
khoáng sản.
+ Công tác xây dựng, phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử
dụng khoáng sản (quy hoạch khoáng sản)
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về khoáng sản được phân công, từ
năm 2005 Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Bộ Xây dựng đã triển
khai công tác lập Quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Đến nay, các Bộ đã

138
xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hoặc Bộ trưởng Bộ Công
Thương phê duyệt theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ được 13 Quy hoạch
đối với 39 loại khoáng sản, gồm: quặng sắt; quặng chì - kẽm; quặng titan; quặng
bauxit; quặng crômit, mangan; quặng thiếc, vonfram và antimon; quặng vàng,
đồng, niken, molipđen; đá quý, đất hiếm, urani; quặng apatit; nhóm khoáng chất
công nghiệp (serpentin, barit, grafit, fluorit, bentonit, diatomit, talc); nhóm
khoáng chất nguyên liệu (đá hoa trắng, felspat, cao lanh, magnezit); nhóm
khoáng sản làm xi măng (đá vôi xi măng, đá sét xi măng, cát silic, puzơlan,
laterit, đá bazan); nhóm khoáng sản làm vật liệu xây dựng (đất sét trắng, sét chịu
lửa, cát trắng, đôlômit, đá ốp lát).
Như vậy, về cơ bản các loại khoáng sản quan trọng có nhu cầu sử dụng
phổ biến đã có quy hoạch. Tuy nhiên, còn một số quy hoạch đối với một số loại
khoáng sản khác chưa được phê duyệt để thực hiện như: khoáng sản vật liệu
xây dựng (cát thuỷ tinh), than đá, v.v...
Thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp, hầu hết Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố đã lập và phê duyệt quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Theo số
liệu tổng hợp từ 60/63 báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
đến tháng 6 năm 2009 mới có 47/63 tỉnh, thành phố đã phê duyệt quy hoạch
khoáng sản trên địa bàn địa phương (đạt 74,6 %). Công tác khoanh định, phê
duyệt khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản cũng đã được các địa
phương triển khai nhưng tiến độ phê duyệt còn rất chậm.
Đến tháng 6 năm 2009 mới chỉ có 27/63 tỉnh, thành phố hoàn thành công
tác này là (đạt 42,86 %).
+ Công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản
Theo thống kê, từ khi Luật Khoáng sản có hiệu lực vào tháng 9 năm 1996
đến hết năm 2008, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Bộ tài nguyên và
môi trường đã cấp, gia hạn, thu hồi, cho phép chuyển nhượng, thừa kế, cho phép
tiếp tục thực hiện quyền thăm dò, khai thác khoáng sản tổng cộng 928 giấy phép

139
hoạt động khoáng sản. Trong đó, có 571 giấy phép thăm dò khoáng sản, 353
giấy phép khai thác khoáng sản, 03 giấy phép khảo sát kháng sản và 01 giấy
phép chế biến khoáng sản. Công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản được
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về khoáng sản, nhất là sau khi Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản ban hành và có hiệu lực.
Theo đó, khi cấp phép đều phải tuân thủ quy hoạch đã phê duyệt, trường hợp
chưa có quy hoạch phải có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của Thủ tướng Chính
phủ hoặc Bộ được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền. Mặt khác, trong quá trình
thẩm định, cấp giấy phép đều phải rà soát kỹ các vấn đề liên quan đến an ninh -
quốc phòng, di tích lịch sử văn hóa, cảnh quan, môi trường cũng như các vấn đề
khác có liên quan
Về phía Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo số liệu thống kê từ 60/63 báo cáo
của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đến tháng 6 năm 2009 có 331
giấy phép thăm dò và 3.882 giấy phép khai thác do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cấp đang thực hiện. Trong đó có 82% là giấy phép
khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, 16% là giấy
phép khai thác loại khoáng sản khác, còn lại là giấy phép khai thác tận thu.
Các tỉnh có số lượng giấy phép khai thác đã cấp nhiều là Bình Thuận (200
giấy phép), Vĩnh Long (155 giấy phép), Yên Bái (152 giấy phép), Cao Bằng
(142 giấy phép), Lâm Đồng (136 giấy phép), Lai Châu (124 giấy phép), Nghệ
An (126 giấy phép), Lào Cai (121 giấy phép), Thanh Hoá (101 giấy phép). Tuy
nhiên cũng có tỉnh chưa cấp giấy phép khai thác (Bạc Liêu, Cà Mau), hoặc chỉ
cấp 1, 2 giấy phép ( Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Hưng Yên).
+ Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản
Công tác kiểm tra được tăng cường đối với các nội dung liên quan đến
khai thác, chế biến và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản như: kiểm tra công
tác kiểm kê, quyết toán tài nguyên khoáng sản đã khai thác, chế biến hàng năm;
kiểm tra công tác khai thác, sử dụng khoáng sản đi kèm với khoáng sản chính

140
đang khai thác (nếu có); kiểm tra quy hoạch, kế hoạch xây dựng cơ bản của các
mỏ mới được cấp phép, kế hoạch khai thác 5 năm, hàng năm của doanh nghiệp
liên quan đến trình tự, công nghệ khai thác hợp lý nhằm thu hồi tối đa tài nguyên
khoáng sản đang khai thác; kiểm tra công tác đổ thải đất đá hợp lý (không đổ
thải đất đá mỏ lên các khu vực có khoáng sản) v.v...
Hàng năm, Bộ Công nghiệp (trước đây), Bộ tài nguyên và môi trường đã
chỉ đạo các đơn vị chức năng của Bộ chủ trì, phối hợp với Sở tài nguyên và môi
trường thực hiện trung bình 30 - 40 lượt kiểm tra định kỳ khai thác khoáng sản
tại các mỏ trên địa bàn từ 8 - 10 tỉnh, thành phố. Đặc biệt, trong các năm 2007,
2008, 2009 công tác này đã được Bộ tài nguyên và môi trường đặc biệt quan tâm
chỉ đạo thực hiện với 05 đợt kiểm tra quy mô lớn tại 42 tỉnh, thành phố trong cả
nước; bao gồm: kiểm tra tình tình thực hiện pháp luật về Khoáng sản tại 07 tỉnh:
Thái Nguyên, Cao Bằng, Thanh Hoá, Quảng Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng và
Đồng Nai, kiểm tra hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ và xuất
khẩu khoáng sản tại 07 tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam,
Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận trong năm 2007; kiểm tra tình hình thực
hiện thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh tại 15 tỉnh: Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào
Cai, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Dương, Bình Phước, Lâm Đồng và thành phố Hà Nội trong năm 2008; tổng
kiểm tra tình hình quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản tại
16 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Hải Dương,
Tuyên Quang, Phú Thọ, Bình Định, Phú Yên, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế,
Tây Ninh, An Giang, Đăk Lắc, Bình Thuận và Hải Phòng; kiểm tra tình hình
khai thác, vận chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu cát trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố: An
Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, Tiền Giang, Hậu
Giang, Kiên Giang và Cần Thơ trong năm 2009.
Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động khoáng sản, nhiều vi

141
phạm của tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản đã bị xử lý; những sai sót trong
công tác cấp phép hoạt động khoáng sản của một số địa phương đã được khắc
phục một bước đáng kể; tình trạng khai thác khoáng sản trái phép đã giảm, ý
thức tuân thủ pháp luật về khoáng sản của các tổ chức, cá nhân cũng như của
người dân và các cơ quan, tổ chức đã được nâng lên một bước. Nhiều bất cập
của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản được phát hiện thông
qua công tác thanh tra, kiểm tra đã được Bộ Công nghiệp (trước đây), Bộ tài
nguyên và môi trường kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với kết quả cụ thể như đã nêu ở trên.
Tóm lại
Sau 14 năm thi hành Luật Khoáng sản, công tác quản lý nhà nước về
khoáng sản đã đạt được những kết quả đáng kể. Đã hoàn thiện một bước hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản; Công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về khoáng sản đã được chú trọng với những kết quả đáng kể góp
phần nâng cao nhận thức của cộng đồng, ý thức tuân thủ pháp luật về khoáng
sản của các tổ chức, cá nhân; công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản ngày
càng chặt chẽ, đúng quy định theo hướng cải cách hành chính; công tác thanh
tra, kiểm tra được quan tâm đẩy mạnh nhất là trong những năm gần đây góp
phần chấn chỉnh hoạt động khoáng sản, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về khoáng sản.
Có thể nói, sau 14 năm thi hành Luật Khoáng sản, các mục tiêu phát triển
công nghiệp khai khoáng đến năm 2010 đối với một số khoáng sản chủ yếu đã
và đang đạt được những kết quả đáng kể, góp phần quan trọng phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Đến nay đã hình thành và phát triển một số ngành công
nghiệp khai khoáng quan trọng như: dầu khí, vật liệu xây dựng, than, kim loại
đen, kim loại màu, hoá chất- phân bón. Sản lượng khai thác, vốn đầu tư, số
lượng doanh nghiệp và lao động trong công nghiệp khai thác mỏ tăng trưởng
liên tục và ổn định trong nhiều năm qua. Theo đó một số tập đoàn kinh tế, tổng

142
công ty khai khoáng của Nhà nước (thực hiện các khâu từ thăm dò, khai thác,
chế biến khoáng sản) đã hình thành. Nhiều doanh nghiệp đã tăng quy mô đầu tư
để phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; tỷ trọng đầu tư cho đổi
mới công nghệ và bảo vệ môi trường trong hoạt động khai khoáng của các
doanh nghiệp lớn được cải thiện theo chiều hướng tích cực.

143
Câu hỏi và ôn tập Chƣơng 2
1. Nêu khái niệm quản lý nhà nước về tài nguyên ? Phân tích mục tiêu
và nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên ?
2. Anh (chị) hãy cho biết khái niệm tài nguyên đất. Nội dung quản lý
nhà nước đối với tài nguyên đất đai cần chủ ý đến những vấn đề gì? Liên hệ
thực tiễn?
3. Anh (chị) hãy cho biết khái niệm tài nguyên nước. Nội dung quản lý
nhà nước đối với tài nguyên nước cần chủ ý đến những vấn đề gì? Liên hệ
thực tiễn?
4. Anh (chị) hãy cho biết khái niệm tài nguyên khoáng sản. Nội dung
quản lý nhà nước đối với tài nguyên khoáng sản cần chủ ý đến những vấn đề gì?
Liên hệ thực tiễn?
5. Anh (chị) hãy cho biết khái niệm tài nguyên rừng. Nội dung quản lý
nhà nước đối với tài nguyên rừng cần chủ ý đến những vấn đề gì? Liên hệ
thực tiễn?
6. Anh (chị) hãy cho biết khái niệm tài nguyên biển, hải đảo. Nội dung
quản lý nhà nước đối với tài nguyên biển, hải đảo cần chủ ý đến những vấn đề
gì? Liên hệ thực tiễn?

144
CHƢƠNG 3
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ MÔI TRƢỜNG

Tóm tắt: Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo
có tác động đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Chương 3
trình bày các kiến thức tập trung về Quản lý nhà nước về môi trường. Trong
chương này cung cấp cho người học đi sâu vào nghiên cứu quản lý nhà nước về
môi trường phân chia theo khu vực đô thị, nông thôn, khu công nghiệp và phân
chia theo thành phần môi trường và chất thải gây ô nhiễm như quản lý về xử lý
chất thải rắn, quản lý chất lượng môi trường không khí, môi trường đất và môi
trường nước. Với kiến thức này, người học sẽ có nền tảng cơ bản về các công tác
cần quản lý và hoạt động thực hiện trong quá trình quản lý nhà nước về môi
trường khi triển khai áp dụng thực tế.
3.1. Khái nhiệm quản lý nhà nƣớc về môi trƣờng
“Quản lý môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của
chủ thể quản lý môi trường lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành các hoạt
động phát triển trong hệ thống môi trường và khách thể quản lý môi trường, sử
dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý
môi trường đã đề ra, phù hợp với pháp luật và thông lệ hiện hành"
Quản lý môi trường có nhiều hình thức khác nhau như: Quản lý nhà nước
về môi trường; quản lý môi trường do các tổ chức phi chính phủ đảm nhiệm;
quản lý môi trường dựa trên cơ sở cộng đồng; quản lý môi trường có tính tự
nguyện... Trong đó, quản lý nhà nước về môi trường đóng vai trò quyết định.
Mọi quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện quản lý nhà nước về môi trường.
Bởi vì: Thứ nhất, tài nguyên thiên nhiên là yếu tố của môi trường, nhiều loại tài
nguyên thiên nhiên rất khan hiếm, những việc sử dụng chúng lại có xu hướng
lãng phí và dễ xảy ra tranh chấp. Vì thế, cần phải có Nhà nước đứng ra tổ chức
quản lý các hoạt động có liên quan đến tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Thứ

145
hai, có một số dạng môi trường mà việc bảo vệ nó không chỉ đòi hỏi phải có sự
thống nhất hành động trong phạm vi quốc gia, mà còn phải có sự thống nhất
hành động trong phạm vi khu vực hoặc toàn cầu. Chỉ có Nhà nước mới là người
nhân danh đại diện để thực hiện các chương trình phối hợp chung này. Thứ ba,
sự tồn tại ngoại ứng và hàng hóa công cộng đã làm cho giá cả của sản phẩm
không phản ánh đúng giá trị xã hội của nó. Vì thế, các doanh nghiệp có thể sản
xuất quá nhiều hoặc quá ít và gây tác động xấu đến tài nguyên và môi trường. Vì
vậy, Nhà nước phải điều chỉnh, quản lý ngoại ứng hoặc phải đảm nhiệm sản
xuất, cung ứng hàng hóa công cộng, tức là cũng phải điều chỉnh và quản lý loại
hàng hóa này. Thứ tư, Nhà nước là chủ sở hữu tài nguyên thiên nhiên và môi
trường, vì thế Nhà nước không thể giao quyền quản lý tài nguyên thiên nhiên và
môi trường cho bất kỳ đối tượng nào khác. Trách nhiệm quản lý tài nguyên thiên
nhiên và môi trường phải thuộc về Nhà nước.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu "Quản lý nhà nước về môi
trường là xác định rõ chủ thể là Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền
hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã
hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lương môi trường sống và phát triển bền vững
kinh tế - xã hội quốc gia”1
Quản lý nhà nước về môi trường có 5 chức năng chính là: (1) Hoạch định
chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường. Đây là chức năng quan trọng nhất
trong 5 chức năng; (2) Tổ chức, hình thành các nhóm chuyên môn hóa, các phần
tử cấu thành hệ thống môi trường để định hướng cho các mục tiêu đã đề ra; (3)
Điều khiển, phối hợp hoạt động giữa các nhóm, các phần tử trong hệ thống môi
trường; (4) Kiểm tra, phát hiện kịp thời những sai sót trong quá trình hoạt động
và các cơ hội đột biến trong hệ thống môi trường; (5) Điều chỉnh, sửa chữa các

1Trường Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình Kinh tế và QLMT, Nxb Thống kê, Hà Nội,
2003, tr.342

146
sai sót nảy sinh trong quá trình hoạt động phát triển, tận dụng cơ hội để thúc đẩy
bảo đảm cho hệ thống môi trường hoạt động phát triển bình thường.
Quản lý nhà nước về môi trường tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau:
(1) chỉ đạo tổ chức bảo vệ môi trường; (2) phân phối nguồn lợi chung; (3) tổ
chức khai thác và sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia và
môi trường, (4) chỉ đạo, tổ chức toàn dân bảo vệ môi trường; (5) phối hợp hành
động quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
3.2. Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về môi trƣờng
Mục tiêu chủ yếu của quản lý nhà nước về môi trường
- Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi
trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền
vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
- Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất
lượng môi trường.
- Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường; mọi người đều có ý thức bảo vệ môi trường, sống thân thiện với
thiên nhiên.
Những nhiệm vụ chủ yếu trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
(1) Phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm.
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường, thời gian qua cả Trung ương
và địa phương đã thực hiện đồng bộ các biện pháp về phòng ngừa ô nhiễm môi
trường, như: lập và thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM),
giám sát kiểm tra sau ĐTM, cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi
trường (CTM). Thông qua thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường để
phân loại các dự án đầu tư thành 3 nhóm chính gồm: nhóm 1: Các dự án có tác
động lớn hoặc tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường; nhóm 2: Các dự án tác

147
động đến môi trường ở mức có thể kiểm soát được thông qua sự can thiệp của
con người; và nhóm 3: các dự án ít tác động đến môi trường. Hạn chế phê duyệt
đầu tư xây dựng mới các công trình, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ thuộc
nhóm 1. Yêu cầu khắt khe về đầu tư lắp đặt các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, các
công trình xử lý chất thải cũng như các biện pháp giảm thiểu tác động đến môi
trường đối với các dự án thuộc nhóm 2.
Tiến hành các biện pháp hạn chế nhập khẩu và lưu hành các phương tiện
giao thông, các máy móc thiết bị đã qua sử dụng có hiệu suất sử dụng nhiên liệu
thấp, gây ô nhiễm môi trường. Kiểm soát các công trình xây dựng ở nội thành,
các dự án nâng cấp, cải tạo các đường phố có mức độ phát tán bụi cao. Tổ chức
quản lý các phương tiện chuyên chở nguyên vật liệu trong thành phố, đặc biệt là
ở các khu vực có mật độ dân cư cao.
Tổ chức kiểm tra, giám sát và có biện pháp xử lý đối với các cơ sở sản
xuất, các kho chứa, các phương tiện vận chuyển, các cửa hàng kinh doanh hoá
chất, đặc biệt là các hoá chất có mức độ độc hại cao nhằm hạn chế tối đa sự phát
tán và các sự cố hoá chất. Điều tra, thống kê và có kế hoạch giảm thiểu các
nguồn phát sinh và xử lý các chất hữu cơ khó phân huỷ trong môi trường.
Kiểm soát việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng các loại phân bón và thuốc
bảo vệ thực vật. Khắc phục một bước tình trạng lạm dụng các loại phân vô cơ và
hoá chất trong sản xuất nông nghiệp làm bạc màu, thoái hoá đất, ô nhiễm các
nguồn nước và suy giảm đa dạng sinh học khu vực nông thôn.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khu công nghiệp, đô thị ven
biển. Kiểm soát chất lượng nước các sông lớn, các nguồn nước đổ ra biển có
mức ô nhiễm cao. Có các biện pháp phòng tránh và ứng phó kịp thời các sự cố
môi trường biển. Đầu tư tăng cường năng lực cơ quan cứu hộ quốc gia bảo đảm
đủ năng lực ứng phó hiệu quả các sự cố môi trường biển.
Tiến hành các biện pháp kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm, suy thoái
môi trường biển có nguồn gốc từ đất liền, có các biện pháp phòng tránh và hạn

148
chế có hiệu quả đối với các sự cố môi trường biển, đặc biệt là các sự cố tràn
dầu. Nhiều sự cố môi trường, sự cố tràn dầu trên biển đã được khắc phục, xử
lý kịp thời, số lượng các sự cố môi trường có giảm trong tỷ lệ tương đối so với
trước đây.
(2) Cải thiện và nâng cao chất lƣợng môi trƣờng.
Thời gian qua, chúng ta đã thực hiện một số dự án khắc phục và cải tạo
các điểm, vùng, khu vực bị ô nhiễm và suy thoái nặng. Các giải pháp giảm thiểu
ô nhiễm trong các hoạt động khai thác khoáng sản. Buộc cơ sở khai thác các mỏ
khoáng sản phải thực hiện việc hoàn thổ, khôi phục hiện trạng môi trường tự
nhiên sau khi kết thúc quá trình khai thác.
Nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển dải ven biển, nhằm
đạt được cùng một lúc 2 mục tiêu: giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tăng hiệu
quả kinh tế. Đã khoanh vùng bảo vệ một số khu rừng ngập mặn có giá trị sinh
thái cao dọc theo dải bờ biển. Đã chú ý các phương thức khai thác, nuôi trồng
thuỷ hải sản theo hướng an toàn sinh thái.
Nghiên cứu xây dựng quy trình sử dụng phân bón hoá học, hoá chất bảo
vệ cây trồng, thức ăn, vật nuôi hợp lý trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng
thuỷ sản để giảm thiểu ô nhiễm đất, nước. Thực hiện việc cứng hoá đường làng,
ngõ xóm; bê tông hoá kênh mương nội đồng, kênh mương tiêu thoát nước sinh
hoạt, khuyến khích phát triển hệ thống cấp nước sạch cụm dân cư, sử dụng
biogas làm chất đốt.
Nhằm giải quyết hậu quả do ô nhiễm chất độc màu da cam/đi-ô-xin trong
chiến tranh, chúng ta đã tiến hành Nghiên cứu, khoanh định các vùng, khu vực
đã bị ô nhiễm do chất độc màu da cam/đi-ô-xin trong chiến tranh, có các giải
pháp hợp lý để làm sạch chất độc màu da cam/đi-ô-xin tồn dư trong môi trường,
từng bước phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên ở nơi này. Bên cạnh đó cũng đã
thống kê, kiểm định, lập danh sách các nạn nhân chất độc màu da cam/đi-ô-xin,

149
có các giải pháp y tế cần thiết tăng cường sức khoẻ, hạn chế các di chứng do
chất độc màu da cam/đi-ô-xin để lại trên con người ở các thế hệ sau này.
(3) Khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Đối với tài nguyên đất và khoáng sản trong lòng đất: Bên cạnh hoàn thiện
hệ thống chiến lược, chính sách, quy hoạch, pháp luật sử dụng bền vững tài
nguyên đất, tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, Nhà nước cũng đã áp dụng
các công cụ quản lý để giải quyết hài hoà các vấn đề liên ngành trong sử dụng
đất, khai thác tài nguyên khoáng sản với việc bảo vệ môi trường và với các lĩnh
vực phát triển khác.
Tiến hành nghiên cứu thực hiện đánh giá tác động môi trường các dự án
quy hoạch, khai thác, sử dụng tài nguyên đất và tài nguyên khoáng sản, đảm bảo
các dự án khi đi vào hoạt động phải thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu về công
nghệ, kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo Báo cáo đánh giá tác động môi trường
đã được phê duyệt.
Đã có các biện pháp thay đổi phương thức canh tác theo hướng bảo đảm
cân bằng sinh thái và bền vững, nâng cao chất lượng đất, giảm diện tích đất
thoái hoá, bạc màu. Áp dụng các tiến bộ khoa học trong canh tác trên đất dốc,
chống rửa trôi, xói mòn. Có các biện pháp giảm diện tích đất dốc bị thoái hoá,
bạc màu trong phạm vi toàn quốc.
Đối với tài nguyên nước: đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống
pháp luật về tài nguyên nước. Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng nước
và giới hạn cho phép đối với các nguồn thải vào các lưu vực.
Đã tiến hành xây dựng các đề án về quản lý lưu vực các sông chính như:
sông Cầu, sông Sài Gòn - Đồng Nai, sông Nhuệ - sông Đáy. Tiến hành cải tạo
một số dòng sông, kênh mương đặc biệt là các dòng sông đi qua các khu dân cư
tập trung, các khu công nghiệp và đô thị như kênh Nhiêu lộc - Thị nghè, sông Tô

150
lịch v.v.; kè bờ và có các biện pháp chống sạt lở ở các bờ sông chịu áp lực cao
của dòng chảy đối với một số lưu vực quan trọng.
Tổ chức đánh giá và kiểm soát được chất lượng, trữ lượng nước ngầm; có
kế hoạch đầu tư phát triển tài nguyên nước và ban hành những quy định cụ thể
về khai thác nguồn nước ngầm.
Bảo vệ tài nguyên không khí: Nhiều nội dung cơ bản nhằm cải thiện môi
trường không khí tại các thành phố, khu công nghiệp đã được thực hiện gồm: di
dời các cơ sở sản xuất lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không khí trầm trọng ra
khỏi khu trung tâm các thành phố lớn; áp dụng các công nghệ lọc bụi, xử lý khí
thải đối với các cơ sở sản xuất; tổ chức lại hệ thống giao thông công cộng, có
các biện pháp chống ùn tắc giao thông, hạn chế sử dụng các phương tiện giao
thông cá nhân tại các thành phố lớn; đã có định hướng phát triển các thành phố
vệ tinh xung quanh các thành phố lớn với kết cấu hạ tầng hiện đại nhằm chia sẻ
gánh nặng về đô thị hoá quá mức và giảm mật độ dân cư của các thành phố lớn.
Từng bước xanh hoá các đô thị và khu công nghiệp, nâng dần diện tích
công viên, khuôn viên cây xanh khu vực nội thành, trồng cây dọc các tuyến
đường giao thông quan trọng, v.v.
Tích cực trồng rừng và các thảm thực vật; thực hiện nhiều biện pháp
phòng, chống cháy rừng và phục hồi các khu rừng bị cháy.
(4) Bảo vệ môi trƣờng các khu vực trọng điểm.
Đô thị và khu công nghiệp: đã chú trọng vấn đề môi trường trong quy
hoạch phát triển đô thị, khu công nghiệp; chú trọng xây dựng các khu đô thị, khu
công nghiệp mới với các điều kiện vệ sinh môi trường, kết cấu hạ tầng về môi
trường đồng bộ; từn bước cải tạo, chỉnh trang đô thị với cải thiện các điều kiện
về môi trường.

151
Năng lực thu gom chất thải rắn được xây dựng và tăng cường mạnh trong
những năm qua; đã có quy hoạch các bãi chôn lấp đủ công suất và đạt tiêu chuẩn
môi trường.
Tiến hành cải tạo và nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước thải, nước mưa ở
các đô thị và khu công nghiệp theo hướng tách nước mưa và nước thải, tách
nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp để có biện pháp xử lý trước khi
thải ra môi trường.
Nghiên cứu xây dựng hệ thống các lò thiêu, đốt chất thải y tế, các cơ sở
xử lý chất thải bệnh viện, chất thải nguy hại.
Thực hiện một số dự án nạo vét, cải tạo các ao, hồ, các đoạn sông, kênh,
rạch đi qua các đô thị và khu công nghiệp. Cải tiến một bước hệ thống giao
thông, từng bước lắp đặt các thiết bị giảm thiểu, hấp phụ khí thải từ các phương
tiện giao thông, đặc biệt là các khí thải độc hại.
Nông thôn, miền núi: Công tác bảo vệ môi trường vùng nông thôn miền
núi đã gắn với xoá đói, giảm nghèo, nâng cao nhận thức và hiểu biết của nhân
dân, thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
Chú trọng bảo vệ môi trường các làng nghề bằng các biện pháp cải tiến
công nghệ, xây dựng hệ thống xử lý chất thải hoặc quy hoạch các khu làng nghề
với hệ thống kết cấu hạ tầng đạt tiêu chuẩn môi trường. Bước đầu đã giải quyết
một số vấn đề môi trường bức xúc trong các làng nghề.
Biển, ven biển và hải đảo: Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch
quốc gia về ứng cứu sự cố tràn dầu, thành lập Uỷ ban tìm kiếm cứu nạn quốc
gia. Từng bước xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế bảo vệ môi
trường trong khai thác dầu khí, giao thông vận tải, thuỷ sản, lâm nghiệp, du
lịch, v.v.
Tiến hành nghiên cứu và bước đầu phân vùng chức năng biển và ven biển,
quản lý tổng hợp các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển, thành

152
lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển, phát triển và cải thiện sinh kế cho
những cộng đồng dân cư ở miền duyên hải, phòng ngừa và giảm thiểu tác hại
của thiên tai đối với vùng ven biển, v.v.
Các vùng đất ngập nước: Đất ngập nước là một hợp phần đặc biệt quan
trọng của môi trường nước ta. Bảo vệ các vùng đất ngập nước là nhằm sử dụng
có hiệu quả các vùng đất ngập nước, bảo vệ đa dạng sinh học trong vùng, đồng
thời duy trì các chức năng sinh thái, chức năng kinh tế - xã hội của những vùng
đất này.
Di sản tự nhiên và di sản văn hóa: Nước ta có nhiều di sản văn hoá và tự
nhiên có tầm cỡ quốc tế và quốc gia trong đó có những di sản đã được thế giới
công nhận như: Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An, Khu di tích Mỹ Sơn,
Động Phong Nha - Kẻ Bàng….
Các hoạt động gìn giữ, bảo vệ và tôn tạo môi trường văn hoá, tự nhiên cho
các di sản văn hoá, tự nhiên của đất nước được xem như một bộ phận quan trọng
của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Thời gian qua đã có các biện pháp
bảo vệ cũng như phát triển các di tích văn hoá, tự nhiên quý giá đó.

(5) Bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học.

Bảo vệ, phát triển số lượng và diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên:
Nhiệm vụ bảo tồn thiên nhiên có tầm quan trọng như nhiệm vụ phòng ngừa và
khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Bảo tồn thiên nhiên góp phần
cân bằng sinh thái, tạo sự ổn định tự nhiên. Bảo tồn các hệ sinh thái, đặc biệt là
các hệ sinh thái đầu nguồn sẽ hạn chế thiên tai, lũ lụt, giữ được sự ổn định mực
nước mặt và nước ngầm. Thời gian qua, công tác khoanh vùng bảo tồn các hệ
sinh thái đặc thù, có tính đa dạng sinh học cao đã được thực hiện ở nhiều nơi
nhằm mục đích tăng số lượng vùng và diện tích bảo tồn trên phạm vi cả nước.

153
Một số khu vực bảo tồn đã được thực hiện quy hoạch khu bảo tồn kết hợp với
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Phát triển rừng và nâng độ che phủ thảm thực vật: Nhiều chủ trương lớn
nhằm nâng độ che phủ của rừng, trong đó đáng kế nhất là Chương trình 327 về
phủ xanh đất trống, đồi trọc, Chương trình trồng 5 triệu ha rừng, Quyết định về
đóng cửa rừng tự nhiên của Thủ tướng Chính phủ. Những nỗ lực trên đây đã góp
phần tăng độ che phủ của rừng.

Bảo vệ đa dạng sinh học: Đã tổ chức kiểm soát chặt việc buôn bán các
động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao; có các biến pháp hạn chế
phương thức khai thác mang tính huỷ diệt, đặc biệt là trong khai thác thuỷ sản;
chú trọng các biện pháp bảo tồn nội vi kết hợp bảo tồn ngoại vi.

Rừng ngập mặn đang bị suy giảm với tốc độ rất nhanh, gây nguy cơ mất
cân bằng sinh thái vùng ven biển. Ý thức được vấn đề này, Chính phủ đã quy
định nghiêm cấm việc phá huỷ các khu rừng ngập mặn, các hệ sinh thái nhạy
cảm cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; có các biện pháp
hạn chế cháy rừng cũng như thực hiện các dự án phục hồi các hệ sinh thái và các
khu rừng ngập mặn đã bị suy thoái.
(6) Môi trƣờng với hội nhập kinh tế quốc tế
Bảo vệ môi trường để hội nhập là góp phần chung sức cùng nhân loại bảo
vệ môi trường, học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận các mô hình quản lý môi trường
tiên tiến để hài hoà phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường nhằm đưa
nước ta vào quỹ đạo phát triển bền vững. Nhưng hội nhập cũng có nghĩa là
chúng ta sẽ chịu tác động từ các mặt trái của toàn cầu hoá. Đây là thách thức rất
lớn đối với môi trường nước ta.
Luật Bảo vệ môi trường đã tạo thuận lợi để hội nhập và quy định chặt chẽ
để hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá. Tuy nhiên, để thức

154
đẩy hội nhập, đặc biệt trong bối cảnh môi trường nổi lên như những yếu tố hết
sức quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần có cơ chế để các
doanh nghiệp tiếp cận được các chính sách cũng như các yêu cầu về môi trường
của các thị trường tiềm năng và các bạn hàng thường xuyên của Việt Nam, tạo
cơ chế chính sách thông thoáng và cởi mở để thúc đẩy việc áp dụng hệ thống
quản lý môi trường theo ISO 14001 và các mô hình quản lý môi trường hỗ trợ
hội nhập kinh tế quốc tế khác.
Đồng thời chúng ta cũng cần có cơ chế nhằm hạn chế các tác động tiêu
cực từ mặt trái của quá trình này, trong đó kiểm soát được việc nhập khẩu các
giống, loài, các nguồn gen có nguy cơ gây mất cân bằng sinh thái; nhập khẩu
chất thải trực tiếp, gián tiếp hoặc ẩn giấu dưới các hình thức trao đổi thương mại
khác, đặc biệt là chất thải nguy hại vì nước ta cũng như các nước đang phát triển
khác đang có nguy cơ trở thành bãi thải của các nước công nghiệp phát triển nếu
không sớm nhận ra và phải có giải pháp ngăn ngừa một cách hữu hiệu.
3.3. Một số vấn đề quản lý nhà nƣớc về môi trƣờng
3.3.1. Quản lý nhà nước về chất thải rắn
3.3.1.1. Khái niệm, nguồn phát sinh chất thải
Chất thải rắn là các loại chất thải ở thể rắn được thải ra trong quá trình
hoạt đông sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt của con người.
Các nguồn phát sinh chủ yếu chất thải rắnbao gồm:
chất thải rắn sinh hoạt: phát sinh chủ yếu từ các hộ gia đình, các khu dân
cư, chất thải đường phố, chợ, các trung tâm thương mại, văn phòng, các cơ sở
nghiên cứu, trường học…
chất thải rắn từ chăn nuôi, đặc biệt là các khu chăn nuôi tập trung.
chất thải rắn xây dựng: phát sinh từ các công trình xây dựng, sửa chữa hạ
tầng…
chất thải rắn y tế: phát sinh từ các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh…
chất thải rắn công nghiệp: phát sinh từ các cơ sở công nghiệp.

155
Quản lý chất thải rắn là một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường, là vấn đề then chốt của việc đảm bảo môi trường sống của
con người. Hàng năm trên cả nước phát sinh một lượng lớn chất thải rắn, tuy
nhiên công tác quản lý chất thải rắn vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém:
Lượng chất thải thu gom được thấp, việc thu và vận chuyển chất thải rắn
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hầu hết rác thải đô thị chưa được phân loại tại nguồn mà vẫn thu lẫn lộn,
sau đó vận chuyển đến khu chôn lấp
Công nghệ xử lý chất thải rắn hiện nay còn đơn giản, lạc hậu, chủ yếu là
chôn lấp lộ thiên, thiếu sự kiểm soát, không đúng kỹ thuật, không hợp vệ sinh.
Đây là những nguyên nhân chính làm ô nhiễm đất, nước, không khí và
ảnh hưởng xấu đến cảnh quan đô thị và sức khỏe cộng đồng, do đó việc quản lý
thu gom vận chuyển và xử lý chất thải rắn trở thành nhiệm vụ quan trọng và khó
khăn đối với chính quyền các cấp.
Ngoài việc coi chất thải rắn là nguồn gây ô nhiễm môi trường, các nước
công nghiệp phát triển đã sử dụng chất thải trong việc đem lại các giá trị kinh tế
và tạo việc làm (là nguồn nguyên liệu có thế thay thế, hoăc giảm các nguồn
nguyên liệu khác). Có nghĩa là nếu chính quyền đô thị có các biện pháp quản lý
hợp lý không những chống ô nhiễm môi trường đô thị, đảm bảo điều kiện vệ
sinh môi trường đô thị mà còn thu lợi kinh tế từ chất thải rắn đem lại như: tái sử
dụng, tái chế, sản xuất phân vi sinh v.v...
3.3.1.2. Các nguyên tắc của quản lý chất thải rắn
- Hướng tới sự phát triển bền vững
- Quản lý chất thải rắn cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công
cụ tổng hợp đa dạng và thích hợp.
- Phòng ngừa tai biến, suy thoái môi trường do các nguồn chất thải rắn
gây ra cần được chủ động kiểm soát sự cố, ô nhiễm môi trường.

156
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền: người nào gây ô nhiễm, tổn hại đến
môi trường phải trả kinh phí cho công tác phục hồi chất lượng môi trường.
3.3.1.3. Mục đích và cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về chất thải rắn
a. Mục đích quản lý
- Đảm bảo và duy trì vệ sinh môi trường đô thị trong sạch góp phần bảo
vệ môi trường và mỹ quan.
- Ngăn ngừa, khắc phục và phòng chống ô nhiễm môi trường do chất thải
rắn gây ra trong các hoạt động đời sống của con người trong, từng bước nâng
cao chất lượng môi trường, góp phần phát triển kinh tế, xã hội bền vững
- Nâng cao chất lượng đời sống của người dân đô thị
- Hướng tới sự phát triển bền vững, đảm bảo sự cân bằng giữa phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
b. Cơ sở quản lý nhà nước về chất thải rắn
Cơ sở khoa học:
Hình thành các công cụ tính toán, phương pháp khoa học riêng để đánh
giá chất lượng môi trường, tiêu chuẩn môi trường cho phép con người dự báo,
đánh giá và kiểm soát các tác động tiêu cực của tác động chất thải rắn đến phát
triển đến môi trường, con người đã có những công cụ có hiệu lực để quản lý chất
lượng môi trường sống của chính mình.
Cơ sở kỹ thuật công nghệ:
Sự phát triển của công nghệ môi trường trong lĩnh vực xử lý chất thải (xử
lý chất thải rắn, lỏng, khí…) đã cho phép xử lý phần lớn các dạng ô nhiễm phát
sinh trong hoạt động sản xuất…
Cơ sở luật pháp lý
Các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định, các tiêu chuẩn...(Luật bảo
vệ môi trường, Nghị định 179/2013/NĐ-CPquy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường…)

157
3.3.1.4. Bộ máy quản lý nhà nước về chất thải rắn
Hiện nay, quản lý nhà nước về chất thải rắn là một lĩnh vực quan trọng
của quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường nhằm ngăn ngừa các tác động
của chất thải rắn đối với môi trường, do đó.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn trong phạm vi cả
nước. Bộ tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc
thực hiện quản lý nhà nước về chất thải rắn. Tổng cục Môi trường là tổ chức
trực thuộc Bộ tài nguyên và môi trường, có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước về chất thải rắn trên các mặt: kiểm tra, giám sát,
khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường, ứng dụng công nghệ, quan
trắc môi trường….
Ngoài ra các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ… thực hiện
trách nhiệm quản lý nhà nước về chất thải rắn được quy định như sau:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợpvới Bộ tài nguyên và môi trường,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược,
quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng và
dự án, công trình thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, hoạt động thu hút đầu tư và tổ chức triển khai việc thực hiện
pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực quản lý;
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ tài
nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện
pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, nhập khẩu, sử dụng
hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phân bón, chất thải trong nông
nghiệp và các hoạt động khác trong lĩnh vực quản lý;
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợpvới Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi
trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xử lý các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng thuộc thẩm quyền quản lý, phát triển ngành công nghiệp

158
môi trường và tổ chức triển khai thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường trong
lĩnh vực quản lý.
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi
trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về bảo
vệ môi trường trong hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng về cấp nước, thoát
nước, xử lý chất thải rắn và nước thải tại đô thị, khu sản xuất dịch vụ tập trung,
cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề và khu dân cư nông thôn tập trung
và hoạt động khác trong lĩnh vực quản lý;
Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ tài nguyên và
môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về
bảo vệ môi trường trong xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý phương
tiện giao thông vận tải và hoạt động khác trong lĩnh vực quản lý;
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường, Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm, hoạt động mai táng, hỏa
táng; tổ chức việc thống kê nguồn thải, đánh giá mức độ ô nhiễm, xử lý chất thải
của bệnh viện, cơ sở y tế và hoạt động khác trong lĩnh vực quản lý;
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ tài
nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện
pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động văn hóa, lễ hội, thể thao, du lịch
và hoạt động khác trong lĩnh vực quản lý;
Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi
trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về bảo
vệ môi trường trong lĩnh vực quốc phòng theo quy định của pháp luật; huy động
lực lượng tham gia hoạt động ứng phó, khắc phục sự cố môi trường theo quy
định của pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ môi
trường trong lực lượng vũ trang thuộc thẩm quyền quản lý;

159
Bộ Công an có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động phòng chống tội
phạm về môi trường và bảo đảm an ninh trật tự trong lĩnh vực môi trường; huy
động lực lượng tham gia hoạt động ứng phó với sự cố môi trường theo quy định
của pháp luật; chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ môi trường
trong lực lượng vũ trang thuộc thẩm quyền quản lý;
ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các quy
định quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương, chỉ đạo các cơ quan
chức năng, cơ quan chuyên môn của địa phương tổ chức, phối hợp các cơ quan
chức năng của Trung ương trong việc xây dựng kế hoạch hàng năm và dài hạn
về quản lý các chất thải phát sinh và thực hiện các biện pháp để các thành phố,
thị xã, thị trấn thực hiện tốt các nhiệm vụ về môi trường.
3.3.1.5. Nội dung quản lý nhà nước chất thải rắn
a. Ban hành khung thể chế
Các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương có trách
nhiệm phải soạn thảo, ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật để cơ quan
quản lý các cấp làm cơ sở quản lý nhà nước về chất thải rắn, một trong những
tác nhân chính gây môi trường.
Hiện nay việc quản lý nhà nước về chất thải rắn đã được thể chế hoá
bằng các luật và các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể gồm các loại văn bản
như: Luật bảo vệ môi trường; Nghị đinh; Thông tư ; Quyết định… các tiêu
chuẩn, quy định, giấy phép… trong phát sinh chất thải đến khâu thu gom, vận
chuyển, xử lý chất thải rắn.
b. Tổ chức bộ máy quản lý chất thải rắn
c. Tổ chức thực hiên quản lý, xây dựng các chính sách huy động nguồn
vốn, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia các chương trình, nội dung
về quản lý chất thải rắn.

160
d. Tuyên truyền phổ biến nâng cao trình độ dân trí, huy động các đoàn thể
(Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, ...) cộng đồng dân cư cùng tham gia quản lý vệ
sinh môi trương đô thị.
e. Tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm về gây ô
nhiễm môi trường đô thị theo quy định của pháp luật.
Theo Nghị định 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thả rắn, các nội dung
quản lý nhà nước về chất thải rắn nhằm thực hiện các công đoạn chủ yếu sau:
- Quản lý việc phát sinh, thu gom, phân loại, vận chuyển chất thải rắn
Chính quyền đô thị các cấp có trách nhiệm, biện pháp:
Dành đủ quỹ đất trong quy hoạch phát triển đô thị phục vụ cho thu gom,
vận chuyển, xử lý và thải bỏ chất thải rắn
Xây dựng lực lượng thu gom, phân loại, vận chuyển và dịch vụ quản lý
chất thải đủ mạnh, lập phương án thu gom và vận chuyển hợp lý.
Tổ chức thu gom và phân loại chất thải rắn tại nguồn: việc phân loại
chất thải tại nguồn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích như: giảm lượng chất thải rắn
phải đem chôn lấp, tận dụng rác thải để tái chế, tái sử dụng, giảm chi phí xử
lý chất thải…
Khuyến khích việc áp dụng các công nghệ mới trong thu gom, vận
chuyển, xử lý chất thải rắn.
Nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng tham gia giữ gìn vệ sinh. Vận
động thực hiện nếp sống vệ sinh, văn minh, xoá bỏ các thói quen xấu như vứt
rác thải, chất thải bừa bãi ở các nơi công cộng trong đô thị; tuân theo các quy
định cụ thể về vệ sinh môi trường đô đã ban hành.
Áp dụng các công cụ kinh tế trong việc quản lý chất thải rắn, cấm các cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bệnh viện, cũng như các hộ gia đình đổ chất
thải ra sông, hồ, đường phố. Kiểm soát nghiêm ngặt để bảo đảm việc thải và vận
chuyển các chất thải rắn theo đúng các quy định về vệ sinh môi trường.

161
- Quản lý việc xử lý, tiêu huỷ chất thải rắn
Chính quyền đô thị các cấp có trách nhiệm, biện pháp:
Quy hoạch xây dựng các bãi chôn chất thải rắn thải theo các tiêu chuẩn vệ
sinh môi trường và đáp ứng được yêu cầu chôn lấp chất thải của đô thị.
Nghiên cứu áp dụng lựu chọn các công nghệ phù hợp để xử lý hoặc tiêu
huỷ chất thải rắn phù hợp với tiêu chuẩn môi trường hạn chế tối đa lượng chất
thải rắn phải chốn lấp hạn chế tối đa sử dụng quỹ đất. Trên thực tế có ba cách xử
lý chất thải rắn thường dùng là:
Phương pháp chôn lấp: Là công nghệ đơn giản nhất, đỡ tốn kém, tuy
nhiên đòi hỏi nhiều diện tích đất chon lấp, thời gian xử lý kéo dài, lãng phí tài
nguyên và tiềm ẩn nhiều sự cố môi trường nếu như không xây dựng và quản lý
tốt các bãi chon lấp.
Làm phân compost: Đây là công nghệ khá đơn giản, đem lại hiệu quả kinh
tế khi rác thải có thể được tận dụng làm thành phân hỗn hợp cung cấp cho nông
nghiệp. Tuy nhiên phương pháp này chỉ có thể áp dụng cho các chất thải hưuc
cơ dễ phân hủy như rau, quả, phế phẩm, thực phẩm thừa, cỏ cây…
Tiêu hủy chất thải rắn: Đây là một phương pháp đòi hỏi công nghệ cao,
bằng cách xây dựng lò đốt rác ở nhiệt độ cao. Biện pháp này có thể áp dụng được
cho hầu hết rác thải, đem lại hiệu quả kinh tế vì có thể tận dụng nhiệt lượng thu
được để sản xuất điện năng, cung cấp nước nóng…và có ưu điểm nổi bật là làm
giảm thể tích chất thải phải chôn, do đó giảm được diện tích đất dùng cho bãi thải.
Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, giá thành vận hành nhà
máy lớn, ngoài ra khói thải của nhà máy có tính nguy hại, cần phải tiến hành xử lý
khói thải với công nghệ cao mới bảo vệ được môi trường.
Đối với chất thải công nghiệp và chất thải bệnh viện độc hại phải được
tách xử lý riêng (nên xử lý bằng công nghệ đốt) để đảm bảo không gây ô nhiễm
môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.

162
Tiến hành các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường do các bãi chôn lấp
chất thải rắn cũ gây ra.
3.3.2. Quản lý nhà nước về môi trường đô thị
3.3.2.1. Các vấn đề môi trường đô thị
Hệ thống đô thị Việt Nam thực sự là hạt nhân của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình này cũng đã có tác động không nhỏ tới môi
trường. Tài nguyên đất đô thị đang bị khai thác triệt để để xây dựng các công
trình, làm giảm diện tích cây xanh và mặt nước, gây ra úng ngập. Nhu cầu nước
phục vụ sinh hoạt, dịch vụ, sản xuất ở đô thị ngày càng tăng làm suy giảm nguồn
tài nguyên nước. Các vấn đề về cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, như hệ thống thoát
nước, thu gom và xử lý rác, xử lý nước thải, giảm ô nhiễm không khí và tiếng
ồn… chưa được chú ý đúng mức. Một số vấn đề môi trường bức xúc trong quá
trình đô thị hóa ở nước ta gồm:
* Gia tăng dân số đô thị và sự di dân từ nông thôn vào đô thị
Theo thống kê mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), dân số nước
ta hiện đứng thứ 13 trên thế giới, xấp xỉ 87 triệu người. Dân số Việt Nam tiếp
tục tăng, với mức tăng hơn 1 triệu người/năm, tương đương với dân số của một
tỉnh trung bình. Dân số đô thị hiện là 27 triệu và đang tiếp tục tăng theo mức
tăng dân số cả nước. 5 tỉnh/thành phố có số dân đông nhất là thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An và Đồng Nai. Bắc Kạn là tỉnh có dân số
thấp nhất cả nước.
Tỷ lệ tăng dân số ở khu vực thành thị vẫn ở mức cao. Dân số ở thành thị
hiện chiếm 29,6% tổng dân số cả nước, tăng bình quân 3,4%/năm; trong khi tỷ
lệ tăng dân số ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4%/năm. Theo dự báo của Bộ Xây
dựng, đến năm 2015, dân số đô thị cả nước khoảng 35 triệu người, chiếm 38%
dân số và năm 2025 khoảng 52 triệu người, chiếm 50% tổng dân số cả nước.
Sự quá tải dân số đô thị đang gây ra những hệ lụy không mong muốn
trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: Ùn tắc giao thông, ô nhiễm không khí,

163
tiếng ồn, vi phạm trật tự xã hội, bệnh viện, trường học quá tải... biểu hiện rõ nhất
là tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Với hơn 7 triệu dân, gần 4 triệu xe
máy, hơn nnửa triệu ô tô tại thành phố Hồ Chí Minh; Hà Nội cũng gần 7 triệu
dân, hơn 3 triệu xe máy và gần nửa triệu xe hơi mà diện tích đất đô thị dành cho
giao thông chỉ vỏn vẹn 6%, trong khi yêu cầu cần tới 20 - 25%. Đồng nghĩa, hai
thành phố đông dân nhất cả nước đều rơi vào tình trạng quá tải (Bộ Giao thông
vận tải – 2012).
Rất nhiều biện pháp hạn chế nhập cư vào các đô thị lớn đã được đưa ra,
trong đó đa phần là biện pháp hành chính. Tuy nhiên, các biện pháp hành chính
khắt khe nhằm hạn chế di dân tự do vào các thành phố lớn không những không
có hiệu quả mà còn phát sinh các hệ lụy khác như vấn đề giáo dục, an sinh xã
hội, mất trật tự an toàn xã hội, tội phạm, ô nhiễm môi trường...
* Vấn đề nhà ở đô thị
Trong những năm gần đây, nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề nhà ở,
đầu tư nhiều tỷ đồng cho xây dựng nhà ở mới tại các đô thị và khu công nghiệp.
Tuy nhiên, tình hình nhà ở đô thị vẫn khó khăn đối với người dân có thu nhập
thấp. Nếu không có những giải pháp hiệu quả thì sự tác động của nhà ở sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sự phát triển đô thị
nói riêng. Một tồn tại khác trong vấn đề nhà ở đô thị là sự tồn tại của các khu
nhà ở không chính thức và một biến thái của nó là các “xóm liều”, “xóm bụi”.
Điều này dẫn đến môi trường trong các khu dân cư này bị ô nhiễm nghiêm trọng
và có thể coi đây là các khu nhà “ổ chuột” đô thị.
Hầu hết ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu nhà ở. Đặc biệt là
dân nghèo đô thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Thống kê của
UNFPA cho thấy, hiện 25% cư dân thành thị Việt Nam không đủ tiền để mua
nhà ở, 20% nhà ở thành thị bị xếp vào loại không đạt tiêu chuẩn, thành phố Hồ
Chí Minh còn có 300 ngàn người đang sống trong các nhà ổ chuột, 30% dân số
Hà Nội phải sống trong môi trường chật chội với diện tích ở không quá

164
3m2/người. (nguồn: Báo cáo tại hội thảo "Các vấn đề ven đô và đô thị hóa",
PGS-TS. Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện Quy hoạch đô thị nông thôn - 2011).
* Cây xanh đô thị
Cây xanh đang là vấn đề phải được quan tâm đúng mức trong quy hoạch
đô thị. Chỉ tiêu đất để trồng cây xanh trong các đô thị quá thấp, trung bình mới
đạt 0,5m2/người. Một số di sản văn hóa, lịch sử và một số di tích, vùng cây xanh
bảo vệ môi trường đang bị vi phạm, tàn phá nặng nề. Hệ thống không gian xanh
hầu như chưa được chú ý và các cơ quan quản lý chưa hoạch định chính sách
đối với vấn đề này. Công viên để vui chơi, giải trí còn rất ít. Diện tích các công
viên chức năng cũng rất hạn hẹp, bị chiếm dụng cho những mục đích khác.
* Vấn đề nước sạch
Đối với các khu vực thành thị - nơi tập trung dân cư đông đúc và diễn ra
nhiều hoạt động sản xuất công nghiệp, dịch vụ… thì nhu cầu sử dụng nước nói
chung, nước sạch nói riêng càng gia tăng gấp nhiều lần so với các khu vực khác.
Trong khi nguồn nước sạch cung cấp chỉ có giới hạn dẫn đến tình trạng
khan hiếm nước sạch ở các khu vực đô thị càng trở nên nghiêm trọng. Sự tập
trung dân cư với số lượng và mật độ cao, cùng với các hoạt động sản xuất và
dịch vụ diễn ra mạnh mẽ cũng đồng nghĩa với việc nguồn chất thải đổ vào môi
trường tại các đô thị ngày càng lớn. Nguồn chất thải này đã làm ô nhiễm môi
trường, nhất là môi trường nước và gây hậu quả cho chính con người. Không chỉ
nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm, tỷ lệ người được sử dụng nước sạch còn
thấp, mà dân cư đô thị còn đứng trước nguy cơ bị lây truyền nhiều bệnh hiểm
nghèo do nguồn nước bị ô nhiễm.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (2013), 80% các bệnh tật của con người có
liên quan đến nước và vệ sinh môi trường, 50% số bệnh nhân trên thế giới phải
nhập viện và 25.000 người chết hàng ngày do các bệnh này.
Tại một số nước Châu Á, có tới 60% bệnh nhiễm trùng và 40% dẫn tới tử
vong là do dùng nước sinh hoạt không hợp vệ sinh.

165
Ở Việt Nam, ô nhiễm nguồn nước là nguyên nhân gây nhiều bệnh như
tiêu chảy (do vi rút, vi khuẩn, vi sinh vật đơn bào), lỵ trực trùng, tả, thương hàn,
viêm gan A, giun sán,… nhiều trường hợp dẫn đến tử vong. Có đến 88% trường
hợp bệnh tiêu chảy là do thiếu nước sạch.
Tại các lưu vực sông, suối, ao, hồ, bên cạnh nguồn nước thải do dân cư
sinh hoạt đổ ra hàng ngày, thì nước thải từ các cơ sở sản xuất, các khu công
nghiệp… thải ra đã vượt quá giới hạn cho phép mà các sông, hồ có thể chứa
đựng được. Hơn nữa, chất thải chưa qua xử lý hoặc công nghệ xử lý kém đã làm
tăng nguy cơ cao cho sự ô nhiễm nguồn nước. Các lưu vực sông lớn như sông
Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai và sông Cầu cho thấy hiện nay
có khoảng 300 nguồn thải hàng ngày đổ ra 3 lưu vực sông nói trên với tổng
lượng nước thải ước tính khoảng 712.532,48 m3/ngày.
Theo kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2013), lấy mẫu nước sinh hoạt tại Hà
Nội, thành phốHồ Chí Minh và một số địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Kết quả đã phát hiện 20 - 25% số nhà máy nước không đạt yêu cầu vệ sinh. 20%
không đạt chỉ tiêu lý hóa, 10 - 15% không đạt yêu cầu tiêu chuẩn vi sinh. Hàm
lượng clo dư không đảm bảo... Trong khi đó, đã có 2 ổ dịch tiêu chảy cấp do
E.Coli vừa xuất hiện tại thành phố Hồ Chí Minh và nguy cơ này đe dọa có thể
bùng phát bất cứ lúc nào tại các đô thị lớn...
Vấn đề nước sạch và ô nhiễm nguồn nước đang thực sự trở nên nghiêm
trọng và đáng lo ngại, bởi hàng ngày chúng ta vẫn nhận được các thông tin từ
báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng về sự hình thành ngày càng
nhiều các “dòng sông đen”, “dòng sông chết”, các “làng ung thư”, về các dòng
sông biến thành các “cống nước thải khổng lồ” giữa lòng thành phố, một bộ
phận dân cư “sống giữa thành phố uống nước gần nghĩa địa” v.v...

166
* Các vấn đề về chất thải rắn sinh hoạt
Một trong những vấn đề môi trường bức xúc nhất đang nổi lên ở khu vực
đô thị nước ta hiện nay là chất thải rắn sinh hoạt.
Vấn đề thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt là vấn đề môi trường đang
nổi lên, gây bức xúc cho các cộng đồng dân cả cư khu vực nông thôn và là vấn
đề gay gắt và nan giải đối với các cộng đồng dân cư khu vực đô thị. Do đặc
điểm khu vực đô thị là nơi tập trung dân cư đông đúc, hoạt động sản xuất công
nghiệp và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ với cường độ ngày càng tăng, đồng nghĩa
với việc nguồn rác thải sẽ lớn hơn, xử lý phức tạp hơn rất nhiều. Việc thu gom
chất thải rắn sinh hoạt ở các đô thị lớn của Việt Nam hiện nay chủ yếu do các
công ty TNHH một thành viên hoặc do các công ty cổ phần môi trường đảm
nhiệm. Tỷ lệ thu gom trung bình ở các đô thị từ 72% năm 2004 tăng lên khoảng
80 - 82% năm 2008 và đạt khoảng 83 - 85% cho năm 2010. Mặc dù tỷ lệ thu
gom có tăng nhưng vẫn còn khoảng 15 ÷ 17% chất thải rắn đô thị bị thải ra môi
trường vứt vào bãi đất, hố đất, ao hồ, hoặc đốt lộ thiên gây ô nhiễm môi trường.
Ở các đô thị nhỏ (thị trấn, thị tứ) dịch vụ thu gom và vận chuyển chất thải
rắn phát sinh trên địa bàn do các tổ, đội, hợp tác xã hoặc công ty tư nhân về vệ
sinh môi trường thực hiện. Năng lực thu gom chất thải rắn ở các đô thị nhỏ và
vừa chỉ vào khoảng 20-30%. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị còn thấp là bởi
một phần năng lực hoạt động của các tổ chức thực hiện dịch vụ môi trường còn
yếu và thiếu, phương tiện thu gom và vận chuyển còn thô sơ, nguồn tài chính
huy động được để thực hiện dịch vụ này còn rất hạn chế, đặc biệt là sự quan tâm
của cộng đồng chưa nhiều.
Nhìn chung, việc xử lý chất thải ở hầu hết các đô thị, nhất là các đô thị
vừa và nhỏ chưa đảm bảo yêu cầu, tạo nên sức ép và thách thức ngày càng lớn
đối với công tác bảo vệ môi trường. Thực trạng gần như toàn bộ chất thải thu
gom được đều mang đi chôn lấp không chỉ làm tăng gánh nặng cho việc tìm
kiếm đất làm bãi chôn lấp, làm tăng các nguy cơ, hiểm họa đối với môi trường

167
và sức khỏe cộng đồng dân cư xung quanh mà còn làm lãng phí một nguồn tài
nguyên có thể thu hồi cho tái chế và sản xuất.
Trước thực trạng đó, nhu cầu về xã hội hóa bảo vệ môi trường đặt ra ngày
càng cấp thiết; dịch vụ thu gom, xử lý chất thải rắn đã xuất hiện và ngày càng có
nhiều đóng góp thiết thực cho công tác quản lý chất thải rắn đô thị. Mô hình
cung cấp dịch vụ thu gom, xử lý chất thải rắn đô thị cũng ngày càng đa dạng
3.3.2.2. Một số vấn đề quản lý môi trường đô thị
a. Môi trường nước
* Nguồn gốc gây ô nhiễm môi trường nước ở đô thị
Có nhiều nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường nước, tùy thuộc đặc tính
của từng khu vực, thành phần môi trường. Các nguồn gây ô nhiễm bao gồm:
- Nước thải sinh hoạt chưa xử lý hoặc xử lý chưa triệt để thải vào môi
trường nước.
- Nước thải công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề…
- Nước thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, phân bón, hóa chất bảo vệ
thực vật…
- Chất thải rắn không được thu gom, phát tán và gây ô nhiễm nguồn nước
- Nước mưa chảy tràn kéo theo các chất ô nhiễm hòa tan, các chất rắn…
* Tác nhân gây ô nhiễm môi trường nước
Có rất nhiều tác nhân gây ô nhiễm môi trường nước, tuy nhiên để tiện lợi
cho việc quan trắc và khống chế ô nhiễm nguồn nước, ta có thể phân chúng
thành các nhóm cơ bản:
- Các chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học hoặc các chất tiêu thụ oxy:
thuộc loại này có cacbohydrat, protein, chất béo,... Đây là các chất gây ô nhiễm
phổ biến nhất.
- Các chất hữu cơ bền vững: polychlorophenol (PCP), polychlorobiphenyl
(PCB), các hydrocacbon đa vòng,... Các chất này thường có trong nước thải
công nghiệp và các nguồn nước chảy tràn qua vùng nông nghiệp, lâm nghiệp có

168
sử dụng một lượng lớn thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật. Đây là các chất có
độc tính cao đối với con người và sinh vật.193
- Các kim loại nặng: hầu hết các kim loại nặng đều có độc tính cao đối với
con người và các loài động vật. Các kim loại nặng thường có trong nước thải
công nghiệp là chì (Pb), thủy ngân (Hg), crôm (Cr), cadmi (Cd), asen (As),
mangan (Mn).
- Các chất vô cơ: nhiều ion vô cơ có nồng độ rất cao trong nước tự nhiên,
đặc biệt là nước biển.
- Dầu mỡ: là chất lỏng khó tan trong nước, gây tác động đến hầu hết các
loài thủy sinh do ngăn cản quá trình hô hấp, quang hợp và cung cấp chất dinh
dưỡng.
- Các chất phóng xạ: có khả năng gây tác hại nghiêm trọng đến con người
và sinh vật.
- Các sinh vật gây bệnh: bao gồm vi rút, vi khuẩn, giun sán. Nguồn nước
ô nhiễm do phân có thể có nhiều loại vi khuẩn, động vật đơn bào, và trứng giun
sán gây bệnh.
- Các chất có mùi: chất thải hữu cơ từ khu dân cư, xí nghiệp chế biến thực
phẩm; nước thải công nghiệp, hóa chất; sản phẩm từ sự phân hủy động, thực vật.
- Các chất rắn: gồm các hạt chất rắn vô cơ hoặc hữu cơ tồn tại trong môi
trường nước như khoáng sét, bụi than, mùn ...
- Các khí hòa tan: gồm các khí như oxi, CO2...
* Quản lý và bảo vệ môi trường nước
- Quy hoạch và bảo vệ nguồn nước, đảm bảo về diện tích mặt nước tại các
đô thị, chống xâm lấn, xây dựng các công trình
- Sử dụng tiết kiệm và hợp lý nguồn nước cấp tại các đô thị
- Nghiêm cấm các hành vi gây ô nhiễm, xâm hại nguồn nước đô thị
- Xử lý nước thải công nghiệp, sinh hoạt... trước khi thải vào nguồn nước
tiếp nhận

169
- Xử lý nghiêm và triệt để các cơ sở sản xuất, kinh doanh xả thải gây ô
nhiễm nguồn nước.
- Khai thác nước ngầm hợp lý, tránh ô nhiễm phát sinh vào nguồn nước
ngầm...
- Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại các đô thị, khu dân cư tập trung
b. Môi trường không khí
* Nguồn gây ô nhiễm không khí ở đô thị
Các hoạt động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: phần lớn các cơ sở
sản xuất công nghiệp của nước ta là cũ và lạc hậu. Các nhà máy thường dùng
than, dầu DO để làm nhiên liệu nên thải ra nhiều chất ô nhiễm. Các khí thải độc
hại thường chưa được xử lý triệt để nên gây ô nhiễm môi trường không khí
chung quanh. Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làng nghề cũng là các
nguồn gây ô nhiễm không khí cục bộ.
Hoạt động giao thông vận tải: thời gian qua, số lượng các phương tiện
giao thông vận tải tăng nhanh. Khí thải từ giao thông vận tải là nguồn chủ yếu
gây ô nhiễm môi trường không khí ở đô thị, đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng,...
Xây dựng đô thị, hạ tầng kỹ thuật: các hoạt động xây dựng đô thị như nhà
cửa, đường, cầu cống gây ô nhiễm bụi trầm trọng đối với môi trường không khí
xung quanh. Ngoài ra việc xây dựng các hạ tầng kỹ thuật như đường giao thông,
cầu cảng, sân bay cũng góp phần gây ô nhiễm môi trường không khí.
Sinh hoạt của người dân: hoạt động của các hộ gia đình trong việc sử
dụng than, củi để đun nấu cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường không khí.
Ngoài các nguyên nhân nêu trên, ô nhiễm môi trường không khí ở nước
ta còn do các nguyên nhân khác như cháy rừng, các nguồn ô nhiễm từ các quốc
gia khác,...
* Quản lý và bảo vệ môi trường không khí
Các biện pháp quản lý và bảo vệ môi trường không khí tại các đô thị
bao gồm:

170
- Quản lý các nguồn thải tĩnh từ khu công nghiệp
- Tuyên truyền, giáo dục người dân về các tác hại của ô nhiễm môi
trường không khí để từ đó giảm lượng khí thải do quá trình đốt rác tự phát từ
các hộ gia đình.
- Kiểm soát các lò đốt rác thải, khí thải của các lò đốt rác cần được xử lý
trước khi thải ra môi trường xung quanh.
- Đối với phương tiện giao thông: ưu tiên phát triển giao thông công cộng,
hạn chế ô tô con cá nhân; quy định các khu vực hạn chế và cấm các ô tô hoạt
động; quản lý chất lượng nhiện liệu dùng cho phương tiện giao thông
- Xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
c. Môi trường đất
* Nguyên nhân ô nhiễm môi trường đất
- Sử dụng phân bón hóa học: lượng phân bón trong nông nghiệp ngày
càng tăng cả về chủng loại và số lượng. Phân bón hoá học dùng trong nông
nghiệp ở Việt Nam gây sức ép tới môi trường nông nghiệp và nông thôn với ba
lý do: sử dụng không đúng kỹ thuật; bón phân không cân đối và chất lượng
không bảo đảm.
Phân bón khi bón vào đất, cây không sử dụng được hoàn toàn, đối với
phân đạm, hệ số sử dụng của cây trồng cạn khoảng 60%, của lúa nước 20- 30%.
Hệ số sử dụng phân bón hóa học phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời tiết, khí
hậu, loại cây trồng, thời vụ bón, ... Phần phân hóa học không được cây trồng sử
dụng sẽ chuyển thành chất ô nhiễm. Sử dụng phân bón hóa học làm tăng hàm
lượng các hợp chất N, P, K trong nước ngầm và nước mặt, tạo ra khả năng phú
dưỡng nước mặt ở các thủy vực nước. Bên cạnh các hợp chất chính là N, P, K;
phân bón hóa học còn là nguồn mang vào môi trường đất kim loại nặng và các
hóa chất độc hại khác.
- Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật: thuốc bảo vệ thực vật bao gồm thuốc
trừ sâu, thuốc trừ nấm, thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột,.... Các loại thuốc bảo vệ
thực vật về mặt thành phần gồm ba nhóm chính sau:

171
Nhóm clo hữu cơ gồm các hợp chất rất bền vững trong môi trường tự
nhiên như: aldrin, heptachlor, endrin. Chúng được tích lũy trong đất, nước và
các sản phẩm của nông nghiệp.
Nhóm lân hữu cơ bao gồm hai hợp chất Parathion và Malathion. Nhóm
thuốc này có thời gian phân hủy mạnh hơn clo hữu cơ, nhưng có độ độc cao hơn
đối với người và động vật.
Nhóm cacbamat gồm các hóa chất ít bền vững hơn trong môi trường tự
nhiên, nhưng cũng có độ độc cao đối với con người và động vật. Đại diện nhóm
thuốc này là metyl izoxianat, furadan, mipein, sevin.
- Ô nhiễm do các hoạt động công nghiệp, chất thải các khu vực đô thị
Hoạt động công nghiệp hiện nay là nguồn gây ô nhiễm môi trường đất quan
trọng. Các chất thải công nghiệp chứa nhiều tác nhận ô nhiễm như: kim loại
nặng, các loại dầu mỡ, hóa chất độc hại, tác nhân phóng xạ.
Chất thải sinh hoạt của các khu vực đô thị thường được thu gom và chôn
lấp. Các bãi chôn lấp thường dẫn đến sự ô nhiễm nước dưới đất, các loại đất
nông nghiệp.
* Các tác nhân gây ô nhiễm
- Ô nhiễm do tác nhân sinh học: sử dụng phân hữu cơ trong nông nghiệp
chưa qua xử lý chứa các mầm bệnh ký sinh trùng, vi khuẩn,...gây ra các bệnh
truyền nhiễm từ đất cho cây trồng, sau đó sang người và động vật.
- Ô nhiễm do tác nhân hóa học: do chất thải từ các nguồn thải công
nghiệp; dư lượng thuốc bảo vệ thực vật: phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ,...
- Ô nhiễm do tác nhân vật lý: chủ yếu là ô nhiễm nhiệt và phóng xạ. *
Quản lý và bảo vệ môi trường đất
Để phòng chống ô nhiễm đất trước hết cần phải đề ra các tiêu chuẩn chất
lượng môi trường đất, hạn chế tối đa việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu,
thuốc diệt cỏ. Sử dụng đất phải bảo vệ được đời sống vi sinh vật, thực vật và
động vật sống trong đất. Các bãi chôn lập chất thải rắn ở các đô thị và khu công

172
nghiệp cần phải được xem xét, lựa chọn, thiết kế và vận hành đúng theo tiêu
chuẩn, ngăn ngừa được sự rò rỉ chất thải, kiểm soát được các vấn đề gây ô
nhiễm môi trường.
d. Chất thải rắn
* Nguồn gốc phát sinh
Các nguồn chủ yếu phát sinh ra chất thải rắn đô thị bao gồm:
- Từ các khu dân cư (chất thải sinh hoạt);
- Từ các trung tâm thương mại;
- Từ các công sở, trường học, công trình công cộng;
- Từ các dịch vụ đô thị, sân bay;
- Từ các hoạt động công nghiệp;
- Từ các hoạt động xây dựng đô thị;
- Từ các trạm xử lý nước thải và từ các đường ống thoát nước của
thành phố.
Cơ cấu thành phần rác đô thị ở các nước khác nhau. Ở các nước phát
triển, thành phần giấy và plastic chiếm tỷ lệ cao nhất, sau đó là rác thực phẩm.
* Quản lý chất thải rắn tại đô thị
- Thu gom, lưu giữ, vận chuyển chất thải rắn thông thường
+ Tiến hành phân loại, thu gom ngay tại các hộ gia đình
+ Việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển chất thải rắn thông thường từ các hộ
gia đình do các công ty dịch vụ thực hiện
+ Trên các trục phố chính, các khu thương mại, các công viên, quảng
trường, các điểm tập trung dân cư, các đầu mối giao thông và các khu vực
công cộng khác phải bố trí các phương tiện lưu giữ chất thải rắn.
- Thu gom, lưu giữ, vận chuyển chất thải rắn nguy hại
+ Việc thu gom, lưu giữ vận chuyển chất thải rắn nguy hại được thực hiện
bởi các tổ chức có năng lực phù hợp và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp phép hành nghề quản lý chất thải nguy hại.

173
+ Chủ nguồn thải chất thải rắn nguy hại có thể tự tổ chức thu gom, lưu
giữ, vận chuyển đến nơi xử lý nếu có đủ năng lực và được cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền cấp phép. Nếu không có đủ năng lực, chủ nguồn thải chất
thải rắn nguy hại phải ký hợp đồng với tổ chức được cấp phép của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về hoạt động thu gom, lưu giữ, vận chuyển chất thải rắn
nguy hại.
Để xử lý chất thải rắn của đô thị, thông thường người ta thực hiện theo
trình tự như sau:
+ Thu gom, lưu trữ các chất thải đúng quy trình;
+ Phân loại, tái chế, tái sử dụng chất thải rắn;
+ Các chất thải nguy hại phải có biện pháp kỹ thuật xử lý phù hợp, đúng
theo quy định hướng dẫn.
3.3.3. Quản lý nhà nước về môi trường nông thôn
3.3.3.1. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường nông thôn
a. Từ các hoạt động dân sinh
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mô hình nông thôn truyền thống
cũng theo đó thay đổi: kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công
nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân
nông thôn. Bên cạnh những mặt tích cực, sự thay đổi này đã tạo áp lực đối với
môi trường như gia tăng nhu cầu sử dụng nước sạch, gia tăng lượng chất thải do
gia tăng nhu cầu tiêu dùng.
b. Từ hoạt động trồng trọ và lâm nghiệp
Mô hình nông thôn truyền thống từ nền kinh tế thuần nông đã có sự dịch
chuyển về cơ cấu. Với sự phát triển này, tỷ lệ ngành trồng trọt đã giảm mạnh,
tuy nhiên vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Trong tổng giá trị sản lượng ngành nông
nghiệp năm 2013, lĩnh vực trồng trọt chiếm đến 71,5%.
Trong trồng trọt, việc sử dụng ngày càng tăng thuốc bảo vệ thực vật và
phân bón hóa học đang ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Theo kết quả

174
nghiên cứu về hấp thụ phân bón trong hoạt động trồng trọt, cây trồng hấp thụ
trung bình khoảng 40¬50% lượng phân bón, trong đó cây trồng hấp thụ phân
đạm khoảng 30-45%, phân lân 40-45%, phân kali 40-50%; 50-60% lượng phân
bón còn lại vẫn tồn lưu trong đất. Lượng sử dụng phân lân và phân kali trên cây
lúa là khá cao, gấp trên 6 lần so với mức khuyến cáo (Bảng 2.2).
Dư lượng phân hóa học làm ô nhiễm nguồn nước, gây phú dưỡng hoá,
gây tác hại tới thủy sinh, nguồn lợi thủy sản và làm thoái hóa đất.
Hóa chất bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường thông qua nhiều con
đường khác nhau như nước thải từ kho chứa thuốc khi có sự cố đổ vỡ, nước mưa
chảy tràn qua các kho chứa đã bị xuống cấp, lượng thuốc còn dư đọng lại trong
chai bị quăng xuống ao, hồ, sông hay lượng thuốc dư thừa trong quá trình sử
dụng quá liều lượng ngấm vào đất cũng như mạch nước ngầm...
Ngoài ra, việc không tuân thủ thời gian cách ly sau khi phun thuốc, tình
trạng vứt bao bì hóa chất bảo vệ thực vật bừa bãi sau sử dụng diễn ra khá phổ
biến. Thói quen rửa bình bơm và dụng cụ pha chế" hóa chất không đúng nơi quy
định gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, ô nhiễm không khí và ảnh hưởng tiêu
cực đến hệ sinh thái. Cùng với hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu, các loại thuốc
và bao bì, đồ đựng hóa chất bảo vệ thực vật sử dụng trong nông nghiệp đang là
nguy cơ đe dọa sức khỏe cộng đồng và gây ô nhiễm môi trường.
c. Từ hoạt động chăn nuôi
Hoạt động chăn nuôi đã và đang tạo nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ
nông dân. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng đàn vật nuôi thì tình trạng ô nhiễm
môi trường do chất thải chăn nuôi cũng đang gia tăng.
Chất thải rắn chăn nuôi bao gồm phân và các chất độn chuồng, thức ăn
thừa, xác gia súc, gia cầm chết, chất thải lò mổ... được phân thành 3 loại: chất
thải rắn (phân, thức ăn, xác gia súc, gia cầm chết); chất thải lỏng (nước tiểu,
nước rửa chuồng, nước dùng để tắm gia súc); chất thải khí (CO2 NH3...). Trong
tổng số 23.500 trang trại chăn nuôi, mới chỉ có khoảng 1.700 cơ sở có hệ thống

175
xử lý chất thải. Mặt khác, các trang trại chăn nuôi chưa được đầu tư ở quy mô
lớn mà đa phần nằm xen kẽ trong các khu dân cư, có quỹ đất nhỏ, hẹp, không đủ
diện tích để xây dựng các công trình bảo vệ môi trường đảm bảo xử lý đạt tiêu
chuẩn cho phép; các trang trại này cũng không đảm bảo khoảng cách vệ sinh
đến khu dân cư. Theo ước tính, có khoảng 40 - 50% lượng chất thải rắn chăn
nuôi được xử lý, số" còn lại thải trực tiếp thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch...
d. Từ hoạt động nuôi trồng và chế biến thủy sản
Trong xu thế phát triển nền kinh tế hướng tới xuất khẩu, ngành nuôi trồng
và chế biến thủy sản đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ đánh bắt sang nuôi trồng.
Với lợi thế ven biển, hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh ở vùng Bắc
Trung Bộ, duyên hải miền trung, vùng biển Nam Trung Bộ và đặc biệt phát triển
mạnh ở khu vực đồng bằng sông cửu long. Thực tế thời gian qua cho thấy, hoạt
động nuôi trồng và chế biến thủy sản đã gây nhiều tác động đến môi trường
nông thôn.
Các chất thải trong quá trình nuôi trồng thủy sản gồm: nguồn thức ăn dư
thừa thối rữa bị phân hủy, hóa chất và thuốc kháng sinh, chất Diatomit, Dolomit,
lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn. Đặc biệt, lớp bùn thải
hình thành trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi, trong
e. Từ hoạt động chế biến nông sản thực phẩm
Trong những năm gần đây, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm ở
nước ta đã có những bước phát triển tích cực với các cơ sở chế biến thuộc các
thành phần kinh tế với các quy mô lớn - nhỏ khác nhau.
Hầu hết các đơn vị chế biến đều được xây dựng gắn với vùng nguyên liệu
tập trung: ở phía Bắc, chủ yếu là các hoạt động chế biến chè, lúa, cây dược liệu,
dứa;... Tuy nhiên, hầu hết các cơ sở chế biến nông sản hiện nay đều có quy mô
nhỏ, phân tán, phát triển tự phát, sử dụng thiết bị công nghệ lạc hậu ví dụ như
trong ngành cà phê, tỷ lệ sơ chế thủ công, công nghệ lạc hậu còn chiếm trên
70%; trong ngành chế biến chè, nhiều nhà máy vẫn dùng thiết bị quá cũ của

176
Liên Xô và Trung Quốc... Đây chính là nguyên nhân gây ô nhiễm và tạo sức ép
lên môi trường nông thôn.
Hàng năm, các nhà máy chế biến nông sản thực phẩm thải vào môi trường
khối lượng lớn các chất thải ở cả 3 dạng khí, lỏng, rắn thông qua quá trình sản
xuất tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ nước và các chất bị loại bỏ trong quá trình
chế" biế"n, đóng gói. Đặc trưng chất thải của các cơ sở chế biến nông sản thực
thẩm là chất hữu cơ, bốc mùi hôi... ảnh hưởng trực tiếp không chỉ đến môi
trường sinh thái, hoạt động sản xuất nông nghiệp mà qua đó còn ảnh hưởng đến
sinh hoạt của người dân khu vực nông thôn.
f. Từ hoạt động các làng nghề
Hiện nay, kinh tế" làng nghề phát triển mạnh, nhưng cơ bản vẫn mang
tính tự phát, nhỏ lẻ; thiết bị thủ công, đơn giản; công nghệ lạc hậu, mặt bằng sản
xuất nhỏ hẹp cộng thêm ý thức người dân làng nghề trong việc bảo vệ môi
trường sinh thái và bảo vệ sức khoẻ con người còn hạn chế". Chính những yếu
tố" nêu trên đã tạo sức ép không nhỏ đến chất lượng môi trường sống của chính
làng nghề và cộng đồng xung quanh.
3.3.3.2. Một số vấn đề quản lý nhà nước về môi trường nông thôn
a. Các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật
- Các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý
cho công tác bảo vệ môi trường nông thôn
Trong những năm qua, vấn đề quản lý và bảo vệ môi trường nông thôn đã
nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Các nội dung về quản lý môi
trường nông thôn được điều chỉnh bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật,
thông qua việc lồng ghép vào các văn bản quản lý môi trường nói chung hoặc
lồng ghép vào các văn bản quản lý sản xuất chuyên ngành.
Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường; Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Chiến lược đến năm 2030; Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020... đều
có các quy định liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường nông thôn.

177
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã đưa ra các điều khoản quy định việc
bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp, làng nghề, nuôi trồng thủy sản,
hóa chất, thuốc bảo vệ môi trường , thuốc thú y; quy định về bảo vệ môi trường
khu dân cư, hộ gia đình hay tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014 đã bổ sung sửa đổi các điều khoản này, chi tiết, phù hợp
hơn với điều kiện thực tiễn.
Chiên lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 đã đưa ra mục tiêu giải quyết cơ bản tình trạng suy thoái môi trường
tại một số vùng nông thôn; cấp nước sạch cho dân cư khu vực nông thôn; xây
dựng Chương trình xây dựng và phổ biến nhân rộng các mô hình làng kinh tế
sinh thái. Tiếp theo đó, Chiên lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 cũng có nhóm nội dung, biện pháp hướng tới mục tiêu
giải quyết cơ bản các vấn đề môi trường tại các làng nghề và vấn đề vệ sinh môi
trường nông thôn. Đến nay, các chương trình, dự án nhằm thực hiện các mục
tiêu đặt ra cũng đã và đang được triển khai thực hiện theo đúng lộ trình.
Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn
giai đoạn 2012 - 2015 đã xây dựng và triển khai các nội dung về cấp nước sạch,
vệ sinh môi trường (có nhà tiêu hợp vệ sinh, chuồng trại hợp vệ sinh), trong đó
tập trung ưu tiên cho các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng ven biển, nơi
bị khô hạn, đang bị ô nhiễm môi trường... Sau khi chương trình kết thúc năm
2010, các nội dung về mục tiêu nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn vẫn tiếp
tục được triển khai và thu được nhiều kết quả tốt. Tính đến hết năm 2014, tỷ lệ
dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh là 84,5%, tỷ lệ hộ dân sử dụng
nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 63% .
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020 đã đưa ra các nội dung về tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; xây dựng các công trình
bảo vệ môi trường nông thôn trên địa bàn xã, thôn theo quy hoạch (xây dựng,

178
cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước trong thôn, xóm; xây dựng các điểm
thu gom, xử lý rác thải ở các xã; chỉnh trang, cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây
dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư, phát triển cây xanh ở các công trình
công cộng...). Theo kết quả đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đến cuối năm 2014, 97,2% số xã đã được phê duyệt quy hoạch nông thôn
mới. Việc triển khai các tiêu chí về nông thôn mới, trong đó có bộ tiêu chí về
môi trường cũng đã được triển khai và thu được những kết quả nhất định.
Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi
trường giai đoạn 2012 - 2015 cũng đã đặt mục tiêu khắc phục ô nhiễm và cải
thiện môi trường đối với 47 làng nghề đang bị ô nhiễm môi trường đặc biệt
nghiêm trọng. Hiện nay, nhiều địa phương đã xây dựng và phê duyệt dự án để
triển khai thực hiện.
Bên cạnh các văn bản, chính sách về môi trường, trong các chính sách,
văn bản, chương trình quy định về phát triển ngành nghề nông thôn như Luật
Thủy sản 2003, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật 2013, Pháp lệnh Giống vật
nuôi 2004, Pháp lệnh Thú y 2004... cũng có các nội dung quy định về bảo vệ
môi trường.
Ở cấp địa phương cũng đã chú ý đến việc ban hành các văn bản liên quan
nhằm cụ thể hóa các đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ ở địa phương
mình. Một số" địa phương đã xây dựng Đề án bảo vệ và cải thiện môi trường
nông thôn như Thái Nguyên, Bắc Giang, Bình Phước, Vĩnh Long... Căn cứ theo
tình hình thực tế" và định hướng phát triển nông thôn của từng địa phương, các
mục tiêu và chương trình, dự án ưu tiên được xây dựng.
Đối với các hoạt động phát triển nông nghiệp nông thôn, các địa phương
cũng đã xây dựng các văn bản hướng dẫn, yêu cầu triển khai thực hiện an toàn vệ
sinh thực phẩm, kiểm dịch trong hoạt động nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi, giết mổ
gia súc gia cầm, vấn đề sử dụng thuốc, hóa chất bảo vệ môi trường... Một nội dung
cũng đã và đang được hầu hết các địa phương tổ chức triển khai thực hiện theo

179
đúng lộ trình của Chương trình mục tiêu quốc gia đó là việc triển khai nhóm tiêu
chí về môi trường trong Chương trình nông thôn mới cho các xã trên địa bàn tỉnh.
Những tồn tại và thách thức
Hệ thống chính sách, văn bản về quản lý và bảo vệ môi trường nông
nghiệp, nông thôn đã được ban hành, nhưng vẫn còn một số hạn chế, bất cập
khiến cho công tác quản lý cũng như triển khai thực hiện bảo vệ môi trường
nông thôn gặp nhiều khó khăn.
Chưa đầy đủ và thiếu tính đồng bộ
Trong những năm qua, Luật Bảo vệ môi trường là văn bản quy phạm pháp
luật cao nhất trong lĩnh vực môi trường. Luật bảo vệ môi trường năm 2014 có
những điều khoản riêng (Điều 69, 70) về bảo vệ môi trường nông thôn và một số
điều khoản khác liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp (Điều 71, 78, 80, 82, 83).
Chương trình gắn kết bảo vệ môi trường vào quy hoạch phát triển kinh tế-
xã hội vùng nông nghiệp - nông thôn.
Chương trình tăng cường quản lý, xử lý chất thải nông nghiệp - nông thôn.
Chương trình nâng cấp và xây dựng mới các công trình bảo vệ môi trường
nông nghiệp - nông thôn.
Chương trình bảo vệ môi trường ở các làng nghề.
Chương trình quản lý hóa chất bảo vệ môi trường và sản xuất nông phẩm
an toàn.
Chương trình tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường nông
nghiệp - nông thôn.
Chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ tài nguyên, môi
trường, nông nghiệp - nông thôn.
Trong mỗi chương trình sẽ có nhiều nhóm dự án, nhiệm vụ. Chi tiết các
nhiệm vụ/dự án được quy định cụ thể trong Đề án.
Trích: Quyết định số 635/QĐ-ủy ban nhân dân ngày 03/4/2013 của ủy ban
nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

180
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản chuyên biệt quy định
một cách hệ thống vấn đề quản lý và bảo vệ môi trường nông thôn, các quy định
còn nằm phân tán ở nhiều lĩnh vực, thiếu tính gắn kết, nhiều nội dung còn bị bỏ
ngỏ. Trong các văn bản dưới luật cũng vẫn còn thiếu các nội dung hướng dẫn thi
hành đối với vấn đề bảo vệ môi trường nông thôn.
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2014, tiêu chuẩn môi trường
đối với chất thải, đặc biệt là nước thải và khí thải chỉ áp dụng với các cơ sở sản
xuất, kinh doanh với quy mô lớn mà không phù hợp với các cơ sở sản xuất, kinh
doanh với quy mô nhỏ và quy mô hộ gia đình trong các làng nghề hoặc nằm xen
kẽ trong khu dân cư. Chính vì vậy, việc thanh tra, kiểm tra cũng như xác định
mức độ ô nhiễm đối với các đối tượng này hầu như chưa thể’ triển khai. Vấn đề
này vẫn tiếp tục tồn tại trong quy định của Luật bảo vệ môi trường 2014.
Cho đến nay, vẫn còn thiếu các quy định về việc quản lý, xử lý chất thải
(nước thải, chất thải rắn...) đối với khu vực nông thôn; trách nhiệm và phân cấp
trong quản lý môi trường nông thôn; vấn đề thu phí và lệ phí trong quản lý chất
thải nông nghiệp, làng nghề; thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường áp
dụng cho khu vực nông thôn...
Thiếu tính khả thi
Một số quy định pháp luật có liên quan đến bảo vệ môi trường khu vực
nông thôn không thể áp dụng trong thực tế hoặc áp dụng không hiệu quả. Điển
hình như nội dung về quản lý chất thải rắn, Nghị định số 59/2007/NĐ-CP7 về
quản lý chất thải rắn áp dụng cho cả khu vực đô thị và nông thôn với mục tiêu
phân loại chất thải rắn tại nguồn. Tuy nhiên, cho đến nay, việc phân loại chất
thải rắn tại nguồn mới chỉ thực hiện được thí điểm ở một số khu vực đô thị lớn.
Một minh chứng khác là quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải
rắn, trong thực tế, đến nay vẫn chưa triển khai được, đặc biệt là trên địa bàn
nông thôn.

181
Một số các tiêu chuẩn, quy chuẩn được xây dựng nhưng chưa xem xét đầy
đủ tình hình thực tế, dẫn đến khi ban hành, tính khả thi không cao, gây khó khó
khăn trong quá trình triển khai áp dụng. Một minh chứng điển hình là việc chọn
bãi chôn lấp xử lý chất thải rắn khu vực nông thôn, được áp dụng theo quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia quy chuẩn Việt Nam 14:2009/BXD về quy hoạch xây
dựng nông thôn. Đây là một quy chuẩn hướng dẫn khá chi tiết, tuy nhiên, một số
chỉ tiêu về bãi rác, nước thải sinh hoạt là chưa thể áp dụng thực hiện trong điều
kiện hạ tầng nông thôn hiện nay.
b. Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Đối với người dân vùng nông thôn, vấn đề nước sạch và vệ sinh môi
trường là nhu cầu thiết yếu và đã được đầu tư mạnh trong những năm qua thông
qua Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Tính đến hết năm 2014, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, cả nước đã có 84,5% người dân nông thôn được sử dụng nước sinh
hoạt hợp vệ sinh. Trong đó, vùng có số dân nông thôn được sử dụng nước hợp
vệ sinh cao nhất tiếp tục là Đông Nam Bộ với 94,5%, đồng bằng sông hồng
91% và Đồng bằng sông cửu long 88%. Tỷ lệ số dân được tiếp cận nước hợp vệ
sinh thấp nhất ở vùng Bắc Trung Bộ (81%) mặc dù đây là vùng có số hộ ở nông
thôn cao thứ 4/7 vùng trong toàn quốc.
Kết quả thực hiện của Chương trình mục tiêu quốc gia đã cho thấy, tỉ lệ số
dân được sử dụng nước hợp vệ sinh tăng đáng kể qua các năm (84,5% năm 2014
so với 32% năm 1998), tuy nhiên tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước
sạch còn rất thấp, mới chỉ đạt 42% theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế (quy chuẩn Việt
Nam 02/2009/BYT). Trong số 84,5% dân số sử dụng nước hợp vệ sinh, cũng chỉ
có khoảng 32% hộ dân được sử dụng nước từ các công trình cấp nước tập trung,
còn lại là từ các công trình nhỏ lẻ như: giếng đào, giếng khoan, bể chứa nước
mưa... Việc kiểm tra, đảm bảo chất lượng nước cấp từ các nguồn nêu trên cũng
đang cho cho thấy nhiều vấn đề cần tiếp tục được quan tâm giải quyết.

182
Mặc dù, vấn đề chất lượng nước sinh hoạt nông thôn đã được quan tâm
trong những năm gần đây nhưng thực tế, năng lực và nguồn lực cho kiểm soát
chất lượng nước ở nhiều địa phương còn rất hạn chế. Đến nay, mới chỉ có
khoảng gần 50% các Trung tâm Nước sạch và vệ sinh môi trường tỉnh có phòng
phân tích chất lượng nước, nguồn kinh phí hàng năm dành cho hoạt động này
cũng còn rất hạn chế.
Đối với các chỉ tiêu về vệ sinh môi trường khác, mặc dù, tỷ lệ các trường
học mầm non, phổ thông và trạm y tế xã nông thôn được sử dụng nước sạch, nhà
tiêu hợp vệ sinh đạt tỷ lệ khá cao (trên 90%), tuy nhiên tỷ lệ số hộ gia đình ở
nông thôn được sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh mới chỉ đạt 63% và tỷ lệ hộ gia
đình ở nông thôn chăn nuôi có chuồng trại hợp vệ sinh đạt 45%.
Thực tế, cùng với áp lực từ các nguồn ô nhiễm thì tập quán sinh hoạt lạc
hậu của người dân nông thôn ở nhiều vùng đồng bằng và miền núi cũng là tác
nhân gây ô nhiễm môi trường và không đảm bảo vệ sinh môi trường. Số liệu
thống kê cho thấy, đến cuối năm 2014, vẫn còn tới 5% hộ gia đình (tập trung
chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và vùng duyên hải Bắc Trung Bộ)
chưa có nhà tiêu và 12% hộ gia đình sử dụng cầu tiêu ao cá (chủ yếu tập trung ở
khu vực phía Nam, đồng bằng sông Cửu Long).
Về vấn đề vệ sinh môi trường, đến tháng 7/2011 cả nước mới có 18,5%
số xã và 8,5% số thôn đã xây dựng hệ thống thoát nước thải chung tương ứng
với mức dưới 1/5 số xã và dưới 1/10 số thôn có hệ thống thoát nước thải
chung. Đây là nguồn gốc các vấn đề ô nhiễm nước phục vụ nhu cầu đời sống
của người dân còn phổ biến.
c. Quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường nông thôn
Ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn bắt nguồn chính từ các hoạt
động sinh hoạt và sản xuất của cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, công tác kiểm
soát và xử lý ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn cũng được quản lý theo
ngành, lĩnh vực.

183
Quản lý và xử lý chất thải từ hoạt động trồng trọt
Mỗi năm, hoạt động nông nghiệp phát sinh một lượng lớn chất thải nông
nghiệp nguy hại, chủ yếu là thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học, trong đó
không ít loại thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử dụng. Hiện tượng lạm dụng thuốc
bảo vệ thực vật trong phòng trừ dịch hại, sử dụng phân bón không tuân thủ quy
trình kỹ thuật, không đảm bảo thời gian cách ly dẫn đến các hậu quả như ngộ
độc, mất an toàn vệ sinh thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường đất, nước...
Hiện nay, việc quản lý và xử lý bao bì và hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu
trong môi trường vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn và chưa được quản lý, xử lý
triệt để do thiếu kinh phí cũng như nguồn lực để triển khai thực hiện.
Ngoài các loại chất thải nêu trên, trong hoạt động trồng trọt, chất thải là
rơm rạ, thân các loài cây lương thực sau thu hoạch cũng chiếm tỷ trọng khá lớn.
Tại hầu hết các địa phương khu vực miền Nam, lượng chất thải này được tận thu
tối đa để làm thức ăn cho gia súc và nuôi trồng nấm rơm. nên hầu như không
gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, ở khu vực phía Bắc, các loại chất thải này
không được tái sử dụng, thường được đổ thải và đốt ngay trên đồng ruộng, đặc
biệt vào những thời điểm mùa thu hoạch. Việc đốt tập trung một khối lượng lớn
rơm rạ đã gây hiện tượng khói mù, ô nhiễm môi trường không khí cho các vùng
lân cận. Mặc dù, trong những năm gần đây, đã có một số" chương trình, đề tài
nghiên cứu việc sử dụng rơm rạ làm chế" phẩm vi sinh nhưng kết quả mới chỉ
dừng ở phạm vi nghiên cứu, ứng dụng trong quy mô nhỏ, chưa được triển khai
ứng dụng rộng rãi.
Quản lý và xử lý chất thải từ hoạt động chăn nuôi
Chất thải chăn nuôi là một trong những nguồn gây ô nhiễm lớn nhất trong
sản xuất nông nghiệp. Phương thức chăn nuôi nông hộ vẫn chiêm tỷ lệ lớn, vì
vậy việc xử lý và quản lý chất thải chăn nuôi ngày càng khó khăn. Cả nước hiện
có khoảng 8,5 triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình, 23.500 trang trại chăn nuôi
tập trung, nhưng mới chỉ có 8,7% số" hộ xây dựng công trình khí sinh học (hầm

184
biogas). Tỷ lệ hộ gia đình có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh cũng chỉ chiêm
10% và chỉ 0,6% số" hộ có cam kết bảo vệ môi trường. vẫn còn một số" hộ chăn
nuôi không xử lý chất thải bằng bất kỳ phương pháp nào mà xả thẳng ra môi
trường bên ngoài. Tại một số" trang trại chăn nuôi gia súc, chất thải được thu
gom và bán lại cho các cơ sở chê" biên phân vi sinh hoặc được tái sử dụng để
nuôi cá hoặc ủ biogas. Tuy nhiên, các hoạt động này chỉ mang tính nhỏ lẻ với
khối lượng chất thải được xử lý là rất nhỏ so với tổng khối lượng chất thải ngành
chăn nuôi.
Nhìn chung, hiện nay, nước ta cũng chưa có được những biện pháp hữu
hiệu để’ quản lý và kiểm soát nguồn thải từ hoạt động chăn nuôi. Tại một số" địa
phương, tùy theo mức độ phát triển của ngành cùng với việc có các nguồn kinh
phí hỗ trợ, hoạt động quản lý và kiểm soát chất thải từ hoạt động chăn nuôi được
triển khai với các hình thức và quy mô khác nhau. Tại Tp. Hồ Chí Minh hiện
đang triển khai dự án "Nâng cao năng lực hoạt động của các trại chăn nuôi"
nhằm kiểm soát nước thải đầu ra của hoạt động này.
Một vấn đề không thể’ không đề cập đó là việc kiểm soát, quản lý và xử
lý dịch bệnh trong chăn nuôi. Trong những năm vừa qua, vấn đề dịch bệnh trên
gia súc, gia cầm cũng đã gây ra tình trạng chết hàng loạt các đàn gia cầm tại
nhiều địa phương. Chính vì vậy, công tác chôn lấp, tiêu hủy các loại gia súc, gia
cầm bị dịch bệnh nêu không đúng yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo vệ sinh an toàn thì
đây là những nguồn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ảnh
hưởng trực tiêp đên sức khỏe cộng đồng.
Quản lý và xử lý chất thải từ các làng nghề
Hiện nay, hầu hêt các làng nghề của nước ta vẫn chưa đầu tư hệ thống xử
lý chất thải. Với quy mô nhỏ lẻ, lại nằm xen lẫn trong khu dân cư (chung nơi sản
xuất và sinh hoạt của hộ gia đình) nên vấn đề quản lý và xử lý ô nhiễm môi
trường từ hoạt động của các làng nghề gặp rất nhiều khó khăn.

185
Việc áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn tại các làng nghề còn rất hạn
chê". Chỉ có một số cơ sở sản xuất gốm sứ sử dụng lò nung bằng khí gas thay lò
nung bằng than và một số cơ sở chê" biên nông sản kêt hợp với chăn nuôi xây
hầm biogas. Còn các loại hình sản xuất khác thì hầu như chưa áp dụng. Một
trong những nguyên nhân là do thiêu các hỗ trợ từ các cơ quan chức năng các
cấp từ việc ban hành các chính sách, quy định cho đên việc cung cấp thông tin
về công nghệ, thông tin vay vốn...
Hiện nay, đã có một số dự án để triển khai áp dụng công nghệ thân thiện
môi trường tại làng nghề nhưng hầu hêt đều thiêu tính bền vững, không nhân
rộng được mô hình. Cũng có nhiều lý do cả từ phía các cấp chính quyền và bản
thân các cơ sở sản xuất song việc phải đảm bảo tính bền vững của kêt quả các
dự án là một việc làm nên được ưu tiên.
Công tác quản lý môi trường làng nghề hiện đang giao cho Bộ tài nguyên
và môi trường là cơ quan đầu mối Tuy nhiên, thực tế" triển khai cho thấy, có
nhiều cơ quan cùng tham gia chỉ đạo theo ngành quản lý như Bộ Công thương,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,... Chính điều này cũng gây rất nhiều
khó khăn trong công tác quản lý do chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa các
Bộ, đôi khi, công tác quản lý còn bị bỏ ngỏ do chưa rõ trách nhiệm giữa các bên
tham gia quản lý.
Quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt
Trong thời gian qua, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt từ khu vực
nông thôn đã và đang là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương. Chính việc phân
công không rõ ràng về đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm quản lý nhà nước trong
lĩnh vực này đã khiến cho công tác quản lý chất thải rắn khu vực nông thôn chưa
nhận được sự quan tâm thích đáng.
Ở hầu hết các vùng nông thôn, chất thải rắn sinh hoạt từ các hộ gia đình
phần lớn đều được đổ thải trực tiếp tại vườn nhà. Tại một số" huyện xã khác,
việc thu gom rác thải sinh hoạt được xây dựng thành những mô hình tự quản.
Một số" mô hình điển hình:

186
Mô hình thu gom tự quản do dân tự tổ chức: Đây là hình thức phổ? biến
ở các vùng nông thôn, do người dân tự thỏa thuận và cử người thu gom cho 1
xóm hoặc 1 cụm dân cư. Rác thải sau khi thu gom thường đổ? lộ thiên ven
đường làng, bờ mương. Do chưa được sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp địa
phương cả về tài chính và chính sách, người thu gom rác phải tự trang bị
phương tiện thu gom, thu nhập trung bình chỉ đạt 100.000 - 150.000
đ/người/tháng, không được hưởng các chế độ bảo hiểm y tế, xã hội và bảo hộ
lao động. Hoạt động chưa chuyên nghiệp hóa, số lần thu gom trung bình 1
lần/tuần, có nơi 2 tuần/lần, chủ yếu thu gom rác cho khu vực ven đường chính
và khu tập trung dân cư.
Mô hình thu gom do xã, thôn tổ chức: chính quyền địa phương hỗ trợ về
phương tiện thu gom, nhiều địa phương đã quy hoạch được điểm tập kết, bãi
chôn lấp rác. Tuy nhiên, các mô hình này cũng chỉ dừng lại ở nhiệm vụ thu gom
rác thải từ khu dân cư đến các điểm tập kết, chưa có các biện pháp kỹ thuật
trong phân loại, xử lý. Mô hình chưa xây dựng được cơ chế" và nguồn tài chính
để duy trì công tác thu gom, xử lý rác thải. Số" lần thu gom rác 2-3 lần/tuần.
Thu nhập của người thu gom trung bình 200.000-300.000 đ/tháng, người thu
gom chưa được hưởng các chế" độ bảo hiểm y tế", xã hội. Hoạt động thiếu
chuyên nghiệp dẫn đến hiệu quả thấp. Trách nhiệm của các cấp địa phương chủ
yếu là hỗ trợ mà chưa xây dựng được quy trình thu gom, xử lý rác thải đảm bảo
các yêu cầu vệ sinh môi trường.
Các mô hình hợp tác xã dịch vụ vệ sinh môi trường: Được coi là mô hình
hoạt động hiệu quả nhất ở nông thôn. Mô hình này hoạt động theo Luật Hợp tác
xã, có điều lệ hoạt động, phương án sản xuất dịch vụ, kết hợp nhiều loại dịch vụ
môi trường như thu gom rác thải, thoát nước, cây xanh, quản lý ng¬hĩa trang...
Hình thức này chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ, rất ít các xã có hình thức dịch vụ
này. Hầu hết các hợp tác xã dịch vụ môi trường đã được đầu tư xe thu gom rác,
một số" nơi đã được đầu tư xe vận chuyển rác thải. Thu nhập của người làm dịch

187
vụ môi trường trung bình từ 500.000 - 1.000.000 đ/người/tháng, người lao động
được trang bị bảo hộ lao động, bảo hæm y tế" và bảo hmm xã hội. Số" lần thu
gom là 3-7 lần/tuần.

Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần: Rất ít có ở
các vùng nông thôn do các dịch vụ về môi trường không mang lại lợi nhuận về
kinh tế".

Mô hình công ty môi trường đô thị: Một số vùng ven đô, các công ty môi
trường đô thị đã mở rộng dịch vụ thu gom rác thải cho các các xã lân cận. Công
ty có thể làm dịch vụ trọn gói từ thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải hoặc chỉ
vận chuyển và xử lý. Kinh phí hoạt động của công ty từ nguồn thu phí của dân
và ngân sách của thành phố. Thu nhập của người làm dịch vụ từ 1.200.000-
2.000.000 đ/người/tháng và được hưởng đầy đủ các chế độ của lao động nặng và
độc hại. Hiện chỉ có một số rất ít các xã ven các thành phố lớn như Tp. Hà Nội,
Tp. Hồ Chí Minh được hưởng các dịch vụ này.

Một vấn đề khó khăn chung đối với hầu hết các mô hình thu gom rác thải
đã và đang triển khai đó là việc quy hoạch các bãi rác ở xa khu dân cư làm phát
sinh chi phí vận chuyển rác từ điểm trung chuyển đến bãi rác. Trong khi đó, với
các mô hình hiện nay, kinh phí mới chỉ chi trả được một phần cho hoạt động thu
gom, không đủ để’ chi trả cũng như duy trì cho hoạt động vận chuyển. Chính vì
vậy, hầu hết các mô hình hiện nay chưa đảm bảo tính bền vững.

Đối với công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt nói chung, chất thải rắn
sinh hoạt nông thôn nói riêng, việc phân loại rác thải tại nguồn trước khi xử lý sẽ
giúp cho việc giảm thiểu chi phí xử lý, đồng thời tận thu, tái chế" một khối
lượng đáng kể rác thải hữu cơ làm phân bón. Tuy nhiên, vấn đề phân loại rác tại
nguồn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, cũng như chưa được triển khai
phổ biến.

188
Đối với hoạt động thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt, các công trình xây
dựng đường giao thông nông thôn của Nhà nước cũng như công trình do dân tự
xây dựng hầu hết đều không xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải.
Phần lớn các loại nước thải sinh hoạt đều không được xử lý, chảy tự do, ngấm
xuống đất và chảy xuống ao hồ gây ô nhiễm môi trường.
c. Vấn đề tài chính, đầu tư cho bảo vệ môi trường nông thôn
Cho đến nay, phần kinh phí đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường khu
vực nông thôn là rất ít ở cả cấp trung ương và địa phương.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguồn kinh phí
sự nghiệp môi trường chi cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mỗi năm
được cấp từ 14 - 42 tỷ đồng và được chia cho hoạt động môi trường của 7 lĩnh
vực: Trồng trọt - Bảo vệ thực vật; Chăn nuôi - Thú y; Lâm nghiệp; Diêm
nghiệp; Thủy lợi; Thủy sản và Phát triển nông thôn. Tuy nhiên kinh phí này
đang giảm dần trong những năm gầy đây.
So với các Bộ/ ngành khác, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là
một trong các Bộ được giao kinh phí từ nguồn sự nghiệp môi trường khá lớn.
Tuy nhiên, thực tế chi phí cho hoạt động quản lý môi trường của ngành lại rất
thấp (khoảng 7-10 tỷ đồng/năm) vì phần lớn kinh phí (khoảng từ 10 - 30 tỷ
đồng/năm) dùng cho các dự án điều tra nguồn lợi thủy sản thuộc Đề án 47
(chủ yếu là hoạt động điều tra cơ bản). Theo thống kê, trong các nội dung chi
về môi trường (không bao gồm Đề án 47), phần chi thường xuyên đã chiếm tỷ
lệ trên 60% (năm 2014, chi cho hoạt động quan trắc khoảng 3,5 tỷ đồng, hoạt
động kiểm tra và tuyên truyền, hội thảo-tập huấn khoảng 1 tỷ đồng/năm) nên
kinh phí còn lại rất ít cho các hoạt động khác của ngành (2 -3 tỷ đồng/năm).
Với nguồn chi như vậy, nhiều dự án, nhiệm vụ về môi trường nông thôn đã
được phê duyệt nhưng không được cấp đủ kinh phí triển khai, thậm chí có
những lĩnh vực không có kinh phí để triển khai.

189
Ở cấp địa phương, công tác đầu tư, tài chính trong hoạt động bảo vệ môi
trường nông thôn chưa được quan tâm thích đáng cũng như chưa có sự cân đối.
Hầu hết, nguồn kinh phí mới chỉ tập trung chủ yếu chi cho Chương trình nước
sạch, vệ sinh môi trường. Trong khi đó, phần chi phí cho các hoạt động đầu tư
hạ tầng môi trường, hệ thống xử lý chất thải... chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Một vấn đề khác cần phải kể đến, đó là phí bảo vệ môi trường (phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải và chất thải rắn) chưa áp dụng được cho làng nghề,
cũng như chưa có quy định bắt buộc các hộ sản xuất gây
ô nhiễm nghiêm trọng, thiệt hại về môi trường phải đóng góp tài chính để
khắc phục hoặc chịu xử phạt hành chính. Kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi
trường do chính quyền xã tự trang trải lấy từ nguồn được phép chi 10% nguồn
thu thuế của các hộ sản xuất. Vì vậy, các làng nghề đều không đủ kinh phí để
xây dựng hệ thống xử lý nước thải, xử lý khí thải, chất thải rắn để giảm ô nhiễm
môi trường, áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn. Chỉ có một số cơ sở tham gia
và các đề tài, dự án là được hỗ trợ cho những hoạt động này.
Một số làng nghề đã phát triển dịch vụ thu gom và xử lý chất thải rắn.
Kinh phí chi trả cho dịch vụ này được thu trực tiếp từ các hộ sản xuất và hộ dân
cư với mức thu trung bình tương ứng là 10.000 đồng/hộ/tháng và 3.000-5.000
đồng/hộ/tháng. Thực tế lượng thu này chưa đủ để chi cho tổ dịch vụ và trang bị
các dụng cụ thu gom nên đã có nhiều kiến nghị tăng mức phí này lên và tính
theo lượng chất thải rắn thải ra để dịch vụ này được tốt hơn và cũng là yếu tổ’ để
các hộ phải giảm lượng thải của mình.
3.3.4. Quản lý nhà nước về môi trường khu công nghiệp
3.3.4.1. Các nguồn phát sinh gây ô nhiễm môi trường khu công nghiệp
a. Nước thải
Nước thải công nghiệp là nước thải phát sinh từ quá trình công nghệ của
cơ sở sản xuất, dịch vụ công nghiệp, từ nhà máy xử lý nước thải tập trung có đấu
nối nước thải của cơ sở công nghiệp.

190
Sự gia tăng nước thải từ sản xuất công nghiệp trong những năm gần đây
là rất lớn. Tốc độ gia tăng này cao hơn nhiều so với sự gia tăng tổng lượng nước
thải từ các lĩnh vực khác trong tỉnh.
Thành phần nước thải công nghiệp phụ thuộc vào ngành nghề cơ sở sản
xuất. Thành phần nước thải công nghiệp chủ yếu bao gồm các chất lơ lửng (SS),
chất hữu cơ (thể hiện qua hàm lượng BOD, COD) các chất dinh dưỡng (biểu
hiện bằng hàm lượng tổng Nitơ và tổng Phốtpho) và kim loại nặng.
Chất lượng nước thải đầu ra sản xuất công nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào
việc nước thải có được xử lý hay không. Hiện nay, tỉ lệ các dự án sản xuất trong
khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có trạm xử lý nước thải chiếm tỷ lệ tương
đối cao, rất nhiều các dự án đã đi vào hoạt động đã triển khai xây dựng hạng mục
này nhưng trong quá trình hoạt động không vận hành hoặc vận hành không hiệu
quả. Thực trạng trên đã dẫn tới phần lớn nước thải của các nhà máy khi xả thải ra
môi trường đều có các thông số ô nhiễm cao hơn so với quy chuẩn Việt Nam.
b. Khí thải
Các khí thải ô nhiễm phát sinh từ các nhà máy, xí nghiệp chủ yếu do hai
nguồn: quá trình đốt nhiên liệu tạo năng lượng cho hoạt động sản xuất (nguồn
điểm) và sự rò rỉ chất ô nhiễm từ các hoạt động sản xuất (nguồn diện). Tuy
nhiên, hiện nay, các cơ sở sản xuất chủ yếu mới chỉ khống chế được các khí thải
từ nguồn điểm. Ô nhiễm không khí do nguồn diện và tác động gián tiếp từ khí
thải, hầu như vẫn không được kiểm soát, lan truyền ra ngoài khu vực sản xuất,
có thể gây tác động đến sức khoẻ người dân sống gần khu vực bị ảnh hưởng.
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm không khí chủ yếu do hoạt động của các nhà
máy thuộc các khu công nghiệp cũ, vận hành với công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm
hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra môi trường bên
ngoài, vì vậy hầu hết các thông số quan trắc như bụi, CO và SO2 không đạt quy
chuẩn Việt Nam. Các khu công nghiệp mới với các cơ sở có đầu tư công nghệ
hiện đại và hệ thống quản lý tốt thường có hệ thống xử lý khí thải trước khi xả ra
môi trường nên thường ít gặp các vấn đề về ô nhiễm không khí hơn.

191
Bên cạnh đó, vấn đề ô nhiễm không khí bên trong cơ sở sản xuất của các
khu công nghiệp đang là vấn đề cần quan tâm. Một số loại hình sản xuất trong
các khu công nghiệp (như chế biến thuỷ sản, sản xuất hoá chất..) đang gây ô
nhiễm không khí tại chính các cơ sở sản xuất và tác động không nhỏ đến sức
khoẻ của người lao động bên trong và dân cư gần các cơ sở sản xuất. Tuy nhiên,
không có số liệu để đánh giá chính xác vấn đề này do hiện nay chưa có đơn vị
có thẩm quyền nào tiến hành quan trắc chất lượng môi trường không khí trong
khu vực sản xuất của các khu công nghiệp. Vấn đề này chưa được quy định
trong các văn bản pháp quy về quản lý môi trường.
c. Chất thải rắn
Hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp đã phát sinh một lượng không
nhỏ chất thải rắn và chất thải nguy hại. Thành phần, khối lượng chất thải rắn
phát sinh tại mỗi khu công nghiệp tùy thuộc vào loại hình công nghiệp đầu tư,
quy mô đầu tư và công suất của các cơ sở công nghiệp trong khu công nghiệp.
Thêm vào đó, thành phần chất thải rắn của các khu công nghiệp còn thay đổi
theo giai đoạn phát triển của khu công nghiệp. Trong giai đoạn xây dựng khu
công nghiệp, chất thải rắn chủ yếu là phế thải xây dựng.
Theo quy hoạch được duyệt, tất cả các khu công nghiệp phải có khu vực
phân loại và trung chuyển chất thải rắn, tuy nhiên, rất ít khu công nghiệp triển
khai hạng mục này. Điều này đã khiến cho công tác quản lý chất thải rắn ở các
khu công nghiệp gặp không ít khó khăn.
Do hầu hết các khu công nghiệp chưa có điểm tập trung thu gom chất thải
rắn nên các doanh nghiệp trong khu công nghiệp thường ký hợp đồng với các
Công ty môi trường đô thị tại địa phương, hoặc một số doanh nghiệp có giấy
phép hành nghề để thu gom và xử lý chất thải rắn. Việc đăng ký chủ nguồn thải
chất thải nguy hại cũng do các doanh nghiệp chủ động đăng ký với Sở tài
nguyên và môi trường cấp tỉnh.

192
Hiện nay, chất thải nguy hại tại các khu công nghiệp chưa được quản lý
chặt chẽ do các quy định liên quan chưa cụ thể. Nhiều cơ sở chưa tiến hành phân
loại, không có kho lưu giữ tạm thời theo quy định và chỉ một phần chất thải nguy
hại được các đơn vị có chức năng xử lý. Rất nhiều chất thải nguy hại được chôn
lẫn với rác thải sinh hoạt, thậm chí đổ ngay tại nhà máy, gây ô nhiễm môi trường.
3.3.4.2. Tổ chức bộ máy quản lý môi trường khu công nghiệp
Cùng với quá trình phát triển của khu công nghiệp, các quy chế liên
quan tới hoạt động của khu công nghiệp cũng dần được hoàn thiện trong đó có
quy định về trách nhiệm bảo vệ môi trường của các cơ quan chuyên môn và cơ
quan quản lý các khu công nghiệp. Những quy định đó ngày càng cụ thể và
nhất quán hơn.
Thời kỳ đầu xây dựng và phát triển khu công nghiệp, các quy định về
trách nhiệm bảo vệ môi trường khu công nghiệp của Ban Quản lý khu công
nghiệp quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Các quy định đó mới
chỉ xác định Ban Quản lý khu công nghiệp là cơ quan quản lý trực tiếp các khu
công nghiệp và đương nhiên được hiểu Ban Quản lý khu công nghiệp là cơ quan
quản lý vấn đề bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Những quy định về cơ cấu,
tổ chức, vị trí, chức năng của Ban Quản lý khu công nghiệp còn thiếu. Hầu như
các quy định của pháp luật về chức năng của Ban Quản lý khu công nghiệp tập
trung chủ yếu vào vấn đề thu hút đầu tư, chưa thực sự quan tâm tới chức năng
quản lý vấn đề bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, ở giai đoạn sau, các văn bản pháp
luật được ban hành đã quy định ngày càng cụ thể trách nhiệm của Ban Quản lý
khu công nghiệp về quản lý, bảo vệ môi trường khu công nghiệp.
Hiện tại, trách nhiệm quản lý nhà nước về môi trường ở các khu công
nghiệp được thống nhất từ trung ương đến địa phương, cụ thể:
Chính phủ quản lý môi trường khu công nghiệp trong cả nước,chính phủ
giao cho Bộ Tái nguyên môi trường quản lý môi trường đối với các khu công
nghiệp và dự án trong khu công nghiệp có quy mô lớn; ủy bân nhân dân tỉnh

193
quản lý đối với các khu công nghiệp và các dự án trong khu công nghiệp có quy
mô thuộc thẩm quyền phê duyệt của tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện đối với một số
dự án quy mô nhỏ và một số Bộ, ngành khác đối với một số dự án có tính đặc
thù. Bên cạnh đó, còn có: Ban quản lý (ban quản lý) các khu công nghiệp; chủ
đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp; các cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu công nghiệp.
Sở tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
môi trường, chủ trì công tác thanh tra việc thực hiện các quy định về bảo vệ
môi trường và các nội dung của Quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM theo thẩm
quyền; chủ trì hoặc phối hợp với ban quản lý các khu công nghiệp tiến hành
kiểm tra công tác bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp; phối hợp giải
quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường khu công nghiệp...
Ban quản lý các khu công nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý công
tác bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, trách nhiệm bảo vệ môi trường của
Ban Quản lý khu công nghiệp có thể phân thành ba nhóm cơ bản: Nhóm trách
nhiệm độc lập, nhóm trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền khác và
nhóm trách nhiệm do được ủy quyền.
Ban Quản lý khu công nghiệp có trách nhiệm: Xây dựng quy chế phối
hợp bảo vệ môi trường khu công nghiệp giữa Ban Quản lý các khu công nghiệp
với Sở tài nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh phê duyệt; hướng dẫn, kiểm tra chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ
tầng khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu công
nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý thực hiện các quy định bảo vệ môi trường;
phát hiện và kịp thời báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để
giải quyết, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; huy động
lực lượng ứng phó, khắc phục khi xảy ra sự cố môi trường tại các khu công
nghiệp; định kỳ báo cáo công tác bảo vệ môi trường của khu công nghiệp gửi
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ tài nguyên và môi trường; công khai thông tin

194
về bảo vệ môi trường khu công nghiệp; tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cho chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ
tầng khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu công
nghiệp; phối hợp với cơ quan chức năng giải quyết các tranh chấp về môi trường
giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trong khu công nghiệp hoặc với các
tổ chức, cá nhân ngoài phạm vi khu công nghiệp; phối hợp kiểm tra, thanh tra và
xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường đối với các hoạt động của chủ đầu tư xây
dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ trong khu công nghiệp; thực hiện các nội dung quản lý và bảo vệ môi
trường khu kinh tế, khu công nghiệp khác theo chức năng, nhiệm vụ được giao
hoặc được ủy quyền.
Các trường hợp ủy quyền chủ yếu được quy định tại Thông tư liên tịch số
06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 03/9/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và
Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế gồm: Tổ chức thẩm
định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án trong
khu công nghiệp, khu kinh tế theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối
với các dự án thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); tiếp nhận đăng
ký và xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường cho các đối tượng thuộc diện phải
đăng ký trong khu công nghiệp theo ủy quyền của cơ quan chuyên môn về môi
trường cấp tỉnh và của Ủy ban nhân dân cấp huyện (đối với các dự án thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện); tổ chức thẩm định, phê duyệt đề
án bảo vệ môi trường chi tiết, đề án bảo vệ môi trường đơn giản của các dự án
trong khu công nghiệp theo ủy quyền của cơ quan có thẩm quyền.
Ban quản lý các khu công nghiệp thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà
nước về môi trường khu công nghiệp theo uỷ quyền như: tổ chức thực hiện thẩm
định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM); chủ trì hoặc
phối hợp thực hiện giám sát, kiểm tra các vi phạm về bảo vệ môi trường đối với

195
các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh tại khu công nghiệp; phối hợp với Bộ tài
nguyên và môi trường, Sở tài nguyên và môi trường thực hiện việc thanh tra và
xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp.
Để thực hiện được nhiệm vụ nói trên, pháp luật còn quy định rõ ràng về
cơ cấu, tổ chức của bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường của Ban Quản lý
khu công nghiệp. Theo đó, Ban Quản lý khu công nghiệp là cơ quan trực thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp khu công nghiệp
trong đó có vấn đề bảo vệ môi trường. Ban Quản lý khu công nghiệp bắt buộc
phải có phòng chuyên môn về vấn đề tài nguyên và môi trường. Các chức danh,
bộ phận trong phòng chuyên môn về môi trường của Ban Quản lý khu công
nghiệp phải được bố trí theo quy định của pháp luật. Có thể nói, trách nhiệm bảo
vệ môi trường của Ban Quản lý khu công nghiệp ngày càng được mở rộng, phát
huy vai trò của cơ quan trực tiếp quản lý khu công nghiệp này.
Công ty Phát triển hạ tầng khu công nghiệp có chức năng xây dựng và
quản lý cơ sở hạ tầng khu công nghiệp; quản lý và vận hành hệ thống xử lý nước
thải tập trung, các công trình thu gom, phân loại và xử lý chất thải rắn theo đúng
kỹ thuật; theo dõi, giám sát hoạt động xả thải của các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ đổ vào hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp.
Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 và các Nghị định hướng dẫn thi hành
Luật, liên quan đến quản lý môi trường khu công nghiệp có các đơn vị sau: Bộ
tài nguyên và môi trường (đối với các khu công nghiệp và các dự án trong khu
công nghiệp có quy mô lớn); ủy ban nhân dân tỉnh (đối với khu công nghiệp và
các dự án trong khu công nghiệp có quy mô thuộc thẩm quyền phê duyệt của
tỉnh), ủy ban nhân dân huyện (đối với một số dự án quy mô nhỏ) và một số bộ
ngành khác (đối với một số dự án có tính đặc thù).
Bên cạnh đó, cũng theo Luật bảo vệ môi trường và các Nghị định của
Chính phủ, liên quan đến bảo vệ môi trường và quản lý môi trường của các khu
công nghiệp còn có: Ban quản lý khu công nghiệp, chủ đầu tư xây dựng và kinh

196
doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ trong khu công nghiệp.
Bộ tài nguyên và môi trường tập trung vào việc quy định trách nhiệm,
quyền hạn của các đơn vị và các vấn đề liên quan đến quản lý và bảo vệ môi
trường của các khu công nghiệp, trong đó đặc biệt nâng cao trách nhiệm của ban
quản lý các khu công nghiệp. Theo đó, ban quản lý các khu công nghiệp chịu
trách nhiệm trực tiếp quản lý công tác bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
theo sự ủy quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 4, khoản 1). Để
thực hiện nhiệm vụ này, ban quản lý các khu công nghiệp phải có tổ chức
chuyên môn, cán bộ phụ trách về bảo vệ môi trường theo quy định tại Nghị định
số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/5/2007 của Chính phủ quy định tổ chức, bộ phận
chuyên môn về bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước.
ban quản lý các khu công nghiệp thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà
nước về môi trường khu công nghiệp theo uỷ quyền như tổ chức thực hiện thẩm
định và phê duyệt báo cáo ĐTM; chủ trì hoặc phối hợp thực hiện giám sát, kiểm
tra các vi phạm về bảo vệ môi trường đối với các dự án, cơ sở sản xuất, kinh
doanh tại khu công nghiệp; phối hợp với Bộ tài nguyên và môi trường, Sở tài
nguyên và môi trường thực hiện việc thanh tra và xử lý vi phạm về bảo vệ môi
trường trong khu công nghiệp.
Sở tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
môi trường, chủ trì công tác thanh tra việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi
trường và các nội dung của Quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM theo thẩm
quyền; chủ trì hoặc phối hợp với ban quản lý các khu công nghiệp tiến hành
kiểm tra công tác bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp; phối hợp giải quyết
các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường khu công nghiệp...
Công ty Phát triển hạ tầng khu công nghiệp có chức năng xây dựng và
quản lý cơ sở hạ tầng khu công nghiệp; quản lý và vận hành hệ thống xử lý nước

197
thải tập trung, các công trình thu gom, phân loại và xử lý chất thải rắn theo đúng
kỹ thuật; theo dõi, giám sát hoạt động xả thải của các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ đổ vào hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp.
Thực tiễn đặt ra rất nhiều vấn đề cần điều chỉnh, cụ thể hơn trong các
quy định quản lý môi trường khu công nghiệp. Ngày 28/12/2011, Bộ tài
nguyên và môi trường đã ban hành Thông tư số 48/2011/TT-BTNMT về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT của Bộ tài
nguyên và môi trường quy định quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu
công nghệ cao, khu công nghiệp và CCN, trong đó có nội dung về chế độ quan
trắc và báo cáo môi trường, thẩm quyền quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp là ủy ban nhân dân
huyện trên địa bàn quản lý (không phải là ban quản lý các khu công nghiệp như
trước đây)...
3.3.4.3. Nội dung quản lý nhà nước về môi trường khu công nghiệp
Đối với từng địa phương hay toàn quốc gia, các khu công nghiệp, khu
kinh tế được coi như là một phương tiện để thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa. khu công nghiệp, khu kinh tế không đơn thuần chỉ là nơi tổ chức hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, mà hội tụ những điều kiện hạ
tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội như: giao thông, điện, nước, thông
tin liên lạc, xử lý chất thải bảo vệ môi trường và hệ thống hạ tầng xã hội khác
trong khu kinh tế và ngoài hàng rào các khu công nghiệp. Xét về mặt môi
trường, việc tập trung các cơ sở sản xuất trong khu công nghiệp nhằm mục đích
sử dụng hợp lý tài nguyên và năng lượng, khoanh vùng sản xuất công nghiệp
vào một khu vực nhất định, tập trung nguồn thải, nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và năng lượng, hiệu quả xử lý nguồn thải ô nhiễm và giảm
thiểu tối đa ảnh hưởng ô nhiễm môi trường do các hoạt động sản xuất đối với
cộng đồng sinh sống trong các khu dân cư. Việc tập trung các cơ sở sản xuất
trong các khu công nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý nước thải, chất

198
thải rắn, … đồng thời giảm chi phí đầu tư cho hệ thống xử lý, giảm chi phí xử
lý môi trường trên một đơn vị chất thải. Ngoài ra cũng tạo điều kiện thuận lợi
hơn trong quản lý của cơ quan quản lý môi trường.
a. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường
Việc ban hành kịp thời, phù hợp và thường xuyên tuyên truyền pháp luật
môi trường sẽ làm thay đổi cơ bản nhận thức của người lao động và các doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất và xử lý chất thải, từng bước mở rộng và đảm
bảo cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật bảo vệ môi
trường trong quản lý nhà nước là cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra kiểm tra,
giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các văn bản pháp luật
đưa ra nhằm kiểm soát ô nhiễm, suy thoái sự cố môi trường, kiểm soát ô nhiễm
đất, ô nhiễm không khí, suy thoái đất. Việc đổi mới cách thức xử lý ô nhiễm,
bảo vệ sức khỏe con người và chế độ phụ cấp trong môi trường độc hại đã tạo
thành một hệ thống các cơ chế, chính sách tương đối đồng bộ, tạo môi trường
pháp lý lành mạnh, hỗ trợ mạnh mẽ trong quá trình sản xuất.
Về cơ bản, nhà nước cần hỗ trợ doanh ngiệp và người lao động nắm rõ
các quy định chủ yếu, liên quan trực tiếp đến môi trường và doanh nghiệp, thể
hiện qua các quy định về chế độ đối với người lao động. Việc nắm rõ các quy
định về chế độ đối với người lao động sẽ giúp người lao động hiểu rõ quyền lợi
và nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ môi trường, thực hiện giám sát việc áp
dụng các chính sách, quy định của pháp luật về môi trường của doanh nghiệp
đối với mình. Về phía doanh nghiệp, việc thực hiện tốt các quy định về xử lý
chất thải môi trường sẽ giúp doanh nghiệp tạo nên mối quan hệ tốt với người lao
động, cư dân xung quanh khu công nghiệp trong quá trình sản xuất.
Công tác tuyên truyền, tổ chức được thực hiện qua:
- Tổ chức lớp tập huấn cho các khu công nghiệp; bố trí đội ngũ giảng
viên, báo cáo viên tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước
đến doanh nghiệp và người lao động. Hỗ trợ về chuyên môn để doanh nghiệp tự

199
tổ chức phổ biến, tuyên truyền các chế độ, chính sách pháp luật môi trường đến
người lao động trong doanh nghiệp.
- Hỗ trợ bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ doanh nghiệp làm việc trong
lĩnh vực quản lý môi trường.
- Thường xuyên giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện của doanh nghiệp,
kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh.
b. Thống kê thông tin về môi trường và môi trường sống của người lao động
trong khu công nghiệp
* Thống kê thông tin về môi trường
Khái niệm "thông tin” là một khái niệm được hiểu từ nhiều góc độ khác
nhau. Ở mỗi góc độ thông tin có một nội hàm riêng, đặc trưng riêng.
Thông tin về chất lượng môi trường là một số những chỉ tiêu đã đo lường
được từ các nhà máy của khu công nghiệp để thấy được mức độ nghiêm trọng
cũng như đưa ra các biện pháp xử lý chất thải để đảm bảo sản xuất cũng như
đảm bảo môi trường sống cho người lao động và khu vực dân cư lân cận.
Để thực hiện tốt công tác hỗ trợ cung cấp thông tin về môi trường thì
doanh nghiệp, khu công nghiệp cần đảm bảo các yêu cầu khi cung cấp thông tin:
+ Thông tin phải chính xác, toàn diện, đầy đủ, thống nhất, kịp thời;
+ Đảm bảo yêu cầu về định hướng, kế hoạch và sự đồng thuận trong
xã hội;
+ Thông tin dễ nhận biết, dễ hiểu, đảm bảo cho việc tiếp nhận thông tin
của các đối tượng tiếp nhận được dễ dàng, thuận lợi.
Việc hỗ trợ cung cấp thông tin về môi trường thường được thực hiện qua
các hình thức sau:
+ Văn bản thông báo, tài liệu của các doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu
thông tin cung cấp;
+ Thông qua trao đổi, làm việc, tiếp cận trực tiếp đến các đối tượng cần
cung cấp thông tin;

200
+ Thông qua các cuộc hội nghị, hội thảo, hội chợ;
+ Thông qua đội ngũ cung cấp thông tin tiếp nhận, chọn lọc, xử lý thông
tin từ cơ sở, đối tượng tiếp nhận thông tin
* Môi trường sống của người lao động quanh khu công nghiệp
Môi trường sống nói chung và môi trường làm việc của người lao động
nói riêng ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, được khẳng định là
một phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Môi trường sống xung quanh khu công nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất. Vì môi trường sống có sạch sẽ, không khí trong lành, không bị ô nhiễm
bởi các chất thải công nghiệp sẽ đảm bảo sức khỏe cho người lao động, ổn định
kinh doanh.
Nội dung của môi trường sống xung quanh khu công nghiệp bao gồm:
- Điều kiện làm việc: đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của
pháp luật về không khí, ánh sáng, độ ồn, trang bị lao động...
- Điều kiện sống của người lao động: khu vực xung quanh khu sinh hoạt
cần phải được vệ sinh sạch sẽ, tránh xa khu vực xử lý rác thải, nguồn nước phải
được bảo đảm vệ sinh không bị ảnh hưởng của chất thải công nghiệp.
Môi trường làm việc tốt, hiệu quả là môi trường làm việc tạo điều kiện
cho người lao động phát huy thể lực, trí lực của bản thân thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ, công việc được phân công đảm nhiệm. Xây dựng môi trường
làm việc tốt, trong lành không bị ô nhiễm độc hại bởi chất thải công nghiệp với
việc hoàn thiện đầy đủ các yếu tố về điều kiện làm việc; mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với người lao động, đáp ứng đầy đủ nhu cầu đời sống vật chất và tinh
thần của người lao động; đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các quy định của pháp
luật về môi trường sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp; tạo điểm nhấn để thu hút nhân lực đến làm việc tại các
doanh nghiệp Khu công nghiệp; thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của các
Khu công nghiệp .

201
c. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi
trường; giải quyết các tranh chấp khiếu nại; xử lý vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường
- Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường
Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật môi trường và xử lý
các vi phạm pháp luật môi trường của các cơ quan nhà nước là một trong những
công cụ không thể thiếu đối với quản lý hành chính nhà nước. Ở đâu có quản lý
nhà nước thì ở đó cần có thanh tra, kiểm tra (Hoàng Quốc Hùng, 2012). Tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo quyền lợi của người lao động và
khu vực dân cư sinh sống lân cận, xử lý nghiêm các doanh nghiệp xâm phạm
quyền lợi hợp pháp của người lao động. Những hoạt động này tạo nên hiệu quả
to lớn cho hoạt động quản lý nhà nước về môi trường trong các doanh nghiệp
khu công nghiệp. Chỉ khi có một đội ngũ và bộ máy thanh tra lao động chuyên
trách, được đầu tư thỏa đáng về nguồn lực và được bảo đảm bởi các điều kiện
pháp lý chặt chẽ, mới đủ khả năng giám sát, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm
pháp luật môi trường. Hệ thống này phải có chức năng là: bảo đảm việc thi hành
quy định pháp luật về điều kiện môi trường cho người lao động trong khi làm
việc; cung cấp thông tin và góp ý kiến về kỹ thuật, cách thức hữu hiệu nhất để
tuân thủ quy định pháp luật; lưu ý cơ quan có thẩm quyền về những khiếm
khuyết của các quy định pháp luật.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ phải thực hiện các biện pháp theo dõi,
giámsát chặt chẽ các công đoạn, khu vực phát sinh yếu tố có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường đất; phát hiện kịp thời, cô lập và xử lý các yếu tố có nguy cơ
gây ô nhiễm môitrường đất khi có dấu hiệu ô nhiễm; xây dựng và thực hiện kế
hoạch phòng ngừa, ứngphó sự cố môi trường theo quy định của pháp luật.
Đánh giá việc thực hiện các công trình biện pháp bảo vệ môi trường theo
Đề án bảo vệ môi trường đã được phê duyệt. Đồng thời kiểm tra, đánh giá mức
độ tuân thủ các nội dung môi trường đã cam kết; tổ chức đo đạc lấy mẫu và đề
xuất xử lý các đối tượng không tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường.

202
- Giải quyết các tranh chấp khiếu nại; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường
Trong quá trình sản xuất, quan hệ giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp
trong khu công nghiệp, giữa các khu công nghiệp lân cận với nhau không phải lúc
nào cũng diễn biến một cách ổn định bình thường theo đúng những thỏa thuận.
Giữa họ có thể sẽ xuất hiện những bất đồng về quyền và lợi ích trong quá trình
sản xuất. Có những bất đồng được các bên thỏa thuận và giải quyết được song
cũng có thể có những bất đồng mà sự thương lượng của hai bên không thể giải
quyết được. Những bất đồng, xung đột nếu được giải quyết tốt thì sẽ không trở
thành mâu thuẫn, ngược lại, nếu không được giải quyết thì dễ trở thành những
mâu thuẫn gay gắt. Lúc này, họ phải cần đến một trung gian đó là cơ quan quản lý
nhà nước về môi trường để giải quyết theo đúng chức năng quyền hạn.
Diện tích đất sử dụng trong một khu công nghiệp bị hạn chế, công nghệ kĩ
thuật xử lý hóa chất rác thải từ các nhà máy còn bị hạn chế dẫn đến các tranh
chấp khiếu nại về khu vực xử lý rác thải cũng như gây ô nhiễm nguồn nước,
không khí cho các khu vực xung quanh.
c. Nắm được hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường
Dự báo tốc độ phát triển của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp,
năng lực sản xuất của các nhà máy, mức độ độc hại của các nguồn xả thải từ
doanh nghiệp ra môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng nghĩa với việc đầu
tư nâng cao trang thiết bị cho xử lý chất thải.
Việc cung cấp thông tin về quá trình sản xuất cũng như các chỉ số về chất
lượng môi trường được thông báo và đánh giá kịp thời sẽ giúp doanh nghiệp
ngăn chặn và có biện pháp kịp thời để xử lý nguồn chất thải độc hại từ công
nghiệp. Thông tin dự báo mức ô nhiễm môi trường được sử dụng như là cơ sở
để doanh nghiệp tham khảo và lập chiến lược, kế hoạch phát triển sản xuất kinh
doanh, người dân tham vấn và quyết định lựa chọn ngành nghề sản xuất cũng
như các biện pháp kỹ thuật xử lý chất thải tốt nhất.

203
Để có được thông tin và dự báo diễn biến môi trường, cần vận dụng một
số phương pháp để tiếp cận môi trường như sau:
Phương pháp thứ nhất: Dự báo diễn biến môi trường theo phương pháp
chuyên gia: Đây là phương pháp dựa trên số liệu phân tích của các chuyên gia,
lấy ý kiến đánh giá của các chuyên gia để làm kết quả dự báo. Phương pháp này
được triển khai theo một quy trình chặt chẽ bao gồm nhiều khâu: thành lập
nhóm chuyên gia, đánh giá năng lực chuyên gia, lập biểu câu hỏi và xử lý toán
học kết quả thu được từ ý kiến chuyên gia. Khó khăn của phương pháp này là
việc tuyển chọn và đánh giá khả năng của các chuyên gia. Phương pháp này
được áp dụng có hiệu quả cho những đối tượng thiếu (hoặc chưa đủ) số liệu
thống kê, phát triển có độ bất ổn lớn hoặc đối tượng của dự báo phức tạp không
có số liệu nền. Kết quả của phương pháp dự báo này chủ yếu phục vụ cho nhu
cầu định hướng, quản lý vì thế cần kết hợp (trong trường hợp có thể) với các
phương pháp định lượng khác.
Phương pháp thứ hai: Dự báo diễn biến môi trường theo cách tiếp cận
doanh nghiệp: Cách tiếp cận này để dự báo môi trường xuất phát từ các nhà máy
sản xuất và sản phẩm của doanh nghiệp (ngành công nghiệp nặng, hóa chất hay
sản phẩm từ ngành công nghiệp nhẹ...) qua đó đánh giá được mức độ xả thải ô
nhiễm môi trường từ các nhà máy. Để có được những thông tin dữ liệu này cơ
bản phải được thu thập và tổng hợp từ các cuộc điều tra doanh nghiệp được tiến
hành hàng năm.
Phương pháp thứ ba: Dự báo diễn biến môi trường theo cách tiếp cận
địa phương: Đây là cách tiếp cận dựa vào quá trình sinh hoạt của người dân
xung quanh khu công nghiệp với các chỉ tiêu như: nước thải, không khí, các
loại cây trồng xung quanh, đất. và các nguồn dịch bệnh một số năm của người
dân. Từ dó đánh giá được mức độ cũng như diễn biến môi trường của khu
công nghiệp này.

204
d. Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; giáo dục tuyên truyền
phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.
Chính phủ Việt Nam cho rằng: nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp
của toàn dân. Chính phủ luôn coi trọng nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục cộng
đồng về môi trường, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên của
đất nước. Kể từ khi ban hành Luật bảo vệ môi trường, phong trào nhân dân tham
gia bảo vệ môi trường đã trở thành hoạt động phổ biến trên toàn quốc. Các tổ
chức xã hội như thanh niên, phụ nữ, các tổ chức phi chính phủ ... đã tổ chức
hàng trăm các lớp đào tạo, tập huấn, các hội thảo, hội nghị; xây dựng hàng chục
chương trình truyền hình về các vấn đề bảo vệ môi trường, tổ chức thi vẽ tranh
môi trường cho trẻ em, tổ chức các phong trào vệ sinh môi trường, phong trào
trồng cây, tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường; phong trào
thành phố nông thôn xanh, sạch, đẹp ... Các phong trào này đang trở thành nhận
thức và hoạt động thường xuyên của cộng đồng.
Các doanh nghiệp thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo nhằm trang bị
thêm cho các cán bộ công chức, viên chức các kỹ năng phối hợp trong hoạt động
quản lý nhà nước, kỹ năng phân tích, mô tả vị trí việc làm, kỹ năng tổng hợp và
xây dựng báo cáo trong quá trình thực thi công vụ. Đây là nội dung rất quan
trọng mà mỗi cán bộ lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức cần được trang bị
để được vận dụng nhuần nhuyễn trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của nền
kinh tế đất nước nói chung và của ngành tài nguyên và môi trường nói riêng,
hệ thống quản lý nhà nước về lĩnh vực môi trường từ Trung ương đến địa
phương cũng ngày càng lớn mạnh cả về quy mô tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước lẫn nguồn nhân lực, đã phần nào đáp ứng được những nhiệm vụ chuyên
môn được giao.

205
Song, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước trong thời
kỳ hội nhập và phát triển, rất nhiều vấn đề phức tạp, nóng bỏng, nhạy cảm về
môi trường đã nảy sinh đòi hỏi ngành môi trường phải có chiến lược phát
triển phù hợp đáp ứng kịp thời với xu thế phát triển chung của xã hội. Thực tế
này đòi hỏi ngành môi trường phải có tầm nhìn xa hơn, phải nhìn nhận, đánh
giá đúng xu thế phát triển kinh tế - xã hội để từ đó đưa ra được những chiến
lược phát triển lâu dài của ngành. Một trong những mục tiêu đó là phát triển
nguồn nhân lực ngành môi trường, cụ thể như đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng
nâng cao trình độ, năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, áp dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật đảm bảo đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong tình hình mới.
3.3.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý môi trường trong các khu công nghiệp
a. Chính sách quản lý môi trường của Nhà nước và địa phương
Chế độ, chính sách chung của Nhà nước ảnh hưởng sâu sắc đến quản lý
nhà nước về môi trường trong khu công nghiệp, nên để thực hiện mục tiêu phát
triển khu công nghiệp nói chung, duy trì và phát triển sản xuất nói riêng thì Nhà
nước phải chú ý đến khía cạnh xây dựng và phát triển chính sách về quản lý môi
trường, cán bộ quản lý môi trường và người lao động sao cho chúng không trái
chiều với các quy định khác. Quản lý nhà nước về môi trường trong chính sách
chung được hiểu là các nội dung về quản lý con người, quản lý quá trình xử lý
chất thải..., phục vụ mục tiêu chung là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế nhằm thực hiện chủ trương phát triển công nghiệp. Điều quan trọng là
chính sách quản lý nhà nước về môi trường phải đảm bảo đạt mục tiêu đề ra của
Nhà nước nhưng cũng phải đảm bảo tính hấp dẫn với nhà đầu tư, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Bộ luật môi trường: Bộ luật môi trường quy định quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp và những người tham gia sản xuất trong các khu công nghiệp, các
tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc xử lý chất thải công nghiệp góp phần thúc

206
đẩy sản xuất, bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao
động, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được phát huy tối đa, nhằm đạt năng
suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong
sử dụng và quản lý môi trường, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên trong thực tế các cơ quản lý nhà nước về môi trường vẫn gặp không ít
những khó khăn trong quá trình áp dụng luật môi trường để giải quyết các vụ việc
tranh chấp, xung đột giữa các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Vì vậy, cần
nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện pháp luật về môi trường, đáp ứng yêu cầu trong
tình hình mới và kịp thời giải quyết những phát sinh, đảm bảo quyền lợi của
người lao động và tránh tình trạng “lách luật” của doanh nghiệp.
- Các Nghị định, Thông tư, văn bản quy phạm pháp luật quy định về
khu công nghiệp, môi trường khu công nghiệp:Nghị định số 18/2015/NĐ - CP
ngày 01/04/2015 của Chính phủ; Nghị định số 179/2013/NĐ - CP ngày
30/12/2013 của Chính phủ; Nghị định số 21/2008/NĐ - CP ngày 15/3/2013 của
Chính phủ.
b. Năng lực của cơ quan, cán bộ quản lý nhà nước về môi trường
* Cơ quan quản lý nhà nước về môi trường
Cơ quan quản lý nhà nước về môi trường bao gồm ủy ban nhân dân tỉnh,
sở Tài nguyên môi trường, Ban quản lý các khu công nghiệp và các đơn vị khác
có liên quan. Năng lực của các cơ quan này có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả
quản lý thông qua việc ra quyết định hay thực hiện quyết định quản lý.
Ủy ban nhân dân tỉnh có ảnh hưởng lớn trong việc ban hành và giám sát
thực hiện quy chế phối hợp giữa Ban quản lý các khu công nghiệp với các sở
ban ngành liên quan quyết định chất lượng quản lý nhà nước về môi trường đối
với doanh nghiệp khu công nghiệp. Tỉnh chính là cấp tổ chức và phối hợp các
phòng tài nguyên môi trường để đáp ứng nhu cầu về chất lượng môi trường
cho khu công nghiệp. Tỉnh cũng tiến hành kiểm tra giám sát việc giải quyết các

207
vấn đề phát sinh trong thẩm quyền và thực hiện các nghĩa vụ của Nhà nước đối
với các chủ đầu tư trong khu công nghiệp... Nếu việc phối hợp không tốt thì dù
quyết tâm đến đâu quản lý nhà nước cũng trục trặc. Ngược lại quy chế phối
hợp rõ ràng, hiệu lực phối hợp cao, tiến độ phối hợp nhịp nhàng sẽ làm cho
công tác quản lý nhà nước thích ứng nhanh và hiệu quả cao hơn. Chính vì thế,
sự quan tâm và năng lực giải quyết các vấn đề này của cấp tỉnh ảnh hưởng sâu
sắc đến chất lượng và kết quả quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp.
Phòng tài nguyên môi trường là cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp ủy
ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: bảo
vệ môi trường; ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí. Hiện nay, theo phân
cấp quản lý, Sở tài nguyên môi trường ủy quyền trực tiếp cho Ban quản lý khu
công nghiệp trong việc ra quyết định và quản lý trực tiếp quản lý môi trường
trong khu công nghiệp. Chính vì vậy cần nâng cao năng lực và trình độ của cán
bộ quản lý, đào tạo cán bộ có chuyên môn sâu, thường xuyên theo dõi và kiểm tra
quá trình thực hiện pháp luật, chính sách về môi trường của các doanh nghiệp....
Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về môi trường đối với các Doanh
nghiệp khu công nghiệp. Đây là cơ quan trực tiếp hay gián tiếp ban hành các
chính sách, chế độ, đồng thời thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra các
hoạt động về quản lý môi trường tại các doanh nghiệp. Bởi vậy, sự am hiểu của
cán bộ quản lý về ngành nghề lĩnh vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
khả năng nắm bắt tình hình của họ với lĩnh vực đó, do đó sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới việc cán bộ quản lý đó có phân tích và đưa ra được những kết luận
đúng đắn hay không, có dự thảo ra được những chính sách quản lý đúng đắn
hay không? Thêm vào đó, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý sẽ quyết định
việc họ có thực hiện quản lý đúng theo lương tâm trách nhiệm hay không?(Hội
nghị môi trường toàn quốc, 2015)
* Doanh nghiệp

208
Doanh nghiệp là cơ quan trực tiếp quản lý và xứ lý vấn đề môi trường
trong khu công nghiệp và đồng thời thực hiện các quy định và hướng dẫn của
pháp luật về môi trường. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau có cách thức tổ
chức quản lý, xử lý môi trường khác nhau. Vì vậy, bộ máy làm công tác quản lý
đòi hỏi phải có năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm cũng như sự am
hiểu các quy định của pháp luật môi trường, bảo vệ môi trườn.
c. Quy mô của khu công nghiệp và của doanh nghiệp
* Khu công nghiệp
Quy mô khu công nghiệp càng lớn, số lượng doanh nghiệp càng nhiều thì
cần càng nhiều lực lượngđảm bảo công tác quản lý vềmôi trườngsẽ phức tạp hơn.
Nhìn chung, mỗi khu công nghiệp đều có quy mô và cách quản lý môi trường khác
nhau. Các doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công nghiệp gồm cả trong
nước và ngoài nước với nhiều ngành nghề, lĩnh vực sản xuất khác nhau (Ban quản
lý khu công nghiệp, 2015).
* Doanh nghiệp
Doanh nghiệp có quy mô lớn hay nhỏ đều ảnh hưởng đến công tác quản
lý nhà nước về môi trường trong khu công nghiệp, doanh nghiệp càng lớn, thì
công tác quản lý càng phức tạp. Bên cạnh đó, trình độ quản lý, năng lực chuyên
môn của cán bộ và những nhà quản lý là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ
trong công tác quản lý của cán bộ quản lý nhà nước về môi trường.
d. Lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong khu công nghiệp
Trong một khu công nghiệp có các loại hình kinh doanh sản xuất các mặt
hàng khác nhau sẽ có những ảnh hưởng khác nhau đến môi trường:
Các tác động của một số nguồn gây ô nhiễm
Nguồn gây ô nhiễm Tác động
Chất thải sinh hoạt bao gồm - Ô nhiễm do chất hữu cơ
nước thải và chất thải rắn - Phú dưỡng hoá (Eutrophication)
- Ô nhiễm do vi khuẩn

209
Công nghiệp dệt, nhuộm
-Ô nhiễm do chất hữu cơ
- Gây đục, chất rắn, màu
- Ô nhiễm đặc biệt (các chất hữu cơ bền
vững, hydrocacbon đa vòng PAH, các kim
loại nặng)

Công nghệ mỹ phẩm bao gồm


- Ô nhiễm do chất hữu cơ
sản xuất chất tẩy rửa
- Ô nhiễm do chất dinh dưỡng
- Gây đục, chất rắn, màu
- Kiềm hoá
- Các chất hoạt động bề mặt

- Công nghệ giấy, bột giấy


-Ô nhiễm do chất hữu cơ
- Gây đục, chất rắn, màu
-Ô nhiễm đặc biệt (phenol, lignin)

Các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp nặng, công
nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, công
nghiệp dầu khí... Các nguồn khí thải độc hại này có chưa bụi, khí độc, chất có
mùi rò rỉ và bay hơi từ dây chuyền sản xuất công nghiệp, từ sản xuất dẫn đến ô
nhiễm không khí. Ô nhiễm không khí rất có hại cho sức khỏe của con người, cho
sự sinh trưởng và phát triển củađộng, thực vật. Nồng độ các chất độc cao trong
không khí gây nên các bệnh đường hô hấp, nhiềubệnh khác và đi đến tử vong ở
người. Các chất nhiễm bẩn khí quyển làm thành các đám mây mùcản trở bức xạ
mặt trời, giảm các tia tử ngoại cần thiết gây nên bệnh thiếu vitamin và còi xương
ở trẻ em (Phòng tài nguyên môi trường, 2015).
Chính vì vậy mà mỗi một lĩnh vực sản xuất khác nhau sẽ có cán bộ
chuyên môn trực tiếp quản lý môi trường tại các khu công nghiệp.

210
3.3.5. Quản lý nhà nước về ứng phó biến đổi khí hậu
3.3.5.1. Biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu
a. Biến đổi khí hậu
Khái niệm biến đổi khí hậu
Điều 1, Công ước khung Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu: “biến đổi
khí hậu nghĩa là biến đổi của khí hậu được qui cho trực tiếp hoặc gián tiếp do
hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và sự
thay đổi này được cộng thêm vào khả năng biến động tự nhiên của khí hậu quan
sát được trong những thời kỳ có thể so sánh được.
“Những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu” nghĩa là những biến đổi
trong môi trường vật lý hoặc sinh học do những biến đổi khí hậu gây những ảnh
hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các
hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh
tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người.”
Theo cách tiếp cận của IPCC trong Báo cáo đánh giá lần thứ IV năm
2007, biến đổi khí hậu được hiểu là sự biến đổi trạng thái của hệ thống khí hậu,
có thể được nhận biết qua sự biến đổi về trung bình và sự biến động của các
thuộc tính của nó, được duy trì trong một thời gian đủ dài, điển hình là hàng thập
kỷ hoặc dài hơn.
Tóm lại, có nhiều cách hiểu về biến đổi khí hậu nhưng theo tác giả biến
đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của hệ thống khí hậu so với trung bình và
dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài (thường là vài thập
kỷ hoặc dài hơn) có nguyên nhân từ tự nhiên và nhân tạo. biến đổi khí hậu được
biểu hiện bởi sự gia tăng của nhiệt độ trung bình bề mặt Trái đất dẫn đến hiện
tượng nóng lên toàn cầu và nước biển dâng. Biểu hiện của biến đổi khí hậu còn
được thể hiện qua sự dâng mực nước biển do băng tan và dãn nở nhiệt của nước
biển, làm cho nhiều vùng đất thấp bị ngập chìm vĩnh viễn, hiện tượng xâm nhập
mặn gia tăng, v.v...

211
Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu
biến đổi khí hậu có thể do các quá trình tự nhiên bên trong hệ thống khí
hậu hoặc do những tác động từ bên ngoài, hoặc do tác động thường xuyên của
con người hoặc do sử dụng đất đã làm thay đổi thành phần cấu tạo của khí
quyển. Những tiến bộ đạt được về quan trắc cũng như các mô hình gần đây càng
cung cấp thêm những hiểu biết vững chắc, cho phép kết luận rằng biến đổi khí
hậu có nguồn gốc từ hai nguyên nhân: nguyên nhân từ tự nhiên và nguyên nhân
từ con người.
Các nguyên nhân tự nhiên được cho là những nguyên nhân nằm ngoài hệ
thống khí hậu Trái đất cũng như do sự thay đổi bên trong và tương tác giữa các
thành phần của nó, bao gồm: Sự biến đổi của các tham số quỹ đạo Trái đất; sự
biến đổi trong phân bố lục địa - biển của bề mặt Trái đất; sự biến đổi trong tính
chất phát xạ của mặt trời và hấp thụ bức xạ của Trái đất. biến đổi khí hậu tự
nhiên có thể thấy qua thời kỳ băng hà, gian băng tương ứng với thời kỳ khí hậu
lạnh giá và khí hậu ấm áp của Trái đất. Quy mô thời gian của những biến đổi
này cỡ hàng trăm nghìn năm (trung bình giữa hai lần băng hà vào khoảng hai
trăm năm).
Hoạt động của con người gây ra biến đổi khí hậu có lẽ bắt đầu từ thời kỳ
tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750). Từ đó cho đên nay, con người đã sử
dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu là các nguồn nguyên liệu hóa thạch
(than, dầu, khí đốt,...) và phát thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây
hiệu ứng nhà kính, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. Theo IPCC, việc tiêu thụ
năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng,
công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng. đóng góp khoảng một nửa (46%) vào
sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông
nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn
lại (3%) là từ các hoạt động khác. IPCC đã công bố 5 bản Báo cáo đánh giá tác
động của biến đổi khí hậu. Trong Báo cáo lần thứ 5 của IPCC được phát hành vào

212
khoảng tháng 9 năm 2013 và tháng 11 năm 2014, các nhà khoa học chắc chắn tới
95% rằng hoạt động của nhân loại đang thúc đẩy biến đổi khí hậu là nguyên nhân
chính gây biến đổi khí hậu.
Tác động của biến đổi khí hậu
biến đổi khí hậu tác động lên tất cả các thành phần môi trường bao gồm
cả các lĩnh vực của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và sức khỏe con
người trên phạm vi toàn cầu với những mức độ ảnh hướng không giống nhau.
Đối với các quốc gia tương đối lạnh sẽ được lợi từ biến đổi khí hậu (chi
phí cho sưởi ấm và nhà ở sẽ giảm, ít băng giá và ít bão tuyết sẽ làm cho đường
xá và giao thông thuận lợi hơn trong mùa đông và giảm được chi phí). Những
khu vực có đủ nước và chất dinh dưỡng, hoa màu có năng suất cao hơn khi nhiệt
độ tăng và những mùa vụ kéo dài hơn. Ngành lâm nghiệp sẽ được lợi nhờ cây
cối mọc nhanh hơn. Những ích lợi này chủ yếu xảy ra ở Hoa Kỳ, Canada, Bắc
Âu và phía bắc Châu Á.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động có lợi rất nhỏ đó từ biến đổi khí hậu
thì những ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu đang là vấn đề khiến nhân
loại phải quan tâm hơn cả. Mức độ tác động của biến đổi khí hậu nghiêm trọng ở
các vùng có vĩ độ cao và ít hơn tại các vùng khác, sẽ lớn hơn ở các nước nhiệt
đới, nhất là các nước đang phát triển công nghiệp nhanh ở Châu Á. Trong đó,
những người nghèo, những người ít góp phần gây ra biến đổi khí hậu nhất thì lại
phải chịu những thiệt hại sớm nhất và nghiêm trọng nhất về phát triển con người
do biến đổi khí hậu gây ra.
Nhiều thành phố của các quốc gia ven biển đang đứng trước nguy cơ bị
nước biển nhấn chìm do mực nước biển dâng - hậu quả trực tiếp của sự tan băng
ở Bắc và Nam Cực. Trong số 33 thành phố có quy mô dân số 8 triệu người vào
năm 2020, ít nhất 21 thành phố có nguy cơ cao bị nước biển nhấn chìm toàn bộ
hoặc một phần và khoảng 332 triệu người sống ở vùng ven biển và đất trũng sẽ
bị mất nhà cửa vì ngập lụt. Mức độ rủi ro cao về lãnh thổ bị thu hẹp do nước

213
biển dâng theo thứ tự là Trung Quốc, Ân Độ, Bangladesh, Việt Nam, Inđônêsia,
Nhật Bản, Ai Cập, Hoa Kỳ, Thái Lan và Philippin. nước biển dâng lên còn kèm
theo hiện tượng xâm nhập mặn vào sâu hơn trong nội địa và sự nhiễm mặn của
nước ngầm, tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và tài nguyên nước ngọt.
Tài nguyên nước và sản xuất nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Theo dự đoán của các nhà khoa học, đến năm 2080, sẽ có thêm khoảng
1,8 tỷ người phải đối mặt với sự khan hiếm nước, khoảng 600 triệu người sẽ
phải đối mặt với nạn suy dinh dưỡng do nguy cơ năng suất trong sản xuất nông
nghiệp giảm. Bên cạnh đó còn có xu hướng làm giảm chất lượng nước, sản
lượng sinh học và số lượng các loài động, thực vật trong các hệ sinh thái nước
ngọt, làm gia tăng bệnh tật, nhất là các bệnh mùa hè.
b. Ứng phó với biến đổi khí hậu
"Ứng phó" theo định nghĩa Từ điển Tiếng Việt được hiểu là chủ động đối
phó nhanh nhạy kịp thời với những tình huống mới, bất ngờ. Vì vậy, có thể hiểu
ứng phó với biến đổi khí hậu là hoạt động chủ động đối phó với những tình
huống, diễn biến của biến đổi khí hậu.
Ứng phó với biến đổi khí hậu cũng có thể được hiểu là các hoạt động của
con người nhằm thích ứng và giảm nhẹ các tác nhân gây ra biến đổi khí hậu.
Trong phạm vi của luận án, tác giả quan niệm ứng phó với biến đổi khí
hậu là các hoạt động chủ động của con người nhằm thích ứng với biến đổi khí
hậu (giảm nhẹ các thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra) và giảm nhẹ biến đổi khí
hậu (ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa sự
can thiệp tiêu cực của con người đối với hệ thống khí hậu).
3.3.5.2. Quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu
a. Khái niệm quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu
quản lý nhà nước về ứng phó biến đổi khí hậu là sự tác động có tổ chức
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương
trong ứng phó với biến đổi khí hậu trên cơ sở nhận thức rõ tác động của biến

214
đổi khí hậu đối với sự phát triển kinh tế-xã hội để xây dựng các giải pháp ứng
phó phù hợp.
Khi biến đổi khí hậu đang được coi là thách thức thực sự cho sự phát triển
kinh tế-xã hội trong tương lai thì công tác ứng phó với biến đổi khí hậu được
đánh giá là hoạt động ưu tiên của bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế
giới. Là một quốc gia đã, đang và sẽ phải hứng chịu những ảnh hưởng nặng nề
của biến đổi khí hậu, quản lý nhà nước về ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam
được Đảng và Nhà nước xác định là một nhiệm vụ hết sức cấp bách, nhiệm vụ
hàng đầu của cả hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển
bền vững của đất nước.
b. Chủ thể và đối tượng quản lý
Chủ thể quản lý
Ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề mang tính toàn cầu với sự tham
gia của nhiều chủ thể. Ứng phó với biến đổi khí hậu không chỉ đòi hỏi nỗ lực
của chủ thể duy nhất là nhà nước (từ trung ương đến địa phương) mà còn cần có
sự tham gia của các chủ thể khác (cá nhân, tổ chức, cộng đồng).
Nhà nước là chủ thể có đủ nguồn lực, năng lực để tổ chức ứng phó với biến
đổi khí hậu. Nhà nước không chỉ huy động được nguồn lực trong nước mà còn có
thể huy động các nguồn lực bên ngoài để phục vụ cho nhiệm vụ ứng phó với biến
đổi khí hậu. Là chủ thể đại diện cho một quốc gia, Nhà nước mang tiếng nói của
quốc gia để đối thoại với cộng đồng quốc tế nhằm hướng đến việc chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu bảo đảm sự phát triển bền vững cho quốc gia.
Nhà nước là chủ thể chính trong quá trình hoạch định, thực thi chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây
là vai trò gắn liền với chức năng thuộc về bản chất của nhà nước. Ứng phó với
biến đổi khí hậu không chỉ đòi hỏi những nỗ lực đơn lẻ của một cá nhân hay một
nhóm cá nhân, tổ chức. Ứng phó với biến đổi khí hậu đòi hỏi cần phải được thiết
lập một tầm nhìn cần thiết, tính toán toàn diện đến các yếu tố của đời sống kinh

215
tế-xã hội, cân đối giữa mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội, bảo vệ
môi trường... Những điều này chỉ có nhà nước mới có thể đảm nhận.
Nhà nước tổ chức xây dựng và thực hiện các mô hình, biện pháp ứng phó
với biến đổi khí hậu. Ứng phó với biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề mang
tính v mô mà bao hàm các vấn đề mang tính vi mô, những mô hình, những giải
pháp, cách thức thực hiện cụ thể. Nhà nước phối hợp với các chủ thể khác để
xây dựng và thực hiện các mô hình, giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ứng phó với biến đổi khí hậu là một quá trình đòi hỏi nỗ lực không
ngừng nghỉ của các chủ thể có liên quan. Để hoạch định chính sách, pháp luật
về ứng phó với biến đổi khí hậu, các cơ quan nhà nước ở trung ương cần có
nguồn thông tin đáng tin cậy từ các cấp chính quyền địa phương. Nguồn thông
tin này rất đa dạng, bao gồm các thông tin về hiện trạng tác động của biến đổi
khí hậu đến môi trường tự nhiên, kinh tế-xã hội, thực trạng thực hiện các biện
pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, những thành công, những hạn chế trong các
biện pháp, nguyên nhân của những thành công và hạn chế trong ứng phó với
biến đổi khí hậu. Những nguồn thông tin này giúp cho các cơ quan nhà nước ở
tầm hoạch định chính sách có đủ cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng mới, điều
chỉnh, bổ sung, chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu. Sự thiếu hụt nguồn
thông tin, sự sai lệch thông tin từ cấp chính quyền địa phương sẽ dẫn đến các
chính sách, pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu không phù hợp với thực
tiễn, đi chậm so với thực tiễn và không trở thành công cụ để giảm thiểu tác
động và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đối tượng quản lý
Đối tượng của hoạt động quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí
hậu là các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu từ Trung ương đến địa
phương. Trong đó việc tích hợp vấn đề biến đổi khí hậu vào các chiến lược,
chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phát triển ngành
và địa phương; xây dựng các kế hoạch hành động của các Bộ, ngành và địa

216
phương ứng phó với biến đổi khí hậu đang được xem là vấn đề then chốt.
Muốn vậy chúng ta cần phải đánh giá diễn biến khí hậu; xây dựng các kịch bản
biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng; đánh giá tác động của biến đổi khí
hậu đến các lĩnh vực, các ngành và các địa phương. Trên cơ sở kết quả đánh
giá tác động của biến đổi khí hậu và khả năng tổn thương do biến đổi khí hậu
đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương, xây dựng và lựa chọn các giải pháp
ứng phó với biến đổi khí hậu. Xây dựng và triển khai chương trình khoa học
công nghệ quốc gia nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng các thể
chế, chính sách và kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, cần rà soát hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành, đánh
giá mức độ quan tâm đến biến đổi khí hậu trong các văn bản pháp luật và chính
sách của Nhà nước; xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật, các cơ chế, chính sách đảm bảo các cơ sở pháp lý để triển khai các
hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho toàn xã hội về biến đổi khí hậu; đẩy
mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao; và
tranh thủ và sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ của quốc tế, bao gồm: tài chính,
chuyển giao công nghệ thông qua hợp tác song phương và đa phương tham gia
các hoạt động hợp tác khu vực và toàn cầu về biến đổi khí hậu.
Ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng
nên cần có sự phối hợp chặt chẽ và hài hòa của các chủ thể quản lý. Song cũng
cần có sự phân định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm của chủ thể quản lý
đối với các đối tượng quản lý để có được sự thông suốt trong hoạt động quản lý
nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu.
c. Nội dung quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu
Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về ứng phó với biến
đổi khí hậu

217
Nhà nước là chủ thể tổ chức nghiên cứu xây dựng đồng bộ các cơ chế,
chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậu phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước, hài hòa với các chính sách toàn cầu và các điều ước quốc tế về
biến đổi khí hậu mà quốc gia tham gia. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hành vi và mối quan
hệ giữa Nhà nước với công dân, các tổ chức nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã
hội. Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động quan
trọng thể hiện bản chất chấp hành và điều hành của quản lý nhà nước. Trong
phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định, cơ quan quản lý nhà nước xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm
đảm bảo thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước, từ trung ương tới địa
phương trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.
Khung thể chế hướng đến tăng cường sự tham gia của toàn hệ thống chính
trị trong tổ chức chỉ đạo, phối hợp liên ngành, liên vùng về ứng phó với biến đổi
khí hậu; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý các vấn đề biến đổi khí
hậu giữa các cơ quan trung ương với nhau, giữa trung ương với địa phương. Nhà
nước nghiên cứu hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và nguồn lực
để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế. Xây dựng đồng
bộ các cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp, các nhà khoa
học tham gia vào các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Thiết lập các cơ
chế hỗ trợ cộng đồng dân cư, khuyến khích các tổ chức phi chính phủ vào các
hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Các văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo hành lang pháp lý cho công tác
ứng phó với biến đổi khí hậu, tác động vào các mối quan hệ sản xuất, quan hệ
lao động và quản lý để điều chỉnh, định hướng cho hoạt động ứng phó với biến
đổi khí hậu phù hợp với mục tiêu quốc gia. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến
khích xã hội hóa hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên và
môi trường, phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức đoàn thể, xã hội và cộng
đồng dân cư.

218
Nghiên cứu phương án hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định rõ chức
năng quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu; khắc phục tình trạng
chồng chéo về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp không
phù hợp; xây dựng cơ chế quản lý tổng hợp, phối hợp liên ngành, liên vùng.
Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về hoạt động ứng phó với biến đổi khí
hậu. Tăng cường các chế tài hành chính, hình sự, kinh tế và đẩy mạnh công tác
kiểm tra, thanh tra bảo đảm hoạt động có hiệu lực và hiệu quả của cơ quan quản
lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Xây dựng chiến lược, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu
Chiến lược là một chương trình hành động tổng quát, triển khai các giải
pháp để đạt được các mục tiêu toàn diện về phát triển trong một khoảng thời
gian tương đối dài (10 năm, 20 năm).
Kế hoạch là một chương trình hành động cụ thể để đạt đến các mục tiêu
định trước trong những khoảng thời gian nhất định (5 năm, hàng năm). Kế
hoạch bao gồm những mục tiêu cụ thể và những giải pháp hành động cụ thể
được lựa chọn để đạt được những mục tiêu này.
Chiến lược và kế hoạch là những công cụ quan trọng của hoạt động quản
lý. Sau khi chiến lược và kế hoạch được phê chuẩn, chúng là những căn cứ pháp
lý để hướng dẫn hoạt động và đánh giá hoạt động của các chủ thể tham gia thực
thi chiến lược và kế hoạch đề ra.
Để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển bền vững
đất nước, một chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu với tầm nhìn phù hợp,
làm cơ sở cho các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển khác là rất cần
thiết đối với mỗi quốc gia trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến lược này sẽ
là cơ sở để phát huy năng lực của quốc gia, tiến hành đồng thời các giải pháp
thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo đảm an
toàn tính mạng người dân và tài sản, nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền
vững. Ở Việt Nam, tùy từng giai đoạn với những diễn biến của điều kiện môi

219
trường thực tế, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo xây dựng các chiến lược, kế hoạch
hành động để định hướng, thực hiện các mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu
đã đề ra.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tổ chức bộ máy là một cơ cấu hoàn chỉnh của hệ thống, trong đó được
phân thành các bộ phận có nhiệm vụ khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với
nhau, phối hợp hoạt động, hợp tác, tác động và tạo thành một tổng lực hướng
theo mục tiêu chung.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu được
thiết kế từ trung ương đến tỉnh, huyện và xã thông qua cơ quan, tổ chức, cán bộ,
công chức làm nhiệm vụ quản lý chung về môi trường trong đó có đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí
hậu có vai trò quan trọng trong việc quản lý và ứng phó với tác động của biến
đổi khí hậu ở nước ta hiện nay. Đây chính là bộ phận tổ chức thực hiện các
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí
hậu cần bảo đảm các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, hình thành cơ cấu tổ chức hợp lý trong một tổng thể thống nhất.
Ở bất kỳ hệ thống quản lý nào, các bộ phận cấu thành đều phải được sắp xếp
trong một cơ cấu được thiết kế hợp lý, có mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau,
nhằm tạo ra một tổng lực hướng tới mục tiêu chung của tổ chức. Hệ thống tổ
chức quản lý bảo vệ môi trường nói chung, quản lý về ứng phó với biến đổi khí
hậu nói riêng cần được thiết kế hợp lý từ tuyến trung ương đến tuyến địa
phương, có mối liên hệ qua lại hữu cơ trong một tổng thể thống nhất để thực
hiện chức năng quản lý nhà nước đối với đội ngũ này một cách hiệu quả.
Thứ hai, phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ
thống. Việc phân định rõ và hợp lý quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức

220
trong hệ thống sẽ giúp cho toàn hệ thống vận hành một cách hiệu quả, đồng thời
phát huy vai trò của từng tổ chức, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức
trong việc thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm được giao, tránh sự chồng
chéo, trùng lắp, bảo đảm sự vận hành thông suốt của hệ thống.
Thứ ba, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. quản lý nhà nước về
môi trường nói chung, trong đó có quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí
hậu nói riêng cần bảo đảm sự kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ,
nhằm bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa chính quyền địa phương với các bộ, ban
ngành ở trung ương trong quản lý lĩnh vực bảo vệ môi trường ở từng địa
phương, tạo ra sự đồng thuận, hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau để hoàn thành
tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ở từng địa
phương nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Thứ tư, bảo đảm sự phù hợp giữa quyền hạn với trách nhiệm của các tổ
chức. Mỗi tổ chức thực thi các quyền hạn được giao, đồng thời phải chịu trách
nhiệm về các hoạt động của mình trước cơ quan quản lý cấp trên, đồng thời
trước những người dân địa phương trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu.
Việc gắn quyền hạn với trách nhiệm là yêu cầu tất yếu để Nhà nước và mọi
người dân có thể giám sát hoạt động của các tổ chức này nhằm mục tiêu quản lý
tốt công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu trước các yêu
cầu đặt ra.
Xây dựng và tổ chức bộ máy có vai trò quan trọng trong hoạt động quản
lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu. Vấn đề trọng tâm là cần phải xác
định được cụ thể vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, khắc
phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Hơn nữa, ứng phó với biến đổi khí
hậu có đặc thù là vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng nên việc tổ chức bộ
máy cần lưu ý tới cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan từ trung ương
tới địa phương.

221
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ứng phó với biến đổi khí hậu
Đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò nòng cốt trong tổ chức ứng phó với
biến đổi khí hậu. Chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước cần có chính sách phát triển
và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao các chuyên ngành liên quan đến ứng
phó với biến đổi khí hậu. Các hoạt động phát triển nguồn nhân lực cần được tiến
hành ở tất cả các ngành, các cấp từ trung ương tới địa phương. Nội dung nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu bao gồm các
hoạt động sau:
- Đánh giá nhu cầu đào tạo cho từng giai đoạn, từng ngành, từng cấp;

- Đánh giá tiềm lực của các cơ sở đào tạo trong nước hiện có;

- Xác định những lĩnh vực chuyên ngành cần đào tạo liên quan tới biến

đổi khí hậu, bao gồm các lĩnh vực của nghiên cứu cơ bản về biến đổi khí hậu,
phân tích chính sách về giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu, hệ thống
thông tin trong quản lý,...
- Xây dựng chiến lược và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực trong nước và

ở nước ngoài; tăng cường đào tạo nhân lực chuyên sâu nghiên cứu về biến đổi
khí hậu;
- Xây dựng chương trình, giáo trình, quy trình đào tạo cho các khoá đào

tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực biến đổi khí hậu;
- Xây dựng cơ chế thu hút nhân tài và tạo điều kiện để các nhà khoa học

trẻ phát triển trong lĩnh vực biến đổi khí hậu;
- Khuyến khích các nhà khoa học trong nước tham gia các chương trình

nghiên cứu khoa học công nghệ quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu toàn cầu
và nắm giữ các vị trí trong các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ quốc tế.
Huy động nguồn lực ứng phó với biến đổi khí hậu
biến đổi khí hậu đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu nên nguồn lực
cho ứng phó với biến đổi khí hậu không chỉ trông chờ từ phía ngân sách Nhà

222
nước mà cần có sự hỗ trợ của cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước.
Chính vì vậy, một trong những nội dung quản lý nhà nước về ứng phó với biến
đổi khí hậu là cần phải huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong
ứng phó với biến đổi khí hậu. Các nguồn lực ứng phó với biến đổi khí hậu rất đa
dạng từ nguồn lực tài chính đến nguồn lực về khoa học, công nghệ. Các chính
sách ứng phó với biến đổi khí hậu cần bao quát được các nguồn lực để tạo lập
chính sách, thể chế cần thiết.
Biến thách thức trong vấn đề biến đổi khí hậu thành cơ hội để thay đổi
công nghệ và tranh thủ sự hỗ trợ tài chính, đào tạo bồi dưỡng, chuyển giao kỹ
thuật, công nghệ của cộng đồng quốc tế với tư cách là quốc gia đang phát triển.
Việt Nam cũng đã hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế để tập huấn, đào tạo cho
cán bộ ở các ngành, các cấp để học tập trao đổi kinh nghiệm và nâng cao trình
độ quản lý, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.
Chúng ta cần tiếp tục mở rộng, củng cố các quan hệ quốc tế nhằm thu hút
các nguồn tài chính, đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ứng phó với
biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần tăng
cường tuyên truyền, đào tạo nâng cao nhận thức cộng đồng và năng lực quản lý
đô thị; tiếp tục hoàn thiện các nghiên cứu, đánh giá chi tiết về ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu đối với các ngành và lĩnh vực; khả năng dễ bị tổn thương và
khả năng ứng phó cũng như nguy cơ di dân dưới tác động của nước biển dâng
nhằm đề xuất các giải pháp ứng phó cho các ngành, lĩnh vực phù hợp.
Hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu
Hợp tác quốc tế nhằm góp phần giải quyết hai yêu cầu chính là: i) Tranh
thủ khai thác, tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ của quốc tế, bao
gồm cung cấp tài chính, chuyển giao công nghệ mới thông qua các kênh hợp tác
song phương, khu vực và đa phương; ii) Tham gia các hoạt động hợp tác khu vực
và toàn cầu về biến đổi khí hậu. Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng
nặng nề nhất bởi vấnn đề biến đổi khí hậu. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí

223
hậu đã và đang nỗ lực kêu gọi sự hỗ trợ dài hạn, mạnh mẽ của các nhà tài trợ quốc
tế và hiện đã có nhiều dự án liên quan đến biến đổi khí hậu đầu tư vào Việt Nam
trong thời gian qua. Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu
thời gian gần đây đã phát triển theo quan điểm đổi mới về chính sách đối ngoại,
góp một phần đáng kể nguồn vốn hỗ trợ của các nhà tài trợ và các đối tác quốc tế
cho công tác quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu.
biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu và nỗ lực của mỗi quốc gia đơn lẻ là chưa
đủ và chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, hợp tác quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí
hậu là một trong những hành động giữ vai trò then chốt của Nhà nước trong quản
lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu. Hoạt động hợp tác quốc tế về ứng phó
với biến đổi khí hậu được thể hiện ở việc chủ động tham gia và thực hiện các cam
kết trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời, đưa ra những sáng kiến quốc gia
nhằm ứng phó một cách có hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Những năm gần đây, biến đổi khí hậu luôn là vấn đề nóng không chỉ ở Việt
Nam mà rất nhiều quốc gia trên thế giới. Những thiệt hại về con người và kinh tế
do biến đổi khí hậu gây ra đã buộc chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ phải
đặt vấn đề đàm phán quốc tế thành vấn đề mang tính chính trị. Tại Việt Nam,
Chính phủ đã có chiến lược với các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng
được cập nhật thường xuyên và nhấn mạnh: Việt Nam là một trong những nước bị
ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu.
Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm trong việc bảo đảm các mục tiêu ứng
phó với biến đổi khí hậu
Kiểm tra, thanh tra, đánh giá là một khâu tất yếu trong chu trình quản lý
nhà nước. Hoạt động kiểm tra, thanh tra, đánh giá không chỉ là hoạt động nhằm
phát hiện những sai phạm trong quá trình thực hiện mà còn là kênh thông tin để
đánh giá, hoàn thiện chính sách, thể chế quản lý nhà nước về ứng phó với biến
đổi khí hậu; thu thập những kinh nghiệm, những mô hình ứng phó với biến đổi
khí hậu phù hợp có khả năng khái quát thành thể chế tầm quốc gia.

224
Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, công tác hậu
kiểm trước khi cho phép các dự án đi vào hoạt động; quan trắc, kiểm soát chất
thải tại nguồn, đặc biệt là ô nhiễm môi trường tại các cơ sở sản xuất công
nghiệp, bệnh viện... Quản lý chặt chẽ việc khai thác nước ngầm, khai thác
khoáng sản.
Song song với đó, thông qua hoạt động thanh, kiểm tra, đánh giá sẽ cung
cấp những bằng chứng xác thực về những bất cập trong chính sách, thể chế quản
lý, cơ chế điều hành thuộc lĩnh vực quản lý trong hoạt động ứng phó với biến
đổi khí hậu giúp cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện cho phù hợp
với yêu cầu thực tế. Hơn nữa, hoạt động thanh tra, kiểm tra và đánh giá thường
xuyên cũng được coi một “yếu tố tạo áp lực” cho các cá nhân, tổ chức trong xã
hội nâng cao tính tuân thủ pháp luật, thực hiện nghiêm các quy định của Nhà
nước trong quản lý, điều tiết thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu.

225
Câu hỏi và ôn tập Chƣơng 3
1. Khái niệm quản lý nhà nước về môi trường ? Nêu và phân tích công cụ
quản lý nhà nước về môi trường ?
2. Nêu và phân tích nội dung và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường ở Việt Nam ?
3. Nêu và phân tích các nguyên tắc quản lý nhà nước về môi trường ?
Từ những nguyên tắc này áp dụng như thế nào trong hoạt động bảo vệ mt ở
việt nam ?
4. Nêu và phân tích trách nhiệm các cơ quan nhà nước trong quản lý môi
trường ( Khu công nghiệp và đô thị, khu vực nông thôn, môi trường làng nghề) ?
5. Nêu và phân tích nội dung và trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước trong quản lý nhà nước theo thành phần môi trường ( Đất, nước,
không khí) ?
6. Nêu và phân tích trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà nước trong quản
lý bảo vệ môi trường ở Việt Nam?
7. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam ?
8. Biến đổi khí hậu là gì ? Phân tích trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước về ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam ?

226
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt
1. Lê Huy Bá - Môi trường - Sách xuất bản – 1997. Báo cáo nghiên cứu
chính sách của Ngân hàng thế giới – xanh hoá công nghiệp – vai trò mới của
cộng đồng, thị trường và chính phủ. Ngân hàng thế giới 2000.
2. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường , Trung tâm Kinh tế Môi
trường và Phát triển vùng, ĐH KTQD, Báo cáo tổng hợp đề tài "Cơ sở khoa học
và thực tiễn xây dựng các quy định về đặt cọc - hoàn trả, ký quĩ và bảo hiểm
môi trường, Hà Nội 1999.
3. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường , Cục Môi trường, Các quy
định pháp luật về môi trường, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Tập 1,2,3,4
4. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Cục Môi trường, 200 câu hỏi
đáp về môi trường, Hà Nội 2000
5. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Cục Môi trường, Giới thiệu về
công cụ kinh tế và khả năng áp dụng trong quản lý môi trường ở Việt Nam, Hà
Nội 2001.
6. Lê Thạc Cán - Đánh giá tác động môi trường, Phương pháp luận và
kinh nghiệm thực tiễn – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật - 1995
7. Lê Thạc Cán, Nguyễn Duy Hồng, Hoàng Xuân Cơ - Kinh tế Môi
trường, Giáo trình Đại học Mở - HN 1995
8. Lê Thạc Cán - Cơ sở khoa học môi trường - Giáo trình Đại học Mở - 1995.
9. Nguyễn Thế Chinh, áp dụng các công cụ kinh tế để nâng cao năng lực
quản lý môi trường ở Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.
10. TS. Nguyễn Thế Chinh - Đầu tư cho sản xuất sạch hơn nhìn từ góc
độ kinh tế. Thông tin dự án “những chiến lược và cơ chế nhằm khuyến khích
đầu tư cho sản xuất sạch hơn tại các nước đang phát triển”. Chương trình môi
trường Liên hợp quốc (UNEP). Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI). 2002.
11. Chương trình đào tạo kinh tế FulBright, tập bài giảng "Kinh tế học
Môi trường và chính sách", Tp. Hồ Chí Minh 1998.

227
12. Hoc viện Hành chính (2008). Giáo trình quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
13. Phạm Ngọc Đăng (1997). Môi trường không khí, Nhà Xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
14. Lưu Đức Hải (chủ biên), Phạm Thị Việt Anh, Nguyễn Thị Hoàng
Liên, Vũ Quyết Thắng (2009) Cẩm nang quản lý môi trường, Nhà Xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
15. Lê Văn Khoa (chủ biên), Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Xuân Cự, Lê
Đức, Lưu Đức Hải, Thân Đức Hiển, Trần Khắc Hiệp, NGuyễn Đình Hòe, Phạm
Ngọc Hồ, Trịnh Thị Thanh (2001). Khoa học Môi trường, Nhà Xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
16. Học viện Chính trị-Hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh- Viện
Chính trị học (2009). Tập bài giảng Chính trị học hệ cao cấp lý luận chính trị
(tái bản lần thứ tám), Nhà Xuất bản Chính trị-Hành chính, Hà Nội
17. Lê Văn Khoa (chủ biên), Đoàn Văn Tiến, Nguyễn Song Tùng,
NGuyễn Quốc Việt (2010). Môi trường và phát triển bền vững, Nhà Xuất bản
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
18. Quốc hội, 2014, Luật Bảo vệ môi trường.
19. Quốc hội, 2004, Luật bảo vệ và phát triển rừng.
20. Quốc hội, 2008, luật Đa dạng sinh học.
21. Quốc hội, 2010, Luật khoáng sản.
22. Quốc hội, 2013, Luật đất đai.
23. Quốc hội, 2017, Luật tài nguyên nước.
24. Lâm Minh Triết, Huỳnh Thị Minh Hằng (2008). Con người và Môi
trường. ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh.
II. Tiếng nƣớc ngoài
1. Ahmed M. Hussen, Principles of Environmental Economics: Economics,
ecology and public policy, T.J. Internatinal Ltd., Padstow, Great Britain, 2000.
2. Barry C Field, The Economics of Environmental Quality,
Environmental Economis Mc Graw Hill Publishers, New York 1994.

228
3.David O'Connor, Managing the Environment with Rapid
Industrialization Lessons from the East Asian Experience, OECD, Development
Centre, Paris, 1994.
4. David Pearce and R. Kerry Turner, Economics of Natural Resource and
the Environment, Harvester Wheatsheaf, T. J. Press (Padstow) Ltd., Great
Britain, 1990.
5. Environmentall issues in investment planning for sustainable
development. Proceedings of a Seminar for Planning Experts from Vietnam;
Germany, Tune 2000.
6.Hans. B. Opschoor, Kenneth Button and Pieter Nijkamp, Environmental
Economics and Development, Edward Elgar Publishing Limited, Cheltenham,
UK, 1999.
7. Henk Folmer, H. Landis Gabel and Hans Opschoor, Principles of
Environmental and Resource Economics. A guide for students and Decision
Makers, Edward Elgar Publishing Ltd., Cheltenham, UK 1997.
8.E. Kula, Economics of Natural Resources, the Environment and
Policies, Second Edition, Chapman and Hall, St. Edmundsbury Press, Great
Britain, 1997.
9. Michael Common, Environmental and Resource Ecomomics: An
Introduction, Second Edition, Addision Wesley Longman Ltd., New York 1996.
10. OECD - Organization for Economic Co-operation and Development,
Managing the Environment: The role of Economic Instruments, Paris, 1994.
11. Tom Tietenberg, Environmental and Natural Resource Economics,
Third Edition, Harper Collins Publishers Inc. New York, 1992.
12. The VAT Project, Economics and Environmental Protection (Lecture
Material), Ha Noi, 2001

229

You might also like