You are on page 1of 19

MỤC LỤC

Trang

1. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 3


2. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 5
Chương 1. NGUYÊN LÝ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN ........................................... 5
1.1 Khái niệm .......................................................................................................... 5
1.1.1. Liên hệ ........................................................................................................... 5
1.1.2 Mối liên hệ ...................................................................................................... 5
1.2. Tính chất của mối liên hệ ............................................................................... 6
1.2.1 Tính khách quan ........................................................................................... 6
1.2.2 Tính phổ biến. ................................................................................................ 6
1.2.3 Tính đa dạng phong phú .............................................................................. 7
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ phổ biến ................................... 8
Chương 2. VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ NÀY VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY. ..................................................................................................... 9
2.1 Khái quát về hoạt động học tập của sinh viên. .............................................. 9
2.1.1 Sự hình thành hoạt động học tập. .............................................................. 10
2.1.2 Sự hình thành các hành động học tập ....................................................... 13
2.1.3 Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên. ............................ 13
2.1.4 Hoạt động học tập của sinh viên Bách Khoa ............................................ 13
2.2 Đánh giá thực trạng việc hoạt động học tập của sinh viên hiện nay. ........ 14
2.2.1 Những mặt tích cực và nguyên nhân ......................................................... 14
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân................................................................. 17
3.KẾT LUẬN ............................................................................................................... 20
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 21

2
1.PHẦN MỞ ĐẦU
“ Trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật hội nhập toàn cầu
hóa hiện nay, hay từ xưa đến nay triết học vẫn đóng một vai trò cực kì quan trọng- Triết
học không chỉ đơn thuần là một môn học mà nó giúp cho con người vượt qua những khó
khăn, thử thách,giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng mắc của cuộc sống
, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không chỉ là kinh tế, kỹ thuật
hiện đại và công nghệ cao. Triết học giúp cho con người tìm ra lời giải không chỉ cho
những thách đố muôn thuở, mà còn cho những vấn đề hoàn toàn mới do quá trình toàn
cầu hóa đặt ra và nó còn giúp con người nhận thức rõ địa vị của mình, lối sống xứng
đáng với con người , mà còn giúp họ xác định mục tiêu và lý tưởng sống để từ đó góp
phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ cho chính mình. Không chỉ thế, trong giai đoạn
hiện nay, triết học định hướng con người có hướng đi đúng đắn trong hành động và củng
cố quyết tâm hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi,
hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra Triết học, nhưng nội dung cốt lõi
của triết học bao giờ cũng bao gồm những quan điểm lý luận chung nhất, những lời giải
đáp có luận chứng cho những câu hỏi của con người về thế giới xung quanh mình, về vị
trí của con người trong thế giới đó, về quan hệ giữa con người với nhau.”
Vai trò thế giới quan của triết học được thể hiện ở chỗ nó cung cấp cho chúng ta
cách lý giải về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Như vậy, triết học sẽ
cung cấp cho chúng ta cách nhìn tổng quát về thế giới nói chung và về xã hội loài người
nói riêng. Trong tất cả các nguyên lí phạm trù của Triết thì nguyên lí “mối quan hệ phổ
biến” là một trong những nguyên lí cơ bản giúp ta khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng
nào, chúng ta phải đặt nó trong quan hệ với sự vật hiện tượng khác, phải nghiên cứu các
mặt cấu thành của nó, các quá trình phát triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm
ra mối liên hệ bản chất chủ yếu.
Ở bậc đại học cũng diễn ra tình trạng tương tự. Sinh viên học nhiều kiến thức, vùi
đầu vào sách vở mà không hiểu sâu hoặc không biết ứng dụng vào thực tiễn như thế
nào. Chương trình đào tạo chưa đáp ứng đòi hỏi, nhu cầu thực tế, chưa thỏa mãn yêu
cầu ngày càng cao của các công ty, xí nghiệp. Cho nên đã xảy ra tình trạng nhiều sinh
viên ra trường rất khó kiếm việc làm hoặc phải làm trái nghề. Dù có thể nhận việc đúng
với chuyên môn, rất nhiều sinh viên vẫn cần một thời gian dài để đào tạo lại để phù hợp
với yêu cầu công việc. Chỉ chạy theo kiến thức sách vở, chạy theo bằng cấp đã khiến
cho người học ngày càng xa rời thực tiễn. Có những trường hợp, người có trong tay
nhiều bằng cấp song lại loay hoay, lúng túng trước một công việc cụ thể.
Ở cấp độ cao hơn nữa, nhiều công trình nghiên cứu khoa học chưa bám sát thực tiễn,
còn rất ít công trình nghiên cứu khoa học mang tính ứng dụng cao. Trong thời đại công
nghệ phát triển như vũ bão, các phát minh sáng chế xuất hiện hằng ngày, ở các nước
phát triển, giáo dục - đào tạo luôn luôn bám sát tốc độ biến đổi ấy để tránh bị lạc hậu.
Học phải gắn liền ứng dụng thực tiễn thì giáo dục - đào tạo mới thể hiện được vai trò

3
nâng cao nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Trên những cơ sở đó với bài báo cáo này nhóm chúng em sẽ phân tích mối liên hệ
phổ biến và vận dụng nguyên lí này vào hoạt động của sinh viên hiện nay nói chung và
hoạt động học tập của sinh viên nói riêng, với hi vọng qua nghiên cứu này chúng ta có
thể hiểu rõ hơn những khó khăn thách thức trong việc vận dụng lý thuyết vào hoạt động
học tập của sinh viên từ đó nhóm chúng em sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
khả năng vận dụng kiến thức của sinh viên.

Trong suốt quá trình thực hiện bài tập lớn của môn học đầu tiên nhóm chúng em xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại Học Bách Khoa đã đưa ra môn học Triết học,
đặc biệt nhóm cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tri ân chân thành nhất đến giảng viên bộ
môn- cô An Thị Ngọc Trinh, người đã dạy dỗ truyền đạt kiến thức quý báu và đã hướng
dẫn cho đề tài triết học này. Trong quá trình tham gia lớp học nhờ có cô hết lòng chỉ bảo
mà nhóm đã hoàn thành bài tập lớn đúng tiến độ và giải quyết tốt những vướng mắc gặp
phải. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn
nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù nhóm em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài báo cáo khó có
thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn chưa chính xác, kính mong cô xem xét
và góp ý để bài báo cáo của nhóm em được hoàn thiện hơn.

Lời cuối, xin một lần nữa gửi lời biết ơn sâu sắc đến các cá nhân, các thầy cô đã dành
thời gian chỉ dẫn cho nhóm. Đây chính là niềm tin, nguồn động lực to lớn để nhóm có
thể đạt được kết quả này. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
NHÓM THỰC HIỆN

4
2. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NGUYÊN LÝ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1.1 Khái niệm:
1.1.1 Liên hệ:
Liên hệ: Là sự tác động giữa hai đối tượng mà sự thay đổi của một trong số chúng nhất
định sẽ dẫn đến sự thay đổi của đối tượng còn lại.
1.1.2 Mối liên hệ:
Mối liên hệ: là một phạm trù triết học dung để hỉ sự quy định, ràng buộc, phụ thuộc, tác
động, ảnh hưởng lẫn nhu giữa các yếu tố, các bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đội tượng với nhau.
Ví dụ: “Giữa cung và cầu (hàng hoá, dịch vụ) trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình:
cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hoá
lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu.
Đó chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung
và cầu.”1
Mối liên hệ phổ biến:
a) Gồm :Mối liên hệ phổ biến và Mối liên hệ phổ biến nhất
Mối liên hệ phổ biến: là những mối liên hệ nằm ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.
Mối liên hệ phổ biến nhất: là mối liên hệ tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng của thế
giới, từ giới tự nhiên, xã hội cho đến tư duy và là đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật.
-Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc
lẫn nhau
-Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ
biến
-Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến: chúng chi phối một cách tổng quát
quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xảy ra trong thế giới.
b) Khái niệm mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa:

1
Loigiaihay.com, Thế nào là mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến? Cho ví dụ.
5
+ Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ (ví dụ như: khi khẳng định rằng mối
liên hệ là cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự
vật, hiện tượng nào, lĩnh vực nào);
+ Đồng thời, khái niệm này cũng dùng để chỉ: những liên hệ tồn tại (được thể hiện) ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới (tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối
liên hệ đặc thù chỉ biểu hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất
định).
Ví dụ: “Mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là mối liên hệ
chung, nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù tuỳ
theo từng loại thị trường hàng hoá, tuỳ theo thời điểm thực hiện... Khi nghiên cứu cụ thể
từng loại thị trường hàng hoá, không thể không nghiên cứu những tính chất riêng có
(đặc thù) đó. Nhưng dù khác nhau bao nhiêu thì chúng vẫn tuân theo những nguyên tắc
chung của mối quan hệ cung cầu.”2
1.2 Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
1.2.1 Tính khách quan
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau
và làm chuyên hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là
cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người
chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ 1: “Mối liên hệ ràng buộc và tương tác (theo lực hút – đẩy) giữa các vật thể; mối
liên hệ giữa trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hoá – dị hoá); mối liên
hệ ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cung và cầu hàng hoá trên thị trường; mối liên
hệ tất yếu giữa các khái niệm trong quá trình tư duy của con người,… đều là những mối
liên hệ khách quan, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.”3
Ví dụ 2: Con người có các quan hệ xã hội giữa người này với người khác có như vậy
con người mới tồn tại, vận động, phát triển.
Ví dụ 3: Ngay cả những vật vô tri, vô giác chịu sự tác động bởi ánh sáng, nhiệt,
con người chúng ta cũng phải chịu sự tác động của những người xung quanh, của
tự nhiên, của xã hội…
1.2.2 Tính phổ biến
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn
tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm
những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn

2
Loigiaihay.com, Thế nào là mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến?Cho ví dụ.
3
Loigiaihay.com,Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ có những tính chất chung nào? Cho ví dụ.
6
tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ
thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Ví dụ 1: “Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng tự trao đổi chất với
môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển; đồng thời bản thân môi trường sống cũng
là một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp, phân hệ trực tiếp và gián tiếp…”4
Ví dụ 2: Tự nhiên: cây muốn sống thì phải trao đổi chất, quang hợp
Xã hội: con người muốn tồn tại và phát triển phải tham gia vào các quá trình sản xuất
vật chất, và quá trình này còn phải tham gia vào các hoạt động khác.
Trong tư duy một ý nghĩa bất chợt cũng liên quan đến trước và sau khi nó xuất hiện
Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về
sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù
trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không
gian và thời gian cụ thể.

+ Mối liên hệ bên trong:

Là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các thuộc
tính, các mặt khác nhau của sự vật, nó giữ vai trò quyết định sự tồn tại, vận động và phát
triển của sự vật. Ví dụ: trong xã hội tư bản chủ nghĩa, có mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản
và công nhân giải quyết nó làm cho xã hội phát triển. Trong bản thân con người có mâu
thuẫn giữa hai quá trình đồng hóa và dị hóa giải quyết nó làm cho cơ thể phát triển…

+ Mối liên hệ bên ngoài:

Là mối liên hệ giữa một sự vật, hiện tượng này với một sự vật hiện tượng khác,
hoặc một sự vật, hiện tượng này với các sự vật hiện tượng khác.

Mối liên hệ này không quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật
mà nó chỉ đóng vai trò trung gian. Ví dụ: xét xã hội Việt Nam hiện nay có mâu thuẫn
giữa Việt Nam và các nước tư bản chủ nghĩa đó là mối liên hệ bên ngoài giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong tự nhiên, xét một cây xanh thì mối
mối liên hệ bên ngoài là là giữa nó với môi trường sống, với con người…

4
Loigiaihay.com, Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ có những tính chất chung nào? Cho ví dụ.
7
+ Ngoài ra còn có các mối liên hệ khác như: mối liên hệ bản chất -không bản chất; mối
liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên v.v….

1.2.3 Tính đa dạng, phong phú


Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng
đều có nhiều mối liên hệ khác nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và crián tiếp, cơ
bản và không cơ bản… chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển
của sự vật đó; đồng thời, mỗi mối liên hệ đó lại có những biểu hiện phong phú khác
nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau…
Ví dụ 1:
Liên hệ giữa mặt trời và trái đất
Liên hệ vô cơ, hữu cơ và chất sống
Liên hệ thực vật và động vât
Ví dụ 2: Mối liên hệ riêng của thế giớ: kinh tế - chính trị - xã hội, mối quan hệ giữa loài
rắn, loài rùa,..
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ phổ biến
a. Quan điểm toàn diện:

Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với
các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật,
hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự
vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật
của chúng.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián
tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Đồng thời, quan điểm toàn
diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối
liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... để
hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động,
chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện
xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao
cho phù hợp với từng con người, có cách giao tiếp, “đối nhân xử thế” phù hợp.
8
b. Quan điểm lịch sử:

Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải
kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.

Vì sự vật nào cũng có quá trình hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển, mỗi giai
đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho nên khi
xem xét sự vật vừa phải xem xét quá trình phát triển của nó, vừa phải xem xét trong từng
điều kiện quá trình. Do đó cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể.

Nét đặc trưng của xã hội loài người là con người ta phải sản xuất thì mới có thể
tồn tại và phát triển. Thời đại nào cũng phải sản xuất. Như thế, nói theo ngôn ngữ biện
chứng thì sản xuất là một phạm trù “vĩnh viễn”, nghĩa là nó luôn luôn xảy ra, bất kể
trong hình thái xã hội nào, ở giai đoạn nào.

Từ nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát thành nguyên
tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử - cụ thể, với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động
nhận thức và thực tiễn như sau:

Thứ nhất, nhận thức sự vật trong mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt của chính sự vật
và trong sự tác động giữa sự vật đó với các sự vật khác hoặc trong sự tác động giữa sự
vật đó với môi trường, với các điều kiện khác nhau xảy ra mối liên hệ.
Thứ hai, biết phân loại từng mối liên hệ, xem xét có trọng tâm, trọng điểm, làm nổi bật
mối liên hệ bản chất, cơ bản, chủ yếu, bên trong , tất nhiên của sự vật, hiện tượng.
Thứ ba, từ việc rút ra mối liên hệ bản chất, cơ bản, chủ yếu, bên trong, tất nhiên của sự
vật cần đặt chúng trong bối cảnh cụ thể, tức là nguyên tắc toàn diện phải đi đôi với
nguyên tắc lịch sử - cụ thể, cùng với việc đặt mối liên hệ bản chất trong tổng thể các
mối liên hệ, thì cũng phải xem xét sự vật, hiện tượng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thứ tư, luôn xuất phát từ sự vật, hiện tượng cụ thể, tránh phiến diện siêu hình, chiết
trung và ngụy biện.
Chương 2. VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ NÀY VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA SINH VIÊN
HIỆN NAY
2.1 Khái quát về hoạt động học tập của sinh viên.
Theo triết học, hoạt động là quá trình diễn ra giữa con người với giới tự nhiên,
một quá trình trong đó bằng hoạt động của mình con người làm trung gian điều tiết kiểm
tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên.

9
Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người được điêu khiển bởi mục đích
tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, những giá trị, những hình thức
hành vi và những hoạt động nhất định. Hoạt động học là hoạt động tiếp thu
Khi nói đến hoạt động học cần làm rõ khái niệm học và khái niệm hoạt động học.
Trong cuộc sống đời thường con người luôn luôn có quá trình tích tiếp thu, tích luỹ
những kinh nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học, làm cơ sở
tiếp thu những khái niệm khoa học ở trong nhà trường. Đó chính là việc học, là cách học
theo phương pháp của cuộc sống thường ngày, giống như con người khi sinh ra đến khi
chết học ăn học nói học gói học mở, đi một ngày đàng học một sàng khôn…Trên thực
tế, chỉ có phương thức đặc thù( phương thức nhà trường) mới có khả năng tổ chức để cá
nhân tiến hành hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua đó hình thành ở cá nhân
những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; và trong tâm
lý học sư phạm, hoạt động học là khái niệm chính được dùng để chỉ hoạt động học diễn
theo phương thức đặc thù, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
2.1.1 Sự hình thành hoạt động học tập.
- Bản chất của hoạt động học.
Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở người
học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Sự thuận lợi cho người học ở đây
đó là con đường đi mà để phát hiện lại đã được các nhà khoa học tìm hiểu trước, giờ
người học chỉ việc tái tạo lại. Và để tái tạo lại, người học không có cách gì khác đó là
phải huy động nội lực của bản thân ( động cơ, ý chí, …), càng phát huy cao bao nhiêu
thì việc tái tạo lại càng diễn ra tốt bấy nhiêu. Do đó hoạt động học làm thay đổi chính
người học. Ai học thì người đó phát triển, không ai học thay thế được, người học cần
phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, vì mình trong quá trình học. Mặc dù hoạt
động học có thể cũng có thể làm thay đổi khách thể. Nhưng như thế không phải là mục
đích tự thân của hoạt động học mà chính là phương tiện để đạt được mục đích làm thay
đổi chính chủ thể của hoạt động.
Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa là
việc học không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà học phải
tiến đến những tri thức khoa học, những tri thức có tính chọn lựa cao, đã được khái quát
hoá, hệ thống hoá.
Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động học.
Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải biết cách học, phương pháp học,
nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân hoạt động học.

10
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh. Do đó nó giữ vai trò
chủ đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa tuổi này.
- Đối tượng của hoạt động học.
Nếu gọi chủ thể của hoạt động học là người học thì đối tượng của hoạt động học
hướng tới đó là tri thức. Nhưng tri thức mà học sinh phải học được lựa chọn từ những
khoa học khác nhau, theo những nguyên tắc nhất định, làm thành những môn học tương
ứng, và được cụ thể ở những đơn vị cấu thành như: khái niệm, kĩ năng, thái độ… Đối
tượng của hoạt động học có liên quan chặt chẽ với đối tượng của khoa học. Tuy vậy, có
sự khác nhau về nguyên tắc giữa hoạt động học và hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt
động học là hoạt động tái tạo lại những tri thức đã có từ trước ỏ người học, còn hoạt
động nghiên cứu khoa học đó là phát hiện những chân lý khoa học mà loài người chưa
biết đến. Có thể nói: đối tưởng của hoạt động học là cái mới với cá nhân nhưng không
mới đối với nhân loại.
- Phương tiện học tập.
Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể phải có những
phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong hoạt động học tập,
ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính…mà nó còn mang
tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi yếu tố của quá của nó đều được hình
thành trong quá trình học tập. Phương tiện của học tập không có sẵn trong tâm lý chủ
thể mà hình thành chính trong quá trình chủ thể tham gia hoạt động học tập.
Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập: so sánh, phân
loại, phân tích, khái quát hoá.. Tâm lý học đã khẳng định so sánh, phân loại là những
hành động học tập là phương tiện đắc lực cho việc hình thành những khái niệm kinh
nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phưong tiện để hình thành nên những khái niệm
khoa học.
Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy. Trong
giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết.
- Điều kiện học tập.
Hoạt động học muốn được diễn ra phải có điều kiện của nó. Điều kiện đầu tiên
đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng dẫn của thầy,
sách, vở, bút, máy tính, giáo trình…Và điều kiện thứ hai đó là có sự vận động của chính
bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực. Đó là những tri thức mà người học học
được, trình độ trí tuệ hiện có của người học, động cơ, ý chí, hứng thú của người học…Có
đầy đủ những điều kiện đó, người học dù trong hoàn cảnh có thầy với trò, hay không có
đối mặt với thầy thậm chí khi ra trường, hoạt động học vẫn diễn ra. Từ đó có thể hiểu
học là quá trình tương tác các yếu tố ngoại lực và yếu tố nội lực thông qua hoạt động
dạy và học. Trong đó, yếu tố nội lực ở đây đóng vai trò quan trọng trong hoạt động học
của người học.
-Động cơ học tập

11
Điều đầu tiên ta cần biết “động cơ là khái niệm dùng để phản ánh ở một mức độ
cao hơn, trong một hoàn cảnh nào đó, sự lựa chọn hành vi sẽ xuất hiện khi có hàng loạt
kích thích đồng thời đến chủ thể”5
Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động học. Nói
đến hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động cơ học tập.
-Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập gồm: đời sống tinh thần, năng lực
giảng viên, sự phù hợp của ngành học, chương trình đào tạo, nhận thức sinh viên và cơ
sở vật chất. Chúng tác động đến động cơ học tập của sinh viên, trong đó đời sống tinh
thần có tác động lớn nhất. Đời sống tinh thần có thể hiểu là môi trường xung quanh ảnh
hưởng đến hoạt động học tập của sinh viên. Một khi chủ thể có nhu cầu nhưng không
có đối tượng thỏa mãn thì chủ thể cũng sẽ không có động lực gì cả, vấn đề là chúng ta
cố gắng khơi dậy nhu cầu từ chủ thể. Mặt khác, ngay cả khi có đối tượng thỏa mãn
nhưng chủ thể không có điều kiện hoặc không thể thỏa mãn được nhu cầu thì động cơ
cũng có thể bị triệt tiêu… các yêu tồ bên ngoài nhiều lúc trở thành yếu tố tích cực để
hình thành động cơ thúc đẩy chủ thể hành động … Học tập là một hoạt động không chủ
chịu tác động từ ý thức hoặc những đọng cơ học tập mà còn có thể hình thành từ môi
trường xung quanh, từ ứng xử của thầy cô, mối quan hệ của các thành viên trong lớp
hoặc nhà trường. Chính vì vậy, việc tạo dựng môi trường học tập tốt là một trong những
cách thức có thể hình thành động cơ học tập mạnh mẽ cho người học.
-Mục đích học tập
Mục đích được hiểu là cái mà hành động đang diễn ra hướng tới. Hoạt động học
được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến hành dưới các hành động học. Vậy mục đích
của hoạt động học là các khái niệm, các giá trị, các chuẩn mực…..mà hành động học
đang diễn ra hướng đến nhằm đạt được nó. Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ
việc hình thành trong chủ thể dưới các dạng là các biểu tượng sau đó được tổ chức để
hiện thực hoá biểu tượng trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích
được hoàn thành. Mục đích của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có
điều nó có tính đặc thù riêng đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để
thay đổi chính chủ thể ở đây là người học. Và mục đích này chỉ có thể được bắt đầu hình
thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của mình. Trên con
đường chiếm lĩnh đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và
phương tiện học tập. Mục đích bộ phận được thực hiện đầy đủ nó lại trở thành công cụ
để chiếm lĩnh các mục đích tiếp theo.
Động cơ của hoạt động học tập ở sinh viên được hiện thân ở những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo mà giáo dục ở nhà trường mang lại cho các em. Trong thực tiễn giáo dục,
động cơ học tập được chia thành hai loại: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan
hệ xã hội. Thuộc về loại động cơ hoàn thiện tri thức ở đây là lòng ham mê, khát khao
mở rộng tri thức, say mê với những môn học. ..Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi
động cơ này nó không chúa những mâu thuẫn bên trong và nó đòi hỏi phải có những nỗ

5
Đinh Phương Duy. (17-18/7/2015), Hình thành động cơ học tập cho học sinh từ môi trường thân thiện.
12
lực ý chí để đạt được nguyện vọng chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản
thân mình. Động cơ quan hệ xã hội đó là sự thưởng phạt hoặc đe doạ, những áp lực gia
đình, nhà trường, công việc, sự hiếu danh hoặc mong đợi sự hạnh phúc..ở mức độ nào
đó động cơ này mang tính cưỡng bách, và có lúc xuất hiện như một vật cản cần khắc
phục để vượt qua đạt được mục đích của mình.
2.1.2 Sự hình thành các hành động học tập
Học tập là một quá trình do đó khi nói đến hoạt động học tập phải nói đến sự
hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được hiểu là hành động trí óc,
nhằm chiếm lĩnh tri thức. Hành động học có rất nhiều các hành động khác nhau, và bản
chất nhất, cơ bản nhất có các hành động chính sau:hành động phân tích ( tìm ra nguồn
gốc nội tại, cấu trúc logic của đối tượng), hành động mô hình hoá ( giúp con người diễn
đạt các khái niệm một cách trực quan, nó bao gồm mô hình gần giống với vật thật, mô
hình tượng trưng, mô hình mã hoá, nó được dùng nhiều trong sinh học…), hành động
cụ thể hoá (nhằm vận dụng giúp người học hiểu được rõ nhất bản chất của vấn đề, giải
quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ thể từng lĩnh vực.
2.1.3 Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên.
+ Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả
hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng mà thay đổi
chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành
những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người
chuyên gia tương lai.
+ Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ thuộc
vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo.
+ Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính…
+ Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng thẳng,
mạnh mẽ về trí tuệ.
+ Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập cao
Cái cốt lõi của hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ mục đích, biện
pháp học tập.
2.1.4 Hoạt động học tập của sinh viên Bách Khoa
Hiện nay, sinh viên có nhiều điều kiện cũng như cơ sở vật chất thuận lợi cho việc
học tập như : thư viện trường, phòng thí nghiệm, các xưởng thực tập… Ngoài ra, nhà
trường thường xuyên tổ chức các hoạt động học tập đến từ các khoa tạo điều kiện thuận
lợi cho sinh viên tham gia sáng tạo, cải thiện bản thân, học hỏi các chuyên gia,…Tuy
nhiên, sinh viên vẫn còn chưa biết tận dụng hết những điều kiện nhà trường tạo ra. Nhiều
sinh viên vẫn còn lười biếng, không có mục tiêu trong học tập. Cùng với sự phát triển
của khoa học và công nghệ, lượng thông tin ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, chương
trình đào tạo ngày càng tinh gọn. Số tiết trực tiếp trên lớp giảm nhiều so với trước đây,
13
trong khi yêu cầu với người đọc ngày càng cao. Do vậy, hơn lúc nào hết, tầm quan trọng
của tự học tăng nhanh. Trong điều kiện như vậy thì những gì sinh viên tiếp thu được từ
nhà trường sẽ kém phong phú hơn rất nhiều những điều họ tiếp thu được ở gia đình và
xã hội. Mặt khác trong cơ chế thị trường hiện nay, nhà trường đóng vai trò sử dụng cung
cấp dịch vụ người học, người sử dụng lao động đóng vai trò sử dụng dịch vụ và chính
phủ đóng vai trò giám sát, điều chỉnh quan hệ cung cầu. Lúc này nếu chất lượng đào tạo
của nhà trường không đảm bảo nếu không đáp ứng yêu cầu đó. Dạy học trong nhà trường
không phải là cung cấp một khối lượng tri thức hàn lâm kinh điển mà dạy cho người học
phương pháp tiếp cận thông tin, phương pháp tư duy để họ có thể tiếp tục học sau khi
rời ghế nhà trường. Dạy hoc Đại hoc thực chất là dạy cách học, cách tự học để học tập
suốt đời. Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu
quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà trong tương lai, họ sẽ trở thành người
cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực, có thói quen và phương pháp tự học suốt đời.
2.2 Đánh giá thực trạng việc liên hệ hoạt động học tập của sinh viên Bách Khoa
hiện nay.
2.2.1 Những mặt tích cực và nguyên nhân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng,
mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động
của mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử
dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, để
từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần phải phân
biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật và có phương
pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân.
Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định
Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng
phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với
chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những
gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập.
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết
quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ giúp
định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới
quan của mỗi con người.
14
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học một
cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :
- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng mũi,
bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn tại,
học để chung sống với con người, với vạn vật, với muôn loài...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời
gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào phù
hợp vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt
năng suất, khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết thế nào...
- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy rằng:
“Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải luôn ý thực là lí
thuyết hay cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều
hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác
hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần hiểu :
“học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được
đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh
đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết
của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài
người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực
hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có
mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống nhất,
nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
➢ Những mặt tích cực:
• “Hiện nay, nhà trường đã tu sửa lại một số phòng học, thư viện, phòng thí nghiệm
để phục vụ cho sinh viên và giảng viên thuận lợi trong việc dạy và học.
Thư viện Trường ĐH Bách khoa có lịch sử lâu đời: thành lập vào năm 1977 trên
cơ sở sáp nhập Thư viện Trung tâm Quốc gia kỹ thuật Phú Thọ, Thư viện Bách
khoa trung cấp, và Thư viện Cao đẳng hóa học. Đây là một trong những thư viện
ĐH lớn nhất quốc gia với hơn 22.371 tựa sách, 17.782 luận văn tiến sĩ/ thạc sĩ/
khóa luận, 1.704 tài liệu báo cáo khoa học, cùng hàng trăm ngàn đơn vị dữ liệu
phát minh/ sáng chế, sách/ báo/ tạp chí khoa học, bài giảng điện tử…, được cập
nhật thường xuyên, hỗ trợ việc học từ bậc ĐH đến sau ĐH.Nhà trường có ba thư
viên chính, nằm ở tòa A2 (cs1), thư viên H1 (cs2) và thư viện KTX Bách Khoa
(Hòa Hảo).
Phòng học cũng được trang bị trang thiết bị cần thiết cho việc giảng dạy, máy
quạt, internet, máy chiếu,… Tạo cho sinh viên cảm giác thoải mái trong học tập.”6

6
BK-OISP, CƠ SỞ VẬT CHẤT.
15
• Bên cạnh đó, nhà trường còn tu sửa và cho xây dựng thêm phòng thí nghiệm và
xưởng thực tập dành cho sinh viên. sở hữu hơn 150 phòng thí nghiệm, xưởng
thực tập, 8 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia do Chính phủ và Đại học
Quốc gia TP.HCM đầu tư. Các phòng thí nghiệm được nâng cấp hàng năm để
phục vụ hiệu quả việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học của sinh viên,
nghiên cứu sinh và giảng viên.
Thêm vào đó, trường còn có nhiều trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ như: Trung tâm Kỹ thuật điện toán, Trung tâm Lọc hóa dầu, Trung tâm
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ xây dựng (REACTEC), Trung tâm Nghiên cứu
thiết bị & công nghệ cơ khí, Trung tâm Nghiên cứu & Hỗ trợ đào tạo quản trị
doanh nghiệp (BR&T), Trung tâm Nghiên cứu về nước Khu vực châu Á (CARE-
Rescif), Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp công nghệ (HCMUT-TBI)…Giúp đáp
ứng nhu cầu học phải đi đôi với hành của sinh viên.

• “Những cuộc thi Khoa học – Kỹ thuật, đã góp phần giúp sinh viên vận dựng được
những kiến thức đã “học” vào thực “hành”. Bach Khoa Innovation là cuộc thi đổi
mới sáng tạo thuờng niên do Trường Đại học Bách khoa – Văn phòng Đào tạo
Quốc tế kết hợp với Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM tổ chức, bắt đầu từ
2017. Cuộc thi nhằm tạo sân chơi cho sinh viên hiện thực hóa ý tưởng, đồng thời
có cơ hội tiếp cận với các nguồn tài trợ, nâng cao năng lực thương mại hóa sản
phẩm.
Trải qua ba mùa thi, Bach Khoa Innovation thu hút được nhiều sự quan tâm từ
sinh viên, giảng viên, chuyên gia, doanh nghiệp và cộng đồng.
Cuộc thi năm 2020 ghi nhận nhiều đề tài mới lạ, độc đáo, khả năng áp dụng vào
thực tiễn cao. Tiêu biểu trong số đó là đề tài “Hệ thống lọc không khí sử dụng
TiO2 lắp đặt trên xe buýt”, đưa ra giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm không khí
trên xe buýt, giúp con người sử dụng thoải mái các phương tiện công cộng hơn.
Ngoài ra, các đội thi khi tham gia cuộc thi Bach Khoa Innovation chưa dừng lại
ở Vòng Chung kết, mà còn được nhà trường, doanh nghiệp hỗ trợ để ươm tạo
thành công và sản phẩm được thương mại hóa. Tiêu biểu là dự án “Blocky – Xây
dựng những bộ dụng cụ học tập (kit) giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo,
kiến thức internet vạn vật (IoT) và lập trình” (giải Nhì Bach Khoa Innovation
2018) trong xu thế giáo dục STEM đang giữ vai trò quan trọng.”7
Cuộc thi Ngày hội sáng tạo Khoa học kỹ thuật do Đoàn khoa Kỹ thuật Xây Dựng
tổ chức, là một cuộc thi dành cho sinh viên trên địa bàn TP.HCM. Nội dung phàn
thi là một nhóm từ 5 – 6 người dùng những cây que xiên để thiết kế tạo ra một
cây cầu chịu tải. Một cuộc thi vận dụng kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng xử lý
tình huống và kỹ năng chỉ đạo.
➢ Nguyên nhân.
• Nhà trường đã tạ điều kiện học tập cho sinh viên rất tốt, từ phòng học, căn tin,
nơi nghỉ ngơi, khuôn viên trường. Hết thải những thứ đó, đã giúp cho sinh viên
cảm thấy, đây là ngô nhà thứ hai của mình.

7
BK-OISP,KHỞI ĐỘNG CUỘC THI BÁCH KHOA INNOVATION 2021(15/1/2021).
16
• Bên cạnh đó, nhà trường cũng hiểu được nổi lo của sinh viên đó là: Lý thuyết này
trong thực tiễn có làm được gì không?. Do vậy, các cuộc thi được các khoa tổ
chức đã giúp sinh viên trả lời câu hỏi đấy.
• Học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của
một qua trình thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau
làm một.
• Có nhiều nhà tài trợ đến để tài trợ và cung cấp nhiều học bỏng cho sinh viên.
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi
đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học
cũng trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ
quan… Lúng túng không biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học
như thế nào? Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán nản.
Nguyên do dẫn đến việc “học” mà không “hành” được là do học không thấu đáo, khi
còn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức
hoặc thiếu môi trường hoạt động.
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được
đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở
ngại, thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau
dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành
trong thực tiễn cuộc sống.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ
thông đã khiến các sinh viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước
mùa thi. Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì
ngoai việc để... thi đỗ đại học.
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều học sinh,
sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều
thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: “Không biết việc chọn trường
chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có
tay nghề cao phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi
với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
➢ Những hạn chế nhất định:
• “Hiện nay, trái ngược với quyết tâm phải vào đại học mới có tương lai, giờ đây,
nhiều sinh viên khi chỉ còn vài học kỳ là có tấm bằng tốt nghiệp trong tay lại bỏ
ngang giữa chừng. Việc bỏ học giữ chừng có thể xuất phát từ nhiều yếu tố, trong
đó thường có hai nguyên chính, một là không có phương pháp học tập tốt dẫn
đến kết quả kém, hai là chọn không đúng ngành nghề yêu thích nên nản và không
theo học lâu dài.

17
• Nhiều sinh viên chưa có kế hoạch rõ ràng trong việc học tập, lười biếng, không
lo học mà tưởng tượng viễn vông về cuộc đời mình khi vào được ngôi trường
“ngon”
• Do gia đình ép buộc phải theo ngành học đó, không phải ngành học mà bản thân
họ mơ ước. Theo chị Thanh Hằng (25 tuổi, Phú Thọ) đang làm chủ tiệm spa,
thẩm mỹ tại Hà Nội, kể lại câu chuyện xảy ra cách đây 7 năm. Sau khi tốt nghiệp
lớp 12, nhận thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình nhiều khó khăn, năng lực bản thân
không đủ để theo đại học, Hằng muốn học nghề làm đẹp. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn
ép cô vào "con đường duy nhất".

• Nhiều sinh viên bị các tổ chức dụ “làm giàu” dẫn đến việc bỏ học giữa chừng.
Hiện nay, có nhiều trường hợp sinh viên năm nhất bị lôi kéo vào các việc bán
hàng đa cấp. Biểu hiện là những học bổng du học, xin tiền đóng tiền học, vay
mượn tiền.

• Bên cạnh đó, ở những tỉnh thành có nhiều trường đại học như Thành Phố Hồ Chí
Minh, số lượng việc làm dành cho sinh viên có rất nhiều, ví dụ như phục vụ nhà
hàng tiệc cưới, phục vụ nhà hàng thức ăn nhanh, phục vụ ở các quán ăn, quán
café,… Từ đó đem lại cho sinh viên một cảm giác là bản thân đã làm ra tiền được
rồi, dẫn đến lơ là việc học tập, kết quả học tập không tốt, dẫn đến việc nản và
lười đến trường.”8

“Vào đại học, dù trường to hay nhỏ, cũng có cơ hội nhiều hơn học nghề. Con gái
cố có tấm bằng, mang danh học thức dễ lấy được chồng tốt. Sau này, công việc
ổn định là cuộc đời toại nguyện”, Hằng kể lại lời mẹ dặn.

Bốn năm học ngành Quản trị Nhân lực, tốt nghiệp ra trường, Hằng không xin
được việc. Cô lại quay trở lại đam mê của mình là làm đẹp, đi làm thợ phụ rồi
mở cửa hàng, hiện thành chủ tiệm spa, thẩm mỹ.

Việc bố mẹ ép theo học ngành bố mẹ muốn, là nguyên nhân bỏ học của sinh viên.
Học không đúng ngành, không cảm hứng, hứng thú sinh ra chán nản, lơ đểnh.

• Sinh viên học không thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự
chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức sau nay khi ra trường sẽ rất lúng túng
với những vấn đề thực tiễn mà có thể giải quyết bằng những kiến thức mình được
học qua.
• Các khoa đã tổ chức rất nhiều cuộc thi Khoa học, do là sinh viên ngại khó khăn,
sợ mất thời gian, lười biếng, thụ động. Từ đó, “học” không đi đôi với “hành”
➢ Nguyên nhân:
• Việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp
dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn cuộc sống.

8
Huỳnh Anh. (15/10/2019), Nhiều bạn trẻ muốn học nghề nhưng bị cha mẹ ép vào đại học.
18
• Có nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi
bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự
hỏi: “Không biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?”.
• Có nhận thức không đúng đắn về mối liên hệ của việc học đi đôi với hành như
xem trọng việc học hơn việc hành hoặc việc hành hơn việc học như lý thuyết hơn
thực tiễn hoặc thực tiễn hơn lý thuyết . Tách biệt lẫn nhau không chuyển hóa lẫn
nhau dẫn đến kết quả học tập kém hoặc học nhưng không áp dụng được vào thực
tiễn cuộc sống.
Chúng ta hiện nay đang là những sinh viên, là những người đang trong quá trình phát
triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời
kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất,
năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành
con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền
tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.

19
3.KẾT LUẬN

Trong cuộc sống, mọi thứ tồn tại xung quanh chúng ta đều có những mắt xích và liên
kết chặt chẽ với nhau. Theo triết học, “ mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để
chỉ các mối quan hệ ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưỡng lẫn nhau giữa các yếu
tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau ”9. Chúng giống như
việc học tập của sinh viên, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố để có thể quyết định kết
quả học tập của sinh viên. Trong bài tiểu luận, nhóm 3 đã phân tích về nguyên lý mối
liên hệ phổ biến và vận dụng nguyên lý này vào hoạt động học tập của sinh viên. Các
nội dung chính của bài tiểu luận:

• Chương 1 Nguyên lý mối liên hệ phổ biến


- Các khái niệm về liên hệ, mối liên hệ
- Tính chất của mối liên hệ phổ biến : tính khách quan, tính phổ biến, tính đa
dạng phong phú
- Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ phổ biến
• Chương 2 Đánh giá và vận dụng mối liên hệ phố biến vào hoạt động học tập của
sinh viên
- Khái quát về hoạt động học của sinh viên
- Những mặt tích cực và tiêu cực của hoạt động học tập của sinh viên
- Nguyên nhân của mặt tích và tiêu cực đó
- Đưa ra giải pháp để khắc phục những mặt tiêu cực

Trong học tập, chúng ta cần xác định được mục đích và hướng đi đúng đắng, học đi đôi
với hành. Việc học tập là một quãng đường dài cần sự kiên trì, cố gắng và phải có ý chí
mãnh liệt để có thể đạt được thành công trong tương lai. Chúng ta hiện nay đang là
những sinh viên, là những người đang trong quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể
lực, trí lực và nhân cách … cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện
bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình,
nhà trường và xã hộiđể trở thành con người mới xã hội chủ ngĩa nhằm đáp ứng nhu cầu
của xã hội hiện nay làm nên tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai

9
Bộ giáo dục đào tạo(2019) Giáo trình triết học Mác-Lênin, NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội
20

You might also like